Tải bản đầy đủ (.pdf) (41 trang)

BÀI GIẢNG NÂNG CAO NĂNG lực tự học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.18 MB, 41 trang )

BÀI GIẢNG HỌC PHẦN “NÂNG CAO NĂNG LỰC TỰ HỌC”
Học phần “Nâng cao năng lực tự học” cung cấp cho học viên một số kiến thức cơ
bản về cơ sở tâm sinh lí của hoạt động tự học, một số cách rèn luyện kĩ năng tự học.
Trên cơ sở đó gợi ý để học viên vận dụng vào quá trình tự học của bản thân và hướng
dẫn sinh viên tự học một cách hiệu quả, như: Lập kế hoạch học tập, nghiên cứu tài liệu
học tập, tự giải quyết các vấn đề học tập.
Mục tiêu của học phần
Sau khi học xong học phần này, học viên có thể:
- Cập nhật, vận dụng một số kĩ năng tự học nhằm nâng cao hiệu quả công việc của
bản thân;
- Hướng dẫn cho sinh viên của mình những kĩ năng tự học một cách hiệu quả.
NỘI DUNG HỌC PHẦN
ĐẶT VẤN ĐỀ
Giáo viên là người sở hữu tri thức và truyền đạt tới học sinh. Để công việc giảng dạy
có hiệu quả, họ phải có hiểu biết rộng và sâu. Người giáo viên đích thực luôn tìm kiếm
cách thức học nhiều thêm để cập nhật những gì đang được phổ biến về môn học của họ
nhằm giữ môn học luôn mới và phát triển khả năng dạy học của họ. Nhu cầu liên tục học
hỏi còn liên quan đến chính bản chất của việc học tập. Bởi tri thức là cái không ngừng
phát triển, những điều biết hôm nay không bao giờ giống với điều sẽ được biết ngày mai.
Cho nên, để nắm, sở hữu tri thức, người ta luôn phải vật lộn để làm cho những điều đã
biết luôn được cập nhật, đồng thời còn phải biết trình bày chúng cho học sinh. Việc chủ
động học tập tạo ra ở giáo viên sự tự tin suy nghĩ một cách độc lập, và dưới con mắt của
các chuyên gia về học tập thì đây đây được xem là bước chuyển tiếp mang tính chuyên
nghiệp của một giáo viên bởi “đó là khi một thế giới mới được mở ra, một quyền lực mới
đạt được và một người giáo viên mới được sinh ra – một giáo viên có thể độc lập xác
định được điều gì là tốt nhất cho học sinh của mình”. Những giáo viên được học sinh
nhớ rõ nhất là những giáo viên nắm vững môn hoc của mình, dạy môn học đó với sự
nghiêm túc và tình yêu to lớn, tự tin trong sự hiểu biết của họ, vui sướng khi hiểu được
một điều mới mẻ. Đó là những người thường xuyên có mặt tại bàn đọc sách của thư viện,
băn khoăn về kết quả của một thử nghiệm, chia sẻ suy nghĩ về lời bình của một cuốn
sách, khám phá ra ý nghĩa của một bức tranh, nói về quá trình học hỏi với sự chân


1


thành...Những niềm vui sướng giản dị đó chính là những điều học sinh cần ở người giáo
viên. Bằng cách đó, học sinh sinh có thể sẵn sàng đáp ứng những yêu cầu của việc học
tập từ phía giáo viên, và lại tiếp tục thúc đẩy giáo viên trên con đường tự học hỏi.
CHƯƠNG 1: HỌAT ĐỘNG HỌC TẬP VÀ KĨ NĂNG TỰ HỌC
1.1.Hoạt động học tập
Học tập theo phương pháp nhà trường là một dạng hoạt động nhận thức, là một dạng
hoạt động tinh thần/tâm lí, nhằm lĩnh hội kinh nghiệm xã hội – lịch sử nói chung, tri
thức, kĩ năng, kĩ xảo nói riêng, chuẩn bị để học sinh trở thành chủ thể thực sự của hoạt
động lao động. Nó không làm biến đổi các vật thể thực, quan hệ thực, mà nó phản ánh sự
vật, quan hệ…mang lại cho chủ thể các hình ảnh, tri thức về sự vật và quan hệ đó. Bằng
hoạt động nhận thức, con người phân tích, tổng hợp, khái quát, ghi nhớ các hình ảnh ấy.
Và nếu có thực hiện một sự biến đổi nào đó, thì chính là biến đổi các hình ảnh này (biến
đổi sự vật trong biểu tượng), đổi mới tư duy, chuẩn bị cho biến đổi thực tế. Hoạt động
nhận thức chuẩn bị cho hoạt động lao động.
Là một hoạt động đặc thù của con người, hoạt động học tập có đầy đủ các đặc điểm
cơ bản của hoạt động con người, đó là:
a/ Bao giờ cũng có đối tượng: là các tri thức, kĩ năng, kĩ xảo…
b/ Bao giờ cũng do chủ thể tiến hành: là học sinh.
Nói đến tính chủ thể là muốn bao hàm trong đó tính tích cực, khả năng làm chủ bản
thân. Tất nhiên, để chủ thể thực hiện hoạt động, cần có các điều kiện khách quan tương
ứng (điều kiện xã hội và công cụ/phương tiện phù hợp). Tính chủ thể thể hiện ở chỗ: mỗi
học sinh phải tự mình bắt não làm việc, biến vốn kinh nghiệm xã hội - lịch sử của loài
người thành phẩm chất, năng lực hoạt động của cá nhân mình;
c/ Bao giờ cũng được vận hành theo nguyên tắc gián tiếp: thông qua bộ máy công cụ lao
động giữ vai trò trung gian giữa chủ thể lao động và đối tượng lao động, gồm: công cụ kĩ
thuật (tri thức về kĩ thuật, máy móc, kĩ năng công nghệ) và công cụ tâm lí (tiếng nói, chữ
viết, con số, kí hiệu, hình ảnh…). Cá nhân học sinh dùng bộ máy công cụ này để điều

khiển hoạt động học tập của mình;
d/ Bao giờ cũng có mục đích xác định: đó là để lĩnh hội tri thức, kĩ năng, kĩ xảo, nhằm
thỏa mãn nhu cầu nhận thức, hình thành các năng lực chuẩn bị hành trang bước vào cuộc
sống;
e/ Có bản chất xã hội – lịch sử: hoạt động học tập vận hành trong các mối quan hệ xã
hội. Các quan hệ này chứa đựng nội dung lịch sử do các thế hệ trước để lại, đồng thời
2


cũng là các quan hệ đang diễn ra trong môi trường sống của cá nhân học sinh. Ngoài ra,
còn có mối quan hệ với thế hệ sau – trách nhiệm tương lai. Hoạt động học tập của học
sinh trong nhà trường do thầy và trò là chủ thể cùng nhau tiến hành, tức là do một tập
thể/nhóm cùng thực hiện;
f/ Có cơ sở tự nhiên (“vật chất”) là bộ não và hoạt động thần kinh cấp cao của não: là
một hoạt động trí óc/tâm lí, học tập là quá trình tiêu hao năng lượng thần kinh, quá trình
huy động các chức năng của não, của các giác quan…Hoạt động thần kinh cấp cao của
não là cơ sở sinh lí thần kinh của hoạt động tâm lí, trong đó có học tập.
g/ Là một hoạt động mang tính xã hội, có tính tương tác cao: quá trình học tập diễn ra và
được thực hiện trong các mối quan hệ người – người đa dạng, phong phú.
Những đặc điểm nêu trên cho thấy, để thực hiện hoạt động học tập theo phương pháp
nhà trường, học sinh cần đáp ứng các yêu cầu nhất định về phát triển mặt sinh lí, tâm lí,
xã hội. Đây cũng là một trong những cơ sở khoa học quan trọng để xác định độ tuổi học
tập ở trường phổ thông của học sinh khi xây dựng hệ thống, chương trình giáo dục phổ
thông.
1.2. Cơ sở tâm sinh lí của hoạt động tự học
1.2.1. Cơ sở sinh lí của hoạt động tự học
Như trên đã nói, học tập là một dạng hoạt động lao động đặc biệt của con người. Hoạt
động tâm lí phức tạp này có cơ sở tâm sinh lí của nó và vận hành theo những quy luật
riêng của một hoạt động trí óc. Chính vì vậy, để tổ chức tự học có kết quả cần phải có
hiểu biết về những yếu tố đó để vận dụng chúng vào quá trình tự học. Học tập trước hết

là một hoạt động lao động, vì vậy nó có bản chất sinh lí học của bất cứ một hoạt động lao
động nào ở con người. Đó là sự vận hành các chức năng của cơ thể con người, về thực
chất là sự tiêu hao năng lượng thần kinh, năng lượng cơ bắp, là sự huy động các chức
năng của não, của các cơ quan cảm giác…Hiểu bản chất sinh lí học của lao động sẽ giúp
hiểu rõ hơn về bản chất tâm lí của lao động, bởi cái tâm lí trong lao động không thể tách
rời và cô lập với cái sinh lí.
Xét từ góc độ của khoa học Tổ chức lao động thì bất cứ một hệ thống lao động nào
(dù là chân tay hay trí óc) cũng bao gồm 3 thành tố là: 1/ Con người với tư cách là chủ
thể của lao động; 2/ Máy móc với tư cách là công cụ/phương tiện lao động; 3/ Môi
trường nơi diễn ra hoạt động lao động (bao gồm môi trường vật lí vi mô và môi trường
xã hội). Để hoạt động lao động có hiệu quả, cần làm cho các yếu tố này thích ứng với
nhau một cách tốt nhất, tức là, phải có sự tổ chức chúng một cách hợp lí để tối ưu hóa
3


