Tải bản đầy đủ (.pdf) (34 trang)

Giải quyết tranh chấp thương mại trong khuôn khổ WTO

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (772.45 KB, 34 trang )

Giải quyết tranh chấp thương mại trong khuôn
khổ WTO
Lê Thị Hồng Hải
Khoa Luật
Luận văn Thạc sĩ ngành: Luật quốc tế; Mã số: 60 38 60
Người hướng dẫn: PGS.TS Hoàng Phước Hiệp
Năm bảo vệ: 2009
Abstract: Chương 1: Những vấn đề cơ bản về giải quyết tranh chấp thương mại trong
khuôn khổ WTO. Chương 2: Thực tiễn giải quyết tranh chấp thương mại của WTO.
Chương 3: Hệ thống giải quyết tranh chấp thương mại của WTO và những cơ hội,
thách thức đối với Việt Nam trong quá trình thực thi quy chế thành viên WTO.
Keywords: Luật Quốc tế; Tranh chấp thương mại; WTO
Content
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Tranh chấp thương mại quốc tế là vấn đề khó tránh khỏi đối với Việt Nam trong quá trình hội
nhập. So với nhiều nước, kể cả các nước trong khu vực thì Việt Nam tham gia vào thương mại
toàn cầu khi các quy tắc và chuẩn mực thương mại quốc tế về cơ bản đã được hình thành và phát
triển. Vì vậy, đối với Việt Nam, một vấn đề rất quan trọng là ngay từ khi bắt đầu tham gia hội
nhập kinh tế thế giới cần phải nghiên cứu, tìm hiểu những luật lệ thương mại quốc tế để tận
dụng tốt cơ hội đồng thời tránh những rủi ro pháp lý không đáng có.
Ngày 11/01/2007, Việt Nam chính thức trở thành thành viên thứ 150 của Tổ chức Thương mại
Thế giới (WTO). Bước vào "sân chơi chung" WTO, tất yếu chúng ta phải nghiên cứu, tìm hiểu các
luật lệ, quy tắc của WTO, trong đó có các quy định về giải quyết tranh chấp thương mại nhằm
chủ động tham gia thương mại quốc tế, hạn chế rủi ro và bảo vệ tốt hơn quyền lợi của Việt
Nam.
Vì những lý do trên, vấn đề: "Giải quyết tranh chấp thương mại trong khuôn khổ WTO"
là một hướng nghiên cứu có ý nghĩa về lý luận và thực tiễn trong bối cảnh hiện nay tại Việt
Nam. Do vậy, em đã chọn vấn đề này làm đề tài cho luận văn tốt nghiệp của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong những năm gần đây, vấn đề giải quyết tranh chấp trong WTO đã có một số công


trình nghiên cứu:
Ở trong nước có Dự án Hỗ trợ thương mại đa biên (MUTRAP) do Liên minh Châu Âu tài
trợ, Bộ Công thương phối hợp thực hiện; Dự án hỗ trợ cải cách pháp luật Việt Nam (LERAP)
của Cơ quan hợp tác phát triển quốc tế Canada (CIDA), Bộ Tư pháp phối hợp thực hiện; Dự
án Hỗ trợ Thúc đẩy Thương mại (STAR) là dự án hỗ trợ kỹ thuật do Cơ quan Hỗ trợ Phát
triển Quốc tế Hoa Kỳ (USAID) tài trợ. Các dự án này đều có nhiều hoạt động, nghiên cứu,


đào tạo liên quan đến các quy định của WTO, trong đó có chế định giải quyết tranh chấp
thương mại của WTO.
Ngoài ra có một số công trình trong nước đã nghiên cứu, như: "Các nước đang phát triển với
cơ chế giải quyết tranh chấp của Tổ chức Thương mại Thế giới", của TS Nguyễn Vĩnh Thanh,
ThS. Lê Thị Hà, Nxb Lao động xã hội, 2006; "Vài nét về các quy tắc và thủ tục giải quyết tranh
chấp theo WTO", của Trần Mai Hùng, Tạp chí Dân chủ và pháp luật, (số chuyên đề), 2004; …
Các công trình và những bài viết nêu trên có đề cập đến những khía cạnh khác nhau về cơ chế
giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế của WTO. Tuy nhiên, chưa có một công trình nào
nghiên cứu sâu về thực tiễn giải quyết tranh chấp thương mại trong khuôn khổ WTO và rút ra bài
học kinh nghiệm cho Việt Nam. Ở nước ngoài, các tài liệu về giải quyết tranh chấp của WTO
có tương đối nhiều và phổ biến nhưng hầu hết đều được viết bằng tiếng nước ngoài. Vì vậy,
trong xu thế hội nhập hiện nay, việc nghiên cứu một cách có hệ thống về vấn đề này mang ý
nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc.
3. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Luận văn tập trung nghiên cứu thực tiễn giải quyết tranh chấp thương mại trong khuôn
khổ pháp luật WTO và rút ra bài học kinh nghiệm cho Việt Nam. Luận văn không tập trung
nghiên cứu vấn đề tác nghiệp trong giải quyết tranh chấp, quy tắc đạo đức nghề nghiệp và
thực tiễn thi hành quyết định giải quyết tranh chấp của Ban hội thẩm, Cơ quan phúc thẩm.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để làm rõ vấn đề trên, chúng tôi sử dụng phương pháp phân tích, tổng hợp, đối chiếu so sánh.
Các phương pháp cụ thể này được thực hiện trên nền tảng của phương pháp biện chứng, trên cơ
sở các quan điểm, đường lối kinh tế của Đảng về chính sách đối ngoại và quan điểm hợp tác, hội

nhập kinh tế quốc tế, gắn với mục tiêu xây dựng nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội
chủ nghĩa.
5. Những đóng góp của luận văn
Là một đề tài về giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế, qua nghiên cứu, phân tích hệ thống
giải quyết tranh chấp thương mại của WTO luận văn góp phần khái quát hóa và giới thiệu hệ thống
giải quyết tranh chấp thương mại của WTO hiện nay; nhận định, đánh giá, phân tích, so sánh, từ đó
đưa ra những kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng hệ thống giải quyết tranh chấp này đối
với Việt Nam.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3
chương:
Chương 1: Những vấn đề cơ bản về giải quyết tranh chấp thương mại trong khuôn khổ
WTO.
Chương 2: Thực tiễn giải quyết tranh chấp thương mại của WTO.
Chương 3: Hệ thống giải quyết tranh chấp thương mại của WTO và những cơ hội, thách
thức đối với Việt Nam trong quá trình thực thi quy chế thành viên WTO.
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ GIẢI QUYẾT
TRANH CHẤP THƢƠNG MẠI TRONG KHUÔN KHỔ WTO
1.1. Tổng quan quá trình hình thành và phát triển chế định giải quyết tranh chấp
thƣơng mại của WTO

2


1.1.1. Khái niệm tranh chấp thương mại trong khuôn khổ WTO
Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) quan niệm tranh chấp thương mại là tranh chấp ở
phạm vi quốc tế, được dùng để chỉ các bất đồng giữa các nước thành viên WTO khi một nước
cho rằng quyền lợi của mình theo một hiệp định nào đó của WTO bị triệt tiêu đi hay bị xâm
hại do việc một nước thành viên khác áp dụng một biện pháp thương mại hoặc không thực

hiện một nghĩa vụ (khiếu kiện vi phạm); hoặc khi việc đạt được mục tiêu của hiệp định bị cản
trở, triệt tiêu hoặc suy giảm quyền lợi thương mại do biện pháp thương mại của một thành
viên bất kể là biện pháp này có trái với nghĩa vụ thành viên hay không (khiếu kiện không có
vi phạm); hoặc khi có bất kỳ tình tiết nào đem lại thiệt hại về quyền lợi hay cản trở đạt mục
tiêu hiệp định (khiếu kiện tình huống). Hơn nữa, một bất đồng chỉ trở thành một tranh chấp
của WTO khi nó được chính thức thông báo cho Ban thư ký WTO.
Như vậy, trong khuôn khổ WTO, tranh chấp thương mại được hiểu là bất đồng giữa các
thành viên WTO liên quan đến việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ theo các Hiệp định và
thỏa thuận của WTO và bất đồng này được thông báo chính thức cho Ban thư ký WTO.
Từ định nghĩa trên, có thể rút ra một số đặc điểm của tranh chấp thương mại trong khuôn
khổ WTO như sau:
Thứ nhất, tranh chấp thương mại trong khuôn khổ WTO là tranh chấp thương mại quốc tế
liên quốc gia, liên chính phủ;
Thứ hai, các bên tranh chấp là thành viên WTO. Các tổ chức quốc tế, các cá nhân, pháp
nhân… không thể là một bên của tranh chấp;
Thứ ba, khách thể của tranh chấp luôn liên quan đến việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ
theo các hiệp định và thỏa thuận của WTO;
Thứ tư, tranh chấp phải được giải quyết theo cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO (DSM).
Tranh chấp thương mại là một trong những hệ quả của hoạt động thương mại, đặc biệt là
trong thương mại quốc tế (do xung đột pháp luật, bất đồng ngôn ngữ...). Vì vậy, giải quyết tranh
chấp phát sinh là một nhu cầu tất yếu khách quan.
Giải quyết tranh chấp thương mại trong khuôn khổ WTO theo nghĩa chung nhất có thể
hiểu là cách thức, phương pháp hoặc các hoạt động của WTO để điều chỉnh các bất đồng, các
xung đột giữa các thành viên WTO liên quan đến việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ theo
các hiệp định và thỏa thuận của WTO nhằm khắc phục và loại trừ các tranh chấp đã phát
sinh, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các thành viên.
1.1.2. Quá trình hình thành và phát triển chế định giải quyết tranh chấp thương mại
của WTO
Hệ thống giải quyết tranh chấp của WTO là sự đổi mới và kế thừa các quy định về giải
quyết tranh chấp của hệ thống thương mại đa phương trước đó trên cơ sở của GATT 1947.

Quá trình hình thành và phát triển chế định giải quyết tranh chấp thương mại của WTO có thể
chia làm hai giai đoạn là giai đoạn từ 1948-1995 và từ 1995 đến nay.
1.2. Hệ thống giải quyết tranh chấp của WTO
1.2.1. Mục tiêu của chế định giải quyết tranh chấp của WTO
Một hiệp định quốc tế sẽ không có nhiều giá trị nếu các bên ký kết không tuân thủ các nghĩa
vụ của hiệp định này. Do đó, để tăng giá trị thực tiễn của các cam kết mà các bên ký kết đã chấp
thuận trong hiệp định quốc tế, chế định giải quyết tranh chấp của WTO được xây dựng để
hướng tới các mục tiêu sau:
 Bảo toàn các quyền và nghĩa vụ của các thành viên WTO (Điều 3.2 DSU).

