Tải bản đầy đủ (.doc) (62 trang)

Báo Cáo Về Việc Thực Hiện Chính Sách, Pháp Luật Về Môi Trường Tại Các Khu Kinh Tế, Làng Nghề

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (376.13 KB, 62 trang )

CHÍNH PHỦ

BÁO CÁO
Về việc thực hiện chính sách, pháp luật về môi trường
tại các khu kinh tế, làng nghề
(Thực hiện Nghị quyết số 1014/NQ/UBTVQH 12)

Hà Nội, tháng 9 năm 2011


MỤC LỤC


DANH SÁCH CHỮ VIẾT TẮT
BQL

Ban quản lý

BVMT

Bảo vệ môi trường

CCBVMT Cam kết bảo vệ môi trường
CCN

Cụm công nghiệp

ĐMC

Đánh giá môi trường chiến lược


ĐTM

Đánh giá tác động môi trường

HĐND

Hội đồng nhân dân

KCN

Khu công nghiệp

KCNC

Khu công nghệ cao

KCX

Khu chế xuất

KKT

Khu kinh tế

KT-XH

Kinh tế - Xã hội

ODA


Hỗ trợ phát triển chính thức

QCVN

Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia

TCVN

Tiêu chuẩn quốc gia

TNMT

Tài nguyên và Môi trường

TNHH

Trách nhiệm hữu hạn

UBND

Ủy ban nhân dân

VBQPPL

Văn bản quy phạm pháp luật

-


CHÍNH PHỦ


CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc

Số: 170/BC-CP
Hà Nội, ngày 22 tháng 9 năm 2011

BÁO CÁO
Về việc thực hiện chính sách, pháp luật về môi trường
tại các KKT, làng nghề
Kính gửi: Quốc hội
Thực hiện Nghị quyết số 1014/NQ/UBTVQH12 ngày 31 tháng 12 năm
2010 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ xin báo cáo Quốc hội việc
thực hiện chính sách, pháp luật về môi trường tại các KKT, làng nghề như sau:
Phần I
VIỆC THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH, PHÁP LUẬT VỀ MÔI TRƯỜNG
TẠI CÁC KHU KINH TẾ
I. TỔNG QUAN VỀ CÁC KHU KINH TẾ Ở VIỆT NAM
1. Sự hình thành và hoạt động của các KKT theo Quyết định của Thủ
tướng Chính phủ
Đến nay, trên lãnh thổ Việt Nam hình thành ba loại KKT sau: KKT ven
biển, KKT cửa khẩu, KKT quốc phòng. Căn cứ vào Nghị quyết số
1014/NQ/UBTVQH12 của Ủy ban thường vụ Quốc hội ngày 31/12/2010, báo
cáo tập trung đánh giá việc thực hiện chính sách, pháp luật về môi trường tại 15
KKT ven biển đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt thành lập đến cuối năm
2010.
Theo các quyết định của Thủ tướng Chính phủ, 15 KKT ven biển có tổng
diện tích mặt đất và mặt nước là 697.282,27 ha. Đầu năm 2011, Thủ tướng Chính
phủ đã đồng ý bổ sung 03 KKT bao gồm KKT Đông Nam Quảng Trị, KKT
Ninh Cơ - Nam Định và KKT ven biển Thái Bình vào Quy hoạch phát triển các

KKT ven biển Việt Nam đến năm 2020. Như vậy, cả nước sẽ có 18 KKT ven
biển với tổng diện tích mặt đất và mặt nước là 765.275,27 ha trong quy hoạch
phát triển các KKT đến năm 2020.
Theo thống kê từ các địa phương đến cuối năm 2010, trong số 15 KKT ven
biển, có 10 KKT cơ bản hoàn thành các công tác quy hoạch chung, quy hoạch
chi tiết các phân khu chức năng và đang tiến hành thu hút đầu tư sản xuất, xây
dựng các khu chức năng; 3 KKT gồm KKT Nhơn Hội (Bình Định), Nam Phú
Yên (Phú Yên) và Vân Phong (Khánh Hòa) vừa xây dựng cơ sở hạ tầng vừa thu
hút các dự án đầu tư; 2 KKT còn lại là KKT Định An (Trà Vinh) và Năm Căn
(Cà Mau) đang trong giai đoạn chuẩn bị các điều kiện tiền đề cho việc lập quy


hoạch chung, quy hoạch chi tiết và triển khai công tác đền bù, san lấp mặt bằng
để xây dựng cơ sở hạ tầng các khu chức năng (Phụ lục I).
Phân tích số liệu từ các báo cáo của địa phương cùng với kết quả đánh giá
của Bộ Kế hoạch và Đầu tư và Bộ Tài nguyên và Môi trường cho thấy tỷ lệ các
dự án đã triển khai các hoạt động sản xuất kinh doanh so với tỷ lệ các dự án
được cấp giấy phép đầu tư ở hầu hết các KKT chưa cao, chỉ có KKT Dung Quất
có tỷ lệ này trên 50%. Trong số các KKT hiện nay, một số đã đi vào hoạt động
khi mới hoàn thiện một phần hạ tầng (hệ thống đường giao thông, hệ thống xử
lý nước thải cho KCN trong KKT hoặc khu xử lý chất thải tập trung) nên tỷ lệ
các dự án đang hoạt động đạt được 30 - 40% như KKT Đông Nam - Nghệ An,
KKT Chân Mây - Lăng Cô (Thừa Thiên - Huế), KKT Vũng Áng (Hà Tĩnh) ...;
trong khi đó những KKT khác lại chủ trương tập trung đầu tư hạ tầng trước nên
tỷ lệ các dự án đang hoạt động rất thấp, chỉ 10 - 20%, như KKT Nhơn Hội, KKT
Vân Phong, KKT Nam Phú Yên, KKT Nghi Sơn (Thanh Hóa), …
Một hình thức đầu tư được triển khai tại KKT Nhơn Hội, đó là cho phép
thu hút đầu tư thứ cấp về hạ tầng theo các phân khu chức năng như Ban Quản lý
(BQL) KKT cho phép nhà đầu tư Trung Quốc xây dựng hạ tầng ở một số khu
vực, sau đó cho các dự án trong nước thuê lại đất để sản xuất. Tính trung bình,

suất đầu tư tại các KKT khá cao, ví dụ ở KKT Nhơn Hội là xấp xỉ 2 triệu
USD/ha.
Mặc dù đã có những bước phát triển nhất định, nhưng nhìn chung, quá
trình phát triển các KKT tương đối chậm so với định hướng chung, nhiều KKT
còn vướng mắc trong việc hoàn thiện các thủ tục quy hoạch, xây dựng hạ tầng
hoặc kêu gọi đầu tư .... Đầu tư cơ sở hạ tầng tại các KKT còn hạn hẹp, tiến độ
triển khai chậm, chưa đa dạng hóa các nguồn đầu tư, kể cả về cơ sở hạ tầng
BVMT, nên việc kêu gọi đầu tư các dự án phần nào bị ảnh hưởng, tỷ lệ đầu tư
và phân bổ kinh phí từ ngân sách thấp, chưa thể hiện sự ưu tiên phát triển đối
với các KKT.
2. Vai trò động lực thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của địa
phương, vùng miền, cả nước
Sự hình thành các KKT đã khẳng định được vai trò quan trọng trong quá
trình phát triển kinh tế chung của đất nước, đóng góp đáng kể vào tăng trưởng
GDP và tạo việc làm, góp phần thúc đẩy quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước. Các KKT sẽ là những hạt nhân quan trọng góp phần thúc đẩy sự phát
triển KT-XH, đặc biệt là những vùng ven biển còn nhiều khó khăn. Các ngành,
lĩnh vực được khuyến khích phát triển trong KKT chủ yếu tập trung vào: Đóng
tàu, nhiệt điện, cơ khí, điện tử, sản xuất hàng tiêu dùng cao cấp, hóa dầu, dịch vụ
cảng, sản xuất vật liệu mới, chế biến nông, lâm, thủy sản, thương mại dịch vụ,
du lịch ... Với định hướng các ngành nghề này, KKT thu hút được một nguồn
đầu tư lớn từ trong nước và ngoài nước. Hệ thống giao thông được đầu tư xây
dựng đồng bộ, từng bước hiện đại hóa các trục giao thông quan trọng trong đó
chú trọng phát triển giao thông đô thị. Cùng với đó là nhiều công trình hạ tầng
kỹ thuật khác như cấp điện, cấp thoát nước, trường học, bệnh viện, bến xe,
2


chung cư ... sẽ được xây dựng nhằm tạo nên một diện mạo hiện đại, văn minh
cho địa phương. Đời sống của nhân dân trong vùng cũng từng bước được cải

thiện do được tạo thêm việc làm và tăng thu nhập.
Đầu tư vào KKT
Các KKT cả nước hiện thu hút được trên 800 dự án trong nước và nước
ngoài với tổng vốn đầu tư gần 35 tỷ USD và 330.000 tỷ đồng. Trong đó, có một
số dự án lớn và quan trọng tại KKT Nghi Sơn, KKT Vũng Áng, KKT Dung
Quất gồm Nhà máy lọc dầu số 1 và số 2, Nhà máy đóng tàu Dung Quất, Nhà
máy thép Quảng Liên, Khu liên hợp gang thép và cảng nước sâu Sơn Dương,
Nhà máy cơ khí nặng Doosan, các nhà máy Nhiệt điện Nghi Sơn và Vũng Áng,
cảng trung chuyển quốc tế Vân Phong ...
Tình hình sản xuất kinh doanh năm 2010:
Mặc dù vẫn còn chịu ảnh hưởng tiêu cực của suy thoái kinh tế thế giới,
tình hình thu hút đầu tư đặc biệt là đầu tư nước ngoài vào KKT đã đạt được
những kết quả nhất định, dần phục hồi tốc độ tăng trưởng so với giai đoạn trước
khủng hoảng. Các doanh nghiệp trong KKT đã đạt tổng doanh thu 10.000 tỷ đồng
và 560 triệu USD, giá trị nhập khẩu và xuất khẩu lần lượt là 572.5 triệu USD và
370 triệu USD, nộp ngân sách nhà nước hơn 1.100 tỷ đồng (Nguồn số liệu của Bộ
Kế hoạch và Đầu tư năm 2010).
Nhìn chung, do các KKT chủ yếu đang trong giai đoạn quy hoạch hoặc vừa
đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng vừa thu hút đầu tư nên số lượng các dự án hoạt động
trong KKT cho đến thời điểm này chưa nhiều, doanh thu và mức đóng góp vào tăng
trưởng kinh tế của đất nước từ các hoạt động của KKT còn rất khiêm tốn, chưa
tương xứng với quy mô và kỳ vọng đặt ra.
3. Đánh giá hiệu quả hoạt động, tồn tại, vướng mắc và kiến nghị giải pháp
Hoạt động của các KKT ven biển trong những năm gần đây đã diễn ra sôi
động và đạt được những kết quả nhất định trong thúc đẩy phát triển kinh tế của
địa phương, đặc biệt là khu vực duyên hải miền Trung và Nam Bộ. Nhiều địa
phương, đặc biệt là những vùng dân cư ven biển kinh tế còn khó khăn, đời sống
người dân đã được cải thiện đáng kể. Hoạt động của các phân khu chức năng
trong các KKT như sản xuất công nghiệp, du lịch, dịch vụ đã được đầu tư phù
hợp với điều kiện của từng vùng.

