Tải bản đầy đủ (.pdf) (30 trang)

Giải quyết việc làm cho lao động nông nghiệp trong quá trình đô thị hóa ở nước ta hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (804.91 KB, 30 trang )

Giải quyết việc làm cho lao động nông nghiệp trong quá
trình đô thị hóa ở nước ta hiện nay
Đoàn Thị Hả
Người hướng dẫn : PGS. TS. Đỗ Đức Bình
NHỮNG CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN

CNH, HĐH : Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
CNXH

: Chủ nghĩa xã hội

KT-XH

: Kinh tế - xã hội

XHCN

: Xã hội chủ nghĩa


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Việt Nam là một nước đang phát triển, có tiềm năng lao động rất lớn với trên
42 triệu lao động, trong đó lao động nông nghiệp chiếm trên 70% (trên 30 triệu lao
động nông nghiệp). Khả năng tạo việc làm cho lao động nói chung và đặc biệt là
lao động nông thôn rất khó khăn, tình trạng thiếu việc làm, thất nghiệp có xu
hướng gia tăng, điều đó đã ảnh hưởng rất lớn đến tới sự phát triển kinh tế, xã hội,
chính trị, an ninh của quốc gia, nguyên nhân của vấn đề này là: Nền kinh tế của đất
nước phát triển chậm, khả năng thu hút lao động và tạo việc làm mới hạn chế; trình
độ của độ ngũ người lao động thấp, không đáp ứng được yêu cầu của sự phát triển,
thông tin về thị trường, thông tin về khoa học công nghệ rất yếu, nghèo, thiếu vốn,


thiếu công nghệ...
Để phát triển nền kinh tế đòi hỏi đất nước phải chuyển dịch cơ cấu kinh tế,
từ cơ cấu kinh tế thuần nông, độc canh hay nói cách khác là một đất nước nông
nghiệp, sản xuất nhỏ lạc hậu phải chuyển sang nền văn minh mới: nền văn minh
công nghiệp, thực hiện thành công quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH,
HĐH), phấn đấu đến năm 2020 Việt Nam trở thành một đất nước công nghiệp hiện
đại ngang tầm với các nước trong khu vực.
Đi liền với quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế của đất nước theo hướng
CNH, HĐH, nhiều thành phố, khu công nghiệp, thị trấn, thị tứ mới được mọc lên.
Hay có thể nói, đô thị hóa là kết quả tất yếu của quá trình CNH, HĐH nền kinh tế
nước nhà.
Đô thị hóa đem lại nhiều cái lợi cho sự phát triển kinh tế - xã hội (KT-XH) của
đất nước, song bản thân nó lại gây ra không ít những mâu thuẫn mới đòi hỏi phải
được giải quyết: quá trình đô thị hóa gia tăng sẽ đẩy một bộ phận nông dân ra khỏi
vùng đất mà họ vẫn thường sinh sống (quá trình bần cùng hóa những người lao


động) làm cho đất canh tác bình quân đầu người đã thấp (0,17ha/người lao động)
nay còn thấp hơn.
Lao động nông nghiệp không có việc làm, thất nghiệp gia tăng, đời sống thấp,
mâu thuẫn xã hội tăng. Góp phần giải quyết các vấn đề bức xúc nêu trên, đề tài
"Giải quyết việc làm cho lao động nông nghiệp trong quá trình đô thị hóa ở
nước ta hiện nay" là một vấn đề có ý nghĩa trên cả phương diện lý luận và thực
tiễn.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Vấn đề “đô thị hoá”, “đô thị hoá nông nghiệp, nông thôn”; vấn đề “việc làm”
của lao động nói chung và lao động nông nghiệp nói riêng đã được nhiều tác giả,
cơ quan nghiên cứu trên cả phương diện lý luận và thực tiễn.
- Đô thị hoá và chính sách phát triển đô thị trong công nghiệp hoá, hiện đại
hoá ở Việt Nam do GS. TS. Trần Ngọc Hiên - Trần Văn Chử (đồng chủ biên),

NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998.
- Đô thị hoá và quản lý đô thị ở Hà Nội do GS. TS. Nguyễn Đình Hương
(chủ biên), NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000.
- Huy động và sử dụng các nguồn lực trong phát triển kinh tế nông thôn –
thực trạng và giải pháp do TS. Chu Tiến Quang (chủ biên), NXB Chính trị quốc
gia, Hà Nội, 2005.
- Quản lý nguồn nhân lực ở Việt Nam. Một số vấn đề lý luận và thực tiễn,
NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội, 2004.
- Tạo việc làm ở khu vực kinh tế ngoài quốc doanh ở đô thị, Luận án Phó
tiến sĩ Kinh tế của Trần Thị Lộc, Trường Đại học Kinh tế quốc dân, Hà Nội, 1996.
- Tạo việc làm cho lao động nữ trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá,
Luận án Phó tiến sĩ Kinh tế của Trần Thị Thu, Trường Đại học Kinh tế quốc dân,
Hà Nội, 2002...
Tuy nhiên, việc nghiên cứu giải quyết việc làm cho lao động nông nghiệp
trong quá trình đô thị hoá chưa được các tác giả đề cập và giải quyết vấn đề một