3


 Làm rõ quyền lợi và nghĩa vụ thông qua giải thích (Điều 17.6 DSU và IX: 2 Hiệp định
WTO)
 Giải pháp ưu tiên là thương lượng trực tiếp (Điều 11 DSU)
 Giải quyết tranh chấp nhanh chóng (Điều 4.3 và Điều 6.1 DSU)
 Cấm quyết định đơn phương (Điều 23 DSU)
 Tính chất bắt buộc (Điều 23.1 DSU)
1.2.2. Các nguyên tắc cơ bản của hoạt động giải quyết tranh chấp của WTO
Là một cơ quan giải quyết tranh chấp của WTO, DSB hoạt động trước hết phải theo các
nguyên tắc xuyên suốt và chỉ đạo mọi hoạt động của WTO. Đó là các nguyên tắc không phân
biệt đối xử, nguyên tắc thương mại ngày càng phải tự do thông qua đàm phán, nguyên tắc tạo
ra môi trường cạnh tranh bình đẳng và tính dễ dự đoán. Ngoài các nguyên tắc chung nói trên,
khi giải quyết tranh chấp, DSB còn dựa trên những nguyên tắc sau:
 Nguyên tắc bình đẳng giữa các nước thành viên tranh chấp;
 Nguyên tắc đồng thuận nghịch;
 Nguyên tắc đối xử ưu đãi đối với các nước đang phát triển và chậm phát triển;
1.2.3. Quyền tài phán của WTO
1.2.3.1. Phạm vi quyền tài phán chung

Điều 1.1 DSU quy định DSM của WTO có quyền tài phán đối với mọi tranh chấp giữa
các thành viên WTO phát sinh từ các hiệp định của WTO (ghi ở Phụ lục 1 DSU).
1.2.2.2. Quyền tài phán bắt buộc
Quyền tài phán của WTO là bắt buộc đối với các thành viên WTO. Các bên tranh chấp
phải tuân thủ DSU (Điều 23.1 DSU). Khác với các hệ thống giải quyết tranh chấp quốc tế
khác là cần phải có sự đồng ý của các bên, gia nhập WTO đã là sự thừa nhận quyền tài phán
bắt buộc của WTO rồi.
1.2.4. Các bên nguyên đơn, bị đơn và bên thứ ba trong DSM/WTO
Ai có thể trở thành một Bên (nguyên đơn, bị đơn) trong vụ tranh chấp và Bên thứ ba (có
quyền và lợi ích liên quan)? Câu trả lời là chỉ có thành viên WTO mới được quyền tiếp cận,
sử dụng DSM của WTO. Các nước quan sát viên, các tổ chức quốc tế khác, các chính quyền
địa phương và khu vực không được phép khởi kiện theo DSM trong WTO.
1.2.5. Các loại đơn kiện và những lập luận cần có trong quá trình giải quyết tranh
chấp tại WTO
 Đơn kiện vi phạm (Điều XXIII: 1 a GATT 1994)
Đây là dạng đơn kiện đầu tiên và cũng là loại đơn kiện phổ biến nhất. Loại đơn kiện này
yêu cầu phải có sự triệt tiêu hoặc làm suy giảm lợi ích do một thành viên khác không thực
hiện nghĩa vụ của mình theo GATT 1994.
 Đơn kiện không vi phạm (Điều XXIII: 1 b)
Đơn kiện không vi phạm có thể được sử dụng để phản đối bất kỳ biện pháp nào mà một
thành viên WTO áp dụng ngay cả khi nó không mâu thuẫn với GATT 1994 miễn là nó dẫn tới
triệt tiêu hoặc suy giảm lợi ích của nguyên đơn.
 Đơn kiện tình huống (Điều XXIII: 1c)
Kiện bất cứ tình huống nào miễn là tình huống đó làm triệt tiêu, suy giảm lợi ích (Điều
3.8 DSU). Tuy một số khiếu kiện tình huống đã được đưa ra trong GATT trước đây nhưng
chưa có khiếu kiện nào dẫn tới báo cáo của Ban hội thẩm. Trong WTO, Điều XXIII: 1c của
GATT 1994 vẫn chưa được bên khiếu kiện nào viện dẫn tới.

4



1.2.6. Các thiết chế tham gia hệ thống giải quyết tranh chấp của WTO và Quy tắc đạo
đức nghề nghiệp
a) Các thiết chế tham gia hệ thống giải quyết tranh chấp của WTO
 Cơ quan giải quyết tranh chấp DSB
Đại hội đồng là cơ quan đồng thời thực hiện trách nhiệm của DSB (Điều IV:3 trong Hiệp
định của WTO).
 Ban hội thẩm (Panels)
Ban Hội thẩm là cơ quan bán tư pháp với tư cách là thiết chế chịu trách nhiệm xét xử các
tranh chấp giữa các thành viên. Ban Hội thẩm không phải là cơ quan thường trực mà được thành
lập cho một tranh chấp cụ thể để xem xét các khía cạnh về tình tiết và pháp lý của vụ kiện và nộp
báo cáo lên DSB, trong đó nêu rõ kết luận của mình là liệu việc khiếu kiện của bên khiếu kiện có
cơ sở không và các biện pháp hoặc hành vi bị phản đối có phù hợp với WTO hay không.
 Cơ quan phúc thẩm (AB)
Không giống các Ban Hội thẩm, Cơ quan Phúc thẩm là cơ quan thường trực gồm bảy
thành viên do DSB chỉ định, được giao trách nhiệm xem xét lại các khía cạnh pháp lý trong
các báo cáo của Ban Hội thẩm.
 Các thiết chế khác
Ngoài những thiết chế kể trên, các thiết chế sau đây cũng có thể bị lôi cuốn vào quá trình
giải quyết tranh chấp của WTO, gồm: Tổng Giám đốc; Ban Thư ký của WTO; Trọng tài viên;
các chuyên gia (cung cấp thông tin, tư vấn cho Panels) và các nhóm công tác chuyên biệt
(nhóm giám sát hàng dệt may theo Hiệp định ATC, nhóm chuyên gia thường trực theo Hiệp định
SCM, nhóm chuyên gia rà soát theo Điều 13 DSU và Điều 11.2 Hiệp định SPS...).
b) Quy tắc đạo đức nghề nghiệp
Theo DSU, những người được yêu cầu tham gia quá trình giải quyết tranh chấp với tư cách
là hội thẩm viên, thành viên Cơ quan Phúc thẩm hoặc các trọng tài viên phải thực hiện nhiệm
vụ một cách vô tư và độc lập.
1.2.7. Các phương pháp giải quyết tranh chấp và trình tự, thủ tục tố tụng tại WTO
1.2.7.1. Các phương pháp giải quyết tranh chấp
DSU cho phép giải quyết tranh chấp thông qua: tham vấn (Điều 4); môi giới, trung gian,

hòa giải (Điều 5); Panels; Phúc thẩm (AB) (Điều 6-20) và Trọng tài (Điều 25).
a) Các phương pháp ngoài tài phán
 Tham vấn (Điều 4 DSU)
Khi có một tranh chấp phát sinh, nếu thành viên WTO có quyền lợi bị vi phạm lựa chọn
việc giải quyết bằng cơ chế của WTO thì thủ tục đầu tiên được tiến hành là tham vấn (Điều 4
của DSU). Các cuộc tham vấn song phương tạo cho các bên một cơ hội để thảo luận vấn đề và
tìm ra một giải pháp thỏa đáng cho các bên mà không phải tranh tụng (Điều 4.5 của DSU).
Khi các cuộc tham vấn bắt buộc đó không đem lại được một giải pháp thỏa đáng cho các bên
trong vòng 60 ngày thì bên khiếu kiện có thể đề nghị được xét xử thông qua Ban Hội thẩm
(Điều 4.7 của DSU).
Hai cơ sở pháp lý để dẫn tới đề nghị tham vấn cho một tranh chấp là Điều 22.1, Điều 23.1
của GATT 1994.
Đề nghị tham vấn phải được đệ trình bằng văn bản, trong đó, bên khiếu kiện phải xác định các
vấn đề gây tranh cãi và các cơ sở pháp lý (Điều 4.4 của DSU).

5


Bên bị khiếu kiện (là bên được đề nghị tham vấn) có nghĩa vụ chấp thuận xem xét một
cách thiện chí đề nghị tham vấn cũng như cố gắng tạo cơ hội để tham vấn (Điều 4.2 của
DSU). Các cuộc tham vấn thường diễn ra tại Geneva và bí mật (Điều 4.6 của DSU).
Trường hợp khẩn cấp bao gồm các vấn đề liên quan tới hàng hóa dễ hư hỏng, các thành viên
phải bước vào tham vấn trong khoảng thời gian không quá 10 ngày sau ngày nhận được đề nghị
tham vấn. Nếu các cuộc tham vấn không giải quyết được tranh chấp trong khoảng thời gian 20 ngày
kể từ ngày nhận được đề nghị thì bên khiếu kiện có thể đề nghị thành lập một Ban Hội thẩm (Điều 4.8
của DSU).
 Môi giới, hòa giải và trung gian (Điều 5 DSU)
Môi giới, hòa giải và trung gian là những thủ tục được tiến hành tự nguyện, bí mật và không
làm phương hại đến quyền của bất cứ bên nào trong những bước tố tụng tiếp theo. Thủ tục
này có thể tiến hành bất cứ lúc nào, kể cả khi Ban Hội thẩm tiến hành tố tụng nếu các bên

tranh chấp đồng ý.
Trung gian, hòa giải và môi giới có thể được thực hiện vào bất kỳ thời điểm nào (Điều 5.3 của
DSU), nhưng không trước yêu cầu tham vấn và được giữ bí mật.
Khi thủ tục môi giới, hòa giải hoặc trung gian được tiến hành trong thời hạn 60 ngày kể từ
ngày nhận được yêu cầu tham vấn, bên nguyên đơn phải cho phép một thời hạn là 60 ngày kể
từ ngày nhận được yêu cầu tham vấn trước khi yêu cầu thành lập Ban Hội thẩm. Tuy nhiên
bên nguyên đơn cũng có thể yêu cầu thành lập Ban Hội thẩm nếu các bên tranh chấp cùng cho
rằng môi giới, hòa giải hoặc trung gian không thể giải quyết được tranh chấp.
b) Phương pháp tài phán
 Tài phán tại Ban Hội thẩm (Panels)
Nếu các bên tham vấn hoặc hòa giải không thành thì việc thành lập Nhóm chuyên gia sẽ
được tiến hành. Thời hạn dự kiến để lập một nhóm chuyên gia là 45 ngày và họ có sáu tháng
để hoàn thành công việc của mình. Nhóm chuyên gia có nhiệm vụ giúp Cơ quan Giải quyết
tranh chấp đưa ra những quyết định hoặc khuyến nghị về vụ tranh chấp cụ thể đó. Để có thể
đưa ra quyết định, nhận xét của mình về vụ tranh chấp, Nhóm chuyên gia phải dựa trên các
hiệp định được viện dẫn, các tài liệu, thông tin do các bên cung cấp và từ các nguồn thông tin
khác nhau.
Bản báo cáo cuối cùng của nhóm chuyên gia về nguyên tắc phải được thông báo tới các bên
tranh chấp trong thời gian sáu tháng. Trong trường hợp khẩn cấp, nhất là khi liên quan đến các vật
phẩm dễ hỏng, thời hạn này giảm xuống còn ba tháng.
 Tài phán tại Phúc thẩm (Appeals)
Nguyên đơn, bị đơn có thể yêu cầu phúc thẩm quyết định của Panels. Yêu cầu phúc thẩm
phải dựa trên những khía cạnh pháp luật quốc tế như cách giải thích pháp luật; áp dụng án lệ
thương mại quốc tế, quyết định có hiệu lực của WTO và không nhằm xem xét lại các tình tiết,
nội dung vấn đề đã được xác định rõ ở giai đoạn Nhóm chuyên gia.
Mỗi yêu cầu phúc thẩm do ba trong số bảy thành viên của Cơ quan Phúc thẩm thường
trực giải quyết. Cơ quan này được Cơ quan Giải quyết tranh chấp (DSB) lập ra. Các thành
viên của Cơ quan Phúc thẩm là những chuyên gia được thừa nhận giỏi về pháp luật và thương
mại quốc tế và không có bất kỳ mối liên hệ nào với các thành viên WTO.
Kết quả phúc thẩm có thể tái khẳng định, thay đổi hoặc bác bỏ các kết luận pháp lý của

Ban Hội thẩm. Về nguyên tắc, thời hạn giải quyết phúc thẩm thông thường không vượt quá 60
ngày và trong mọi trường hợp không được vượt quá 90 ngày.