Mặc dù vậy, những hoạt động này cũng gây nhiều tác động tiêu cực đến
môi trường, đòi hỏi phải có những giải pháp kiểm soát đồng bộ, kịp thời để bảo
đảm phát triển bền vững loại hình KKT ven biển. Sự phát triển các KKT ở Việt
Nam vẫn còn tồn tại nhiều điểm hạn chế như việc hình thành các KKT thường
bị động, không theo quy hoạch được phê duyệt, chủ yếu theo yêu cầu của các
địa phương để bổ sung quy hoạch, chưa gắn kết thỏa đáng các yêu cầu và nội
dung BVMT. Công tác quy hoạch và tuân thủ các điều kiện quy hoạch KKT của
địa phương còn hạn chế. Phần lớn các KKT đều được thành lập ở những tỉnh có
điều kiện phát triển kinh tế - xã hội khó khăn và hệ thống kết cấu hạ tầng kỹ
thuật thiết yếu chưa được đầu tư xây dựng đồng bộ. Ngoài ra, kinh nghiệm trong
3


công tác quy hoạch xây dựng ở Việt Nam chưa cao, không ít trường hợp có quy
hoạch mới được phê duyệt đã phải điều chỉnh. Đội ngũ cán bộ kỹ thuật còn thiếu
và hạn chế về chuyên môn, nghiệp vụ cũng như sự am hiểu về môi trường luật
pháp quốc tế nên hầu hết các BQL chưa xây dựng được kế hoạch định hướng
phát triển chiến lược dài hạn, triển khai đồng bộ các chức năng, nhiệm vụ đã
được giao. Công tác đền bù, giải phóng mặt bằng của một số KKT còn gặp
nhiều khó khăn, xây dựng cơ sở hạ tầng chậm, chưa đồng bộ và chưa đáp ứng
yêu cầu của nhà đầu tư.
Diện tích các KKT tương đối lớn so với khả năng tài chính của địa
phương, do đó việc huy động nguồn vốn cho phát triển hạ tầng KKT khó khăn
và chưa đạt hiệu quả cao, chủ yếu phải dựa vào nguồn vốn hỗ trợ từ ngân sách
Trung ương; mà nguồn vốn này thường lại hạn chế, không thể đáp ứng kịp nhu
cầu đầu tư hạ tầng ở các KKT. Số lượng dự án đầu tư và hiệu quả hoạt động của
các dự án sản xuất trong các KKT còn ở mức thấp, các nhà máy hầu hết tập
trung vào gia công và lắp ráp các linh kiện, nhiều dự án đăng ký đầu tư chưa
hoạt động gây lãng phí quỹ đất. Mức vốn hỗ trợ cho các KKT được thành lập
trong 3 năm gần đây có xu hướng giảm và chỉ đáp ứng được một phần nhu cầu

của các địa phương về đầu tư hạ tầng kỹ thuật của các KKT. Để có thể đạt được
mục tiêu đề ra trong quy hoạch phát triển các KKT đã được phê duyệt, đòi hỏi
phải huy động tổng hợp từ nhiều nguồn lực khác nhau trong quá trình triển khai
đầu tư xây dựng và hoạt động.
Về tổng thể, Nhà nước đã có một số chính sách ưu đãi, hỗ trợ để thu hút
các dự án đầu tư vào KKT như hỗ trợ về đất đai, ưu đãi về thuế, đào tạo lao
động ... Tuy nhiên, với số lượng KKT đang phát triển nhanh như hiện nay, các
cơ chế, chính sách ưu đãi và mô hình tổ chức và quản lý lại giống nhau, chưa
được điều chỉnh phù hợp với đặc thù của từng vùng miền và đồng bộ với tiến
trình phát triển các KKT. Do nhiều lý do như suất đầu tư cao, cơ sở hạ tầng chưa
đầu tư đồng bộ, giao thông đi lại chưa thuận tiện ... nên tỷ lệ các dự án đã triển
khai hoạt động sản xuất kinh doanh so với số dự án đăng ký và đã được cấp
chứng nhận đầu tư của các KKT đến nay rất thấp, trung bình khoảng 10% 30%, gây lãng phí quỹ đất, ảnh hưởng tới sự phát triển của các KKT và hoạt
động đầu tư của các nhà đầu tư trong nước và nước ngoài.
Do việc hình thành các KKT ở Việt Nam còn tương đối mới, khoảng 15
năm trở lại đây, nên các chính sách, thủ tục về quy hoạch, đầu tư, môi trường,
lao động ... đã ban hành còn nhiều điểm chưa thật phù hợp cho đối tượng là
KKT (thường là các chính sách chung) nên những quy định còn nhiều bất cập,
thậm chí chồng chéo dẫn đến hiệu lực thực thi pháp luật nói chung và pháp luật
BVMT KKT nói riêng còn hạn chế.
Để giải quyết những bất cập này, tạo điều kiện cho các KKT phát triển,
một số giải pháp định hướng trong thời gian tới sẽ được thực hiện như: Các địa
phương, các BQL KKT chỉ tập trung ưu tiên thu hút các ngành nghề, lĩnh vực có
công nghệ sản xuất sạch, thân thiện với môi trường, ưu tiên giải quyết nhu cầu
việc làm cho lao động địa phương; xây dựng và hoàn thiện hệ thống đường giao
4


thông ven biển nối liền các KKT làm cơ sở để tạo mối liên kết, tương hỗ lẫn
nhau giữa các KKT ven biển, làm tiền đề hình thành trục động lực phát triển ven

biển, trong đó có sự phân công chặt chẽ trong phát triển ngành, lĩnh vực giữa
các KKT; quy hoạch KKT gắn với quy hoạch đô thị, quy hoạch khu dân cư và
các quy hoạch ngành đảm bảo hiệu quả thu hút đầu tư, điều kiện sinh hoạt, ăn ở
và dịch vụ khác phục vụ cho doanh nghiệp và người lao động; tập trung thu hút
đầu tư vào các loại hình sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, tăng số lượng dự án đi
vào hoạt động trong các KKT ven biển đã được thành lập, chú trọng xây dựng
cơ sở hạ tầng kỹ thuật thiết yếu của KKT đặc biệt là các hạng mục phục vụ công
tác BVMT; đánh giá tổng thể hiệu quả hoạt động của các KKT để tính toán, quy
hoạch phát triển KKT phù hợp với định hướng phát triển kinh tế - xã hội quốc
gia và điều kiện đặc thù của từng KKT, từng địa phương; xây dựng tiêu chí và
lựa chọn một số địa phương để thử nghiệm cơ chế phát triển đặc thù đối với
KKT làm cơ sở xây dựng chính sách quản lý và BVMT KKT hiệu quả; tăng
cường chủ động từ các địa phương để huy động tổng hợp các nguồn vốn (ODA,
FDI, Ngân sách nhà nước, trái phiếu chính phủ) để tiếp tục đầu tư xây dựng các
công trình hạ tầng trong các KKT, tạo điều kiện đẩy mạnh thu hút đầu tư phát
triển các KKT; tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, hướng dẫn, chỉ đạo BQL
KKT thực hiện tốt công tác quy hoạch, quản lý đầu tư, phát triển KKT, đồng
thời tích cực hỗ trợ doanh nghiệp, vận động, xúc tiến đầu tư theo chương trình,
kế hoạch đồng bộ, hiệu quả.
II. TÌNH HÌNH THỰC HIỆN NHIỆM VỤ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC
VỀ BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG ĐỐI VỚI CÁC KHU KINH TẾ
Cùng với quá trình phát triển nhanh của các KKT trong cả nước, công tác
quản lý môi trường các KKT ở cấp Trung ương và địa phương đang được kiện
toàn, từng bước đưa công tác BVMT tại các KKT đi vào nề nếp.
1. Việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật (VBQPPL); ban hành
tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật về môi trường theo thẩm quyền
a) Việc ban hành VBQPPL của cơ quan Trung ương và địa phương hướng
dẫn thi hành Luật BVMT và các văn bản pháp luật khác có liên quan đến môi
trường tại các KKT
Hành lang pháp lý đã và đang từng bước được tạo lập và hoàn thiện để

quản lý môi trường KKT ngày một tốt hơn. Luật BVMT năm 2005 và các văn
bản hướng dẫn thi hành Luật đều đã có những quy định liên quan đến BVMT
KKT tại các Điều 18, Điều 36, Điều 82.
Chính phủ đã quan tâm xây dựng hệ thống văn bản pháp luật về quản lý
KKT nói chung và quản lý môi trường KKT nói riêng; đã ban hành nhiều văn
bản quan trọng như: Nghị định số 29/2008/NĐ-CP ngày 14 tháng 3 năm 2008
của Chính phủ quy định về KCN, khu chế xuất và KKT; Nghị định số
67/2003/NĐ-CP ngày 13 tháng 6 năm 2003 của Chính phủ về phí BVMT đối
với nước thải; Nghị định số 80/2006/NĐ-CP ngày 09 tháng 8 năm 2006 của
Chính phủ về việc quy định chi tiết và hướng dẫn một số điều của Luật BVMT;
5