cách có hệ thống. Gần đây, ở một số địa phương đô thị hoá diễn ra mạnh mẽ, vấn
đề giải quyết việc làm cho nông dân mất đất một phần hoặc suất toàn bộ đất đai do
chuyển mục đích sử dụng đất trở nên bức xúc, một số cơ quan chủ quản ở các địa
phương cũng đã bắt đầu nghiên cứu về giải quyết việc làm cho lao động nông
nghiệp, song vấn đề mới dừng lại ở địa bàn các địa phương, thiếu tính hệ thống.
Do vậy, luận văn đã góp phần hoàn thiện cơ sở lý luận và thực tiễn, đề xuất
các giải pháp trong việc giải quyết việc làm cho lao động nông nghiệp nước ta
trong quá trình đô thị hoá, đô thị hoá nông nghiệp, nông thôn. Hy vọng góp thêm
tiếng nói cùng các nhà nghiên cứu, quản lý giải quyết tốt vấn đề cấp bách trong
giai đoạn hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
* Mục đích
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn về lao động và việc làm của lao động

nông nghiệp trong quá trình đô thị hóa ở Việt Nam và một số nước láng giềng trong
khu vực, từ đó đề xuất phương hướng, biện pháp giải quyết việc làm cho lao động nông
nghiệp nước ta trong quá trình đô thị hóa ở Việt Nam hiện nay.
* Nhiệm vụ
- Nghiên cứu những vấn đề lý luận về việc làm của lao động nông nghiệp
trong quá trình đô thị hóa, kinh nghiệm tạo việc làm cho lao động ở một số nước
trong khu vực.
- Nghiên cứu thực trạng của quá trình đô thị hóa ở Việt Nam và tác động của
nó tới việc làm cho người lao động.
- Nghiên cứu hiện trạng việc làm của lao động nông nghiệp trong quá trình
đô thị hóa hiện nay ở nước ta.
- Đề xuất những biện pháp tạo việc làm cho lao động nông nghiệp trong quá
trình đô thị hóa hiện nay ở nước ta.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu


- Đối tượng nghiên cứu của luận văn: Luận văn tập trung nghiên cứu lao
động nông nghiệp; quá trình đô thị hóa; việc làm cho lao động nông nghiệp; tạo
việc làm cho lao động nông nghiệp trongquá trình đô thị hóa.
- Phạm vi nghiên cứu: Tạo việc làm cho lao động nông nghiệp trong quá
trình đô thị hóa
- Thời gian: từ 1986 đến nay
5. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn lấy chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử làm phương
pháp luận chung. Đặc biệt, chú trọng sử dụng các phương pháp đặc trưng của kinh
tế chính trị - phương pháp trừu tượng hóa. Ngoài ra, còn sử dụng các phương pháp
khác: thống kê, so sánh, điều tra, phân tích, tổng hợp...
6. Đóng góp của luận văn
- Hệ thống hóa những vấn đề lý luận cơ bản về việc làm của lao động nông
nghiệp trong quá trình đô thị hóa.

- Đánh giá được thực trạng, định hướng quá trình đô thị hóa ở nước ta thời
gian qua và tác động của nó tới việc làm của người lao động.
- Đánh giá được thực trạng về việc làm của người lao động nông nghiệp trong
quá trình đô thị hóa hiện nay ở nước ta.
- Đề xuất phương hướng biện pháp tạo việc làm cho lao động nông nghiệp
trong quá trình đô thị hóa hiện nay ở nước ta.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của
luận văn gồm 3 chương, 8 tiết.
Chương 1: Một số vấn đề lý luạn, thực tiễn về việc làm cho lao đông nông
nghiệp trong quá trình đô thị hoá.
Chương 2: Thực trạng về việc làm cho lao động nông nghiệp trong quá trình
đô thị hoá ở nước ta hiện nay.


Chương 3: Phương hướng và giải pháp giải quyết việc làm cho người lao
động nông nghiệp trong quá trình đô thị hoá ở nước ta.


Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN, THỰC TIỄN VỀ VIỆC LÀM
CHO LAO ĐỘNG NÔNG NGHIỆP TRONG QUÁ TRÌNH ĐÔ THỊ HÓA