mối quan hệ giữa các thành tố với nhau. Điều này cũng hoàn toàn đúng với hoạt động tổ
chức tự học. Trong hệ thống này, con người là thành tố quan trọng nhất vì thực hiện hoạt
động lao động, đồng thời tạo ra máy móc và môi trường lao động để tạo ra các giá trị xã
hội. Nếu xem xét thêm có thể thấy rõ yếu tố người đồng nghĩa với yếu tố tâm lí. Công
nhận sự có mặt của yếu tố này là phải tính đến vai trò và tầm quan trọng của nó. Các yếu
tố tâm lí hợp lại trở thành công cụ tâm lí cùng với công cụ lao động giúp con người thực
hiện hoạt động phù hợp với mục đích đặt ra.
* Bộ não con người – cơ sở sinh lí thần kinh của tổ chức tự học.
Trong quá trình tiến hóa, bộ não con người phát triển ở các giai đoạn khác nhau đi từ
phần nguyên thủy nhất (“não bò sát”) cho đến phần cao cấp nhất (“đại não”). Mỗi phần
có hoạt động tương đối khác biệt, song trong hoạt động học tập của con người thì tất cả
chúng đều cùng tham gia ở mức độ khác nhau, trong đó vỏ não (não cấp cao) nằm ở lớp
ngoài cùng và cao nhất của bộ não là bộ phận quan trọng của hoạt động tư duy (giúp
hình thành khả năng suy luận, đặt mục tiêu và lập kế hoạch, phát triển ngôn ngữ, lĩnh hội
những khái niệm trừu tượng).

Hoạt động thần kinh cấp cao của não là cơ sở sinh lí thần kinh của các hiện tượng tâm
lí, trong đó có học tập. Đó là hoạt động đảm bảo quan hệ phức tạp, chính xác và tinh vi
của toàn bộ cơ thể đối với thế giới bên ngoài. Hoạt động này do các bán cầu đại não thực
hiện. Các nhà khoa học nghiên cứu thấy, trong não có sự phân công chặt chẽ giữa các
vùng trên vỏ não, theo nghĩa mỗi vùng là cơ sở vật chất của một hiện tượng tâm lí tương
ứng. Nguyên tắc “phân công” này lại kết hợp với nguyên tắc “liên kết” rất nhịp nhàng,
theo nghĩa: mỗi hoạt động tâm lí có cơ sở vật chất là một hoặc một vài hệ thống chức
năng. Các hệ thống chức năng này được thực hiện bởi nhiều tế bào não từ các khối chức
năng cơ bản của toàn bộ não tham gia.
a/ Khối năng lượng đảm bảo điều hành trương lực vỏ não và trạng thái thức tỉnh. Để
đảm bảo các quá trình tâm lí diễn ra một cách đầy đủ, con người phải ở trong trạng thái
thức tỉnh tối ưu. Tương tự, để thực thi một hoạt động có tổ chức, có mục đích, cần phải
đảm bảo trương lực tối ưu của vỏ não. Khối này được cấu trúc theo dạng lưới thần kinh
“không chuyên biệt” thực hiện chức năng của mình bằng con đường thay đổi trạng thái
lan tỏa dần. Khối chức năng thứ nhất chủ yếu nằm trong khuôn khổ của thân não, của
các tổ chức gian não và các phần giữa của vỏ não mới. Bộ máy cho phép điều chỉnh
trạng thái này tương ứng với từng nhiệm vụ được đặt ra trước cơ thể. Đối với hoạt động
tổ chức tự học, vai trò của khối chức năng này là tổ chức hoạt hóa việc học, tức là quá
4


trình tạo động cơ của việc học, bởi vì não phải được hoạt hóa, đảm bảo trương lực võ
não ở mức độ nhất định thì hoạt động học tập mới được bắt đầu theo đúng nghĩa.
b/ Khối tiếp nhận, xử lí, lưu giữ thông tin. Khối này phân bố ở phía sau bán cầu và bao
gồm các vùng thị giác (chẩm), thính giác (thái dương), cảm giác chung (đỉnh) của vỏ và
các cấu trúc dưới vỏ. Bộ máy của khối chức năng này đều có cấu trúc thứ bậc, bao gồm
vùng cấp I (phóng chiếu) là nơi tiếp nhận thông tin và phân tích chúng thành các yếu tố
cấu thành nhỏ nhất, vùng não cấp II (phóng chiếu, liên hợp) là nơi mã hóa (tổng hợp) các
yếu tố cấu thành, vùng não cấp III (“vùng mở”) là nơi đảm bảo hoạt động đồng thời của
nhiều hệ cơ quan phân tích, đưa ra các biểu tượng dựa trên các hình thức tổ hợp của hoạt

động nhận thức. Trong hoạt động tổ chức tự học thì khối chức năng này đảm bảo việc
thực hiện tự học của chủ thể, qua đây có thể biết rõ cách học của học sinh là ở mức độ tái
hiện hay sáng tạo.
c/ Khối lập trình, điều khiển và kiểm soát các hình thức hoạt động phức tạp. Một khía
cạnh khác của đời sống tâm lí con người là sự tổ chức hoạt động tâm lí có ý thức. Đó là
quá trình con người lên kế hoạch, chương trình hành động; theo dõi việc thực hiện để
điều chỉnh hành vi tương ứng với kế hoạch hoặc chương trình đã đề ra; kiểm tra hoạt
động của bản thân bằng cách so sánh kết quả hành động với mục đích ban đầu và chỉnh
sửa những sai sót nếu có. Phục vụ cho các công việc này là bộ máy khối chức năng thứ
ba của não – khối lập trình, điều khiển và kiểm soát diễn biến của hành động đang diễn
ra. Các bộ phận của khối chức năng thứ ba này nằm ở phần phía trước bán cầu não.
Có thể nói, trong việc tổ chức tự học nhất thiết phải có sự tham gia của cả 3 khối chức
năng nói trên của não, đồng thời việc tổ chức tự học thực sự phải bao gồm các hành động
nêu trên. Như vậy, tổ chức tự học được bắt đầu trước hết bằng việc tổ chức vận hành
não.
Bộ não có hàng tỉ tế bào. Riêng vỏ não có hơn 100 tỉ tế bào hoạt động, được gọi là
các nơ ron. Bản thân mỗi nơ ron đều có sức mạnh lớn hơn hầu hết các máy tính trên
hành tinh này. Tuy nhiên, không phải số lượng nơ ron này quyết định trí thông minh mà
chính là các kết nối giữa chúng. Mỗi nơ ron có khả năng tạo ra 20 nghìn mối liên kết với
các nơ ron khác. Khi cá nhân hoạt động (nhìn, lắng nghe, làm một việc gì đó có chủ
định), não bộ sẽ được kính thích và tạo ra những mối liên kết giữa các nơ ron, giúp con
người trở nên thông minh. Do vậy, để học tập tốt cần rèn luyện bộ não thường xuyên
theo cách làm những việc đòi hỏi một mức độ khó khăn nhất định. Quá trình suy nghĩ
kích thích não bộ tạo ra nhiều kết nối thần kinh vì vậy, cảm giác ”Khó hiểu” là một cảm
5


giác tốt bởi khi đó, bộ não phải đối mặt với một việc vượt ra ngoài khả năng của nó, khi
đó, buộc cá nhân phải suy nghĩ để cố gắng hiểu vấn đề. Các chuyên gia khuyên rằng, nếu
chúng ta không thành thạo việc gì thì hãy thực hiên việc đó nhiều hơn. Họ cũng đưa ra

lời khuyên về những cách thức để kích thích não bộ phát triển, đồng thời, những cách
cần tránh vì làm cản trở sự phát triển của não bộ.
Các cách kích thích não bộ:
- Nghe một loại nhạc cổ điển (Ba Rốc);
- Liên tục đặt câu hỏi và trả lời câu hỏi;
- Hàng ngày cố gắng giải đáp các câu hỏi mới mẻ, phức tạp;
- Học hỏi kiến thức mới ở bên ngoài sách giáo khoa;
- Cố gắng tìm lời giải đáp cho các củ đề hoặc nội dung học tập khó;
- Hiểu rõ rằng: Khó hiểu và mắc lỗi trong học tập là cách để trở nên học giỏi hơn.
Các cách cản trở sự phát triển não bộ:
- Bỏ qua những nội dung khó, phức tạp;
- Không dám đặt câu hỏi khi chưa hoàn toàn hiểu vấn đề;
- Trả lời ”Không biết” và không cảm thấy bận tâm về câu trả lời đó;
- Chỉ đọc những vấn đề dễ tiếp thu;
- Chép bài của bạn;
- Không dám phát biểu trong giờ học.
1.1.2. Cơ sở tâm lí của hoạt động tự học
* Chú ý – điều kiện của tự học:
“Chú ý” là sự tập trung ý thức vào một đối tượng, sự vật nào đó để định hướng hoạt
động, đảm bảo điều kiện thần kinh - tâm lí cần thiết cho hoạt động tiến hành có kết quả.
Học tập là một hoạt động đòi hỏi tập trung cao độ trong những khoảng thời gian dài vào
những kiến thức mới và làm việc với kiến thức đó để nó trở thành một phần vĩnh viễn
trong trí nhớ dài hạn. Như vậy, muốn tổ chức việc học tập, cá nhân phải biết làm chủ chú
ý của mình (chú ý có chủ định): biết hướng chú ý của mình tới những đối tượng học tập
(sức tập trung chú ý - khối lượng chú ý); có khả năng tập trung lâu dài vào đối tượng học
tập (sự bền vững của chú ý); có khả năng di chuyển sự tập trung từ đối tượng này sang
đối tượng khác (sự di chuyển chú ý). Điều này cho thấy, không phải ngẫu nhiên mà các
chuyên gia về phương pháp học tập khẳng định rằng “tập trung là kĩ năng học tập siêu
việt số 1”. Biết tập trung tối đa và lâu dài vào việc học tập, biết tập trung đúng mức vào
các đối tượng học tập không phải là việc dễ dàng, mà đòi hỏi một trình độ phát triển nhất