Nghị định số 21/2008/NĐ-CP ngày 28 tháng 02 năm 2008 của Chính phủ về
việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 80/2006/NĐ-CP ngày 09
tháng 8 năm 2006 của Chính phủ về việc quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành
một số điều của Luật BVMT; Nghị định số 88/2007/NĐ-CP ngày 28 tháng 5
năm 2007 của Chính phủ về thoát nước đô thị và KCN; Nghị định số
29/2011/NĐ-CP ngày 18 tháng 4 năm 2011 quy định về đánh giá môi trường
chiến lược, đánh giá tác động môi trường và cam kết BVMT, ... Ngoài ra, nhiều
chính sách hỗ trợ nhằm thu hút các thành phần kinh tế tham gia đầu tư BVMT ở
các KKT cũng đã được Chính phủ ban hành như: Nghị định số 04/2009/NĐ-CP
ngày 14 tháng 01 năm 2009 của Chính phủ về ưu đãi, hỗ trợ hoạt động BVMT;
Nghị định số 69/2008/NĐ-CP ngày 30 tháng 5 năm 2008 của Chính phủ về
chính sách khuyến khích xã hội hóa đối với các hoạt động trong lĩnh vực giáo
dục, dạy nghề, y tế, văn hóa, thể thao, môi trường; Nghị định số 78/2010/NĐCP ngày 14 tháng 7 năm 2010 của Chính phủ về cho vay lại nguồn vốn vay
nước ngoài của Chính phủ; Quyết định số 1466/QĐ-TTg ngày 10 tháng 10 năm
2008 của Thủ tướng Chính phủ về Danh mục chi tiết các loại hình, tiêu chí quy
mô, tiêu chuẩn của các cơ sở thực hiện xã hội hóa trong lĩnh vực giáo dục - đào
tạo, dạy nghề, y tế, văn hóa, thể thao, môi trường; Quyết định số 29/2011/QĐTTg ngày 01 tháng 6 năm 2011 của Thủ tướng Chính phủ ban hành Danh mục

ngành, lĩnh vực được hưởng mức lãi suất ưu đãi khi vay lại nguồn vốn ODA của
Chính phủ; Quyết định số 71/2010/QĐ-TTg ngày 09 tháng 11 năm 2010 của
Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành quy chế thí điểm đầu tư theo hình thức
đối tác công tư; Quyết định số 35/2008/QĐ-TTg ngày 03 tháng 03 năm 2008
của Thủ tướng Chính phủ về tổ chức và hoạt động của Quỹ BVMT Việt Nam;
Quyết định số 126/2009/QĐ-TTg ngày 26 tháng 10 năm 2009 của Thủ tướng
Chính phủ ban hành cơ chế hỗ trợ vốn ngân sách Trung ương đối với đầu tư
phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng KKT ven biển.
Các Bộ, ngành cũng đã ban hành nhiều văn bản quy định, hướng dẫn
thực hiện các nội dung BVMT liên quan đến KKT hoặc các phân khu chức năng
trong KKT (KCN, đô thị, dân cư, ...). Trong đó có Thông tư số 08/2009/TTBTNMT ngày 15 tháng 7 năm 2009 của Bộ Tài nguyên và Môi trường quy định
quản lý và BVMT KKT, khu công nghệ cao, KCN và CCN; Thông tư số
09/2009/TT-BXD ngày 21 tháng 5 năm 2009 của Bộ Xây dựng quy định chi tiết
thực hiện một số nội dung của Nghị định số 88/2007/NĐ-CP ngày 28 tháng 5
năm 2007 của Chính phủ về thoát nước đô thị và KCN, ...
Trên cơ sở các văn bản pháp luật đã ban hành, các địa phương đã quan
tâm hơn đến công tác BVMT KKT. Nhiều UBND tỉnh, thành phố trực thuộc
Trung ương đã ban hành các quy chế, chỉ thị và quy định về BVMT trên địa bàn,
trong đó có đề cập đến các nội dung BVMT KKT.
Nhìn chung, hệ thống văn bản pháp luật từ Trung ương đến địa phương về
BVMT KKT đã từng bước được xây dựng và hoàn thiện nhằm tăng cường công
tác BVMT đối với các hoạt động kinh tế - xã hội trong KKT. Tuy nhiên, với tình
hình phát triển và tăng trưởng nhanh ở các KKT như hiện nay, hệ thống văn bản
pháp luật vẫn thiếu những quy định đặc thù về BVMT KKT ở cả cấp Trung
6


ương và địa phương. Bên cạnh đó, việc ban hành văn bản pháp luật cũng như
những hướng dẫn thi hành pháp luật còn chậm, chưa đáp ứng được nhu cầu quản
lý môi trường KKT trong thực tế. Nhiều văn bản pháp luật có nội dung chồng

chéo, thiếu tính thống nhất và tính khả thi đòi hỏi phải chỉnh sửa, bổ sung như:
Quy định về phân cấp, ủy quyền quản lý môi trường KKT, vai trò trách nhiệm
của BQL KKT thiếu thống nhất giữa Nghị định số 29/2008/NĐ-CP, Nghị định
số 21/2008/NĐ-CP và Nghị định 29/2011/NĐ-CP; quy định về thanh tra, kiểm
tra của Luật Thanh tra và Nghị định số 21/2008/NĐ-CP, Nghị định số
29/2008/NĐ-CP. Trách nhiệm BVMT của một số đối tượng chưa được quy định
cụ thể như các doanh nghiệp hay chủ đầu tư kinh doanh kết cấu hạ tầng KKT.
Các văn bản quy phạm pháp luật về BVMT KKT được tổng hợp tại Phụ lục IIa.
Thông tư số 08/2009/TT-BTNMT điều chỉnh các hoạt động đặc thù về
BVMT KKT, KCNC, KCN, CCN từ khi ban hành đã tạo hành lang pháp lý
trong các hoạt động quản lý môi trường cho các đối tượng này. Tuy nhiên, sau
gần 2 năm thực hiện đã nảy sinh một số vướng mắc, bất cập đòi hỏi phải nghiên
cứu sửa đổi. Bên cạnh đó, so với các KCN, KCX và CCN thì KKT có những đặc
thù riêng khác hoàn toàn về qui mô, tính chất hoạt động, nhiều phân khu chức
năng ... Vì vậy, các quy định BVMT đối với KKT cũng sẽ được tách riêng biệt
để tạo thuận lợi cho công tác quản lý.
b) Việc ban hành tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật về môi trường có liên
quan đến KKT
Tiêu chuẩn, quy chuẩn môi trường là cơ sở pháp lý quan trọng để thực
hiện quản lý môi trường, kiểm soát ô nhiễm, đặc biệt là đối với các cơ sở sản
xuất kinh doanh trong KKT. Hiện nay, tại Việt Nam tồn tại song hành hai hệ
thống:
- Các tiêu chuẩn kỹ thuật quốc gia về môi trường (TCVN) do Bộ Khoa
học và Công nghệ ban hành, áp dụng chung cho mọi tổ chức, cá nhân, hộ gia
đình, các cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, trong đó có tổ chức, cá nhân, hộ
gia đình, các cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ trong KKT và làng nghề (Phụ
lục IIIa);
- Các quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về môi trường (QCVN) do Bộ Tài
nguyên và Môi trường ban hành theo thẩm quyền, áp dụng chung cho mọi tổ
chức, cá nhân, hộ gia đình, các cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, trong đó có

tổ chức, cá nhân, hộ gia đình, các cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ trong
KKT và làng nghề (Phụ lục IIIb).
Theo quy định của Luật Tiêu chuẩn và Quy chuẩn kỹ thuật, các tiêu chuẩn
kỹ thuật quốc gia về môi trường được Bộ Khoa học và Công nghệ ban hành
nhằm định hướng, khuyến khích các doanh nghiệp tăng cường công tác BVMT.
Hệ thống tiêu chuẩn kỹ thuật quốc gia về môi trường Việt Nam (TCVN) thường
xuyên được Bộ Khoa học và Công nghệ soát xét, ban hành phù hợp với điều
kiện thực tiễn, mới đây nhất là TCVN 5945:2010 ban hành kèm theo Quyết định

7


số 2920/QĐ-BKHCN ngày 29/12/2010 của Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công
nghệ công bố Tiêu chuẩn quốc gia về Nước thải công nghiệp – Tiêu chuẩn thải.
Hệ thống các quy chuẩn kỹ thuật quốc gia (QCVN) về chất lượng môi
trường xung quanh và quy chuẩn thải được Bộ Tài nguyên và Môi trường ban
hành dưới dạng các văn bản quy phạm pháp luật. Hoạt động của các cơ sở kinh
doanh trong KKT phải tuân thủ các qui định của các quy chuẩn kỹ thuật quốc
gia về chất lượng môi trường xung quanh, quy chuẩn thải (nước thải, khí thải,
chất thải rắn ...). Tuy nhiên, các hoạt động trong KKT mang tính tổng hợp, bao
gồm cả hoạt động công nghiệp, sinh hoạt đô thị, du lịch, dịch vụ,… đòi hỏi công
tác tiêu chuẩn, quy chuẩn tiếp tục nghiên cứu cải tiến phù hợp nhất với mô hình
KKT, giúp công tác quản lý môi trường KKT đạt hiệu quả cao.
Bên cạnh đó, các quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về môi trường hiện hành sẽ
do Bộ TN&MT định kỳ xét soát, điều chỉnh cho phù hợp với điều kiện thực tế.
Theo Luật Tiêu chuẩn và Quy chuẩn kỹ thuật, các địa phương có thẩm quyền
ban hành các quy chuẩn kỹ thuật địa phương về môi trường với điều kiện các
thông số ô nhiễm qui định trong quy chuẩn phải khắt khe hơn (thấp hơn) so với
quy chuẩn quốc gia, tuy nhiên, cho đến nay, chưa có địa phương nào ban hành
loại quy chuẩn này, trong khi đây là một công cụ quản lý quan trọng để tăng

cường kiểm soát ô nhiễm trong điều kiện đẩy mạnh phát triển kinh tế, xã hội mà
được áp dụng phổ biến ở nhiều quốc gia.
2. Công tác chỉ đạo, điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ,
các bộ, UBND cấp tỉnh đối với BVMT tại các KKT
Căn cứ vào các quy định pháp luật điều chỉnh các hoạt động của KKT
như Luật BVMT năm 2005, Nghị định số 29/2008/NĐ-CP, Nghị định số
21/2008/NĐ-CP, Nghị định số 88/2007/NĐ-CP, Thông tư số 08/2009/TTBTNMT ..., các Bộ, ngành đã triển khai các hoạt động theo chức năng được giao
liên quan đến BVMT KKT như Bộ Tài nguyên và Môi trường triển khai thanh
tra, kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện chính sách pháp luật BVMT KKT, KCN;
Bộ Xây dựng giám sát việc thực hiện các quy hoạch chung/quy hoạch chi tiết
các KKT và các công trình xử lý nước thải/chất thải, Bộ Kế hoạch và Đầu tư
theo dõi việc triển khai các hoạt động đầu tư và phát triển KKT và hệ thống hạ
tầng BVMT KKT, Bộ Công Thương giám sát việc thực hiện các dự án sản xuất
kinh doanh dịch vụ trong KKT, ...
Hầu hết các UBND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đã ban hành
các quy chế, chỉ thị BVMT trong đó lồng ghép các quy định BVMT KKT trên
địa bàn. Ngoài ra, một số UBND tỉnh như Bình Định, Phú Yên, Kiên Giang,
Khánh Hòa ... đã ban hành các quy chế phối hợp thực hiện công tác BVMT
KKT giữa các cơ quan liên quan là Sở Tài nguyên và Môi trường, Ban Quản lý
KKT, KCN, Cảnh sát phòng chống tội phạm về môi trường nhằm tăng cường
hiệu quả công tác quản lý môi trường KKT. Một số KKT như KKT Vân Phong,
KKT Nam Phú Yên đã thực hiện đánh giá môi trường chiến lược (ĐMC), KKT
Phú Quốc - Nam An Thới đã xây dựng đề án tổng thể BVMT, lồng ghép các yêu
cầu BVMT với việc đầu tư và phát triển KKT. Tuy nhiên, do Luật BVMT chưa
8


quy định rõ việc thực hiện ĐMC đối với các KKT nên các địa phương khác đều
chưa quan tâm thực hiện.
Trên cơ sở các văn bản pháp luật quy định về việc phân cấp, ủy quyền,