6


Cơ quan giải quyết tranh chấp (DSB) xem xét, quyết định chấp nhận hoặc bác bỏ các
quyết định của Cơ quan Phúc thẩm trong thời hạn 30 ngày; việc bác bỏ chỉ có thể thực hiện
nếu tất cả thành viên DSB đồng thuận.
 Trọng tài trong giải quyết tranh chấp tại WTO (Điều 25 DSU)
Thay thế cho việc phân xử của Ban Hội thẩm và Cơ quan Phúc thẩm, các bên tranh chấp
có thể sử dụng phân xử trọng tài (Điều 25.1 DSU). Các bên phải thống nhất về trọng tài cũng như
các thủ tục cần tiến hành. Tuy nhiên, trước khi bắt đầu phân xử trọng tài, các bên phải thông báo
thỏa thuận sử dụng trọng tài cho tất cả thành viên WTO. Các thành viên khác chỉ có thể tham gia
vào quá trình xem xét của trọng tài nếu được sự đồng ý của các bên tranh chấp.
1.2.7.2. Trình tự, thủ tục tố tụng tại WTO
a) Các bước
Có bốn bước trong quá trình giải quyết tranh chấp của WTO, lần lượt là (i) Tham vấn,
Môi giới, Trung gian, Hòa giải; (ii) Quá trình xét xử của Ban Hội thẩm hoặc Cơ quan Phúc
thẩm; (iii) Thông qua quyết định của DSB; và (iv) Thực thi phán quyết trong đó có khả năng
áp dụng các biện pháp trả đũa trong trường hợp bên thua kiện không thực thi phán quyết.
b) Khung thời gian
Khung thời gian cho một quy trình giải quyết tranh chấp của WTO có thể tóm tắt như sau:
Việc xem xét vụ việc tại Ban Hội thẩm là không quá 6 tháng (Điều 12.8 DSU). Trong trường hợp
đặc biệt liên quan hàng hóa dễ hỏng thì khoảng 3 tháng (Điều 12.9, 4.9 DSU). Trường hợp phức
tạp, không thể đưa ra kết luận thời đã định thì panle báo cáo bằng văn bản cho DSB để gia hạn hợp lý
nhưng không quá 3 tháng nữa (tổng thời gian không vượt quá 9 tháng). Sau thời hạn đó trong vòng
90 ngày Ban Hội thẩm phải gửi Báo cáo về vụ tranh chấp cho các bên và DSB.
Các bên nguyên đơn, bị đơn có quyền trình Cơ quan phúc thẩm xét phúc thẩm trong vòng 60
ngày kể từ ngày chính thức nhận quyết định của Ban Hội thẩm. Nếu Cơ quan phúc thẩm

không xử phúc thẩm trong vòng 60 ngày thì phải thông báo cho DSB và có thời gian tối đa
không quá 90 ngày.
Như vậy, tổng thời gian đối với việc thông qua quyết định về một vụ kiện thường 9 tháng
(không phúc thẩm), 12 tháng (có phúc thẩm) (Điều 20 DSU).
Thời gian hợp lý thực hiện quyết định do các bên nhất trí đưa ra và DSB chấp thuận
nhưng không vượt quá 15 tháng kể từ ngày thông qua báo cáo của Ban Hội thẩm và Cơ quan
Phúc thẩm (Điều 21.3 DSU). Nếu các bên không nhất trí đưa ra thì do Trọng tài quyết định.
c) Thực hiện quyết định
Bên thua kiện phải sửa chữa sai phạm trong một thời gian hợp lý (Điều 21.3 DSU). Thời
gian này thường là khoảng 15 tháng, do các bên nhất trí đưa ra và DSB chấp thuận. Nếu các bên
không nhất trí được thì đưa ra Trọng tài quyết định.
Sau 30 ngày khi "thời hạn hợp lý" đã hết mà không thực hiện quyết định, không thỏa
thuận được về đền bù thiệt hại thì bên nguyên đơn có quyền xin DSB cho phép trả đũa. Có thể
trả đũa trực tiếp hoặc trả đũa chéo (trả đũa khác lĩnh vực khi việc trả đũa cùng lĩnh vực không
thực tế hoặc không hiệu quả).
d) Tính bảo mật của quy trình tố tụng
Quá trình tham vấn, trọng tài, giải quyết tại Ban Hội thẩm, Cơ quan Phúc thẩm đều bí mật.
Các tài liệu đệ trình của các bên và bên thứ ba đều bảo mật (các bên có thể công khai bản đệ trình
của mình). Đối với thông tin mật của mỗi bên thì mỗi bên có thể làm bản tổng thuật "không mật"
để trình. Các báo cáo giữa kỳ và cuối cùng chỉ gửi các bên theo cơ chế mật. Bản kết thúc sẽ công
khai sau đó một thời gian vài tuần. Nhiều ý kiến cho rằng đây là một điểm hạn chế trong cơ chế

7


giải quyết tranh chấp của WTO. Tuy nhiên, theo chúng tôi việc giữ bí mật quá trình giải quyết
tranh chấp là cần thiết để các quyết định được đưa ra trong quá trình giải quyết tranh chấp là độc
lập, không chịu tác động của bất kỳ yếu tố bên ngoài nào. Hơn nữa, bản báo cáo cuối cùng cũng
sẽ được công khai rộng rãi, trong đó thể hiện rất rõ quá trình giải quyết tranh chấp cũng như lập
luận của các bên. Do đó, công khai chỉ là vấn đề về thời gian, còn việc giải quyết tranh chấp đúng

đắn, công bằng cần được coi là ưu tiên số một.
1.2.8. Các thành viên là nước đang phát triển trong DSM/WTO
DSM/WTO dành cho các thành viên là các nước đang phát triển một số ưu đãi là chế độ đối
xử đặc biệt và khác biệt. Thực chất của vấn đề này là DSM có quy định những điều kiện bổ sung
cho các nước đang phát triển, ví dụ như thủ tục nhanh chóng hơn, khung thời gian dài hơn và các
trợ giúp pháp lý cần thiết ở các khâu: tham vấn; giai đoạn xét xử của ban hội thẩm; thực thi; thủ
tục rút gọn theo yêu cầu của một nước thành viên đang phát triển; hỗ trợ pháp lý.
1.2.9. Vòng đàm phán Đô ha và tiến trình phát triển hệ thống giải quyết tranh chấp
của WTO
Thực tiễn áp dụng DSU cho thấy DSM đã bộc lộ những điểm tồn tại cần có giải pháp
khắc phục. Vòng đàm phán Đôha được khởi động từ năm 2001, cho đến nay, các kết quả đàm
phán của WTO về cơ chế giải quyết tranh chấp vẫn chưa thấy có tín hiệu kết thúc, nội dung
đàm phán đang tập trung vào các vấn đề sau: Các quyền của bên thứ ba; Thẩm quyền của Cơ
quan phúc thẩm được hoàn trả hồ sơ để Ban hội thẩm giải quyết lại; Trật tự ưu tiên áp dụng
giữa Điều 21.5 (thời điểm Ban hội thẩm giải quyết việc bên thua kiện bị cho là không thực
hiện đúng phán quyết) và Điều 22.2 (việc cho trả đũa); Thủ tục nước thắng kiện phải dỡ bỏ
biện pháp trả đũa khi nước thua kiện đã chấp hành phán quyết; minh bạch hóa cho công
chúng và cho các nước thành viên không phải là bên tham gia vụ tranh chấp…
Chương 2
THỰC TIỄN GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP CỦA WTO
2.1. Tổng quan về thực tiễn giải quyết tranh chấp của WTO
Qua hơn 12 năm hoạt động có thể rút ra một số đánh giá và nhận xét về DSM/WTO từ
nhiều góc độ khác nhau. Về cơ bản, DSM/WTO đã phục vụ các thành viên tốt kể từ khi được
áp dụng 01/1995.
Các số liệu thống kê đến ngày 14/9/2009 cho thấy số lượng các vụ tranh chấp đến
14/9/2009 đã có 399 vụ tranh chấp được đưa ra giải quyết theo cơ chế giải quyết tranh chấp
của WTO. Tỷ lệ các vụ kiện được hòa giải rất cao (hơn 50%) mà không cần đi hết tố tụng.
Tính trung bình thì hàng năm có khoảng 24 vụ tranh chấp được giải quyết theo cơ chế của
WTO, gần gấp ba lần số lượng những vụ kiện hàng năm được thụ lý dưới thời GATT. Con số
này cho thấy tính hiệu quả của cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO.

2.1.1. Thực tiễn giải quyết tranh chấp theo lĩnh vực
WTO điều chỉnh ba lĩnh vực là thương mại hàng hóa, thương mại dịch vụ và khía cạnh
thương mại trong sở hữu trí tuệ. Vì vậy, các vấn đề tranh chấp được WTO cũng tập trung vào ba
lĩnh vực này. Trong đó, cho đến nay các tranh chấp chủ yếu tập trung vào lĩnh vực thương mại
hàng hóa (93,7%), rồi đến sở hữu trí tuệ 6,05%, còn lĩnh vực thương mại dịch vụ thì rất ít
(0,25%).
2.1.1.1. Tranh chấp trong lĩnh vực thương mại hàng hóa
Tính đến ngày 9/2009, các tranh chấp trong lĩnh vực này chiếm đến 93,7% tổng số vụ
tranh chấp được giải quyết theo WTO.

8


Trong đó, tranh chấp thương mại chủ yếu là vấn đề bảo hộ mậu dịch của các nước. Loại
tranh chấp này liên quan tới việc nước nhập khẩu áp dụng các biện pháp bảo hộ (hạn ngạch,
tăng thuế nhằm hạn chế thiệt hại cho ngành sản xuất trong nước). Ví dụ: DS311 do Canada
khởi kiện về việc Mỹ tiến hành rà soát thuế đối kháng áp đặt lên gỗ xẻ mềm nhập khẩu từ
Canada.
Tranh chấp về các biện pháp chống bán phá giá xuất phát chủ yếu từ các nước xuất khẩu
là các nước đang phát triển, bên bị kiện nhiều nhất về vấn đề này là các nước phát triển, chủ
yếu là Mỹ và EC. Loại tranh chấp này liên quan đến việc nước nhập khẩu (chủ yếu là nước
phát triển) áp dụng thuế chống bán phá giá đối với hàng nhập khẩu (chủ yếu là từ các nước
phát triển). Ví dụ về vụ Ecuador kiện Mỹ về thuế chống bán phá giá đối với tôm nhập khẩu từ
Ecuador vào Mỹ (DS 335).
2.1.1.2. Tranh chấp trong lĩnh vực thương mại dịch vụ
Số vụ tranh chấp trong lĩnh vực này được WTO giải quyết tính đến nay (tháng 9/2009) là
rất ít, chỉ có 01 vụ, chiếm 0,25%. Đó là tranh chấp giữa một bên là Mỹ còn bên kia là Antigua
và Barbuda về cung cấp dịch vụ cờ bạc và cá cược qua biên giới (US Gambling-DS285). Ví
dụ DS 258: Antigua và Barbuda kiện Mỹ về các biện pháp ảnh hưởng đến nguồn cung cấp
qua biên giới của cờ bạc và các dịch vụ cá cược.

2.1.1.3. Tranh chấp trong lĩnh vực thương mại liên quan đến quyền sở hữu trí tuệ
Một số tranh chấp thương mại liên quan đến quyền sở hữu trí tuệ cũng đã diễn ra, 24/399
vụ, chiếm 6,05%. Các tranh chấp liên quan đến vấn đề quyền sở hữu trí tuệ chủ yếu xuất phát từ
các nước phát triển (trong 11 vụ Patents thì 10 vụ có nguyên đơn là Mỹ và EC, còn 01 vụ
nguyên đơn là Brazil).
2.1.2. Thực tiễn các nước đang phát triển tham gia vào DSM/WTO
Các nước đang phát triển ngày càng tích cực tham gia vào cơ chế này, trong đó chủ yếu
tập trung vào một số nước như Brazil, Ấn Độ, Mêxico, Argentina, Chi Lê, Trung Quốc, Thái
Lan…
Sự tham gia của các nước đang phát triển với tư cách là bên đi kiện vẫn ít hơn các nước
phát triển (nhóm G7 gồm Mỹ, Anh, Nhật, Pháp, Canada, Đức, Ý). Tuy nhiên ngày càng có
nhiều nước thành viên đang phát triển tham gia vào quá trình giải quyết tranh chấp với tư cách
là bên đi kiện. Những năm gần đây, các nước đang phát triển tham gia vào DSM/WTO với tư
cách là bên đi kiện luôn ở mức cao (trên 50%).
Các nước có tỷ trọng thương mại lớn đã tham gia rất tích cực vào cơ chế giải quyết tranh
chấp này như Ấn Độ, Mexico, Brazil... Các nước đang phát triển tham gia với tư cách là
nguyên đơn là 157 vụ, chiếm 39% tổng số vụ tranh chấp, với tư cách là bị đơn là 160 vụ,
chiếm 40%.
Những vụ việc được các nước đang phát triển khởi kiện thường liên quan tới khiếu nại về
vi phạm nguyên tắc không phân biệt đối xử trong thương mại - nguyên tắc tối huệ quốc
(MFN) hoặc đãi ngộ quốc gia (NT) (có hơn nửa trong số các vụ tranh chấp thương mại được
thụ lý tại DSB liên quan tới một hoặc cả hai quy chế nêu trên) và chủ yếu rơi vào các lĩnh vực
như nông nghiệp, thủy hải sản, giày dép, dệt may, thép, ô tô, dược phẩm...
Mỹ latinh và Châu Á là khu vực các nước đang phát triển tham gia nhiều nhất đến quá
trình giải quyết tranh chấp.
Đối với những nước đang phát triển như Việt Nam, việc chủ động tham gia vào DSM/WTO
còn nhiều hạn chế, trong khi nhiều trường hợp hàng hóa từ các nước đang phát triển xuất khẩu vào
thị trường của các nước phát triển bị các nước này kết luận bán phá giá bằng một cơ chế giải quyết