6


định về mặt tâm lí ở cá nhân. Chú ý phát triển theo hoạt động của chủ thể. Trong công
tác sư phạm cần lưu ý đến đặc điểm lứa tuổi của chú ý cũng như đặc điểm chú ý của
từng cá nhân học sinh.
* Trí nhớ - chìa khóa của tự học:
Trí nhớ là một điều kiện của sự chuyển hóa từ nhận thức cảm tính lên nhận thức lí
tính, đồng thời là một thành phần tạo nên nhân cách, có vai trò quan trọng đối với hoạt
động sống nói chung và hoạt động học tập nói riêng. Trí nhớ được hiểu là quá trình ghi
lại (tạo vết), giữ lại (củng cố vết) và làm xuất hiện lại (tái hiện-từ những dấu vết làm
sống lại những hình ảnh) những gì cá nhân thu được trong hoạt động sống của mình. Các
quá trình này có thể được xem là các giai đoạn của trí nhớ và mỗi giai đoạn đại diện cho
một cấp độ tăng cường khác nhau. Trí nhớ là một quá trình thống nhất bao gồm trong nó
nhiều quá trình riêng lẻ gắn bó chặt chẽ với nhau theo các quy luật nhất định.
* Xúc cảm - động cơ và hành động ý chí:
- Khi phản ánh thế giới khách quan, con người không chỉ nhận thức thế giới đó, mà
còn tỏ thái độ của mình với nó nữa. Những hiện tượng tâm lí biểu thị thái độ của con
người đối với những cái mà họ nhận thức được, hoặc làm ra được, được gọi là xúc cảm
và tình cảm của con người (khi xem những bức tranh đẹp, nghe những bản nhạc hay…,
ta không chỉ tri giác chúng, mà còn có những rung động kèm theo). Xúc cảm, tình cảm
có vai trò to lớn trong ðời sống, hoạt ðộng của con ngýời, giúp con ngýời khắc phục khó
khãn trở ngại trong quá trình hoạt động, xác định mục đích, đưa ra những quyết định, tìm
ra cách thức đi tới đích. Đối với hoạt động học tập của học sinh, xúc cảm tình cảm giữ
một vị trí vô cùng quan trọng bởi vừa là điều kiện, vừa là nội dung, vừa là phương tiện
giáo dục. Xúc cảm có liên quan với hoạt động nhận thức, là động cơ, là nguồn động lực
mạnh mẽ kích thích sự tìm tòi, sự khám phá sáng tạo của con người trong quá trình nhận
thức. Sự phát triển xúc cảm của con người có tính quy luật, biểu hiện khác nhau ở các
giai đoạn phát triển khác nhau, do đó trong công tác giáo dục học sinh cần lưu ý đến điều
này.

- Một đặc điểm nổi bật của hoạt động con người là tính tự giác, biểu hiện trước hết ở
tính có chủ định, có dự kiến, có mục đích. Trước khi thực hiện hoạt động thì con người
đã có những dự định, đã ý thức được mục đích và đã có nguyện vọng đạt được mục đích
ấy và lập kế hoạch để tổ chức hoạt động.
Học tập là một hoạt động trí óc phức tạp thường đáp ứng đồng thời một vài động cơ
7


làm cho hoạt động ấy có ý nghĩa về nhiều mặt (nhu cầu về tri thức trong một lĩnh vực
nào đó, mong muốn có được một vị trí cao trong tập thể, mong muốn có được một phần
thưởng nào đó từ cha mẹ…). Vì thế, vấn đề động cơ trong hoạt động học tập ở học sinh
rất quan trọng. Về những động cơ thúc đẩy học sinh học tập, còn có hứng thú, đó là cơ
sở tạo ra khát vọng hoạt động nhận thức, là điều kiện quan trọng của lao động sáng tạo.
- Ý chí là một phẩm chất tâm lí của cá nhân, một thuộc tính tâm lí của nhân cách và là
hình thức tâm lí điều chỉnh hành vi tích cực nhất ở con người vì là sự kết hợp cả mặt
năng động của trí tuệ, lẫn mặt năng động của tình cảm đạo đức. Ý chí được biểu hiện ở
năng lực thực hiện những hành động có mục đích, những hành động đòi hỏi phải có sự
nỗ lực khắc phục khó khăn.
Những phẩm chất của ý chí gồm: tính mục đích (khả năng đặt ra những mục tiêu phù
hợp và tuân thủ thực hiện các mục tiêu đó), tính độc lập (khả năng thực hiện hành động
một cách tự tin, tự giác), tính quyết đoán (khả năng ra quyết định kịp thời), tính kiên trì
(khả năng duy trì nỗ lực để đạt mục đích) và tính tự chủ (khả năng làm chủ/kiểm soát
bản thân). Có thể thấy, đối với việc tự học, tất cả các phẩm chất này đều cần thiết, bởi
học tập là một dạng lao động nghiêm túc, khó khăn nhất, phức tạp nhất, đòi hỏi sự nỗ lực
thường xuyên tuân theo những yêu cầu cụ thể.
* Các quá trình nhận thức:
Học tập trước hết là một quá trình nhận thức, là quá trình phản ánh hiện thực, cả
khách quan lẫn chủ quan, cả cái đã qua lẫn cái sẽ tới, cả các quy luật phát triển của hiện
thực. Hoạt động học tập bao gồm nhiều quá trình nhận thức khác nhau, ở những mức độ
phản ánh khác nhau: cảm giác, tri giác, tư duy, tưởng tượng…Những quá trình này cho

ra những sản phẩm khác nhau như: hình tượng, biểu tượng, khái niệm…và có liên quan
rất chặt chẽ với nhau, rất cần thiết để giúp việc tự học đạt kết quả.
Chẳng hạn, cảm giác là hình thức định hướng đầu tiên, là nguồn nguyên liệu để con
người tiến hành những hình thức nhận thức cao hơn, là điều kiện quan trọng để đảm bảo
trạng thái hoạt hóa của vỏ não, cần thiết đối với khâu đầu tiên của học tập. Các thao tác
tư duy như: phân tích, tổng hợp, khái quát hóa…giúp giải quyết các nhiệm vụ học tập,
được huy động thường xuyên trong lúc học tập của học sinh. Còn tưởng tượng cần thiết
cho bất cứ một hoạt động nào của con người, trong đó có hoạt động tự học. Ý nghĩa quan
trọng là nó cho phép ta hình dung được kết quả của hoạt động trước khi bắt tay vào hoạt
động. Sự hình dung không chỉ giới hạn ở kết quả cuối cùng mà cả những kết quả trung
gian. Nó giúp cá nhân định hướng hoạt động bằng cách tạo ra mô hình tâm lí về những
8


sản phẩm cuối cùng, do đó có ý nghĩa hỗ trợ cho việc biến mô hình thành sản phẩm.
Trong hoạt động tự học, tưởng tượng tham gia vào tất cả các khâu, từ xác định mục tiêu,
lập kế hoạch, cho đến khâu kiểm tra đánh giá kết quả.
* Ngôn ngữ:
Ngôn ngữ có liên quan đến tất cả các quá trình tâm lí ở con người, nó tổ chức và điều
chỉnh các quá trình tâm lí đó. Nó là yếu tố quan trọng quyết định sự khác biệt về chất của
tâm lí người so với tâm lí động vật.
Ngôn ngữ có hai chức năng chính: là công cụ của giao tiếp và công cụ của tư duy.
Không có ngôn ngữ, đặc biệt là ngôn ngữ bên trong, thì tư duy của con người sẽ không
có tính trừu tượng và tính khái quát. Con người không chỉ biểu đạt những suy nghĩ của
mình và tiếp thu ý nghĩ của người khác nhờ ngôn ngữ, mà họ còn suy nghĩ bằng từ nữa.
Mối quan hệ giữa tư duy và ngôn ngữ được thể hiện trong ý nghĩa của các từ. Mỗi từ đều
có quan hệ với một sự vật nhất định và gọi tên sự vật đó. Khi gọi tên các sự vật, từ còn
tách ra trong các sự vật ấy các dấu hiệu xác định để căn cứ theo đó mà quá trình khái
quát hóa các sự vật được thực hiện. Như vậy, không có ngôn ngữ thì không thể có sự tư
duy khái quát – logic.