phân công trách nhiệm trong công tác quản lý môi trường KKT, các UBND tỉnh
đã ủy quyền để BQL KKT thực hiện một số chức năng về quản lý môi trường và
ban hành các quy chế phối hợp giữa các cơ quan thuộc tỉnh trong BVMT KKT.
Tổng hợp từ các báo cáo của địa phương đến tháng 5 năm 2011 cho thấy, hầu
hết các BQL KKT đã được UBND tỉnh ủy quyền thực hiện một số chức năng
quản lý môi trường, phê duyệt báo cáo đánh giá tác động môi trường, thanh tra,
kiểm tra thực hiện pháp luật của các tổ chức, cá nhân trong phạm vi KKT. Tuy
nhiên, nhiều UBND cấp huyện chưa ủy quyền việc xác nhận bản cam kết
BVMT cho BQL KKT, do tình trạng chồng chéo trong quản lý, kiểm soát ô
nhiễm môi trường trong KKT, đặc biệt là các cơ sở vừa và nhỏ. Trên thực tế
việc phân cấp, phân công trách nhiệm tại một số địa phương chưa được thực
hiện hiệu quả, mạch lạc và trong nhiều trường hợp chưa hợp lý. Hơn nữa, các
quy định của văn bản pháp luật về BVMT cũng chưa quy định cụ thể và thiếu
tính thống nhất về vấn đề nêu trên.
Công tác quản lý và thực thi pháp luật BVMT KKT của các cấp, các
ngành liên quan mặc dù đã được tăng cường hơn, nhưng nhìn chung chưa thực
hiện thường xuyên, chưa triệt để nên thực tế vẫn xảy ra hiện tượng tái vi phạm
pháp luật BVMT ở các KKT.
3. Tổ chức bộ máy, năng lực quản lý nhà nước về BVMT đối với KKT
a) Cấp Trung ương
Công tác quản lý các hoạt động liên quan đến BVMT được giao ở tất cả
các Bộ ngành. Căn cứ vào chức năng nhiệm vụ được Chính phủ phân công và cơ
cấu tổ chức, các Bộ, ngành chủ động giao nhiệm vụ BVMT của lĩnh vực quản lý
cho một đơn vị (Vụ Khoa học và Công nghệ hoặc Vụ Môi trường) hoặc một số
đơn vị trực thuộc. Bộ Tài nguyên và Môi trường giao Tổng cục Môi trường chịu
trách nhiệm tổng thể về quản lý môi trường. Ngoài ra, một số Bộ, ngành giao
trách nhiệm BVMT cụ thể như sau: Bộ Công Thương giao Cục Kỹ thuật An
toàn và Môi trường Công nghiệp và Vụ Khoa học và Công nghệ; Bộ Xây dựng
giao Vụ Khoa học và Công nghệ; Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn giao
Vụ Khoa học, Công nghệ và Môi trường; Bộ Giao thông vận tải giao Vụ Môi

trường; Bộ Kế hoạch và Đầu tư giao Vụ Khoa học, Giáo dục, Tài nguyên và
Môi trường,...
Nội dung BVMT KKT nhìn chung được phân công lồng ghép với các
hoạt động của đơn vị chức năng quản lý môi trường của Bộ, ngành, tập trung
chủ yếu ở Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Xây dựng, Bộ Tài nguyên và Môi trường,
Bộ Công Thương ... Các bộ này đều phân công đơn vị chịu trách nhiệm về quản
lý môi trường của lĩnh vực cũng thực hiện cả nhiệm vụ BVMT KKT, riêng Bộ
Kế hoạch và Đầu tư có Vụ Quản lý các KKT và Vụ Khoa học, Giáo dục, Tài
nguyên và Môi trường đều có trách nhiệm liên quan đến KKT.
9


Mặc dù quản lý BVMT KKT được Chính phủ giao Bộ Tài nguyên và Môi
trường làm đầu mối, nhưng nhiều hoạt động liên quan lại thuộc thẩm quyền
quản lý của các Bộ khác như: Bộ Kế hoạch và Đầu tư quản lý việc đầu tư hệ
thống hạ tầng môi trường KKT, Bộ Xây dựng quản lý và giám sát quy hoạch
xây dựng các công trình xử lý nước thải, chất thải rắn, Bộ Công Thương chỉ đạo,
hướng dẫn, quản lý, kiểm soát chất thải, tiếng ồn, độ rung, ánh sáng, phòng
ngừa, ứng phó sự cố môi trường, khắc phục ô nhiễm môi trường, phục hồi môi
trường trong hoạt động công nghiệp, ...
b) Cấp địa phương
UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đã ủy quyền công tác
quản lý môi trường tại các KKT cho BQL KKT. UBND một số tỉnh như Phú
Yên, Bình Định, Quảng Ngãi, Quảng Nam đã xây dựng quy chế phối hợp song
phương hoặc đa phương như quy chế phối hợp giữa Sở Tài nguyên và Môi
trường, BQL KKT, Sở Công Thương và Phòng Cảnh sát phòng chống tội phạm
về môi trường. Một số Sở Tài nguyên và Môi trường đã chủ động phối hợp với
lực lượng Cảnh sát phòng chống tội phạm về môi trường và các cơ quan chức
năng liên quan thường xuyên kiểm tra, thanh tra các cơ sở sản xuất nhằm ngăn
ngừa nguy cơ gây ô nhiễm môi trường và kịp thời xử lý các trường hợp vi phạm

pháp luật BVMT như ở Quảng Ngãi, Bình Định, Quảng Ninh, Quảng Bình, Phú
Yên, Kiên Giang, ...
Các hoạt động trong phạm vi KKT đều được giám sát, thực hiện bởi BQL
KKT ở các mức độ khác nhau theo sự ủy quyền của UBND tỉnh. BQL KKT các
địa phương đều đã thành lập bộ phận quản lý môi trường theo hình thức chuyên
trách hoặc kiêm nhiệm với số lượng cán bộ từ 3 đến 5 người, triển khai các hoạt
động BVMT, tuyên truyền phổ biến pháp luật về BVMT trong KKT. Tất cả các
hoạt động này đã thể hiện sự quan tâm nhất định tới công tác BVMT KKT. Do
hoạt động của các KKT hiện nay chủ yếu tập trung vào các hoạt động sản xuất
của các KCN trong phạm vi KKT nên ở nhiều địa phương, cơ quan quản lý nhà
nước về KKT cũng quản lý luôn các KCN theo quyết định hợp nhất BQL KKT
với BQL các KCN của Thủ tướng Chính phủ, có chức năng nhiệm vụ bao trùm
đối với quản lý KKT và KCN trên địa bàn.
Tổ chức bộ máy, năng lực thực thi quản lý môi trường, số cán bộ tham gia
quản lý môi trường KKT ở Trung ương, UBND các cấp được nêu tại Phụ lục IV.
4. Việc đầu tư và sử dụng kinh phí cho công tác quản lý môi trường
tại KKT
Theo quy định của Luật BVMT 2005 và Thông tư số 08/2009/TTBTNMT, nguồn chi sự nghiệp môi trường (1% tổng chi ngân sách nhà nước) có
dành kinh phí để thực hiện công tác quản lý môi trường trong KKT.
Ở cấp Trung ương, nguồn chi sự nghiệp môi trường được sử dụng cho các
hoạt động quản lý nhà nước về BVMT theo chức năng của các Bộ, ngành, trong
đó có Bộ Tài nguyên và Môi trường, bao gồm: Thanh tra, kiểm tra, quan trắc,
báo cáo định kỳ hoạt động BVMT các KKT trong toàn quốc, xây dựng các văn
10


bản hướng dẫn BVMT KKT hoặc thí điểm một số mô hình xử lý chất thải tại
các KKT (Phụ lục Vc). Tuy nhiên, hầu hết các địa phương đều chưa thực hiện
phân bổ hoặc phân bổ không đúng, không đủ nguồn chi sự nghiệp môi trường
cho BQL KKT để thực hiện các hoạt động quan trắc, giám sát chất lượng môi

trường, tuyên truyền, phổ biến pháp luật về BVMT, ... Chỉ có một số ít địa
phương bố trí nguồn chi này cho công tác quan trắc môi trường KKT. Tuy
nhiên, nguồn kinh phí cũng chỉ đủ để thực hiện mỗi năm một đợt quan trắc ở
một số khu vực, không bao quát hết được toàn KKT và không thực hiện được
việc quan trắc định kỳ. Theo báo cáo của 15 UBND tỉnh có KKT, chỉ có 4 tỉnh
là Bình Định, Khánh Hòa, Nghệ An, Hà Tĩnh đã làm rõ được số kinh phí phân
bổ cho chi sự nghiệp môi trường tại các KKT (phụ lục Va), các địa phương khác
đều chưa phân định rõ nguồn chi cho đầu tư phát triển hạ tầng BVMT KKT với
chi sự nghiệp môi trường. Qua đó cho thấy kinh phí sự nghiệp môi trường các
địa phương bố trí để các KKT thực hiện quản lý môi trường rất hạn chế so với
yêu cầu BVMT. Báo cáo năm 2009, 2010 của một số địa phương, số kinh phí
chi sự nghiệp môi trường dành cho các hoạt động trong KKT cao nhất là 618
triệu (năm 2009 - Hà Tĩnh), thấp nhất là KKT Vân Phong - Khánh Hòa (năm
2009 và 2010 tương ứng là 10 và 30 triệu đồng), thậm chí có nhiều tỉnh không
bố trí kinh phí cho hoạt động này. Về phía Trung ương, năm 2006 và 2007 ngân
sách Trung ương cũng đã bố trí 2 tỷ đồng để KKT Dung Quất triển khai các hoạt
động quản lý môi trường. Mặc dù vậy, nguồn chi sự nghiệp môi trường từ Trung
ương chắc chắn không đủ bao quát hết các hoạt động BVMT ở địa phương nói
chung và KKT nói riêng mà các địa phương vẫn phải chủ động để phân bổ
nguồn chi này từ ngân sách địa phương. Các nguồn đầu tư khác tại các KKT
cũng chưa đa dạng, thiếu đồng bộ. Nguồn kinh phí từ Quỹ BVMT quốc gia chưa
được các nhà đầu tư trong các KKT khai thác hiệu quả. Bên cạnh Quỹ BVMT
quốc gia, Quỹ BVMT ở địa phương cũng là một nguồn vốn quan trọng có thể sử
dụng cho hoạt động đầu tư, quản lý môi trường KKT, tuy nhiên, mới chỉ có một
số ít địa phương đã thành lập Quỹ BVMT như Hà Nội, TP Hồ Chí Minh, Hải
Phòng, Đồng Nai, Bà Rịa-Vũng Tàu, các địa phương khác còn vướng mắc về
thủ tục nên chưa thành lập được hoặc thành lập nhưng chưa thể hoạt động đã
làm hạn chế nguồn đầu tư cho hoạt động BVMT tại KKT.
Kinh phí xây dựng cơ bản cho các hạng mục công trình BVMT trong
KKT còn gặp nhiều khó khăn, thiếu sự đa dạng về nguồn vốn, nên hoạt động