9



thiếu công bằng. Với tư cách là thành viên WTO, các nước đang phát triển như Việt Nam cần chủ
động hơn nữa trong việc sử dụng DSM/WTO để bảo vệ quyền lợi chính đáng của mình.
2.1.3. Kháng cáo và thực hiện phán quyết của DSB
Tỷ lệ báo cáo của Ban hội thẩm bị kháng cáo lên Cơ quan phúc thẩm có sự tăng giảm
khác nhau. Nếu như năm 1995 là năm đầu tiên Cơ quan phúc thẩm hoạt động thì không có
một kháng cáo nào. Trong hai năm 1996 và 1997 có 100% báo cáo cấp sơ thẩm bị kháng cáo.
Sau đó tỷ lệ kháng cáo giảm rõ rệt (xu thế này đã diễn ra trong 5 năm và năm thấp nhất là năm
2002 chỉ đạt tỷ lệ 50%), nhưng tiếp đó lại tăng cho tới năm 2006 là 86% - tức là đạt tỷ lệ hầu
hết các báo cáo của Ban hội thẩm đều bị kháng cáo.
Hầu hết các phán quyết đã được các nước thua kiện tự nguyện thi hành. Tuy nhiên, có
nhiều tranh chấp sau khi giải quyết xong, bên bị đơn đã không thực hiện đúng với các khuyến
nghị của DSB, có khoảng 10 vụ trong thời gian 1995 đến 2004 là cần đến các biện pháp trả
đũa để gây sức ép cho nước thua kiện phải thi hành phán quyết. Các nước phát triển chiếm đa
phần trong số những nước không tuân thủ các phán quyết của DSB.
2.2. Đánh giá thực tiễn giải quyết tranh chấp của WTO
2.2.1. Ưu điểm
Mức độ thành công của hệ thống giải quyết tranh chấp dựa trên các tiêu chí đánh giá khác
nhau. Nếu so sánh hệ thống giải quyết tranh chấp của WTO với hệ thống giải quyết tranh
chấp của GATT 1947 trước đây, thì hệ thống hiện hành hiệu quả hơn nhiều ở các điểm: tính
hệ thống cao; nguyên tắc "đồng thuận nghịch" trong việc thành lập Ban hội thẩm, thông qua
Báo cáo của Ban hội thẩm hoặc Cơ quan phúc thẩm; có quy định về cơ quan cấp cao giải
quyết tranh chấp. Cơ quan phúc thẩm thường trực; thời gian giải quyết tranh chấp và thi
hành phán quyết được quy định rõ ràng; mở rộng lĩnh vực trả đũa; quy trình tố tụng hầu như
tự động.
2.2.2. Hạn chế
Từ thực tiễn giải quyết tranh chấp theo cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO, có thể thấy
việc áp dụng cơ chế này giải quyết tranh chấp trong trường hợp một bên tranh chấp là nước đang
phát triển đã bộc lộ những hạn chế: Phần lớn các điều khoản liên quan đến các nước đang phát triển

của DSU mang tính hình thức hơn tính thực tiễn; thời gian giải quyết tranh chấp và thi hành phán
quyết còn tương đối dài; Phạm vi hoạt động của Cơ quan phúc thẩm còn hẹp và chưa rõ ràng; chưa
xác lập được cơ chế cưỡng chế thi hành phán quyết của DSB một cách hiệu quả. Vấn đề hậu trả đũa
cũng chưa được quy định. Thủ tục nào để nước thắng kiện phải dỡ bỏ biện pháp trả đũa khi nước
thua kiện đã chấp hành phán quyết?
2.3. Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam từ thực tiễn giải quyết tranh chấp của WTO
Việt Nam gia nhập WTO khi chế định giải quyết tranh chấp của tổ chức này đã được các
thành viên sử dụng rất nhiều nên chúng ta có thể rút ra những bài học quý giá từ thực tiễn giải
quyết tranh chấp đầy sinh động đó.
Một kinh nghiệm quan trọng từ việc khởi kiện thành công của nhiều nước đang phát triển
như Ecuador, Thái Lan, Trung Quốc thắng các nước phát triển như Hoa Kỳ, EU… cho thấy
việc thành công hay không không phụ thuộc vào nước lớn hay nhỏ, giàu hay nghèo mà quan
trọng là sự chuẩn bị chu đáo về bằng chứng, lập luận, luật sư và tài chính khi theo kiện.
Trước khi khiếu kiện chúng ta cần chuẩn bị chu đáo, đầy đủ chứng cứ, lập luận theo các
Hiệp định có liên quan của WTO để trình ra cơ quan giải quyết tranh chấp. Cần có cơ sở và
chứng cứ chứng minh chính sách hay biện pháp thương mại nào vi phạm điều nào của hiệp
định trong WTO và ảnh hưởng thế nào đến quyền lợi của nước mình. Nếu không nghiên cứu

10


kỹ mà vội vàng kết luận rồi tiến hành tham vấn và khiếu nại ra DSB thì khó thành công, nhiều
khi còn phản tác dụng, không những làm mất uy tín của nước mình mà còn tốn kém về tài
chính.
Nếu nhận thấy chính sách hay biện pháp thương mại của Việt Nam có vi phạm các quy
tắc của WTO thì phải thật mềm mỏng và khôn khéo tham vấn với nước khiếu nại để tránh
những tổn thất lớn có thể xảy ra.
Để khâu chuẩn bị được chu đáo, các công việc cần tiến hành kỹ lưỡng, suy xét cẩn thận, phân
tích thấu đáo bởi các chuyên gia giỏi trong và ngoài nước. Quá trình này có thể kéo dài nhưng cần
làm có hiệu quả, chất lượng. Mà việc chuẩn bị có chất lượng hay không phụ thuộc vào yếu tố con

người là chính, cộng với sự đầu tư thích đáng về tài chính. Do đó, sự đầu tư, đào tạo và chế độ đãi
ngộ nguồn nhân lực cho công tác này là việc làm hết sức cần thiết và cấp bách.
Chương 3
DSM CỦA WTO VÀ NHỮNG CƠ HỘI, THÁCH THỨC
ĐỐI VỚI VIỆT NAM TRONG QUÁ TRÌNH THỰC THI
QUY CHẾ THÀNH VIÊN WTO
3.1. Cơ hội và thách thức đối với Việt Nam khi gia nhập WTO và tham gia
DSM/WTO
Nghị quyết số 08/NQ-TW ngày 05/02/2007 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng về một
số chủ trương, chính sách lớn để nền kinh tế phát triển nhanh và bến vững khi Việt Nam là
thành viên của Tổ chức Thương mại Thế giới đã chỉ rõ những cơ hội và thách thức khi Việt
Nam gia nhập WTO.
3.1.1. Cơ hội
Một là, chúng ta có điều kiện mở rộng thị trường xuất khẩu vào các nước thành viên của Tổ
chức Thương mại Thế giới với tư cách là một đối tác bình đẳng, không bị phân biệt đối xử và theo
mức thuế các thành viên WTO cam kết.
Hai là, thực hiện các cam kết khi gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới, thể chế kinh tế thị
trường ở nước ta ngày càng hoàn thiện, môi trường đầu tư, kinh doanh trong nước ngày càng
thuận lợi, thúc đẩy mạnh mẽ đầu tư của các thành phần kinh tế, các nhà đầu tư trong và ngoài
nước, đầu tư trực tiếp và đầu tư gián tiếp, trong đó có các công ty xuyên quốc gia có tiềm lực
tài chính lớn, công nghệ cao, trình độ quản lý tiên tiến, đóng góp ngày càng quan trọng vào
quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa của nước ta.
Ba là, gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới sẽ thúc đẩy nền kinh tế nước ta phát triển,
chính sách kinh tế, cơ chế quản lý ngày càng minh bạch hơn, môi trường kinh doanh thuận lợi
hơn, khơi dậy mạnh mẽ những tiềm năng to lớn của đất nước và sức sáng tạo của các tầng lớp
nhân dân; việc phân bổ và sử dụng các nguồn lực sẽ hiệu quả hơn; tăng trưởng kinh tế, do đó, sẽ
nhanh và bền vững hơn.
Bốn là, là thành viên Tổ chức Thương mại Thế giới, nước ta có địa vị bình đẳng với các thành
viên khác khi tham gia vào việc hoạch định chính sách thương mại toàn cầu, thiết lập một trật tự
kinh tế mới công bằng hơn; có điều kiện thuận lợi để đấu tranh bảo vệ quyền lợi doanh nghiệp

Việt Nam trong các cuộc tranh chấp thương mại với các thành viên khác, hạn chế những thiệt
hại.
Năm là, chúng ta có những thuận lợi mới để thực hiện đường lối đối ngoại của Ðảng:
"Việt Nam là bạn, đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế", phát huy vai trò của

11


nước ta trong các tổ chức khu vực và quốc tế, xây dựng quan hệ đối tác bình đẳng với các
nước trên thế giới.
Đối với hệ thống giải quyết tranh chấp của WTO, Việt Nam có những cơ hội nhất định
như:
Khả năng tự bảo vệ của doanh nghiệp được nâng cao nhờ những cải cách tư pháp, pháp
luật, cải cách thể chế, cải cách hành chính trong nước. Đồng thời, chúng ta có nhiều điều kiện
cần thiết để sử dụng các cơ chế giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế, kể cả cơ chế giải
quyết tranh chấp thương mại quốc tế của WTO trong bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
mình trong kinh doanh ở ngoài lãnh thổ Việt Nam.
WTO dành cho các thành viên là các nước đang phát triển một số ưu đãi là chế độ đối xử đặc
biệt và khác biệt, ví dụ như thủ tục nhanh chóng hơn, khung thời gian dài hơn và các trợ giúp
pháp lý cần thiết (xem mục 1.2.8). Vì vậy, Việt Nam có những thuận lợi nhất định từ vấn đề này
khi tham gia DSM/WTO.
Một thuận lợi nữa đối với Việt Nam là việc Việt Nam gia nhập Trung tâm tư vấn luật
WTO (ACWL). Trung tâm ACWL sẽ giúp Việt Nam đào tạo cán bộ pháp lý các bộ, ngành để
dần dần đảm nhận công tác tham mưu pháp lý về WTO cho Chính phủ. Việt Nam sẽ nhận
được các tư vấn pháp lý miễn phí liên quan tới các quy định của WTO.
3.1.2. Thách thức
Bên cạnh các cơ hội, Nghị quyết số 08/NQ-TW ngày 05/02/2007 của Ban Chấp hành
Trung ương Đảng cũng chỉ ra không ít khó khăn, thách thức khi Việt Nam trở thành Thành
viên WTO.
Với hệ thống giải quyết tranh chấp thương mại của WTO, Việt Nam với tư cách là một

nước đang phát triển, đang trong giai đoạn chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa cũng vấp phải một số khó khăn khi tham gia vào cơ chế này như thiếu đội
ngũ chuyên gia pháp lý có chuyên môn, thông thạo ngoại ngữ và kinh nghiệm trong việc tham
gia xử lý các tranh chấp thương mại quốc tế; chưa có kinh nghiệm tham gia vào DSM/WTO
với tư cách là nguyên đơn, bị đơn; các biện pháp trả đũa hợp pháp không đem lại hiệu quả với
các nước đang phát triển; tiềm lực kinh tế của các nước đang phát triển còn yếu nên khả năng
tài chính để đi thuê các luật sư giỏi và chuyên gia nước ngoài hạn chế.
3.2. Phƣơng hƣớng và giải pháp hoàn thiện chính sách và pháp luật Việt Nam để
nâng cao hiệu quả sử dụng DSM/WTO
3.2.1. Phương hướng hoàn thiện chính sách và pháp luật Việt Nam để nâng cao hiệu
quả sử dụng DSM/WTO
Văn kiện các Đại hội Đảng như Nghị quyết số 07-NQ/TW ngày 27.11.2001 của Bộ Chính trị
về Hội nhập kinh tế quốc tế và Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24-5-2005 của Bộ Chính trị về
Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến
năm 2020 đã nhấn mạnh nhiệm vụ chủ động và khẩn trương hơn trong hội nhập kinh tế quốc tế,
thực hiện đầy đủ các cam kết quốc tế đa phương, song phương mà Việt Nam đã ký kết và chuẩn
bị tốt các điều kiện để thực thi có hiệu quả các cam kết gia nhập WTO, theo đó, việc xây dựng
và hoàn thiện chính sách và pháp luật nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng hệ thống giải quyết
tranh chấp theo hướng:
Hoàn thiện hệ thống pháp luật và thể chế kinh tế phù hợp với các nguyên tắc, quy định
của WTO, thông lệ quốc tế và các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên. Khẩn trương
rà soát hệ thống pháp luật hiện hành, loại bỏ những quy định chồng chéo, không phù hợp với
cam kết; ban hành các văn bản quy phạm pháp luật rõ ràng, cụ thể, bảo đảm môi trường kinh