Tâm lí học và Sinh lí học hiện đại đã phát hiện ra rằng, bất kì một ý nghĩ nào, dù cho
con người có muốn hay không muốn nói ra, cũng đều được hình thành bằng ngôn ngữ
bên trong với sự tham gia của những cử động của bộ máy ngôn ngữ. Khi đó, ngôn ngữ
trải qua giai đoạn nói bên trong (không thành tiếng), điều chỉnh bên trong. Các cử động
ngôn ngữ không thấy được bằng mắt thường, nhưng có thể ghi lại được bằng các thiết bị
đặc biệt. Khi giải quyết các nhiệm vụ tư duy phức tạp thì quá trình nói bên trong kéo dài
thời gian hơn. Hoạt động cao nhất của hệ thống cấu âm được nhận thấy vào lúc xuất hiện
những trở ngại gay cấn trong tư duy, trong những điều kiện đòi hỏi phải có phương pháp
mới để giải quyết nhiệm vụ. Những điều này cho thấy, nếu không có sự tham gia của
ngôn ngữ bên trong thì ý nghĩ không thể được hình thành.
1.3. Một số kĩ năng tự học
1.3.1. Tự học là gì?
Để hiểu được khái niệm “Tự học”, cần phải hiểu một khái niệm có liên quan với nó là
“Học tập”. Theo Tâm lí học, “Học tập” là một hoạt động đặc thù của con người. Nó
được điều khiển bởi mục đích tự giác là lĩnh hội những tri thức, kĩ năng, kĩ xảo mới,
phương pháp lĩnh hội những tri thức đó, những hình thức hành vi, các dạng hoạt động
nhất định và các giá trị. Hoạt động đặc thù đó có mục đích cơ bản, trực tiếp, là “học” và
9


là học có chủ định. Vì vậy, hoạt động này chỉ có thể thực hiện được khi con người đạt
đến trình độ có thể điều chỉnh những hành động của mình theo một mục đích đã được ý
thức (vào khoảng 5-6 tuổi). Bản chất của học tập là quá trình nhận thức tích cực, độc
lập, sáng tạo, hướng vào làm thay đổi chính chủ thể thông qua việc làm thay đổi khách
thể của hoạt động. Động lực thúc đẩy học tập là những động cơ nảy sinh từ các nhu cầu
cá nhân, trong đó, có ý nghĩa hơn cả là những động cơ gắn liền với việc thỏa mãn nhu
cầu nhận thức cũng như gắn với việc vận dụng tri thức nhằm giải quyết những mục đích
thực tiễn nhất định.
Theo nghĩa rộng, “tự học” là quá trình người học tự quyết định việc lựa chọn mục
tiêu học tập, nội dung học tập, cách thức học tập, các hoạt động học tập và các hình thức,

phương pháp kiểm tra đánh giá thích hợp. Từ đó tổ chức, xây dựng, kiểm tra, kiểm soát
tiến trình học tập của cá nhân mình. Nhìn chung, tự học theo nghĩa này được hiểu là quá
trình học tập một cách tự giác, chủ động và độc lập.
Theo nghĩa hẹp, “tự học” là quá trình học sinh giải quyết các nhiệm vụ học tập theo
yêu cầu của giáo viên mà không giáp mặt thầy (hay, là quá trình học sinh học tập một
cách tự giác, độc lập nhằm giải quyết những nhiệm vụ học tập mà giáo viên giao cho để
về nhà làm.). Theo cách hiểu này thì tự học được xem như một giai đoạn hay một khâu
của quá trình học tập, tức là hoạt động học tập của học sinh khi không có thầy hướng
dẫn và nằm ngoài phạm vi nhà trường, với mục đích là củng cố những kiến thức, kĩ năng
đã được học trên lớp hoặc chuẩn bị cho các nội dung sẽ được học, thông qua việc
học/làm/thực hiện các nhiệm vụ mà giáo viên giao về nhà.
Ngày nay, tự học không chỉ là một kĩ năng học mà là một phẩm chất nhân cách của
con người sống trong xã hội hiện đại. Trở thành một người học tập thành công không
còn là vấn đề về lựa chọn hay chỉ là sự ưu tiên, mà là sự cần thiết để tồn tại và phát triển
trong “thời đại thông tin”.
Để tự học đạt kết quả mong muốn, trước hết, người học cần biết cách tổ chức tự học
một cách khoa học, hợp lí. Lâu nay, “Kĩ năng tổ chức” được đề cập đến rất nhiều trong
các tài liệu liên quan tới đào tạo nguồn nhân lực ở nước ngoài cũng như trong nước, bởi
một hoạt động chỉ có thể đạt được kết quả tối ưu nếu như nó được tổ chức tốt. Ngân
hàng Thế giới đã gọi thế kỉ 21 là kỉ nguyên của kinh tế dựa vào kĩ năng (skills Based
Economy). Vậy, kỹ năng nào là cần thiết cho mỗi con người để thành công trong công
việc và cuộc sống? Xung quanh vấn đề này đã có nhiều nghiên cứu nhằm đưa ra danh
sách các kĩ năng khác nhau để đảm bảo cho con người có thể thích ứng tốt nhất với xã
10


hội hiện đại. Bộ Lao Động Mỹ đưa ra danh sách gồm 13 kĩ năng cơ bản cần thiết để
thành công trong công việc trong đó có “Kĩ năng học cách học” và “Kĩ năng tổ chức
công việc hiệu quả”. Năm 2002, nước Úc có xuất bản cuốn sách “Kĩ năng hành nghề cho
tương lai”, trong đó đề cập đến những kiến thức và kĩ năng nhất thiết người lao động

phải có, bởi đó là các kỹ năng cần thiết không chỉ để có được việc làm, mà còn để phát
triển nghề nghiệp thông qua việc phát huy tiềm năng cá nhân và đóng góp vào định
hướng chiến lược của đơn vị công tác. Danh sách gồm 8 kĩ năng, với “Kĩ năng lập kế
hoạch và tổ chức công việc” (đứng thứ 5), “Kĩ năng quản lí bản thân” (đứng thứ 6) và
“Kĩ năng học tập” (đứng thứ 7). Cơ quan chứng nhận Chương trình và Tiêu chuẩn (về
đào tạo) của Anh cũng đưa ra danh sách các kĩ năng quan trọng đối với người lao động
gồm 6 kĩ năng, trong đó “Kĩ năng tự học và nâng cao năng lực cá nhân” đứng thứ 3. Cục
Phát triển Lao động Singapore đã thiết lập hệ thống các kĩ năng hành nghề bao gồm 10
kĩ năng. Trong danh sách này, “Kĩ năng tổ chức nơi làm việc ” và “Kĩ năng an toàn lao
động và vệ sinh sức khỏe” đứng thứ 9 và 10. Ở Việt Nam, trong nhiều chương trình đào
tạo các kĩ năng mềm cho người lao động, bên cạnh các kĩ năng khác, như: kĩ năng lắng
nghe, kĩ năng làm việc nhóm, kĩ năng quản lí bản thân…, chúng ta đều có thể tìm thấy
“Kĩ năng lập kế hoạch và tổ chức công việc”.
“Tự học” và “Tổ chức tự học” là một trong những vấn đề đang rất được quan tâm ở
nước ta hiện nay vì nó được xem là một trong những yếu tố quyết định chất lượng dạy
học trong nhà trường nói chung và ở trường phổ thông nói riêng. Đổi mới giáo dục phổ
thông ở nước ta hiện nay nhấn mạnh vào phát triển khả năng tự học ở học sinh. Đổi mới
phương pháp dạy học nhấn mạnh đặc biệt vào việc dạy cho học sinh cách thức tự học, tự
nghiên cứu, tự tìm tòi, nhưng không chỉ với tư cách là một người thừa hành/thực hiện,
mà hơn thế, phải là một người biết tự tổ chức, tự quản lí hoạt động học tập của cá nhân
mình một cách hiệu quả. Thực tế giáo dục phổ thông hiện nay ở nước ta cho thấy, phần
lớn học sinh gặp rất nhiều lúng túng trong tổ chức tự học. Theo kết quả của nhiều nghiên
cứu, một trong những nguyên nhân chủ yếu của thái độ tiêu cực đối với việc chuẩn bị bài
ở nhà của học sinh (đối phó, chậm trễ, không đầy đủ, lãng phí thời gian…) là những
thiếu sót trong việc tổ chức học tập. Vì vậy, có ảnh hưởng lớn đến chất lượng đổi mới
giáo dục đã được khởi xướng và triển khai trong những năm qua. Trên thực tế, càng ở
bậc học cao thì yêu cầu đối với việc tổ chức hợp lí việc học tập của học sinh càng lớn,
bởi khối lượng bài vở nhiều và yêu cầu tính tự giác, độc lập đối với việc học tập cũng
cao hơn nhiều so với trước.
11



Trong thực tế dạy học hiện nay, hoạt động học tập của học sinh, sinh viên là một quá
trình được chia thành hai giai đoạn: Giai đoạn học tập ở trên lớp, dưới sự tổ chức hướng
dẫn trực tiếp của giáo viên; và giai đoạn học ở nhà, do người học tự tổ chức. Tự học ở
nhà là một bộ phận hợp thành, là giai đoạn tiếp nối và phát triển bài học trên lớp. Đây là
một khâu quan trọng có ảnh hưởng trực tiếp đến toàn bộ quá trình học tập của người học,
bởi lẽ kiến thức mà học sinh tiếp thu được chỉ thực sự bền vững nếu chúng được ôn tập,
củng cố thường xuyên bằng một hệ thống bài tập hoặc việc làm ngoài giờ lên lớp. Hơn
nữa, trong tình hình hiện nay, khi phương pháp dạy học đang có những đổi mới theo
hướng tích cực hoá hoạt động nhận thức của học sinh, thì việc học tập ở nhà càng trở nên
quan trọng. Mức độ tích cực, độc lập của người học khi học trên lớp phụ thuộc phần lớn
vào kết quả công việc chuẩn bị bài ở nhà của họ.
Nhận thức được điều này, xã hội nói chung, ngành Giáo dục-đào tạo nói riêng đã có
những quan tâm nhất định, thiết thực. Để giúp học sinh có kiến thức và kĩ năng tổ chức
tự học ở nhà, gần đây đã xuất hiện một số chương trình tư vấn trên truyền hình, đài phát
thanh, trên mạng internet hoặc tại các trung tâm tư vấn tâm lí, tạo ra các diễn đàn trao
đổi kinh nghiệm học tập giữa học sinh với nhau hoặc giữa giáo viên với học sinh…Các
hoạt động này đã có những tác dụng nhất định đối với học sinh, đặc biệt học sinh THPT
là đối tượng đang phải chuẩn bị cho những kì thi rất quan trọng. Tuy nhiên, các trao đổi
chủ yếu vẫn dừng ở kinh nghiệm do các cá nhân tích lũy trong quá trình học tập của bản
thân.
Tham khảo một số tài liệu nước ngoài cho thấy, khi đề cập đến việc tổ chức tự học,
các nhà nghiên cứu dùng thuật ngữ “học tập có tổ chức” theo nghĩa người học huy động
các mặt khác nhau của nhân cách vào quá trình tự học, như: nhận thức, xúc cảm, hành vi.
Bởi học tập không phải là một quá trình nhận thức thuần túy, một quá trình thu hút duy
nhất bộ não lí trí, mà nó còn là một quá trình xúc cảm. Một số tác giả (Yiannis Gabriel &
Dorothy S. Griffiths) tiếp cận nghiên cứu vấn đề từ lí thuyết trí tuệ xúc cảm và lí thuyết
kiến tạo xã hội, nhấn mạnh vào khía cạnh xúc cảm của học tập, xem việc tổ chức tự học
trước hết là việc quản lí tổ chức các xúc cảm của các nhân, vì đó là cơ sở của việc hình