BVMT ở KKT còn hạn chế, chưa kiểm soát ô nhiễm môi trường một cách hiệu
quả. Theo quy định, chủ đầu tư kinh doanh kết cấu hạ tầng KKT có trách nhiệm
xử lý chất thải, đặc biệt là xây dựng hệ thống xử lý nước thải tập trung, đòi hỏi
nguồn đầu tư tương đối lớn nhưng khả năng thu hồi vốn tương đối thấp nên việc
tiếp cận vốn vay thương mại để đầu tư cũng gặp nhiều khó khăn. Thực tế, trong
KKT có rất nhiều phân khu chức năng, đòi hỏi phải đầu tư nhiều hạng mục hạ
tầng BVMT, xử lý nước thải tương ứng với tính chất của từng phân khu chức
năng. Đầu tư hạ tầng BVMT KKT đòi hỏi nguồn vốn lớn tương ứng với từng
loại hình công nghệ của từng phân khu chức năng, nên bên cạnh việc đa dạng

11


hóa nguồn vốn thì đến nay nguồn vốn ngân sách vẫn là nguồn vốn cơ bản mà
các địa phương sử dụng để tăng hiệu quả đầu tư và phát triển KKT.
5. Việc kiểm tra, thanh tra và xử lý vi phạm pháp luật, giải quyết
khiếu nại, tố cáo về BVMT tại các KKT
Phần lớn các dự án đầu tư trong các KKT đều là sản xuất trong các KCN,
nên việc thanh tra, kiểm tra công tác BVMT KKT hiện nay tập trung vào các
hoạt động của các KCN trong KKT. Công tác thanh tra, kiểm tra BVMT KKT
được thực hiện xuyên suốt ở cả Trung ương và địa phương. Nhưng hầu hết các
phân khu chức năng ở 15 KKT trong cả nước đều chưa hoàn thiện và chưa thu
hút được nhiều các dự án đầu tư nên công tác kiểm tra, thanh tra KKT chưa triển
khai nhiều.
Trong năm 2010 Bộ Tài nguyên và Môi trường đã triển khai sâu rộng
công tác kiểm tra, thanh tra hoạt động BVMT các KCN, trong đó bao gồm cả
các KCN trong KKT ở 46/56 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương. Kết quả
thanh tra cho thấy UBND các tỉnh đã quan tâm nhiều hơn tới công tác BVMT,
chỉ đạo các sở, ban, ngành và UBND các cấp tổ chức thực hiện công tác quản lý
môi trường KCN theo qui định của pháp luật, bước đầu đáp ứng được phần nào

các yêu cầu trong công tác BVMT tại mỗi địa phương.
Tại một số địa phương như tỉnh Phú Yên, Bình Định, Trà Vinh, Kiên
Giang công tác phối hợp giữa các cơ quan liên quan (Sở TN&MT, BQL KKT,
Phòng Cảnh sát phòng chống tội phạm về môi trường) được thực hiện tương đối
hiệu quả, đã xây dựng và thực hiện kế hoạch thanh tra BVMT chung hàng năm,
hạn chế sự chồng chéo chức năng của các đơn vị, không làm ảnh hưởng đến
hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Các đợt thanh tra chuyên
ngành về BVMT được thực hiện trong thời gian qua mới chỉ tập trung vào các
KCN và một số cơ sở sản xuất trong KKT do hầu hết các KKT còn ở tình trạng
mới thành lập, số doanh nghiệp đầu tư vào KKT chưa nhiều.
Theo quy định tại Nghị định số 29/2008/NĐ-CP của Chính phủ, hầu hết
các BQL KKT được xếp hạng I đều đã thành lập bộ phận thanh tra chuyên
ngành (môi trường, lao động, xây dựng, ...) để tăng cường hơn nữa trách nhiệm
quản lý KKT nói chung và BVMT KKT nói riêng. Lực lượng thanh tra của BQL
KKT ở một số địa phương như Phú Yên, Bình Định, Quảng Ngãi, ... triển khai
thanh tra, kiểm tra môi trường định kỳ (2 - 3 lần/năm) và đã phát hiện xử lý vi
phạm một số cơ sở trong KKT, tuy nhiên công tác này tại các địa phương khác
đạt hiệu quả chưa cao. Theo báo cáo của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, trong năm
2009, các Ban Quản lý KKT, KCN đã thực hiện 255 cuộc thanh, kiểm tra về
môi trường trong các KKT, KCN, 9 tháng đầu năm 2010 thực hiện 288 cuộc,
phát hiện 207 vụ vi phạm pháp luật BVMT.
Theo Nghị định số 29/2008/NĐ-CP, BQL có thể bố trí lực lượng và tổ
chức thanh tra các phân khu chức năng và cơ sở sản xuất kinh doanh trong phạm
vi KKT, tuy nhiên quy định này lại không phù hợp với Luật Thanh tra hiện
hành, chỉ các cơ quan quản lý nhà nước mới có chức năng thanh tra, nên hoạt
12


động của thanh tra BQL KKT gặp khó khăn. Khi phát hiện doanh nghiệp vi
phạm qui định pháp luật BVMT, Thanh tra BQL KKT không thể thực hiện xử

phạt vi phạm hành chính dẫn đến tính xử lý kịp thời, tính răn đe và hiệu lực
quản lý chưa cao.
Việc xử lý vi phạm hình sự, bồi thường thiệt hại và giải quyết khiếu nại tố
cáo còn nhiều bất cập trong việc thực hiện. Đến nay, các cơ quan quản lý, Cảnh
sát phòng chống tội phạm về môi trường đã phát hiện rất nhiều vụ việc vi phạm
pháp luật BVMT, tuy nhiên thực tế cũng chưa xử lý hình sự được vụ việc nào do
thiếu qui trình và hướng dẫn cụ thể phục vụ cho công tác điều tra, lập hồ sơ và
đưa ra xét xử (Bộ Tư pháp đang chủ trì xây dựng Thông tư liên tịch về hướng
dẫn thực hiện Chương XVII Bộ Luật Hình sự về tội phạm môi trường). Mặt
khác, hầu hết các KKT mới thànhg lập, doanh nghiệp sản xuất kinh doanh còn
ít, dân cư thưa thớt nên cũng chưa nảy sinh vụ việc khiếu nại hoặc yêu cầu bồi
thường nào liên quan đến ô nhiễm môi trường.
Kết quả thanh tra, kiểm tra về BVMT đối với các cơ sở trong KKT được
tổng hợp tại Phụ lục VIa.
6. Công tác thông tin, tuyên truyền, giáo dục, phổ biến chính sách,
pháp luật về BVMT đối với các KKT
Công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật BVMT KKT nhìn chung đã
được thực hiện và quan tâm hơn bởi cả Sở TN&MT và BQL KKT cũng như các
đơn vị liên quan. Mặc dù vậy, công tác này còn hạn chế nhiều về hiệu quả và kết
quả, không ít trường hợp còn mang tính hình thức; việc cập nhật và tập huấn để
tuân thủ đầy đủ các quy định pháp luật về BVMT chưa thường xuyên. Vì vậy,
nhận thức của chủ doanh nghiệp và người lao động trong KKT nhìn chung còn
hạn chế và là một trong những nguyên nhân quan trọng dẫn tới ý thức chấp hành
pháp luật BVMT chưa cao.
7. Xã hội hóa công tác BVMT đối với KKT
Chủ trương, chính sách của Nhà nước rất coi trọng và quan tâm tăng
cường công tác xã hội hóa trong hoạt động BVMT thể hiện qua một số văn bản
pháp luật, chương trình xã hội hóa hoạt động BVMT trong Chiến lược BVMT
Quốc gia đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020 nhằm hỗ trợ, khuyến
khích xã hội hóa BVMT như đã đề cập ở mục 1 của phần này.

Thách thức lớn của các thành phần kinh tế trước chủ trương xã hội hóa
BVMT nói chung, BVMT KKT nói riêng chính là việc khó thu hồi vốn đầu tư,
vì vậy các nhà đầu tư còn ngần ngại khi đầu tư vốn cho các hoạt động BVMT.
Trong khi đó, việc triển khai các văn bản khuyến khích xã hội hóa hoạt động
BVMT nói trên còn rất khó khăn do thiếu các hướng dẫn cụ thể, dẫn đến việc
thực hiện xã hội hóa hoạt động BVMT nói chung và ở các KKT nói riêng còn
nặng tính lý thuyết, chưa đi vào thực tiễn, BQL các KKT thường khó tiếp cận
các nguồn vốn ngân sách, các chính sách ưu đãi, đầu tư. Bên cạnh đó, do chưa
tìm hiểu rõ thông tin và thủ tục nên việc tiếp cận Quỹ BVMT Trung ương còn
hạn chế, chỉ một số ít KKT được vay vốn ưu đãi để đầu tư xây dựng các hạng
13


mục công trình xử lý chất thải cho các phân khu chức năng từ Quỹ BVMT
(Quốc gia và địa phương). Hơn nữa, vốn đầu tư xây dựng hệ thống xử lý nước
thải tại các KKT chiếm tỷ trọng khá lớn trong tổng vốn đầu tư xây dựng hạ tầng,
nên việc tìm nguồn vốn này đối với nhiều doanh nghiệp là không dễ. Trong điều
kiện nguồn vốn ngân sách hạn hẹp như hiện nay, việc nhà nước đầu tư, hoặc cho
doanh nghiệp vay vốn ưu đãi xây dựng hệ thống xử lý chất thải là khó có thể
trông đợi. Do vậy, thực tế công tác xã hội hóa hoạt động BVMT vẫn là một
thách thức lớn đối với các KKT.
III. TÌNH HÌNH THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH, PHÁP LUẬT VỀ
MÔI TRƯỜNG TẠI CÁC KHU KINH TẾ
1. Việc thực hiện các chính sách, pháp luật của Nhà nước về BVMT
tại các KKT
Thực hiện Luật BVMT năm 2005, Chính phủ đã chỉ đạo các Bộ, ngành,
địa phương triển khai các chính sách của Nhà nước về BVMT nói chung và tại
các KKT nói riêng. Các chính sách khuyến khích cộng đồng tham gia BVMT,
xã hội hóa hoạt động BVMT, ưu đãi hỗ trợ về đất đai, thuế, hỗ trợ tài chính cho
các hoạt động BVMT, ... được quy định tại các văn bản như: Nghị định số