12


doanh thuận lợi, thông thoáng cho mọi chủ thể tham gia thị trường. Xây dựng cơ chế hỗ trợ
đầu tư và phát triển sản phẩm phù hợp với quy định của WTO thay cho các biện pháp trợ cấp
xuất khẩu. Hoàn thiện các tiêu chuẩn kỹ thuật và tiêu chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm phù

hợp với các quy định quốc tế để bảo vệ thị trường nội địa và người tiêu dùng...
Phát triển và sử dụng có hiệu quả nguồn nhân lực, chú trọng đào tạo ngoại ngữ, tin học,
luật pháp quốc tế, kiến thức và kỹ năng hành chính.
3.2.2. Một số giải pháp hoàn thiện chính sách và pháp luật Việt Nam nhằm nâng cao
hiệu quả sử dụng DSM/WTO
3.2.2.1. Giải pháp về xây dựng pháp luật
Theo quy định tại Điều XVI khoản 4 Hiệp định Marrakesh về thành lập WTO, "Mỗi
thành viên phải đảm bảo sự thống nhất của các luật, các quy định dưới luật và những quy tắc
hành chính với các nghĩa vụ của mình được quy định trong các Hiệp định của WTO" nên việc
rà soát, đối chiếu các văn bản quy phạm pháp luật Việt Nam là yêu cầu không thể thiếu.
Việt Nam cần xác định các lĩnh vực trọng điểm cần ưu tiên đầu tư để xây dựng và hoàn thiện
pháp luật. Đổi mới cơ bản quy trình, thủ tục xây dựng pháp luật từ sáng kiến pháp luật đến thông
qua luật nhằm đẩy nhanh quá trình soạn thảo, ban hành luật. Nâng cao chất lượng văn bản quy
phạm pháp luật. Xác định rõ quy trình, cơ chế "nội luật hóa" các điều ước quốc tế mà Việt Nam là
thành viên. Nâng cao trình độ và năng lực làm luật của Quốc hội.
3.2.2.2. Giải pháp về tổ chức bộ máy
Ðẩy mạnh cải cách hành chính, nâng cao hiệu quả, hiệu lực của bộ máy nhà nước song song
với việc kiện toàn Ủy ban Quốc gia về hợp tác kinh tế quốc tế và bộ phận công tác WTO trong
phái đoàn thường trực của Việt Nam tại WTO.
Tiến hành đánh giá lại vai trò và hiệu quả của Ủy ban quốc gia về Hợp tác kinh tế quốc tế
sau khi gia nhập WTO, xây dựng đề án về cơ chế và tổ chức phối hợp liên ngành trong đàm
phán quốc tế về hợp tác song phương, đa phương bảo đảm hiệu quả, phù hợp với tình hình và
nhiệm vụ mới. Tổ chức cơ quan đại diện của Việt Nam tại WTO cần được đáp ứng đủ về số
lượng, nâng cao chất lượng để phối hợp với các cơ quan trong nước, hoạt động hiệu quả và
tham gia đàm phán đa phương và song phương với các đối tác trong WTO.
Kiên quyết loại bỏ nhanh các thủ tục hành chính không còn phù hợp; đẩy mạnh phân cấp
gắn với tăng cường trách nhiệm và kiểm tra, giám sát; thực hiện công khai, minh bạch mọi
chính sách, cơ chế quản lý, quy trình tác nghiệp, chống phiền hà, nhũng nhiễu, tạo thuận lợi
cho doanh nghiệp và nhân dân giám sát việc thực hiện.
3.2.2.3. Giải pháp tăng cường nguồn nhân lực

Để chủ động tham gia vào cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO Việt Nam cần chuẩn bị
một đội ngũ luật sư, cán bộ giỏi, am hiểu về từng lĩnh vực của WTO, nghiên cứu về cơ chế giải
quyết tranh chấp của WTO, nghiên cứu các vụ tranh chấp cụ thể, lập luận của Ban hội thẩm và
các phán quyết đã được DSB thông qua, trên cơ sở đó tư vấn cho các nhà hoạch định chính
sách, các nhà làm luật của Việt Nam và làm kinh nghiệm để tham gia các tranh chấp tại WTO.
Đội ngũ cán bộ này sẽ là nguồn nhân lực tham gia quá trình giải quyết các tranh chấp thương
mại quốc tế nói chung và DSM/WTO nói riêng.
Trước mắt Việt Nam cần đào tạo cấp tốc về luật sư, chuyên gia pháp luật tại cơ sở nước
ngoài. Về lâu dài, cần tiếp tục tập trung xây dựng các cơ sở đào tạo cử nhân luật và thực hành
nghề luật như Trường Đại học Luật Hà Nội, Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội, Học viện
Tư pháp thành trung tâm đào tạo pháp luật lớn, gắn kết giữa đào tạo và thực tiễn.
3.2.2.4. Tuyên truyền và phổ biến kiến thức về WTO

13


Sử dụng đa dạng các kênh thông tin và các phương tiện truyền thông, các lớp tập huấn để
tuyên truyền, phổ biến cho cán bộ, công chức, viên chức và toàn dân nhận thức sâu sắc quan điểm
của Đảng về hội nhập kinh tế quốc tế, gia nhập WTO, những cơ hội và thách thức đặt ra khi Việt
Nam là thành viên của WTO, phát huy ý chí tự lực tự cường huy động nội lực, tận dụng cơ hội,
vượt qua thách thức.
3.2.2.5. Nghiên cứu, vận dụng thành công những ưu đãi và bài học kinh nghiệm của WTO
dành cho các nước đang phát triển
Nghiên cứu kỹ những ưu đãi này sẽ giúp cho Việt Nam có những thuận lợi nhất định,
giảm chi phí (vì được WTO trợ giúp về mặt pháp lý) và tự tin hơn khi tham gia vào quá trình
giải quyết tranh chấp tại WTO.
Việt Nam cần lường trước những tình huống không thuận lợi, các bất đồng, xung đột và tranh
chấp có thể xảy ra. Đồng thời rút kinh nghiệm từ các tranh chấp thực tế đã xảy ra rồi (các tranh
chấp thương mại đối với cá ba sa, giày dép, bật lửa…) và bài học kinh nghiệm của WTO dành cho
các nước đang phát triển để có thể có những bước đi và ứng xử phù hợp với từng đối tác thương mại

nước ngoài.
3.2.2.6. Tích cực theo kiện và chuẩn bị tốt tài liệu tố tụng
Trong bất kỳ vụ kiện nào theo cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO, một mặt chúng ta cần
xác định giải quyết tranh chấp bằng thương lượng, hòa giải bởi nếu hòa giải thành công sẽ giảm
bớt thiệt hại cho cả hai bên. Đây là điểm mấu chốt để giải quyết xung đột trong quan hệ thương
mại quốc tế. Mặt khác chúng ta cần tích cực chuẩn bị đầy đủ tài liệu cần thiết, làm việc và hợp tác
với luật sư trong nước và nước ngoài từ sớm để chuẩn bị tốt khi có nguy cơ bị kiện và trong
quá trình theo kiện là điều kiện tiên quyết để đạt được kết quả tốt.
3.2.2.7. Chuẩn bị tốt về tài chính khi theo kiện
Quá trình giải quyết tranh chấp của WTO gắn liền với việc xem xét các vấn đề mang tính
kỹ thuật cao, chứa đựng nhiều vấn đề pháp lý phức tạp và thường kéo dài. Việc chuẩn bị một
vụ kiện tại WTO là một khó khăn lớn cho các nước đang phát triển như Việt Nam nên cần sự
đầu tư "dài hơi" về kinh phí. Do đó, chúng ta cần phải có một nguồn kinh phí riêng (nên
chăng là một mục chi trong ngân sách Nhà nước) phục vụ cho việc tham gia và các công việc
có liên quan đến việc tham gia hệ thống giải quyết tranh chấp của WTO.
KẾT LUẬN
Hội nhập kinh tế quốc tế là một chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước ta. Trong các tổ
chức quốc tế mà Việt Nam tham gia, WTO là một sân chơi khá phức tạp với những luật lệ rất
nghiêm khắc. Trở thành thành viên WTO là một sự kiện vô cùng quan trọng trong công cuộc
phát triển của Việt Nam. Gia nhập WTO không chỉ tạo ra cho Việt Nam nhiều thách thức mà
còn đưa đến cho Việt Nam nhiều cơ hội.
Với mong muốn có đóng góp nhỏ vào việc nghiên cứu luật lệ của WTO, chúng tôi đã
thực hiện đề tài: "Giải quyết tranh chấp thương mại trong khuôn khổ WTO".
Thực hiện đề tài này, trước hết chúng tôi phân tích những khái niệm cơ bản về tranh chấp
thương mại trong WTO; tìm hiểu mục tiêu và nguyên tắc của hệ thống giải quyết tranh chấp
của WTO; quyền tài phán của WTO. Sau đó, chúng tôi đi sâu phân tích các nội dung của hệ
thống giải quyết tranh chấp của WTO, bao gồm: Các bên nguyên đơn, bị đơn và bên thứ ba
trong DSM; các loại đơn kiện và những lập luận cần có; các thiết chế tham gia quá trình giải
quyết tranh chấp tại WTO; các phương pháp giải quyết tranh chấp và trình tự tố tụng tại


14


WTO; các nước đang phát triển với hoạt động giải quyết tranh chấp của WTO; vòng đàm
phán Đôha và tiến trình phát triển hệ thống giải quyết tranh chấp của WTO.
Tiếp theo, luận văn nghiên cứu thực tiễn giải quyết tranh chấp của WTO với những con
số được cập nhật đến tháng 9/2009. Từ đó, rút ra những ưu điểm và những hạn chế của hệ
thống giải quyết tranh chấp của WTO và kinh nghiệm cho Việt Nam.
Cuối cùng, luận văn phân tích cơ hội và thách thức đối với Việt Nam khi gia nhập WTO
và tham gia hệ thống giải quyết tranh chấp của WTO, phương hướng và giải pháp hoàn thiện
chính sách và pháp luật Việt Nam để nâng cao hiệu quả sử dụng hệ thống giải quyết tranh
chấp của WTO, từ đó đã đưa ra những đề xuất, kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng hệ
thống này của Việt Nam.
Cơ chế giải quyết tranh chấp thương mại là một phần của thương mại toàn cầu. Vì vậy,
trong quá trình hội nhập vào nền kinh tế thế giới, Việt Nam cần có những chính sách phù hợp
và vận dụng linh hoạt những ưu điểm của cơ chế này trong hoạt động thực tiễn của mình.
Chúng tôi hi vọng, bản luận văn này sẽ là tài liệu tham khảo cho những ai quan tâm đến việc
giải quyết tranh chấp thương mại trong WTO hiện nay.
References
1. Ban chỉ đạo liên ngành (2002), Báo cáo đánh giá nhu cầu phát triển khung pháp luật Việt
Nam đến 2010 (Nhóm nghiên cứu 1), Đề án đánh giá nhu cầu phát triển toàn diện
hệ thống pháp luật Việt Nam, Hà Nội.
2. Bộ Ngoại giao (2000), Tổ chức thương mại thế giới (WTO), Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội.
3. Bộ Tư pháp (2008), Hội nhập kinh tế quốc tế, Nxb Tư pháp, Hà Nội.
4. Bộ Tư pháp - Hội Luật gia Việt Nam - Dự án hỗ trợ thúc đẩy thương mại (Star - Việt
Nam) (2003), Tài liệu tập huấn Hiệp định Thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ và trọng
tài thương mại, Hà Nội.
5. Dương Văn Hậu (2004), "Các phương thức giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế",
Dân chủ pháp luật, (số chuyên đề).