thành động cơ tự học. Đây là một quan điểm tiếp cận mới hiện nay đáng được quan tâm
tham khảo. Hiện nay còn nhiều sinh viên nghĩ rằng họ chỉ cần học tập cố gắng và chăm
chỉ là có thể đạt thành tích tốt do vậy đã không chú ý đúng mức để biết cách học hiệu
quả. Hệ quả của phương pháp học không tốt là lãng phí thời gian, thành tích học tập
kém, thậm chí thi rớt dẫn đến chán nản, thất vọng và bất mãn. Vì thế nhiều chuyên gia
12


nước ngoài về phương pháp học tập đã nghiên cứu đề xuất những cách tổ chức tự học
hiệu quả cho đối tượng là học sinh, sinh viên nhằm đưa ra các chỉ dẫn để sinh viên thực
hiện nhằm quản lí tốt hơn việc học tập của bản thân. Chẳng hạn, “Phương pháp
P.O.W.E.R” bao gồm 5 yếu tố cơ bản là: 1) Chuẩn bị/sửa soạn – Prepare (quá trình học
tập chỉ thực sự bắt đầu khi sinh viên chuẩn bị tích cực các điều kiện cần thiết để tiếp cận
môn học như đọc trước giáo trình, tìm tài liệu có liên quan, chuẩn bị tâm thế…); 2) Tổ
chức - Organize (người học biết tự sắp xếp việc học tập của mình một cách có mục đích
và có hệ thống); 3) Làm việc – Work (học tập phải đi đôi với “làm việc” một cách có ý
thức: lắng nghe, ghi chép, thảo luận, thực hành làm bài tập…); 4) Đánh giá – Evaluate
(sinh viên phải biết tự đánh giá sản phẩm học tập của bản thân, là một hình thức phản
tỉnh để ý thức được việc điều chỉnh để nâng cao trình độ); 5) Suy nghĩ lại/Lật lại vấn đề Rethink (sinh viên biết nhìn nhận lại vấn đề đã nhận thức để có cách điều chỉnh phương
pháp và điều kiện tự học). Cũng ở đây, còn có một việc làm rất có ý nghĩa là giải lao,
giải trí, tiêu khiển (Recreate) đúng cách để phục hồi năng lượng thể chất và thần kinh đã
mất trong quá trình học tập. Thứ tự nêu trên của các yếu tố cũng đồng thời là các bước
của một quá trình tự học hiệu quả.
Kết quả cho thấy, những khó khăn trong việc chuẩn bị bài ở nhà dường như là chung
đối với học sinh trên toàn thế giới, bởi học tập là một hoạt động rất đặc thù, đòi hỏi ở
người thực hiện nó cùng một lúc phải huy động nhiều yếu tố chủ quan và khách quan
khác nhau, nhất là trong điều kiện phải hoàn toàn tự giác. Điều này không chỉ đúng với
những học sinh gặp thất bại trong học tập, mà đôi khi cũng đúng ngay cả với những học
sinh học giỏi. Một kết quả nghiên cứu của nước ngoài cho thấy, hầu hết học sinh (và cả
sinh viên đại học) ở các nước trên thế giới đều tự đánh giá có chung những khó khăn phổ

biến trong học tập sau đây:
- Trí nhớ kém;
- Thích trì hoãn công việc;
- Lười biếng;
- Nghiện chơi điện tử, xem tivi, internet;
- Gặp khó khăn trong việc hiểu bài giảng;
- Dễ dàng bị xao lãng;
- Khả năng tập trung ngắn hạn;
- Mơ màng trong giờ học trên lớp;
- Sợ thi cử;
13


- Hay phạm lỗi do bất cẩn;
- Chịu áp lực từ phía gia đình;
- Có quá nhiều thứ để học và quá ít thời gian;
- Không có động lực học;
- Dễ dàng bỏ cuộc;
- Thầy cô dạy không lôi cuốn;
- Không có hứng thú đối với môn học.
Các số liệu cho thấy khá nhiều điều khiến các nhà giáo dục phải quan tâm: bên cạnh
một số ít học sinh cố gắng, chăm chỉ học tập, còn khá nhiều học sinh, nhất là học sinh ở
nông thôn, về nhà ít học bài, làm bài. Điều tra cơ bản ở một số vùng, thấy kết quả tự
đánh giá của học sinh và đánh giá của giáo viên như sau: có 3,7% học sinh chăm học;
96,3% học sinh có học bài nhưng phần lớn trong số đó là học qua quýt cho xong; 15%
học sinh không học bài làm bài. Về nguyên nhân: có 19% học sinh cho rằng bài tập/bài
học phải làm ở nhà quá nhiều vì thế các em không có đủ thời gian để hoàn thành hết;
33% nói rằng thầy cô không hướng dẫn học tập ở nhà cũng như ít kiểm tra việc học bài
làm bài của học sinh; 19% trả lời rằng cha mẹ không quan tâm đến việc học ở nhà của
con cái…

Nếu kết quả trên đây phản ánh đúng thực trạng thì tỉ lệ 3,7% học sinh chăm học ở nhà
là quá thấp, trong khi đó tỉ lệ học sinh lười học hoặc chỉ học qua quýt để đối phó lại quá
nhiều. Trong số các nguyên nhân được nhóm nghiên cứu chỉ ra, thì nguyên nhân đầu tiên
là do học sinh chưa có ý thức, thái độ, động cơ học tập đúng đắn, dẫn đến chây lười, tắc
trách, đối phó. Tiếp đến là do học sinh thiếu phương pháp học tập khoa học, đặc biệt là
phương pháp tổ chức tự học ở nhà. Rồi do các điều kiện cần thiết cho việc học tập ở nhà
chưa đảm bảo; hoặc do việc hướng dẫn kiểm tra đôn đốc của thầy cô giáo ở trường có
lúc, có nơi còn lỏng lẻo. Học tập nói chung và tự học nói riêng là một dạng hoạt động
đặc thù – hoạt động trí óc. Nó được diễn ra theo những quy luật tâm-sinh lí nhất định,
mà, nếu học sinh nắm được và biết vận dụng chúng vào quá trình học tập thì có thể sẽ
thu được kết quả mong muốn.
1.3.2. Tổ chức bản thân
Thuộc nhóm này có rèn luyện sức khỏe, rèn luyện tạo động cơ tự học, rèn luyện khả
năng tập trung vào công việc tự học, rèn luyện trí nhớ. Về mặt lí thuyết, tất cả những
điều này đều có liên quan với nhau chặt chẽ (theo nghĩa, một thủ thuật có thể sử dụng để
rèn luyện nhiều khả năng khác nhau), song, trong rèn luyện thì đối với từng vấn đề sẽ có
14


những thủ thuật mang tính đặc thù.
a/ Rèn luyện sức khỏe bản thân:
Muốn làm việc có hiệu quả, trước hết phải có một sức khỏe tốt. Nhưng một sức khỏe
tốt không tự nhiên có mà cần phải được rèn luyện thường xuyên và đúng cách. Trong
hoạt động học tập, rèn luyện sức khỏe về thể chất và tinh thần có những ý nghĩa đặc biệt
hơn. Hiện nay, đối với nhiều học sinh, vấn đề này chưa được nhận thức một cách đầy đủ
và sâu sắc. Hơn nữa, cách thức rèn luyện sức khỏe bản thân của các em cũng cần được
hướng dẫn.
* Ngủ đủ.
Ngủ được coi là một ”công cụ học tập” và được xếp ở thứ hạng rất cao. Một bộ não
luôn thiếu ngủ sẽ không bao giờ có thể làm việc được chính xác. Ngủ là một cách bổ

sung năng lượng cho bộ não, bởi học tập là một hoạt động tiêu hao năng lượng thần kinh
là chủ yếu. Tạo được một giấc ngủ có chất lượng là điều được nghiên cứu nhiều và cho
thấy, yếu tố quan trọng là sự yên tĩnh và tâm trạng thoải mái trước khi bước vào giấc
ngủ.
Giấc ngủ không chỉ quan trọng để duy trì sức khoể thể chất và tinh thần ở trạng thái
tốt, mà còn là thành phần chính để chuyển thông tin từ trí nhớ ngắn hạn vào trí nhớ dài
hạn. Khi ngủ, bộ não không nghỉ ngơi hoàn toàn mà một số vùng vẫn tiếp tục hoạt động.
Các nghiên cứu cho thấy, tài liệu học tập nếu được ôn lại trước khi ngủ sẽ được lưu trữ
hiệu quả và dễ dàng được huy động ra khi cần thiết (nhưng không nên học ngay trước
khi ngủ, mà tốt nhất là trước đó khoảng 30 phút để tránh căng thẳng).
* Thực hiện các bài thể dục thường xuyên hoặc chơi một môn thể thao ưa thích nào
đó là lời khuyên mà các chuyên gia về phương pháp học tập đưa ra nhằm giúp học sinh
tự bảo vệ sức khỏe. Đối với việc chuẩn bị học tập thì tốt nhất là thực hiện các bài tập từ
nhẹ đến trung bình (tập thở đúng cách, đi bộ nhanh...đủ để ra mồ hôi). Đó là cách chủ
động kích thích cơ thể tiết ra endorphin (là một chất trong não làm gia tăng hệ thống đề
kháng của cơ thể, làm giảm đau và an thần) và tăng lưu thông máu, từ đó tăng lượng oxy
lên não, rất quan trọng đối với não cấp cao. Chú ý không bao giờ được phép để bản thân
rơi vào trạng thái mệt mỏi quá (tới hạn) vì sẽ ảnh hưởng xấu đến khả năng tập trung và
sức bền bỉ khi học tập.
* Bên cạnh việc trang bị kiến thức thì học sinh cũng cần có chế độ ăn uống phù hợp
để có sức khỏe tốt nhất.
Không nên lạm dụng các chất kích thích như cà phê, trà đặc hoặc các loại thuốc như
15