04/2009/NĐ-CP ngày 14 tháng 01 năm 2009 của Chính phủ về ưu đãi, hỗ trợ
hoạt động BVMT; Nghị định số 69/2008/NĐ-CP ngày 30 tháng 5 năm 2008 của
Chính phủ về khuyến khích xã hội hóa đối với các hoạt động trong lĩnh vực giáo
dục, dạy nghề, y tế, văn hóa, thể thao, môi trường và Quyết định số 1466/QĐTTg ngày 10 tháng 10 năm 2008 của Thủ tướng Chính phủ quy định danh mục
chi tiết các loại hình, tiêu chí, quy mô, tiêu chuẩn của các cơ sở thực hiện xã hội
hóa trong lĩnh vực giáo dục, dạy nghề, y tế, văn hóa, thể thao, môi trường. Để
tăng cường thu hút đầu tư vào các KKT, hỗ trợ các địa phương khó khăn, Thủ
tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 126/2009/QĐ-TTg ngày 26 tháng
10 năm 2009 về cơ chế hỗ trợ vốn ngân sách Trung ương đối với đầu tư phát
triển hệ thống kết cấu hạ tầng KKT ven biển ....
Các chính sách ưu tiên giải quyết các vấn đề môi trường bức xúc; tập
trung xử lý các cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng; phục hồi môi
trường ở các khu vực bị ô nhiễm, suy thoái; chú trọng BVMT đô thị, khu dân cư
được ban hành và thực hiện thông qua Quyết định số 64/2003/QĐ-TTg ngày 22
tháng 4 năm 2003 của Thủ tướng Chính phủ về xử lý triệt để các cơ sở gây ô
nhiễm môi trường nghiêm trọng, Quyết định số 58/2008/QĐ-TTg ngày 29 tháng
4 năm 2008 của Thủ tướng Chính phủ về việc hỗ trợ có mục tiêu kinh phí từ
ngân sách nhà nước nhằm xử lý triệt để, khắc phục ô nhiễm và giảm thiểu suy
thoái môi trường cho một số đối tượng thuộc khu vực công ích, trong đó có các
cơ sở trong KKT và mới đây đã được sửa đổi, bổ sung một số điều trong Quyết
định số 38/2011/QĐ-TTg ngày 05 tháng 7 năm 2011 của Thủ tướng Chính phủ.
Từ năm 2006, nguồn kinh phí sự nghiệp môi trường cũng đã được hình thành
trong danh mục chi ngân sách nhà nước với mức bằng 1% tổng chi ngân sách
nhà nước đã tạo điều kiện thuận lợi để tăng cường hiệu quả quản lý và BVMT
nói chung, trong đó có các KKT. Chiến lược Quốc gia về BVMT đến năm 2010
14


và định hướng đến năm 2020 cũng đã xác định những mục tiêu cụ thể nhằm
thực hiện các chính sách như đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận

thức cộng đồng về hoạt động BVMT đi đôi với các giải pháp tăng cường hiệu
lực pháp luật BVMT, áp dụng các công cụ kinh tế trong BVMT, khắc phục ô
nhiễm, suy thoái và sự cố môi trường, coi phòng ngừa là chính, tăng tỷ lệ sử
dụng năng lượng sạch, năng lượng tái tạo trong các hoạt động sản xuất, dân sinh
... thể hiện qua 36 chương trình ưu tiên giao cho các Bộ, ngành, địa phương triển
khai thực hiện. Bên cạnh đó, các chương trình mục tiêu quốc gia về tiết kiệm
năng lượng, chương trình sản xuất sạch hơn, chương trình ứng phó với biến đổi
khí hậu đã và đang được triển khai mạnh mẽ ở các Bộ, ngành và các địa phương
để khuyến khích, thúc đẩy sử dụng hợp lý, tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên, phát
triển năng lượng sạch, năng lượng tái tạo; đẩy mạnh tái chế, tái sử dụng và giảm
thiểu chất thải tại các cơ sở sản xuất trong và ngoài KKT.
Mặc dù việc thực hiện các chính sách cũng đã đạt được một số kết quả
nhất định trong công tác BVMT nói chung, BVMT KKT nói riêng, tuy nhiên
cần thẳng thắn thừa nhận chính sách của Nhà nước về BVMT chưa được thực
hiện nghiêm túc, đặc biệt là các chính sách liên quan đến đầu tư BVMT, phân bổ
nguồn chi sự nghiệp môi trường hoặc tập trung phát triển kết cấu hạ tầng BVMT
tại các KKT. Hầu hết các địa phương chưa xác định đầu tư BVMT là đầu tư phát
triển để đa dạng hóa các nguồn vốn đầu tư mà vẫn có tư tưởng trông chờ vào sự
hỗ trợ của ngân sách nhà nước, ngân sách Trung ương; trong khi đó việc bố trí
nguồn sự nghiệp môi trường trong ngân sách địa phương dành cho các hoạt
động BVMT của các KKT cũng còn nhiều hạn chế, đa số các địa phương không
chi đúng, chi đủ nguồn sự nghiệp môi trường.
Các địa phương, các BQL KKT nhìn chung chưa chủ động triển khai các
chính sách BVMT của Nhà nước. Một trong những lý do chính là các văn bản
hướng dẫn ở cấp Trung ương đều có tính chất định hướng chung cho các đối
tượng là KKT, KCN hay khu chế xuất trên phạm vi toàn quốc; trong khi đó
KKT ở từng địa phương có những đặc thù riêng như phạm vi rộng, nhiều phân
khu chức năng, nhiều cấp quản lý hành chính đòi hỏi từng địa phương này phải
có những chính sách quản lý riêng phù hợp với điều kiện cụ thể.
Việc thực hiện pháp luật của Nhà nước về BVMT đã bước đầu được các

KKT quan tâm thực hiện. Một số KKT đang trong quá trình lập dự án hoặc
chuẩn bị đầu tư xây dựng các công trình xử lý chất thải và kiểm soát ô nhiễm
môi trường do các hoạt động kinh tế gây ra. Các hoạt động này bao gồm kế
hoạch xây dựng các trạm xử lý nước thải tập trung, thu gom và xử lý chất thải
rắn, trồng cây xanh; xây dựng trung tâm quan trắc – giám sát môi trường; xây
dựng quy chế quản lý và kiểm tra BVMT; hỗ trợ các doanh nghiệp ứng dụng
công nghệ thông tin, đổi mới công nghệ sản xuất, áp dụng công nghệ sản xuất
thân thiện với môi trường; phát triển các dịch vụ kỹ thuật, tăng cường công tác
quản lý nhà nước về đăng ký chất lượng sản phẩm; chú trọng đầu tư xây dựng
các khu du lịch sinh thái ...

15


Nhiều dự án đầu tư trong KKT đã lập và được phê duyệt báo cáo đánh giá
tác động môi trường cùng các thủ tục môi trường khác theo quy định của pháp
luật trước khi đi vào hoạt động (theo số liệu thống kê của Bộ Tài nguyên và Môi
trường, đến năm 2010, KKT Nhơn Hội có 26 báo cáo ĐTM và 20 bản cam kết
BVMT được phê duyệt, KKT Chu Lai có 14 báo cáo ĐTM và 26 bản cam kết
BVMT được phê duyệt, KKT Dung Quất có 28 báo cáo ĐTM và 26 bản cam kết
BVMT được phê duyệt, ...). Kết quả thực hiện công tác đánh giá tác động môi
trường hoặc cam kết BVMT tại các KKT được thể hiện tại Phụ lục VIIa.
Ở hầu hết các KKT, đã xây dựng quy hoạch hệ thống xử lý nước thải tập
trung. Hiện nay, có nhiều KCN trong các KKT đã và đang xây dựng các hạng
mục công trình xử lý nước thải tập trung như KKT Nam Phú Yên, Dung Quất,
Nhơn Hội, ... Các khu du lịch trong KKT cũng xây dựng hệ thống thu gom nước
thải cục bộ, xử lý đạt tiêu chuẩn trước khi đưa vào hệ thống thoát nước tập trung
của khu đô thị.
Xử lý chất thải rắn ở các KKT được thực hiện tương đối nề nếp, một số
KKT đã quy hoạch khu xử lý chất thải rắn trong các phân khu chức năng trong

khi một số khu khác đã bắt đầu xây dựng các khu xử lý chất thải rắn liên hợp
(KKT Nhơn Hội, KKT Nam Phú Yên, KKT Chu Lai, ...). Xử lý chất thải nguy
hại ở các KKT cũng được lồng ghép trong quy hoạch xử lý chất thải rắn của
từng KKT. Các doanh nghiệp, KCN trong KKT đã có kế hoạch hợp đồng với
một hoặc nhiều công ty để thực hiện thu gom, vận chuyển và xử lý chất thải rắn
sinh hoạt và chất thải rắn công nghiệp thông thường. Chất thải nguy hại được
các doanh nghiệp đăng ký chủ nguồn thải, tiến hành lưu giữ và ký hợp đồng với
đơn vị chuyên môn vận chuyển, xử lý.
Việc xử lý khí thải đều được các cơ sở sản xuất trong KKT thực hiện theo
quy định pháp luật về BVMT. Mặt khác, các KKT mới được thành lập, dự án
sản xuất đầu tư chưa nhiều, nên vấn đề ô nhiễm do khí thải vẫn kiểm soát được.
Như vậy, việc thực thi pháp luật về BVMT KKT bước đầu đã được quan
tâm và có được những kết quả nhất định. Tuy nhiên, vẫn còn tồn tại tình trạng
một số cơ sở chưa tự giác tuân thủ nghiêm túc các quy định của pháp luật, gây ô
nhiễm môi trường. Các cơ sở gây ô nhiễm môi trường chủ yếu là các cơ sở đang
hoạt động chưa tuân thủ nghiêm túc các thủ tục môi trường, các khu dân cư và
các KCN chưa xây dựng hệ thống xử lý nước thải tập trung hoặc vận hành
không thường xuyên, gây ô nhiễm môi trường xung quanh. Mặc dù hầu hết các
cơ sở sản xuất kinh doanh hoặc phân khu chức năng trong KKT đều có báo cáo
đánh giá tác động môi trường hoặc cam kết BVMT, tuy nhiên khi hoạt động các
cơ sở này (thậm chí cả chủ đầu tư kinh doanh kết cấu hạ tầng KKT) lại không
tuân thủ hoặc không thực hiện đầy đủ các nội dung đã cam kết.
2. Hiện trạng chất lượng môi trường xung quanh và chất thải, nước
thải, khí thải tại các KKT
KKT bao gồm rất nhiều hoạt động kinh tế với nhiều loại dự án đầu tư
khác nhau như sản xuất công nghiệp, đô thị, nuôi trồng thủy sản, du lịch, đặc
16


biệt là du lịch sinh thái, cảng biển. Các hoạt động kinh tế này đòi hỏi những yêu