6. Hoàng Phước Hiệp (2008), Cẩm nang pháp luật dành cho ngư dân đánh bắt thủy sản trên
biển Đông, Nxb Tư pháp, Hà Nội.
7. Nguyễn Am Hiểu (1999), "Khái niệm thương mại và vấn đề áp dụng Công ước New York
1958 tại Việt Nam", Nhà nước và pháp luật, (5).
8. Phan Trung Hoài (2003), "Xung đột pháp luật trong quan hệ thương mại có yếu tố nước
ngoài", Dân chủ và pháp luật (số chuyên đề).

15


9. Trần Mai Hùng (2004), "Vài nét về các quy tắc và thủ tục giải quyết tranh chấp theo
WTO", Dân chủ và pháp luật, (số chuyên đề).
10. Nguyễn Quốc Hùng - Hoàng Khắc Nam (2006), Quan hệ quốc tế - những khía cạnh lý
thuyết và vấn đề, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
11. Lê Hữu Nghĩa - Trần Khắc Việt - Lê Ngọc Tòng (Đồng chủ biên) (2007), Xu thế toàn cầu
hóa trong hai thập niên đầu thế kỷ XXI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
12. Từ Ninh (2004), "Pháp luật chống bán phá giá của WTO và một số nước trên thế giới",
Dân chủ và pháp luật, (số chuyên đề).
13. Hoàng Phê (Chủ biên) (1998), Từ điển Tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng, Đà Nẵng.
14. Nguyễn Vĩnh Thanh, Lê Thị Hà (2006), Các nước đang phát triển với cơ chế giải quyết
tranh chấp của Tổ chức Thương mại Thế giới, Nxb Lao động xã hội, Hà Nội.
15. Trung tâm Trọng tài quốc tế Việt Nam (VIAC) (2002), 50 phán quyết trọng tài quốc tế
chọn lọc, Hà Nội.
16. Trường Đại học Luật Hà Nội (2004), Giáo trình Quan hệ kinh tế quốc tế, Nxb Công an
nhân dân, Hà Nội.
17. Trường Đại học Luật Hà Nội (2004), Giáo trình Luật quốc tế, Nxb Công an nhân dân, Hà
Nội.
18. Trường Đại học Ngoại thương (2000), Tác động của tự do hóa thương mại đối với sự
phát triển của pháp luật thương mại và hàng hải Việt Nam, Đề tài nghiên cứu Khoa
học cấp Nhà nước, Hà Nội.

19. Ủy ban quốc gia về Hợp tác kinh tế quốc tế (2002), Đàm phán thuế trong WTO, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
20. Ủy ban quốc gia về Hợp tác kinh tế quốc tế (2004), Tìm hiểu Tổ chức Thương mại Thế
giới (WTO), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội
21. Ủy ban quốc gia về Hợp tác kinh tế quốc tế (2004), Hỏi đáp về Tổ chức thương mại Thế
giới (WTO), Hà Nội.
22. Ủy ban quốc gia về Hợp tác kinh tế quốc tế (2004), Tổ chức Thương mại thế giới và các
hàng rào kỹ thuật trong thương mại, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

16


23. Ủy ban quốc gia về Hợp tác kinh tế quốc tế (2005), Sổ tay về hệ thống giải quyết tranh
chấp của WTO, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
24. Vụ Chính sách thương mại đa biên - Bộ Thương mại (1997), Các vấn đề thương mại dịch
vụ trong tổ chức thương mại thế giới, Hà Nội.
TIẾNG ANH
25. Gregory Shaffer (2005), Profession of Law, How to make WTO dispute settlement system
work for developing countries, Univesity of Winsconsinlaw
26. World trade newspaper (2004).
TRANG WEB
27. www.bwpotal.com.vn
28. www.doanhnghiephoinhap.com.vn
29. www.laodong.com.vn
30. www.nciec.gov.vn
31. www.tuoitre.com.vn
32. www.vietnamnet.vn
33. www.wto.org

17



Giải quyết tranh chấp thương mại trong khuôn
khổ WTO
Lê Thị Hồng Hải
Khoa Luật
Luận văn Thạc sĩ ngành: Luật quốc tế; Mã số: 60 38 60
Người hướng dẫn: PGS.TS Hoàng Phước Hiệp
Năm bảo vệ: 2009
Abstract: Chương 1: Những vấn đề cơ bản về giải quyết tranh chấp thương mại trong
khuôn khổ WTO. Chương 2: Thực tiễn giải quyết tranh chấp thương mại của WTO.
Chương 3: Hệ thống giải quyết tranh chấp thương mại của WTO và những cơ hội,
thách thức đối với Việt Nam trong quá trình thực thi quy chế thành viên WTO.
Keywords: Luật Quốc tế; Tranh chấp thương mại; WTO
Content
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Tranh chấp thương mại quốc tế là vấn đề khó tránh khỏi đối với Việt Nam trong quá trình hội
nhập. So với nhiều nước, kể cả các nước trong khu vực thì Việt Nam tham gia vào thương mại
toàn cầu khi các quy tắc và chuẩn mực thương mại quốc tế về cơ bản đã được hình thành và phát
triển. Vì vậy, đối với Việt Nam, một vấn đề rất quan trọng là ngay từ khi bắt đầu tham gia hội
nhập kinh tế thế giới cần phải nghiên cứu, tìm hiểu những luật lệ thương mại quốc tế để tận
dụng tốt cơ hội đồng thời tránh những rủi ro pháp lý không đáng có.
Ngày 11/01/2007, Việt Nam chính thức trở thành thành viên thứ 150 của Tổ chức Thương mại
Thế giới (WTO). Bước vào "sân chơi chung" WTO, tất yếu chúng ta phải nghiên cứu, tìm hiểu các
luật lệ, quy tắc của WTO, trong đó có các quy định về giải quyết tranh chấp thương mại nhằm
chủ động tham gia thương mại quốc tế, hạn chế rủi ro và bảo vệ tốt hơn quyền lợi của Việt
Nam.
Vì những lý do trên, vấn đề: "Giải quyết tranh chấp thương mại trong khuôn khổ WTO"
là một hướng nghiên cứu có ý nghĩa về lý luận và thực tiễn trong bối cảnh hiện nay tại Việt

Nam. Do vậy, em đã chọn vấn đề này làm đề tài cho luận văn tốt nghiệp của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong những năm gần đây, vấn đề giải quyết tranh chấp trong WTO đã có một số công
trình nghiên cứu:
Ở trong nước có Dự án Hỗ trợ thương mại đa biên (MUTRAP) do Liên minh Châu Âu tài
trợ, Bộ Công thương phối hợp thực hiện; Dự án hỗ trợ cải cách pháp luật Việt Nam (LERAP)
của Cơ quan hợp tác phát triển quốc tế Canada (CIDA), Bộ Tư pháp phối hợp thực hiện; Dự
án Hỗ trợ Thúc đẩy Thương mại (STAR) là dự án hỗ trợ kỹ thuật do Cơ quan Hỗ trợ Phát
triển Quốc tế Hoa Kỳ (USAID) tài trợ. Các dự án này đều có nhiều hoạt động, nghiên cứu,


đào tạo liên quan đến các quy định của WTO, trong đó có chế định giải quyết tranh chấp
thương mại của WTO.
Ngoài ra có một số công trình trong nước đã nghiên cứu, như: "Các nước đang phát triển với
cơ chế giải quyết tranh chấp của Tổ chức Thương mại Thế giới", của TS Nguyễn Vĩnh Thanh,
ThS. Lê Thị Hà, Nxb Lao động xã hội, 2006; "Vài nét về các quy tắc và thủ tục giải quyết tranh
chấp theo WTO", của Trần Mai Hùng, Tạp chí Dân chủ và pháp luật, (số chuyên đề), 2004; …
Các công trình và những bài viết nêu trên có đề cập đến những khía cạnh khác nhau về cơ chế
giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế của WTO. Tuy nhiên, chưa có một công trình nào
nghiên cứu sâu về thực tiễn giải quyết tranh chấp thương mại trong khuôn khổ WTO và rút ra bài
học kinh nghiệm cho Việt Nam. Ở nước ngoài, các tài liệu về giải quyết tranh chấp của WTO
có tương đối nhiều và phổ biến nhưng hầu hết đều được viết bằng tiếng nước ngoài. Vì vậy,
trong xu thế hội nhập hiện nay, việc nghiên cứu một cách có hệ thống về vấn đề này mang ý
nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc.
3. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Luận văn tập trung nghiên cứu thực tiễn giải quyết tranh chấp thương mại trong khuôn
khổ pháp luật WTO và rút ra bài học kinh nghiệm cho Việt Nam. Luận văn không tập trung
nghiên cứu vấn đề tác nghiệp trong giải quyết tranh chấp, quy tắc đạo đức nghề nghiệp và
thực tiễn thi hành quyết định giải quyết tranh chấp của Ban hội thẩm, Cơ quan phúc thẩm.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu

Để làm rõ vấn đề trên, chúng tôi sử dụng phương pháp phân tích, tổng hợp, đối chiếu so sánh.
Các phương pháp cụ thể này được thực hiện trên nền tảng của phương pháp biện chứng, trên cơ
sở các quan điểm, đường lối kinh tế của Đảng về chính sách đối ngoại và quan điểm hợp tác, hội
nhập kinh tế quốc tế, gắn với mục tiêu xây dựng nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội
chủ nghĩa.
5. Những đóng góp của luận văn
Là một đề tài về giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế, qua nghiên cứu, phân tích hệ thống
giải quyết tranh chấp thương mại của WTO luận văn góp phần khái quát hóa và giới thiệu hệ thống
giải quyết tranh chấp thương mại của WTO hiện nay; nhận định, đánh giá, phân tích, so sánh, từ đó
đưa ra những kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng hệ thống giải quyết tranh chấp này đối
với Việt Nam.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3
chương:
Chương 1: Những vấn đề cơ bản về giải quyết tranh chấp thương mại trong khuôn khổ
WTO.
Chương 2: Thực tiễn giải quyết tranh chấp thương mại của WTO.
Chương 3: Hệ thống giải quyết tranh chấp thương mại của WTO và những cơ hội, thách
thức đối với Việt Nam trong quá trình thực thi quy chế thành viên WTO.
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ GIẢI QUYẾT
TRANH CHẤP THƢƠNG MẠI TRONG KHUÔN KHỔ WTO
1.1. Tổng quan quá trình hình thành và phát triển chế định giải quyết tranh chấp
thƣơng mại của WTO