thuốc chống buồn ngủ... Các chất này không tốt cho thần kinh, nhất là buổi tối, là thời
điểm hệ thần kinh cần được nghỉ ngơi.
* Có chế độ nghỉ ngơi, thư giãn hợp lí, tích cực, phù hợp với sở thích và điều kiện
thực tế của bản thân vào những lúc giải lao hoặc rảnh rỗi như: đọc sách, nghe nhạc, gặp
gỡ bạn bè, ngủ, giải trí bằng cười, giải đố...

* Nhận thức những chu kì tỉnh táo của bản thân:
Sức làm việc của con người diễn ra theo một quy luật chung với 2 giai đoạn thể hiện
sự tỉnh táo khác nhau. Tuy nhiên, tùy theo từng công việc, từng điều kiện, từng cá nhân
cụ thể, thì độ dài của từng giai đoạn là khác nhau. Vì thế, việc nhận thức được chu kì
tỉnh táo của bản thân để lập kế hoạch tự học cho phù hợp là điều được các chuyên gia
khuyên làm. Vì đây cũng là một cách tự bảo vệ sức khỏe thể chất cũng như tinh thần của
cơ thể. Nó đồng thời còn là một cách để quản lí tốt thời gian vì giúp kéo dài thời gian vật
chất mà chúng ta có (trong một phút minh mẫn sẽ làm được nhiều việc hơn so với nhiều
giờ không tỉnh táo).
Có thể tự theo dõi đánh giá độ tỉnh táo của bản thân vào những thời điểm khác nhau
trong một ngày bằng cách ghi lại cảm xúc cũng như kết quả của công việc được thực
hiện những lúc đó. Sau khoảng 1 tuần liên tục làm như vậy có thể xác định được khá
chính xác. Sau đó đem điều này áp dụng vào xây dựng thời gian biểu. Theo dõi việc thực
hiện thời gian biểu đó một thời gian để điều chỉnh, chính xác hóa lại nhận thức này rồi
điều chỉnh thời gian biểu.
Cũng có thể rèn luyện để nới rộng thời gian tỉnh táo của bản thân bằng 3 cách đơn
giản là: đảm bảo ngủ đủ; tập thể dục đều đặn (trong đó có chú ý tập thở); tích cực chuẩn
bị cho việc học tập (kiểm tra chỗ học, chuẩn bị trạng thái tư duy...sẽ tạo ra tâm thế tốt
cho bản thân).
b/ Tạo động cơ mạnh mẽ bằng cách làm chủ cảm xúc.
* Tạo niềm tin, xây dựng giá trị tích cực.
- Để có được quyết tâm, trước hết phải xây dựng được các giá trị tích cực và có niềm
tin vào những gì chúng ta xây dựng nên. Nghiên cứu cho thấy, cách thức suy nghĩ của
người thành công và người thất bại rất khác nhau. Những người thành công luôn ”muốn
thành công” vì thế họ sẵn sàng làm bất cứ việc gì để thành công, chịu trách nhiệm cho
những gì xảy ra và cố gắng để thành công. Trong khi đó, những người thất bại
”thích/ước được thành công”, do đó nếu không thànhh công cũng không có gì ghê gớm
16



đối với họ, vì vậy, họ chỉ sẵn sàng làm những việc thích làm, biện hộ, đổ lỗi cho người
khác, tự lừa dối bản thân. Những học sinh thất bại thường có khuynh hướng đổ lỗi cho
mọi người trừ chính bản thân mình: thầy giảng bài nhàm chán, bài quá khó, tại bạn bè
làm xao nhãng, cha mẹ không tạo điều kiện, hoặc tự lừa dối bản thân rằng mọi việc cũng
không đến nỗi quá tệ, rằng thực chất mình cũng đã rất chăm chỉ…
- Học sinh phải tạo được giá trị của thành công trong học tập và tin rằng mình sẽ
thành công. Ở đây, có thể vận dụng một số yếu tố tâm lí học để rèn luyện như tưởng
tượng và điều khiển cảm xúc (ví dụ, hình dung tâm trạng của bản thân khi gặp thất bại,
hình dung tâm trạng của bản thân khi thành công...).
* Làm chủ cảm xúc:
Hành động tạo ra kết quả, nhưng cảm xúc thúc đẩy con người hành động. Tâm lí học
đã chứng minh rằng, cảm xúc của con người là nguồn lực chính thúc đẩy hành động và
cách ứng xử của chúng ta trong mọi thời điểm. Chúng ta cảm thấy như thế nào thì chúng
ta làm như thế. Những cảm xúc tích cực thúc đẩy hành động mạnh mẽ (”Hào hứng”,
”Đam mê”, ”Tự tin”, ”Phấn khởi”...). Ngược lại, những cảm xúc tiêu cực như ”lo sợ”,
”hồi hộp”, ”căng thẳng”, ”buồn phiền”, ”mệt mỏi”...ngăn cản hành động đạt được mục
tiêu. Những người luôn hành động nhất quán và thu được kết quả tốt đẹp là do họ lựa
chọn để có được cảm xúc tích cực vì chúng cho phép họ tận dụng tối đa tiềm năng của
bản thân.
Chính chúng ta tạo ra cảm xúc của mình. Đó là vì, ở mỗi thời điểm nhất định, cảm
xúc của con người do hai yếu tố quyết định là trạng thái cơ thể và cách con người nhận
thức về sự việc, hiện tượng xung quanh chúng ta.
Tình trạng cơ thể tác động trực tiếp đến cảm xúc. Khi cơ thể con người được nghỉ
ngơi thoải mái thì sẽ cảm thấy tràn đầy sinh lực, hoàn toàn ngược lại với khi bị mất ngủ
hoặc không được nghỉ ngơi. Thêm vào đó là cảm giác chán nản, mệt mỏi, phiền muộn,
người thì đau nhức...Vì thế, cần chăm sóc cho cơ thể ở điều kiện tốt nhất có thể thông
qua chế độ ăn uống và luyện tập.
Ta biết rằng, ngôn ngữ là công cụ trao đổi tư tưởng của con người, bao gồm ngôn ngữ
nói và ngôn ngữ cơ thể. Việc nghiên cứu hệ thống ngôn ngữ cơ thể mới được bắt đầu vào
khoảng những năm 60 của thế kỉ 20. Cho đến nay, các nhà khoa học đã quan sát và ghi

chép được khoảng gần một triệu ám hiệu và tín hiệu vô thanh trong đó có tư thế thân thể
bao gồm tư thế của tay, cánh tay, đầu, chân, bàn chân...Người ta đã thống kê, phân tích
và khái quát một số tư thế cũng như ý nghĩa của chúng. Chẳng hạn, mười ngón tay chạm
17


vào nhau thành hình tháp tỏ rõ con người cứng rắn, tự tin hay kiêu hãnh. Mu bàn tay: áp
hai mu bàn tay ra phía sau lưng làm cho con người ta cảm thấy tự nhiên, bình tĩnh, ung
dung, gặp hiểm nguy không hốt hoảng lo sợ. Đó là đức tính tự tin của con người cương
trực, mưu lược. Nắm chặt tay: tay nắm chặt, môi mím tỏ rõ tinh thần quyết tâm, sẵn sàng
hoàn thành nhiệm vụ. Nó còn có ý nghĩa tỏ rõ thái độ hy vọng, mong đợi, trông chờ ở
kết quả công việc. Theo nghĩa rộng, ngôn ngữ cơ thể bao gồm cả nét mặt, ánh mắt, nụ
cười, dáng vẻ điệu bộ...Các nhà tâm lí học cho biết, dáng vẻ điệu bộ có ảnh hưởng đến
cảm xúc của chúng ta. Chẳng hạn, khi chúng ta phiền muộn, tư thế thường là ủ rũ, mắt
nhìn xuống, hơi thở nông và chậm, giọng nói nhẹ, thấp, cơ mặt chùng xuống...Còn
những khi chúng ta vui vẻ, phấn khởi, dáng vẻ của chúng ta khác hẳn: vai thẳng, mắt mở
to và tập trung hơn, hơi thở mạnh và sâu hơn, giọng nói to và cao, cơ mặt căng hơn...Đó
là vì, mỗi cảm xúc có một dáng vẻ điệu bộ riêng gắn liền với nó. Chúng ta khó có thể giữ
điệu bộ vui vẻ nếu đang cảm thấy đau buồn. Theo tâm lí học, tâm trí và cơ thể con người
có liên kết chặt chẽ với nhau thông qua hệ thần kinh trung ương. Vì vậy, có thể điều
khiển dáng vẻ điệu bộ của chúng ta để thay đổi cảm xúc của chúng ta (có thể thoát ra
khỏi sự chán nản bằng cách thay đổi dáng vẻ điệu bộ của mình). Kết quả của mối liên kết
này là nhận thức và dáng vẻ, điệu bộ của chúng ta tạo thành một vòng tròn liền mạch:
Nhận thức