cầu BVMT khác nhau, dẫn đến những khó khăn trong quản lý môi trường KKT.
Môi trường nước mặt và môi trường nước biển ven bờ bị tác động mạnh
từ hoạt động của các KKT.
Đối với nước mặt: Ở một số KKT, các khu vực ở gần nguồn thải sinh hoạt
có dấu hiệu ô nhiễm chất hữu cơ; một số thông số đặc trưng của chất lượng môi
trường nước mặt như BOD, COD, kim loại nặng, dầu mỡ, coliform, … ở một số
KKT tập trung nhiều KCN, khu dân cư, dịch vụ nhưng chưa có hoặc chưa hoàn
thành hệ thống xử lý nước thải tập trung vượt quy chuẩn cho phép (theo báo cáo
của các tỉnh Bình Định, Phú Yên, Kiên Giang, Nghệ An, ...).
Đối với nước biển ven bờ: Tất cả các dòng nước thải của các KKT ven
biển, cuối cùng đều đổ vào nước biển ven bờ, gây ô nhiễm nước biển ven bờ.
Ngược lại, nguồn nước tại các cửa sông ven biển thường bị xâm nhập mặn, mức
độ ngày một nghiêm trọng, ảnh hưởng trở lại đến hoạt động ở các KKT.
Ngoài ra, hoạt động của các cảng biển ở các KKT cũng là một nguồn có
nguy cơ gây ô nhiễm lớn đối với vùng nước biển ven bờ, đặc biệt là ô nhiễm
dầu, ô nhiễm do đổ thải nước dằn tàu, xả nước thải và chất thải rắn từ các tàu bè.
Sự cố tràn dầu do va chạm tàu cũng là vấn đề đáng báo động đối với hoạt động
giao thông vận tải đường biển, đối với các KKT ven biển.
Việc sử dụng hợp lý nguồn nước mặt phục vụ hoạt động của các KKT sẽ
trở thành vấn đề hết sức quan trọng. Bên cạnh đó, để đảm bảo điều kiện phát
triển du lịch, đặc biệt là du lịch sinh thái và hoạt động nuôi trồng thủy sản (một
trong những hoạt động quan trọng của các KKT ven biển) thì môi trường nước
biển ven bờ cần phải được bảo vệ trong sạch, bảo tồn các cảnh quan thiên nhiên
vùng ven biển.
Chất lượng môi trường không khí ở các KKT nhìn chung chưa bị ảnh
hưởng do các hoạt động từ phân khu chức năng chính như công nghiệp, dịch vụ,
dân sinh chưa nhiều, các thông số quan trắc chất lượng môi trường không khí
xung quanh đều trong quy chuẩn cho phép. Chỉ có một số KKT như Vân Phong,
Định An, Nhơn Hội, Đình Vũ có cả các khu dân cư, làng nghề nằm trong phạm
vi KKT nên có xảy ra hiện tượng ô nhiễm không khí cục bộ. Tất cả các KKT

đều bị ô nhiễm do bụi từ các hoạt động giao thông, xây dựng, san lấp mặt bằng.
Các hệ sinh thái và đa dạng sinh học vùng biển ven bờ bị tác động lớn do
các hoạt động của các KKT ven biển.
Phát triển các KKT ven biển, đặc biệt là phát triển các cảng biển và hoạt
động giao thông vận tải đường biển sẽ gây ra các tác động tiêu cực đối với đa
dạng sinh học và cảnh quan thiên nhiên ven biển. Rừng ngập mặn bị phá bỏ để
phát triển các công trình của các KKT ven biển, không thể dễ dàng phục hồi. Do
hầu hết các KKT đang ở giai đoạn quy hoạch, chuẩn bị đầu tư, ... lại không thực
hiện ĐMC nên việc tính toán thiệt hại chưa được quan tâm, chưa có số liệu
thống kê cụ thể từ các địa phương.
17


Ô nhiễm nước biển ven bờ do các KKT ven biển sẽ là nguy cơ suy thoái
các rạn san hô, các thảm cỏ biển, đa dạng sinh học biển và ảnh hưởng trực tiếp
đến ngành nuôi trồng và khai thác thủy sản của dân cư vùng ven biển.
Đánh giá chung ở đa số các KKT hiện nay, do tỷ lệ hoạt động của các dự
án sản xuất kinh doanh chưa cao, hầu hết ở mức 20 - 30%, thậm chí có KKT chỉ
10% các dự án sản xuất kinh doanh đi vào hoạt động (như đã đề cập ở phần I),
nên chất lượng môi trường chưa có dấu hiệu ô nhiễm nghiêm trọng, chưa xảy ra
sự cố môi trường nào, các hạng mục công trình ở nhiều KKT còn ở giai đoạn
quy hoạch hoặc san lấp mặt bằng, xây dựng nên phát sinh chất thải chưa nhiều.
Tuy nhiên, với tốc độ phát triển hạ tầng BVMT chậm ở hầu hết các KKT, thậm
chí có những KKT đã có tỷ lệ các dự án sản xuất kinh doanh hoạt động trên 30%
nhưng các công trình xử lý chất thải chưa hoàn thiện và vận hành, đồng thời tính
chủ động trong quản lý và BVMT ở các địa phương chưa cao, thì nguy cơ ô
nhiễm môi trường sẽ là tất yếu.
Hiện trạng môi trường tại một số KKT được thể hiện tại Phụ lục VIIIa.
IV. ĐÁNH GIÁ CHUNG
1. Những kết quả đạt được

Công tác BVMT ở các KKT ngày càng nhận được sự quan tâm hơn của
các cấp quản lý, các doanh nghiệp và cộng đồng. Pháp luật về BVMT đang từng
bước được bổ sung và hoàn thiện như Luật BVMT 2005, Nghị định số
29/2008/NĐ-CP, Nghị định số 80/2006/NĐ-CP, Nghị định số 21/2008/NĐ-CP,
Nghị định số 88/2007/NĐ-CP, Thông tư số 08/2009/TT-BTNMT, hệ thống các
quy chuẩn và tiêu chuẩn kỹ thuật quốc gia về môi trường ... Hệ thống quản lý
môi trường ở Trung ương và địa phương được kiện toàn tạo điều kiện thuận lợi
cho công tác BVMT tại các KKT đi vào nề nếp. Trên cơ sở các văn bản pháp
luật ở Trung ương, nhiều UBND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đã ban
hành các quy định về BVMT KKT, KCN lồng ghép với các chính sách, kế
hoạch chung về BVMT trên địa bàn. Công tác kiểm tra, thanh tra BVMT KKT
đã được triển khai và đạt kết quả nhất định. Hầu hết các UBND tỉnh đã ủy quyền
tạo điều kiện thuận lợi cho BQL KKT thực hiện một số chức năng quản lý môi
trường, phê duyệt báo cáo đánh giá tác động môi trường của các cơ sở trong
phạm vi KKT. Công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật BVMT KKT nhìn
chung đã được thực hiện bởi cả Sở TN&MT và BQL KKT cũng như các đơn vị
liên quan.
Để triển khai các hoạt động BVMT tại các KKT, vấn đề sử dụng hợp lý
kinh phí từ ngân sách cho công tác quản lý môi trường là rất cần thiết. Chính
phủ đã ban hành các quy định, hướng dẫn về khuyến khích đầu tư và xã hội hoá
công tác BVMT nhằm huy động đa dạng hoá các nguồn vốn, hình thức đầu tư
cho hạ tầng BVMT.
BQL KKT ở địa phương đã chú trọng hơn đến việc đầu tư hạ tầng
BVMT, các KKT đã đi vào hoạt động đều có sự quan tâm nhất định tới công tác
18


xử lý chất thải, giảm thiểu các tác động tiêu cực tới môi trường, chú trọng đầu tư
công nghệ mới, áp dụng sản xuất sạch hơn để giảm thiểu ô nhiễm môi trường.
2. Những hạn chế, yếu kém

Bên cạnh những kết quả đã đạt được, tình hình triển khai các hoạt động
BVMT, quản lý môi trường tại các KKT vẫn tồn tại những điểm bất cập cụ thể
như sau:
a) Hệ thống pháp luật BVMT KKT; tổ chức bộ máy; cơ chế chính sách
BVMT KKT ở địa phương chưa đồng bộ, còn nhiều chồng chéo bất cập
- Ở cấp Trung ương:
+ Các quy định pháp luật về BVMT KKT chưa đầy đủ, còn có sự chồng
chéo giữa các quy định về BVMT KKT. Cơ sở pháp lý cao nhất của hệ thống
pháp luật là Luật BVMT (Điều 36) cũng chỉ quy định chung cho các đối tượng
là KKT, KCN, khu chế xuất, ... mà chưa quy định BVMT đặc thù của KKT,
trong khi một số vấn đề còn bỏ ngỏ trong quy định (ví dụ vấn đề đánh giá môi
trường chiến lược KKT là rất cần thiết nhưng lại chưa được quy định trong Luật
BVMT).
+ Một số văn bản còn thiếu tính nhất quán và tính kế thừa (ví dụ vấn đề
thanh tra, kiểm tra BVMT KKT giữa Luật Thanh tra, Luật BVMT, Nghị định số
29/2008/NĐ-CP hoặc Thông tư quy định chuyên ngành; vấn đề ủy quyền phân
cấp giữa Nghị định số 29/2008/NĐ-CP, Nghị định 80/2006/NĐ-CP và Nghị
định 21/2008/NĐ-CP, Nghị định số 29/2011/NĐ-CP ngày 18 tháng 4 năm 2011
của Chính phủ quy định về đánh giá môi trường chiến lược, đánh giá tác động
môi trường, cam kết BVMT, Thông tư số 08/2009/TT-BTNMT ...).
+ Các văn bản hiện hành chưa phân biệt tính đặc thù, thực tế của từng địa
phương có KKT; dẫn đến hạn chế việc khai thác, phát huy thế mạnh, tiềm năng
của địa phương.
+ Các Bộ, ngành chưa thực hiện triệt để trách nhiệm phối hợp trong công
tác BVMT KKT, tổ chức quản lý môi trường ở các Bộ, ngành còn phân tán,
thiếu nhân lực, thiếu đấu mối BVMT KKT.
- Ở cấp địa phương:
+ Việc ban hành các quy định BVMT ở địa phương thường là các quy
định chung, chưa có địa phương nào ban hành riêng quy định BVMT KKT,
chưa tạo tiền đề thuận lợi cho các cơ quan chức năng địa phương thực hiện quản

lý môi trường KKT.
+ Quy chế phối hợp còn nhiều hạn chế, chưa quy định đầy đủ và rõ ràng
các nội dung phối hợp nên chưa phát huy được hiệu quả của công tác phối hợp
quản lý môi trường trong KKT, thậm chí nhiều nơi chưa có quy chế phối hợp.
+ Đối với nhiều KKT, việc xây dựng bộ máy quản lý, phân công, phân
cấp và phối hợp BVMT còn lúng túng, nhiều nơi vẫn chưa tách riêng bộ phận
quản lý môi trường mà gộp chung với bộ phận quy hoạch và xây dựng.
19