2


1.1.1. Khái niệm tranh chấp thương mại trong khuôn khổ WTO
Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) quan niệm tranh chấp thương mại là tranh chấp ở

phạm vi quốc tế, được dùng để chỉ các bất đồng giữa các nước thành viên WTO khi một nước
cho rằng quyền lợi của mình theo một hiệp định nào đó của WTO bị triệt tiêu đi hay bị xâm
hại do việc một nước thành viên khác áp dụng một biện pháp thương mại hoặc không thực
hiện một nghĩa vụ (khiếu kiện vi phạm); hoặc khi việc đạt được mục tiêu của hiệp định bị cản
trở, triệt tiêu hoặc suy giảm quyền lợi thương mại do biện pháp thương mại của một thành
viên bất kể là biện pháp này có trái với nghĩa vụ thành viên hay không (khiếu kiện không có
vi phạm); hoặc khi có bất kỳ tình tiết nào đem lại thiệt hại về quyền lợi hay cản trở đạt mục
tiêu hiệp định (khiếu kiện tình huống). Hơn nữa, một bất đồng chỉ trở thành một tranh chấp
của WTO khi nó được chính thức thông báo cho Ban thư ký WTO.
Như vậy, trong khuôn khổ WTO, tranh chấp thương mại được hiểu là bất đồng giữa các
thành viên WTO liên quan đến việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ theo các Hiệp định và
thỏa thuận của WTO và bất đồng này được thông báo chính thức cho Ban thư ký WTO.
Từ định nghĩa trên, có thể rút ra một số đặc điểm của tranh chấp thương mại trong khuôn
khổ WTO như sau:
Thứ nhất, tranh chấp thương mại trong khuôn khổ WTO là tranh chấp thương mại quốc tế
liên quốc gia, liên chính phủ;
Thứ hai, các bên tranh chấp là thành viên WTO. Các tổ chức quốc tế, các cá nhân, pháp
nhân… không thể là một bên của tranh chấp;
Thứ ba, khách thể của tranh chấp luôn liên quan đến việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ
theo các hiệp định và thỏa thuận của WTO;
Thứ tư, tranh chấp phải được giải quyết theo cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO (DSM).
Tranh chấp thương mại là một trong những hệ quả của hoạt động thương mại, đặc biệt là
trong thương mại quốc tế (do xung đột pháp luật, bất đồng ngôn ngữ...). Vì vậy, giải quyết tranh
chấp phát sinh là một nhu cầu tất yếu khách quan.
Giải quyết tranh chấp thương mại trong khuôn khổ WTO theo nghĩa chung nhất có thể
hiểu là cách thức, phương pháp hoặc các hoạt động của WTO để điều chỉnh các bất đồng, các
xung đột giữa các thành viên WTO liên quan đến việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ theo
các hiệp định và thỏa thuận của WTO nhằm khắc phục và loại trừ các tranh chấp đã phát
sinh, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các thành viên.
1.1.2. Quá trình hình thành và phát triển chế định giải quyết tranh chấp thương mại

của WTO
Hệ thống giải quyết tranh chấp của WTO là sự đổi mới và kế thừa các quy định về giải
quyết tranh chấp của hệ thống thương mại đa phương trước đó trên cơ sở của GATT 1947.
Quá trình hình thành và phát triển chế định giải quyết tranh chấp thương mại của WTO có thể
chia làm hai giai đoạn là giai đoạn từ 1948-1995 và từ 1995 đến nay.
1.2. Hệ thống giải quyết tranh chấp của WTO
1.2.1. Mục tiêu của chế định giải quyết tranh chấp của WTO
Một hiệp định quốc tế sẽ không có nhiều giá trị nếu các bên ký kết không tuân thủ các nghĩa
vụ của hiệp định này. Do đó, để tăng giá trị thực tiễn của các cam kết mà các bên ký kết đã chấp
thuận trong hiệp định quốc tế, chế định giải quyết tranh chấp của WTO được xây dựng để
hướng tới các mục tiêu sau:
 Bảo toàn các quyền và nghĩa vụ của các thành viên WTO (Điều 3.2 DSU).

3


 Làm rõ quyền lợi và nghĩa vụ thông qua giải thích (Điều 17.6 DSU và IX: 2 Hiệp định
WTO)
 Giải pháp ưu tiên là thương lượng trực tiếp (Điều 11 DSU)
 Giải quyết tranh chấp nhanh chóng (Điều 4.3 và Điều 6.1 DSU)
 Cấm quyết định đơn phương (Điều 23 DSU)
 Tính chất bắt buộc (Điều 23.1 DSU)
1.2.2. Các nguyên tắc cơ bản của hoạt động giải quyết tranh chấp của WTO
Là một cơ quan giải quyết tranh chấp của WTO, DSB hoạt động trước hết phải theo các
nguyên tắc xuyên suốt và chỉ đạo mọi hoạt động của WTO. Đó là các nguyên tắc không phân
biệt đối xử, nguyên tắc thương mại ngày càng phải tự do thông qua đàm phán, nguyên tắc tạo
ra môi trường cạnh tranh bình đẳng và tính dễ dự đoán. Ngoài các nguyên tắc chung nói trên,
khi giải quyết tranh chấp, DSB còn dựa trên những nguyên tắc sau:
 Nguyên tắc bình đẳng giữa các nước thành viên tranh chấp;
 Nguyên tắc đồng thuận nghịch;

 Nguyên tắc đối xử ưu đãi đối với các nước đang phát triển và chậm phát triển;
1.2.3. Quyền tài phán của WTO
1.2.3.1. Phạm vi quyền tài phán chung
Điều 1.1 DSU quy định DSM của WTO có quyền tài phán đối với mọi tranh chấp giữa
các thành viên WTO phát sinh từ các hiệp định của WTO (ghi ở Phụ lục 1 DSU).
1.2.2.2. Quyền tài phán bắt buộc
Quyền tài phán của WTO là bắt buộc đối với các thành viên WTO. Các bên tranh chấp
phải tuân thủ DSU (Điều 23.1 DSU). Khác với các hệ thống giải quyết tranh chấp quốc tế
khác là cần phải có sự đồng ý của các bên, gia nhập WTO đã là sự thừa nhận quyền tài phán
bắt buộc của WTO rồi.
1.2.4. Các bên nguyên đơn, bị đơn và bên thứ ba trong DSM/WTO
Ai có thể trở thành một Bên (nguyên đơn, bị đơn) trong vụ tranh chấp và Bên thứ ba (có
quyền và lợi ích liên quan)? Câu trả lời là chỉ có thành viên WTO mới được quyền tiếp cận,
sử dụng DSM của WTO. Các nước quan sát viên, các tổ chức quốc tế khác, các chính quyền
địa phương và khu vực không được phép khởi kiện theo DSM trong WTO.
1.2.5. Các loại đơn kiện và những lập luận cần có trong quá trình giải quyết tranh
chấp tại WTO
 Đơn kiện vi phạm (Điều XXIII: 1 a GATT 1994)
Đây là dạng đơn kiện đầu tiên và cũng là loại đơn kiện phổ biến nhất. Loại đơn kiện này
yêu cầu phải có sự triệt tiêu hoặc làm suy giảm lợi ích do một thành viên khác không thực
hiện nghĩa vụ của mình theo GATT 1994.
 Đơn kiện không vi phạm (Điều XXIII: 1 b)
Đơn kiện không vi phạm có thể được sử dụng để phản đối bất kỳ biện pháp nào mà một
thành viên WTO áp dụng ngay cả khi nó không mâu thuẫn với GATT 1994 miễn là nó dẫn tới
triệt tiêu hoặc suy giảm lợi ích của nguyên đơn.
 Đơn kiện tình huống (Điều XXIII: 1c)
Kiện bất cứ tình huống nào miễn là tình huống đó làm triệt tiêu, suy giảm lợi ích (Điều
3.8 DSU). Tuy một số khiếu kiện tình huống đã được đưa ra trong GATT trước đây nhưng
chưa có khiếu kiện nào dẫn tới báo cáo của Ban hội thẩm. Trong WTO, Điều XXIII: 1c của
GATT 1994 vẫn chưa được bên khiếu kiện nào viện dẫn tới.


4


1.2.6. Các thiết chế tham gia hệ thống giải quyết tranh chấp của WTO và Quy tắc đạo
đức nghề nghiệp
a) Các thiết chế tham gia hệ thống giải quyết tranh chấp của WTO
 Cơ quan giải quyết tranh chấp DSB
Đại hội đồng là cơ quan đồng thời thực hiện trách nhiệm của DSB (Điều IV:3 trong Hiệp
định của WTO).
 Ban hội thẩm (Panels)
Ban Hội thẩm là cơ quan bán tư pháp với tư cách là thiết chế chịu trách nhiệm xét xử các
tranh chấp giữa các thành viên. Ban Hội thẩm không phải là cơ quan thường trực mà được thành
lập cho một tranh chấp cụ thể để xem xét các khía cạnh về tình tiết và pháp lý của vụ kiện và nộp
báo cáo lên DSB, trong đó nêu rõ kết luận của mình là liệu việc khiếu kiện của bên khiếu kiện có
cơ sở không và các biện pháp hoặc hành vi bị phản đối có phù hợp với WTO hay không.
 Cơ quan phúc thẩm (AB)
Không giống các Ban Hội thẩm, Cơ quan Phúc thẩm là cơ quan thường trực gồm bảy
thành viên do DSB chỉ định, được giao trách nhiệm xem xét lại các khía cạnh pháp lý trong
các báo cáo của Ban Hội thẩm.
 Các thiết chế khác
Ngoài những thiết chế kể trên, các thiết chế sau đây cũng có thể bị lôi cuốn vào quá trình
giải quyết tranh chấp của WTO, gồm: Tổng Giám đốc; Ban Thư ký của WTO; Trọng tài viên;
các chuyên gia (cung cấp thông tin, tư vấn cho Panels) và các nhóm công tác chuyên biệt
(nhóm giám sát hàng dệt may theo Hiệp định ATC, nhóm chuyên gia thường trực theo Hiệp định
SCM, nhóm chuyên gia rà soát theo Điều 13 DSU và Điều 11.2 Hiệp định SPS...).
b) Quy tắc đạo đức nghề nghiệp
Theo DSU, những người được yêu cầu tham gia quá trình giải quyết tranh chấp với tư cách
là hội thẩm viên, thành viên Cơ quan Phúc thẩm hoặc các trọng tài viên phải thực hiện nhiệm
vụ một cách vô tư và độc lập.

1.2.7. Các phương pháp giải quyết tranh chấp và trình tự, thủ tục tố tụng tại WTO
1.2.7.1. Các phương pháp giải quyết tranh chấp
DSU cho phép giải quyết tranh chấp thông qua: tham vấn (Điều 4); môi giới, trung gian,
hòa giải (Điều 5); Panels; Phúc thẩm (AB) (Điều 6-20) và Trọng tài (Điều 25).
a) Các phương pháp ngoài tài phán
 Tham vấn (Điều 4 DSU)
Khi có một tranh chấp phát sinh, nếu thành viên WTO có quyền lợi bị vi phạm lựa chọn
việc giải quyết bằng cơ chế của WTO thì thủ tục đầu tiên được tiến hành là tham vấn (Điều 4
của DSU). Các cuộc tham vấn song phương tạo cho các bên một cơ hội để thảo luận vấn đề và
tìm ra một giải pháp thỏa đáng cho các bên mà không phải tranh tụng (Điều 4.5 của DSU).
Khi các cuộc tham vấn bắt buộc đó không đem lại được một giải pháp thỏa đáng cho các bên
trong vòng 60 ngày thì bên khiếu kiện có thể đề nghị được xét xử thông qua Ban Hội thẩm
(Điều 4.7 của DSU).
Hai cơ sở pháp lý để dẫn tới đề nghị tham vấn cho một tranh chấp là Điều 22.1, Điều 23.1
của GATT 1994.
Đề nghị tham vấn phải được đệ trình bằng văn bản, trong đó, bên khiếu kiện phải xác định các
vấn đề gây tranh cãi và các cơ sở pháp lý (Điều 4.4 của DSU).