Cảm xúc

Dáng vẻ
điệu bộ
Vì vậy, có thể rèn luyện quản lí cảm xúc thông qua:

- Chăm sóc cơ thể ở trạng thái sức khỏe tốt;
- Điều khiển dáng vẻ điệu bộ;
- Điều khiển để đưa bản thân vào trạng thái tối ưu;
- Mô phỏng dáng vẻ điệu bộ của người thành công (sử dụng trò chơi đóng vai, giống
như trẻ em mẫu giáo bắt chước khi chơi trò chơi đóng vai).
- Động cơ học tập cũng có thể được tạo ra từ những kích thích bên ngoài có ý nghĩa
18


tích cực.
d/ Rèn luyện khả năng tập trung để tổ chức tự học:
Các chuyên gia về phương pháp học tập coi ”Tập trung” là một yếu tố quan trọng số
1 trong học tập. Vì thế cần rèn luyện để có được khả năng này.
- Trước hết cần nắm được những yếu tố cơ bản ảnh hưởng đến khả năng tập trung,
làm phân tán chú ý của cá nhân để tìm ra cách rèn luyện hiệu quả.
Nhìn chung, các nguồn gây nhiễu đến từ: môi trường bên ngoài; từ bên trong cá nhân;
thiếu mục tiêu rõ ràng.
Đối với học sinh, các yếu tố thuộc môi trường bên ngoài như tiếng ồn, ánh sáng,
không khí, các tác động thị giác xung quanh đều có thể làm phân tán chú ý của các em
một cách nghiêm trọng. Chẳng hạn: ghế ngồi học không thoải mái, mặt bàn học quá cao
hoặc quá thấp, chiếu sáng tồi, chỗ học quá nóng hoặc quá lạnh, âm nhạc, các cuộc
chuyện trò của người khác từ bên cạnh, tivi, bạn bè quấy rầy, những việc khác cần phải
làm...Trong khi đó, những nguồn phân tán từ bên trong còn đáng sợ hơn. Bởi vì, cho dù
chỗ học là nơi yên tĩnh, bàn ghế ngồi thoải mái dễ chịu, chiếu sáng tốt...thì vẫn có thể
mất tập trung do các yếu tố chủ quan. Đó thường là những căng thẳng có liên quan đến
nguồn gốc cơ thể hoặc cảm xúc, như: mâu thuẫn với bạn bè hoặc với gia đình, lo lắng về
các bài kiểm tra sắp tới, hay do bị thiếu ngủ, chế độ ăn uống không tốt, trong người đang
có bệnh...Đôi khi thiếu tập trung lại là do thiếu một mục tiêu rõ ràng, cụ thể, vì thế cá
nhân không thấy được mối liên quan có ý nghĩa giữa công việc đang làm với những mục
tiêu xa hơn.

Loại bỏ được những nhân tố này, đồng thời nắm được cơ sở tâm sinh lí của một số
chức năng tâm lí như chú ý, ý chí, trí nhớ, tư duy... sẽ giúp học sinh rèn luyện khả năng
tập trung suy nghĩ và tổ chức tự học được tốt hơn.
Trên thực tế, khó có thể loại bỏ tất cả các yếu tố. Tuy nhiên, có thể kiểm soát được
nhiều yếu tố. Cá nhân cần quyết định kiểm soát những gì trong khả năng và lờ đi những
gì vượt quá tầm kiểm soát của mình trong quá trình tự học. Một số thủ thuật đơn giản có
thể thực hiện là:
* Loại bỏ tivi. Nhiều học sinh thích xem tivi, nghe nhạc, trò chơi điện tử. Những thứ
này làm phân tán chú ý rất nghiêm trọng, vì thế cần phải được loại bỏ hoàn toàn cho đến
khi học bài xong. Có thể đó sẽ là những phần thưởng sau khi hoàn thành việc học bài.
* Chuẩn bị môi trường học tập và chuẩn bị tâm thế là cách trợ giúp tập trung dễ dàng
nhất và có hiệu quả nhanh nhất bằng cách tạo ra một môi trường cảm xúc và tinh thần
19


tích cực để học tập như: trang trí làm phong phú thêm chỗ học tập của mình, kiểm tra
nguồn sáng, kiểm tra đồ dùng học tập, dán những thông điệp tích cực lên xung quanh
chỗ ngồi...
* Xác định mục tiêu và mục đích học tập cho từng buổi học một cách:
- Thực tế: ví dụ cần hoàn thành một việc gì đó trong một giờ;
- Cụ thể và rõ ràng: ví dụ, học thuộc 2 bài chứ không phải ”vài trang”, giải 5 bài tập
chứ không phải ”vài bài”;
- Khả thi: có thể nói ra khi đã hoàn thành;
- Phù hợp với những ưu tiên trong danh mục công việc của cá nhân;
- Có ý nghĩa và đáng khen thưởng: ví dụ, sau khi học xong sẽ được đi xem bộ phim
yêu thích.
* Lập các danh mục và tận dụng chúng.
Vận dụng một đặc điểm của trí nhớ (những gì đang làm dở dang thì sẽ nhớ và ngược
lại) để viết ra tất cả những công việc tuy là bình thường nhưng lại cần phải làm trong
cùng thời gian đó (sinh nhật mẹ, trả lời thư của bạn, đi thăm ông bà...) vào các danh mục

công việc. Điều này sẽ giúp loại bỏ sự căng thẳng do phải nhớ những việc đó (là nguồn
tác nhân gây mất tập trung) mà ta vẫn không bị mất thông tin (nghĩa là chúng sẽ không
bị quên hẳn).
* Cũng có thể lập một danh sách riêng những việc gây áp lực hoặc lo lắng lên cá
nhân bởi chúng ngăn cản tập trung học tập. Việc viết ra những điều khiến ta lo lắng hoặc
những rắc rối đó rồi để qua một bên hoặc đưa vào trong một ”bộ hồ sơ” sẽ giúp tạm thời
khuây khỏa. Tất nhiên, việc làm này không giải quyết được vấn đề nhưng có thể thường
xuyên di dời rắc rối ra khỏi ý thức trong một thời gian để ta có thể tập trung vào việc
học.
* Cuối cùng, phương pháp tốt nhất để trở thành con người tập trung là không bao giờ
cho phép mình làm một việc gì mà không tập trung (rèn luyện ý chí).
e/ Một số cách rèn luyện trí nhớ.
Học tập gắn liền với trí nhớ vì trí nhớ đóng vai trò quan trọng trong việc nắm được tri
thức, củng cố kinh nghiệm. Do đó, biết cách rèn luyện để có một trí nhớ tốt là điều vô
cùng cần thiết đối với học sinh. Hơn nữa, có thể nói đây là điều học sinh gặp khó khăn
nhiều nhất trong quá trình học tập.
Để nhớ tốt một thông tin, cần có sự quan sát kĩ, sự tập trung và động cơ của hành
động quan sát đó.
20


Trí nhớ dài hạn của chúng ta không hạn chế khả năng ghi nhớ thông tin, nhưng để sử
dụng nó tối ưu cần có sự cố gắng trong việc lựa chọn trước thông tin. Để làm được điều
đó, cần phải tuân theo một số nguyên tắc nhất định. Ở đây quy luật về quá trình quên cần
được đặc biệt chú ý. Đó là vì, trong học tập, chúng ta phải đọc càng nhiều càng tốt, song
trên thực tế chúng ta không thể nhớ hết những gì đã đọc được. Như vậy, cần phải biết
được, trong quá trình đọc và học tập, chúng ta thường quên như thế nào và hay quên
những gì. Thêm nữa, khả năng của con người không phải là không có giới hạn, vì thế
còn phải biết quên những gì không cần nhớ để bảo vệ sức khỏe cho trí não.
* Nghiên cứu những người có trí nhớ phi thường, các nhà khoa học đã khám phá ra ở

họ một số nguyên tắc cơ bản được áp dụng để ghi nhớ và lưu giữ thông tin gồm:
- Sự hình dung là một nguyên tắc rất quan trọng nhất vì trí nhớ làm việc theo hình ảnh
do vậy ta có khuynh hướng nhớ hình hơn nhớ từ. Khi hình ảnh trong óc càng rõ ràng
sống động bao nhiêu thì ta càng dễ nhớ và nhớ lâu bấy nhiêu. Lí do khiến đa số học sinh
quên kiến thức là vì họ cố gắng ghi nhớ từ ngữ. Vấn đề ở đây là phải biết cách chuyển từ
ngữ thành hình ảnh để dễ dàng lưu vào não bộ.
- Sự liên tưởng là nguyên tắc quan trọng thứ hai để ghi nhớ tốt. Đó là tạo ra mối liên
kết giữa những việc chúng ta cần nhớ. Các liên kết này sẽ tạo ra một mục lục dưới dạng
chuỗi liên kết trong óc, giúp ta dễ dàng lần tìm lại thông tin. Liên kết các hình ảnh là một
quá trình hết sức quan trọng của trí nhớ.
- Làm nổi bật sự việc bằng cách sử dụng các chi tiết hài hước hoặc các chi tiết vô lí.
Điều này giúp làm nổi bật thông tin vì tránh được sự đơn điệu, bởi vì con người có
khuynh hướng ghi nhớ những sự việc buồn cười, khác thường (đặc điểm tính nổi bật của
thông tin).
- Sự tưởng tượng. Con người có khuynh hướng nhớ những sự việc tự mình tưởng
tượng ra (tính chủ quan của trí nhớ), đặc biệt khi ta dùng nhiều giác quan để tưởng
tượng. Điều đó có nghĩa là, càng sử dụng nhiều giác quan để tưởng tượng thì càng ghi
nhớ nhanh và nhớ lâu. Con người cũng có khuynh hướng ghi nhớ những sự việc tạo cảm
xúc mạnh mẽ (lo sợ, hạnh phúc, giận dữ, yêu thương, đau đớn), vì vậy cũng nên dùng trí
tưởng tượng để tạo cảm xúc mạnh mẽ.
- Màu sắc cũng là một tác động trí nhớ mạnh mẽ. Đó là lí do chúng ta nên dùng nhiều
màu sắc khi ghi chú. Các nghiên cứu cho thấy, màu sắc có thể tăng cường trí nhớ lên tới
50%. Tuy nhiên, về phương diện khả năng tâm lí của con người, thì không nên lạm dụng
việc mã hóa, vì khi có quá nhiều màu sắc được sử dụng cùng một lúc, sẽ làm khó phân
21