+ Theo quy định tại Điều 37, 38 của Nghị định số 29/2008/NĐ-CP, việc
thành lập các BQL KKT có thể đáp ứng được yêu cầu quản lý nhà nước phục vụ
phát triển kinh tế trong một giai đoạn nhất định theo sự ủy quyền của các Bộ,
ngành trong từng lĩnh vực cụ thể. Tuy nhiên thực tế cho thấy, BQL KKT được
thành lập hiện nay tại các địa phương không nằm trong hệ thống các cơ quan
quản lý hành chính nhà nước (04 cấp), do Thủ tướng Chính phủ thành lập nhưng
chịu sự chỉ đạo và quản lý về tổ chức, biên chế ... của UBND cấp tỉnh và hướng
dẫn, kiểm tra chuyên môn của các Bộ, ngành, như vậy chức năng nhiệm vụ của
BQL KKT mang tính tổng hợp, bao trùm lên chức năng của nhiều ngành, lĩnh
vực có liên quan dễ dẫn đến quản lý chồng chéo, không phân định rõ trách
nhiệm, quyền hạn; nếu các Bộ, ngành chuyên môn không ủy quyền đồng bộ thì
hoạt động quản lý BVMT KKT sẽ rất khó thực hiện hiệu quả, nhưng nếu ủy
quyền đầy đủ và toàn diện thì trách nhiệm của BQL KKT sẽ rất lớn trong khi
năng lực quản lý lại rất hạn chế; về địa giới hành chính các KKT, tại một số địa
phương diện tích của KKT tương đương với 01 huyện, nhưng có thể nằm trên
địa bàn 02 đến 03 huyện. Vì vậy, nếu không có sự phân công, phối hợp tốt sẽ bị
chồng chéo giữa BQL với các sở, ban, ngành có liên quan và UBND cấp huyện
dẫn đến hiệu quả quản lý bị hạn chế, trách nhiệm quản lý bị buông lỏng.
+ Do tính chất, đặc thù của mô hình KKT; để phát triển tốt đòi hỏi sự
quan tâm, chỉ đạo, kiểm tra thường xuyên, đầy đủ của các bộ ngành liên quan và

các sở ban ngành địa phương, chính quyền địa phương các cấp. Tuy nhiên, trên
thực tế, công tác này thực hiện chưa đáp ứng được yêu cầu, ảnh hưởng tới kết
quả, hiệu quả hoạt động của mô hình KKT.
b) Thực hiện các thủ tục môi trường chưa nghiêm túc (ĐMC KKT; phê
duyệt ĐTM các dự án trong KKT, xác nhận bản cam kết BVMT, ...)
- Mặc dù hầu như các BQL KKT đã được ủy quyền phê duyệt ĐTM và
một số chức năng quản lý môi trường, tuy nhiên do hạn chế về nguồn lực nên
chất lượng các báo cáo ĐTM, cam kết BVMT chưa cao. Tại đa số các KKT,
việc ủy quyền xác nhận cam kết BVMT chưa thực hiện do bất cập về các hình
thức, phạm vi ranh giới quản lý trong KKT (BQL chịu trách nhiệm quản lý các
hoạt động trong phạm vi KKT, tuy nhiên UBND huyện/xã vẫn phải chịu trách
nhiệm quản lý nhà nước theo các ranh giới hành chính, khu dân cư cả trong và
ngoài KKT).
- Thực tế ở nhiều địa phương, việc thực hiện các quy định pháp luật
BVMT nói chung và BVMT KKT nói riêng chưa thực sự nghiêm túc, đặc biệt là
những hướng dẫn pháp luật theo Luật BVMT 2005. Ngoài ra, thông tin, báo cáo
tình hình BVMT nói chung và BVMT KKT nói riêng chưa được thực hiện đầy
đủ, số liệu trong các báo cáo nhiều khi thiếu nhất quán và cụ thể, dẫn đến việc
tổng hợp thông tin không chính xác.
- Trong nhiều KKT, vẫn xảy ra vi phạm pháp luật về BVMT do ý thức
của doanh nghiệp, do thiếu sự quản lý chặt chẽ từ các cơ quan quản lý, một số
BQL KKT và UBND cấp huyện, xã còn né tránh, đùn đẩy trách nhiệm hoặc
chưa quan tâm đầy đủ tới công tác BVMT trên địa bàn, có những trường hợp
20


chưa nắm chắc các thủ tục môi trường để hướng dẫn cho doanh nghiệp, cộng
đồng; tính chủ động và sự quyết liệt trong quản lý môi trường chưa cao.
- Theo quy định chung, việc đấu nối vào hệ thống xử lý nước thải tập
trung của KKT (KCN) phải được thực hiện nghiêm túc, trường hợp không đấu

nối cần đảm bảo đủ các yếu tố miễn trừ đấu nối theo quy định tại Nghị định số
88/2007/NĐ-CP (đạt QCKTQG về chất lượng đầu ra, hệ thống xử lý đạt các quy
chuẩn thiết kế và chạy thử đúng quy định, có sự thống nhất của các cơ quan
chức năng ...). Tuy nhiên, thực hiện các quy định này ở nhiều KKT còn hạn chế,
thậm chí nhiều doanh nghiệp trong những KKT này vẫn xả thẳng chất thải xử lý
chưa đạt quy chuẩn cho phép ra môi trường.
Nhiều doanh nghiệp trong KKT thực hiện không đầy đủ các nội dung
trong Báo cáo ĐTM đã được phê duyệt hoặc Cam kết BVMT đã được xác nhận.
c) Hoạt động BVMT, các giải pháp BVMT thiếu đồng bộ, chưa triệt để
- Xử lý chất thải: Việc đầu tư xây dựng và vận hành các hạng mục công
trình chưa triệt để, chưa thực sự phù hợp với thực tiễn, điển hình là hệ thống xử
lý nước thải ở nhiều KCN trong KKT được xây dựng, nhưng không có đủ nước
thải đầu vào từ các cơ sở sản xuất để vận hành đủ công suất (tỷ lệ lấp đầy thấp
hoặc một số doanh nghiệp sản xuất ít phát sinh nước thải ...).
+ Vấn đề xử lý chất thải rắn, chất thải nguy hại ở nhiều KKT, KCN trong
KKT còn nhiều bất cập, đặc biệt là việc bố trí trạm trung chuyển chất thải rắn
(theo quy định của Thông tư số 08/2009/TT-BTNMT) và năng lực xử lý chất
thải nguy hại của nhiều địa phương chưa đáp ứng được các quy định của pháp
luật. Nhiều địa phương không có đơn vị chuyên môn xử lý chất thải nguy hại,
trong khi lượng chất thải nguy hại ở một số KKT phát sinh với số lượng không
nhiều nhưng đa dạng về chủng loại nên không ký hợp đồng được với các đơn vị
có chức năng đến vận chuyển và xử lý ngay dẫn tới bị tồn đọng.
+ Vấn đề xử lý khí thải, nước thải ở một số cơ sở sản xuất kinh doanh
chưa thực hiện đúng quy định, nhiều cơ sở không đầu tư đồng bộ hệ thống xử lý
khí thải hoặc không đấu nối vào hệ thống xử lý nước thải tập trung mà tự xử lý
cục bộ không đạt quy chuẩn và xả ra môi trường gây ô nhiễm.
- Quan trắc môi trường: Nhìn chung, thực hiện công tác quan trắc tại KKT
còn thiếu đồng bộ, không định kỳ thường xuyên do thiếu nguồn kinh phí, một số
KCN trong KKT chưa quan tâm đầu tư hệ thống quan trắc tự động. Phần lớn các
địa phương (trừ tỉnh Khánh Hòa) chưa có kế hoạch quan trắc môi trường tổng

thể và lâu dài. Năng lực của các đơn vị quan trắc ở địa phương còn hạn chế,
thiếu sự đầu tư đồng bộ cả về nguồn nhân lực và kinh phí.
- Phòng ngừa sự cố: Hầu hết các địa phương đều đã xây dựng hoặc phê
duyệt kế hoạch phòng ngừa, ứng phó sự cố môi trường, tuy nhiên những bản kế
hoạch này chưa sát với thực tiễn, thiếu cụ thể và chưa phản ánh tính đặc thù của
các loại hình sản xuất kinh doanh trong KKT.

21


d) Phân công, ủy quyền trách nhiệm quản lý môi trường KKT còn chồng
chéo, thực hiện thiếu hiệu quả
- Việc thực hiện phân cấp, ủy quyền BVMT cho BQL KKT chưa đạt hiệu
quả ở hầu hết các địa phương, UBND tỉnh đã ủy quyền công tác quản lý môi
trường cho BQL KKT, nhưng do chưa có quy chế phối hợp hoặc ủy quyền trong
khi BQL lại hạn chế về năng lực, kinh nghiệm quản lý môi trường nên hiệu quả
của công tác quản lý môi trường KKT bị hạn chế, chồng chéo về trách nhiệm
BVMT giữa các cơ quan trong khi một số nội dung quản lý bị bỏ trống hoặc
buông lỏng không đạt chất lượng (ĐTM, xác nhận cam kết BVMT, giám sát môi
trường, xử lý chất thải, ...).
- Việc quản lý môi trường ở hầu hết các KKT chưa có sự phối hợp tốt giữa
BQL và các đơn vị chuyên ngành như TN&MT, Công Thương, Cảnh sát môi
trường ..., đây là một vấn đề bất cập chung và phổ biến ở nhiều địa phương.
- Tại một số địa phương như Phú Yên, Khánh Hòa, Thừa Thiên - Huế, địa
bàn KKT đã có các khu dân cư, làng nghề nên việc quản lý tương đối phức tạp,
ở các khu vực này về cơ bản các hoạt động quản lý vẫn do UBND huyện chịu
trách nhiệm.
đ) Kiểm tra, thanh tra, giám sát, xử lý vi phạm pháp luật BVMT KKT
chưa có sự phối hợp chặt chẽ, chưa đạt hiệu quả răn đe
- Theo quy định của Luật Thanh tra (có hiệu lực từ ngày 01/7/2011), chức

năng thanh tra không thuộc thẩm quyền của BQL, gây khó khăn trong xử lý các
vi phạm nói chung, vi phạm pháp luật BVMT KKT nói riêng, trong khi yêu cầu
và thực trạng của công tác BVMT hiện nay đòi hỏi phải tăng cường và thường
xuyên thực hiện việc thanh tra, kiểm tra về môi trường.
- Ngoài Phú Yên đã có chương trình, kế hoạch phối hợp thanh tra, kiểm
tra chung trong KKT; hầu hết các địa phương do chưa có chương trình phối hợp
đồng bộ nên thường xảy ra tình trạng thanh tra chồng chéo, gây khó khăn cho
hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp và làm giảm hiệu quả của
công tác thanh kiểm tra.
- Mặc dù Nghị định 117/2009/NĐ-CP ngày 31/12/2009 của Chính phủ đã
qui định các mức xử phạt tương đối cao, tuy nhiên việc xử phạt trên thực tế là
chưa đủ răn đe đối với các hành vi vi phạm pháp luật về môi trường (kết quả
thanh tra năm 2010 cho thấy vẫn còn nhiều vụ việc vi phạm hoặc tái phạm ở các
cơ sở sản xuất kinh doanh).
e) Phổ biến chính sách pháp luật, hướng dẫn kỹ thuật BVMT KKT còn
mang tính hình thức, chưa đi vào chiều sâu
Công tác phổ biến chính sách pháp luật BVMT KKT mặc dù đã được
thực hiện và quan tâm hơn trong vài năm gần đây, nhưng do chưa thường xuyên,
thiếu sự phối hợp chặt chẽ giữa cơ quan quản lý môi trường tỉnh với Ban quản
lý KKT nên hiệu quả còn hạn chế.

22


×