5


Bên bị khiếu kiện (là bên được đề nghị tham vấn) có nghĩa vụ chấp thuận xem xét một
cách thiện chí đề nghị tham vấn cũng như cố gắng tạo cơ hội để tham vấn (Điều 4.2 của
DSU). Các cuộc tham vấn thường diễn ra tại Geneva và bí mật (Điều 4.6 của DSU).
Trường hợp khẩn cấp bao gồm các vấn đề liên quan tới hàng hóa dễ hư hỏng, các thành viên
phải bước vào tham vấn trong khoảng thời gian không quá 10 ngày sau ngày nhận được đề nghị
tham vấn. Nếu các cuộc tham vấn không giải quyết được tranh chấp trong khoảng thời gian 20 ngày
kể từ ngày nhận được đề nghị thì bên khiếu kiện có thể đề nghị thành lập một Ban Hội thẩm (Điều 4.8
của DSU).
 Môi giới, hòa giải và trung gian (Điều 5 DSU)

Môi giới, hòa giải và trung gian là những thủ tục được tiến hành tự nguyện, bí mật và không
làm phương hại đến quyền của bất cứ bên nào trong những bước tố tụng tiếp theo. Thủ tục
này có thể tiến hành bất cứ lúc nào, kể cả khi Ban Hội thẩm tiến hành tố tụng nếu các bên
tranh chấp đồng ý.
Trung gian, hòa giải và môi giới có thể được thực hiện vào bất kỳ thời điểm nào (Điều 5.3 của
DSU), nhưng không trước yêu cầu tham vấn và được giữ bí mật.
Khi thủ tục môi giới, hòa giải hoặc trung gian được tiến hành trong thời hạn 60 ngày kể từ
ngày nhận được yêu cầu tham vấn, bên nguyên đơn phải cho phép một thời hạn là 60 ngày kể
từ ngày nhận được yêu cầu tham vấn trước khi yêu cầu thành lập Ban Hội thẩm. Tuy nhiên
bên nguyên đơn cũng có thể yêu cầu thành lập Ban Hội thẩm nếu các bên tranh chấp cùng cho
rằng môi giới, hòa giải hoặc trung gian không thể giải quyết được tranh chấp.
b) Phương pháp tài phán
 Tài phán tại Ban Hội thẩm (Panels)
Nếu các bên tham vấn hoặc hòa giải không thành thì việc thành lập Nhóm chuyên gia sẽ
được tiến hành. Thời hạn dự kiến để lập một nhóm chuyên gia là 45 ngày và họ có sáu tháng
để hoàn thành công việc của mình. Nhóm chuyên gia có nhiệm vụ giúp Cơ quan Giải quyết
tranh chấp đưa ra những quyết định hoặc khuyến nghị về vụ tranh chấp cụ thể đó. Để có thể
đưa ra quyết định, nhận xét của mình về vụ tranh chấp, Nhóm chuyên gia phải dựa trên các
hiệp định được viện dẫn, các tài liệu, thông tin do các bên cung cấp và từ các nguồn thông tin
khác nhau.
Bản báo cáo cuối cùng của nhóm chuyên gia về nguyên tắc phải được thông báo tới các bên
tranh chấp trong thời gian sáu tháng. Trong trường hợp khẩn cấp, nhất là khi liên quan đến các vật
phẩm dễ hỏng, thời hạn này giảm xuống còn ba tháng.
 Tài phán tại Phúc thẩm (Appeals)
Nguyên đơn, bị đơn có thể yêu cầu phúc thẩm quyết định của Panels. Yêu cầu phúc thẩm
phải dựa trên những khía cạnh pháp luật quốc tế như cách giải thích pháp luật; áp dụng án lệ
thương mại quốc tế, quyết định có hiệu lực của WTO và không nhằm xem xét lại các tình tiết,
nội dung vấn đề đã được xác định rõ ở giai đoạn Nhóm chuyên gia.
Mỗi yêu cầu phúc thẩm do ba trong số bảy thành viên của Cơ quan Phúc thẩm thường
trực giải quyết. Cơ quan này được Cơ quan Giải quyết tranh chấp (DSB) lập ra. Các thành

viên của Cơ quan Phúc thẩm là những chuyên gia được thừa nhận giỏi về pháp luật và thương
mại quốc tế và không có bất kỳ mối liên hệ nào với các thành viên WTO.
Kết quả phúc thẩm có thể tái khẳng định, thay đổi hoặc bác bỏ các kết luận pháp lý của
Ban Hội thẩm. Về nguyên tắc, thời hạn giải quyết phúc thẩm thông thường không vượt quá 60
ngày và trong mọi trường hợp không được vượt quá 90 ngày.

6


Cơ quan giải quyết tranh chấp (DSB) xem xét, quyết định chấp nhận hoặc bác bỏ các
quyết định của Cơ quan Phúc thẩm trong thời hạn 30 ngày; việc bác bỏ chỉ có thể thực hiện
nếu tất cả thành viên DSB đồng thuận.
 Trọng tài trong giải quyết tranh chấp tại WTO (Điều 25 DSU)
Thay thế cho việc phân xử của Ban Hội thẩm và Cơ quan Phúc thẩm, các bên tranh chấp
có thể sử dụng phân xử trọng tài (Điều 25.1 DSU). Các bên phải thống nhất về trọng tài cũng như
các thủ tục cần tiến hành. Tuy nhiên, trước khi bắt đầu phân xử trọng tài, các bên phải thông báo
thỏa thuận sử dụng trọng tài cho tất cả thành viên WTO. Các thành viên khác chỉ có thể tham gia
vào quá trình xem xét của trọng tài nếu được sự đồng ý của các bên tranh chấp.
1.2.7.2. Trình tự, thủ tục tố tụng tại WTO
a) Các bước
Có bốn bước trong quá trình giải quyết tranh chấp của WTO, lần lượt là (i) Tham vấn,
Môi giới, Trung gian, Hòa giải; (ii) Quá trình xét xử của Ban Hội thẩm hoặc Cơ quan Phúc
thẩm; (iii) Thông qua quyết định của DSB; và (iv) Thực thi phán quyết trong đó có khả năng
áp dụng các biện pháp trả đũa trong trường hợp bên thua kiện không thực thi phán quyết.
b) Khung thời gian
Khung thời gian cho một quy trình giải quyết tranh chấp của WTO có thể tóm tắt như sau:
Việc xem xét vụ việc tại Ban Hội thẩm là không quá 6 tháng (Điều 12.8 DSU). Trong trường hợp
đặc biệt liên quan hàng hóa dễ hỏng thì khoảng 3 tháng (Điều 12.9, 4.9 DSU). Trường hợp phức
tạp, không thể đưa ra kết luận thời đã định thì panle báo cáo bằng văn bản cho DSB để gia hạn hợp lý
nhưng không quá 3 tháng nữa (tổng thời gian không vượt quá 9 tháng). Sau thời hạn đó trong vòng

90 ngày Ban Hội thẩm phải gửi Báo cáo về vụ tranh chấp cho các bên và DSB.
Các bên nguyên đơn, bị đơn có quyền trình Cơ quan phúc thẩm xét phúc thẩm trong vòng 60
ngày kể từ ngày chính thức nhận quyết định của Ban Hội thẩm. Nếu Cơ quan phúc thẩm
không xử phúc thẩm trong vòng 60 ngày thì phải thông báo cho DSB và có thời gian tối đa
không quá 90 ngày.
Như vậy, tổng thời gian đối với việc thông qua quyết định về một vụ kiện thường 9 tháng
(không phúc thẩm), 12 tháng (có phúc thẩm) (Điều 20 DSU).
Thời gian hợp lý thực hiện quyết định do các bên nhất trí đưa ra và DSB chấp thuận
nhưng không vượt quá 15 tháng kể từ ngày thông qua báo cáo của Ban Hội thẩm và Cơ quan
Phúc thẩm (Điều 21.3 DSU). Nếu các bên không nhất trí đưa ra thì do Trọng tài quyết định.
c) Thực hiện quyết định
Bên thua kiện phải sửa chữa sai phạm trong một thời gian hợp lý (Điều 21.3 DSU). Thời
gian này thường là khoảng 15 tháng, do các bên nhất trí đưa ra và DSB chấp thuận. Nếu các bên
không nhất trí được thì đưa ra Trọng tài quyết định.
Sau 30 ngày khi "thời hạn hợp lý" đã hết mà không thực hiện quyết định, không thỏa
thuận được về đền bù thiệt hại thì bên nguyên đơn có quyền xin DSB cho phép trả đũa. Có thể
trả đũa trực tiếp hoặc trả đũa chéo (trả đũa khác lĩnh vực khi việc trả đũa cùng lĩnh vực không
thực tế hoặc không hiệu quả).
d) Tính bảo mật của quy trình tố tụng
Quá trình tham vấn, trọng tài, giải quyết tại Ban Hội thẩm, Cơ quan Phúc thẩm đều bí mật.
Các tài liệu đệ trình của các bên và bên thứ ba đều bảo mật (các bên có thể công khai bản đệ trình
của mình). Đối với thông tin mật của mỗi bên thì mỗi bên có thể làm bản tổng thuật "không mật"
để trình. Các báo cáo giữa kỳ và cuối cùng chỉ gửi các bên theo cơ chế mật. Bản kết thúc sẽ công
khai sau đó một thời gian vài tuần. Nhiều ý kiến cho rằng đây là một điểm hạn chế trong cơ chế

7


giải quyết tranh chấp của WTO. Tuy nhiên, theo chúng tôi việc giữ bí mật quá trình giải quyết
tranh chấp là cần thiết để các quyết định được đưa ra trong quá trình giải quyết tranh chấp là độc

lập, không chịu tác động của bất kỳ yếu tố bên ngoài nào. Hơn nữa, bản báo cáo cuối cùng cũng
sẽ được công khai rộng rãi, trong đó thể hiện rất rõ quá trình giải quyết tranh chấp cũng như lập
luận của các bên. Do đó, công khai chỉ là vấn đề về thời gian, còn việc giải quyết tranh chấp đúng
đắn, công bằng cần được coi là ưu tiên số một.
1.2.8. Các thành viên là nước đang phát triển trong DSM/WTO
DSM/WTO dành cho các thành viên là các nước đang phát triển một số ưu đãi là chế độ đối
xử đặc biệt và khác biệt. Thực chất của vấn đề này là DSM có quy định những điều kiện bổ sung
cho các nước đang phát triển, ví dụ như thủ tục nhanh chóng hơn, khung thời gian dài hơn và các
trợ giúp pháp lý cần thiết ở các khâu: tham vấn; giai đoạn xét xử của ban hội thẩm; thực thi; thủ
tục rút gọn theo yêu cầu của một nước thành viên đang phát triển; hỗ trợ pháp lý.
1.2.9. Vòng đàm phán Đô ha và tiến trình phát triển hệ thống giải quyết tranh chấp
của WTO
Thực tiễn áp dụng DSU cho thấy DSM đã bộc lộ những điểm tồn tại cần có giải pháp
khắc phục. Vòng đàm phán Đôha được khởi động từ năm 2001, cho đến nay, các kết quả đàm
phán của WTO về cơ chế giải quyết tranh chấp vẫn chưa thấy có tín hiệu kết thúc, nội dung
đàm phán đang tập trung vào các vấn đề sau: Các quyền của bên thứ ba; Thẩm quyền của Cơ
quan phúc thẩm được hoàn trả hồ sơ để Ban hội thẩm giải quyết lại; Trật tự ưu tiên áp dụng
giữa Điều 21.5 (thời điểm Ban hội thẩm giải quyết việc bên thua kiện bị cho là không thực
hiện đúng phán quyết) và Điều 22.2 (việc cho trả đũa); Thủ tục nước thắng kiện phải dỡ bỏ
biện pháp trả đũa khi nước thua kiện đã chấp hành phán quyết; minh bạch hóa cho công
chúng và cho các nước thành viên không phải là bên tham gia vụ tranh chấp…
Chương 2
THỰC TIỄN GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP CỦA WTO
2.1. Tổng quan về thực tiễn giải quyết tranh chấp của WTO
Qua hơn 12 năm hoạt động có thể rút ra một số đánh giá và nhận xét về DSM/WTO từ
nhiều góc độ khác nhau. Về cơ bản, DSM/WTO đã phục vụ các thành viên tốt kể từ khi được
áp dụng 01/1995.
Các số liệu thống kê đến ngày 14/9/2009 cho thấy số lượng các vụ tranh chấp đến
14/9/2009 đã có 399 vụ tranh chấp được đưa ra giải quyết theo cơ chế giải quyết tranh chấp
của WTO. Tỷ lệ các vụ kiện được hòa giải rất cao (hơn 50%) mà không cần đi hết tố tụng.

Tính trung bình thì hàng năm có khoảng 24 vụ tranh chấp được giải quyết theo cơ chế của
WTO, gần gấp ba lần số lượng những vụ kiện hàng năm được thụ lý dưới thời GATT. Con số
này cho thấy tính hiệu quả của cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO.
2.1.1. Thực tiễn giải quyết tranh chấp theo lĩnh vực
WTO điều chỉnh ba lĩnh vực là thương mại hàng hóa, thương mại dịch vụ và khía cạnh
thương mại trong sở hữu trí tuệ. Vì vậy, các vấn đề tranh chấp được WTO cũng tập trung vào ba
lĩnh vực này. Trong đó, cho đến nay các tranh chấp chủ yếu tập trung vào lĩnh vực thương mại
hàng hóa (93,7%), rồi đến sở hữu trí tuệ 6,05%, còn lĩnh vực thương mại dịch vụ thì rất ít
(0,25%).
2.1.1.1. Tranh chấp trong lĩnh vực thương mại hàng hóa
Tính đến ngày 9/2009, các tranh chấp trong lĩnh vực này chiếm đến 93,7% tổng số vụ
tranh chấp được giải quyết theo WTO.

8


×