biệt hơn.
- Âm điệu. Các nhà khoa học cho rằng, âm điệu giúp tăng khả năng ghi nhớ và nhớ lại
thông tin vì kích hoạt bán cầu não phải, là bán cầu não thường bị bỏ quên khi chúng ta

học tập (thường dễ thuộc và nhớ bài hát hơn, học thơ ca dễ nhớ hơn…). Vì thế có thể tạo
ra những âm điệu riêng cho những thông tin ta cần ghi nhớ.
- Chỉnh thể luận cũng giúp ghi nhớ thông tin tốt hơn. Đó là việc học bằng cách nhìn
sự việc trong một bức tranh tổng quát. Việc phân tích các mối liên kết của thông tin đó
vào các khái niệm tổng quát sẽ giúp ta ghi nhớ tốt hơn là học từng chi tiết riêng biệt.
Trí nhớ ngắn hạn được chuyển thành trí nhớ dài hạn bằng cách thường xuyên ôn tập
(như sơ đồ dưới đây):

Sơ đồ 2: Chuyển từ trí nhớ ngắn hạn sang trí nhớ dài hạn
* Sau đây là một số gợi ý biện pháp rèn luyện trí nhớ:
- Ôn lại sớm và ôn luyện thường xuyên. Về nguyên tắc, những thông tin được lặp đi
lặp lại sẽ được nhớ lâu hơn. Việc bắt đầu quá trình ôn lại phải càng sớm càng tốt vì
nghiên cứu cho thấy, sau 24 giờ, chúng ta có thể quên 80% kiến thức vừa được học. Điều
này có nghĩa là cần ôn bài vào đúng thời điểm trí nhớ đang ở đỉnh cao. Nghiên cứu cho
thấy, lần ôn bài đầu tiên nên bắt đầu sau khi học 10 phút vì lúc này khả năng ghi nhớ đạt
đỉnh điểm rồi sau đó giảm từ từ. Những lần ôn tập tiếp theo nên lần lượt diễn ra sau 24
giờ, sau 1 tuần, sau 1 tháng, và sau 3 đến 6 tháng. Bằng cách đó, những liên kết trong
não trở nên bền vững hơn đồng thời việc học bài trở nên dễ dàng hơn, tiết kiệm được
thời gian hơn.

22


Sơ đồ 3: Đường biểu diễn sự quên
- Sử dụng kết hợp nhiều hành động cùng một lúc sẽ giúp nhớ nhanh và lâu hơn.
Tương tự, có thể sử dụng nhiều liên tưởng giác quan để cải thiện trí nhớ như thị giác,
mùi vị, âm thanh, song các nghiên cứu cho thấy quan trọng nhất là thị giác vì trí nhớ rất
cần thiết cho bộ máy thị giác, vì vậy, cần tập trung phát triển các liên tưởng thị giác của
mình.


Sơ đồ 4: Kết quả ghi nhớ ở những hành động học tập khác nhau
- Chia nhỏ thời gian cho các công việc khác nhau. Dựa theo hiệu ứng “đầu tiên” và
hiệu ứng “mới đây” của trí nhớ (tức là chúng ta thường nhớ những thông tin học lúc đầu
và lúc cuối tốt hơn), để bố trí việc học thuộc lòng phù hợp, vừa không lãng phí thời gian
mà vẫn nhớ được nhiều thông tin. Muốn thế, phải chia nhỏ thời gian học thuộc lòng ra
làm nhiều khoảng. Các nhà nghiên cứu cho biết, thời gian học lí tưởng nhất trong mỗi
lần là 2 tiếng và khoảng thời gian tối đa có thể tập trung cho một bài học là khoảng 3045 phút. Vì vậy, ta nên chia khoảng thời gian 2 tiếng thành 4 giai đoạn nhỏ với mỗi giai
23


đoạn dài 30 phút. Ở mỗi giai đoạn ta tập trung học trong 25 phút. Giữa các khoảng đó có
thể nghỉ giải lao 5 phút. Bằng cách này ta sẽ có 8 đỉnh ghi nhớ thông tin và những
khoảng thời gian trí nhớ suy giảm (hiện tượng quên) sẽ rút ngắn đi nhiều. Kết quả là ta
ghi nhớ được thông tin tốt hơn trong khi thời gian học được tận dụng hiệu quả tối đa.
- Các chuyên gia nghiên cứu về cải thiện trí nhớ còn cho rằng, nếu chúng ta thay đổi
hoạt động trong mỗi khoảng thời gian 30 phút, có thể thu được nhiều lợi ích lớn hơn.
Cách này được gọi là “học tập xen kẽ”. Khi học lối đan xen như thế sẽ thấy đầu óc tỉnh
táo hơn, dễ thuộc hơn. Lí do là học như vậy sẽ hạn chế được sự cản trở của ức chế xuống
sau và ức chế lên trước (ức chế ngược) do tính chất gần giống nhau của tài liệu học trước
với tài liệu học sau (mức độ gần giống nhau càng lớn thì sự cản trở càng mạnh) và do
khoảng cách thời gian học giữa tài liệu trước và tài liệu sau (nếu khoảng cách là nhỏ thì
ảnh hưởng của hai loại ức chế càng mạnh). Chẳng hạn, nếu học xen kẽ theo thứ tự Toán,
Văn và Sinh học thì có thể làm giảm sự cản trở đối với tính gần giống nhau xuống tới
mức thấp nhất. Đồng thời, vận dụng quy luật về sức làm việc để ngăn ngừa sự mệt mỏi
đến sớm, nên có nghỉ giải lao nhẹ giữa hai tài liệu học. Cũng cần lưu ý rằng, nếu như sau
khi học xong một tài liệu mà ta chuyển sang học một tài liệu khác khó hơn thì ảnh hưởng
của ức chế lên trước sẽ càng lớn do đó sẽ khó nhớ hơn. Ngoài ra, nếu không nhớ kĩ tài
liệu học trước và tài liệu học sau, thì cũng dễ làm nảy sinh ức chế xuống sau và ức chế
lên trước. Vì vậy, khi học xen kẽ là phải học đâu chắc đó, tuyệt đối không được nôn
nóng bởi nếu không sẽ xảy ra hiện tượng “làm nhanh chóng hỏng” làm mất thời gian lại

không hiệu quả.

Sơ đồ 5: Các đỉnh ghi nhớ

24


- Nhóm tài liệu lại. Do hiệu ứng tương tự của trí nhớ (những thông tin liên quan với
nhau được ghi nhớ dễ hơn), cần sắp xếp các tài liệu có các yếu tố giống nhau để ôn cùng
nhau. Với cách này, chỉ riêng việc phân loại thông tin cũng đã giúp ích cho quá trình ghi
nhớ rất nhiều.
- Tạo ra các liên tưởng mạnh mẽ, nghĩa là tạo ra mối liên kết giữa những việc chúng
ta cần nhớ. Các liên tưởng dễ thực hiện nhất là liên tưởng cảm xúc và liên tưởng thị giác.
Cách tốt nhất để thực hiện liên tưởng thị giác là sử dụng “Bản đồ tư duy” của Tony
Buzan. Ngoài ra, tính ý nghĩa của thông tin là một đặc điểm của trí nhớ, vì vậy, bất cứ
khi nào có thể được thì ta hãy cố gắng gán cho thông tin những ý nghĩa riêng.
Cơ sở của trí nhớ là những mối liên hệ hoặc liên tưởng. Nếu là những tài liệu liên
quan mật thiết với tài liệu cũ hoặc giữa những bộ phận có mối liên hệ chặt chẽ thì học rất
chóng thuộc. Những tài liệu hình tượng trực quan dễ nhớ hơn những tài liệu ngôn từ trừu
tượng hoặc các lí luận toán học. Những tài liệu tác động đến tình cảm, hứng thú, sở thích
của con người thường dễ nhớ hơn những tài liệu chung chung. Vì vậy, các chuyên gia
khuyên rằng, nếu có thể, thì nên biến những tài liệu khó nhớ dưới dạng thơ ca, hò vè...có
vần có điệu thì học sẽ nhanh thuộc và nhớ được lâu hơn, bởi thơ ca thường giàu hình
tượng, giàu cảm xúc, dễ để lại trong con người những ấn tượng sâu đậm. Hơn nữa, vần
và nhịp điệu còn làm tăng mối liên hệ giữa các từ, giữa các đoạn trong bài thơ làm cho
tất cả trở thành một chỉnh thể do đó giúp ta dễ dàng nhớ lại và tái hiện. Nhiều giáo viên
đã bỏ công sức soạn những định lí toán học, các quy tắc ngữ pháp... dưới dạng các câu
ca dao để học sinh dễ đọc, dễ nhớ.
- Làm các thẻ nhớ và thường xuyên giữ theo bên mình để có thể mở ra bất cứ khi nào
có thời gian rảnh mà không muốn để nó trôi qua vô ích như: lúc đợi ôtô buýt, khi chờ

một người bạn để cùng đi học...

25


×