1.1. Lao động nông nghiệp, ảnh hưởng của quá trình đô thị hóa đến việc
làm của lao động nông nghiệp
1.1.1. Khái niệm lao động nông nghiệp
Khái niệm "lao động" tùy theo góc độ nghiên cứu mà các nhà khoa học đưa
ra các quan niệm về "lao động" tương ứng. Tuy nhiên, các quan điểm đều tập trung
chủ yếu vào hai khía cạnh: Thứ nhất, coi lao động là hoạt động, là phương thức tồn
tại của con người. Thứ hai, coi lao động chính là bản thân con người, là sự nỗ lực

vật chất và tinh thần của con người dưới dạng hoạt động tạo ra những sản phẩm vật
chất và tinh thần để thỏa mãn nhu cầu của con người. Dựa vào quan niệm lao động
là hành động xã hội, người ta phân biệt năm yếu tố cơ bản tạo nên cấu trúc của lao
động: đối tượng lao động, mục đích lao động, công cụ lao động, điều kiện lao động
và chủ thể lao động. Trong đó chủ thể lao động là con người với tất cả đặc điểm
tâm sinh lý, xã hội được hình thành và phát triển trong quá trình xã hội hóa cá
nhân. Đối với mỗi dạng hoạt động lao động đòi hỏi ở mỗi cá nhân một tri thức, kỹ
năng, kỹ xảo nhất định. Trên cơ sở đó, tác giả luận văn đồng tình với khái niệm
"lao động" chính là bản thân con người với tất cả sự nỗ lực vật chất, tinh thần của
nó, thông qua hoạt động lao động của mình, sử dụng các công cụ lao động, tác
động đến đối tượng lao động để đạt được mục đích nhất định [14, tr. 15]. Lao động
hoạt động trong lĩnh vực sản xuất kinh doanh nông nghiệp được coi là lao động
nông nghiệp.
Để hiểu rõ hơn bản chất khái niệm "lao động", chúng ta cần nghiên cứu
thêm các khái niệm: nguồn nhân lực, nguồn lao động.


Nguồn nhân lực theo nghĩa rộng là nguồn lực con người của một quốc gia,
một vùng lãnh thổ, là một bộ phận nguồn lực có thể huy động được để tham gia
vào quá trình phát triển đất nước.
Theo nghĩa hẹp, nguồn nhân lực là bộ phận của dân số trong độ tuổi lao
động theo quy định của pháp luật có khả năng tham gia lao động. Nguồn nhân lực
được biểu hiện trên hai mặt: về số lượng, là tổng thể những người trong độ tuổi lao
động và thời gian làm việc có thể huy động được của họ. Về chất lượng, nguồn
nhân lực thể hiện ở sức khỏe, trình độ chuyên môn, ý thức, tác phong, thái độ làm
việc của người lao động.
Nguồn lao động (hay lực lượng lao động) là một bộ phận dân số trong độ
tuổi lao động quy định thực tế có tham gia lao động và những người không có việc
làm nhưng đang tích cực tìm kiếm việc làm. Nguồn lao động cũng được biểu hiện
trên hai mặt: số lượng và chất lượng như nguồn nhân lực. Về độ tuổi, mỗi quốc gia

có quy định giới hạn tối đa và giới hạn tối thiểu khác nhau: giới hạn tối thiểu ở
Braxin: 10 tuổi, Úc: 15 tuổi, Mỹ: 16 tuổi,... phần lớn các quốc gia quy định độ tuổi
này từ 14 hoặc 15 tuổi. Ở Việt Nam quy định 15 tuổi, giới hạn tối đa: các nước Bắc
Âu (Đan Mạch, Thụy Sĩ, Na Uy, Phần Lan) quy định độ tuổi này là 74 tuổi. Còn
các nước đang phát triển: Malaixia, Ai Cập, Mêhicô,... quy định độ tuổi này là 65
tuổi. Ở Việt Nam độ tuổi này được quy định: 60 tuổi đối với nam và 55 tuổi đối
với nữ [25, tr. 5].
Trong điều kiện ngày nay (nền kinh tế thị trường, hội nhập với nền kinh tế
khu vực và thế giới, nền kinh tế tri thức,...) việc không ngừng nâng cao chất lượng
nguồn lao động có ý nghĩa quan trọng đặc biệt. Số lượng lao động đông đảo không còn
chiếm ưu thế, nhất là với lao động có chất lượng thấp.
Điểm đáng lưu ý của lao động nông nghiệp là mọi hoạt động lao động, sản
xuất kinh doanh trong lĩnh vực nông nghiệp đều gắn liền với đối tượng cây trồng,
vật nuôi - là những cơ thể sống với những đặc điểm riêng biệt, không thể xóa bỏ,
làm cho lao động nông nghiệp mang sắc thái riêng, không giống với lao động trong
một số ngành kinh tế khác. Đặc biệt là tính chất thời vụ của lao động nông nghiệp,


làm cho lao động nông nghiệp lúc thì căng thẳng, lúc lại nhàn rỗi; tình trạng thiếu
việc làm tạm thời là khá phổ biến.
1.1.2. Khái niệm việc làm
Theo tổ chức Lao động quốc tế (ILO): Việc làm là những hoạt động lao
động được trả công bằng tiền và bằng hiện vật.
Điều 13, chương 2 (việc làm) Bộ luật Lao động của nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam: "Mọi hoạt động lao động tạo ra nguồn thu nhập, không bị
pháp luật cấm đều được thừa nhận là việc làm". Khái niệm này được vận dụng
trong các cuộc điều tra về thực trạng lao động và việc làm hàng năm của Việt Nam
và được cụ thể hóa thành ba dạng hoạt động sau:
- Làm các công việc để nhận tiền công, tiền lương dưới dạng bằng tiền hoặc
bằng hiện vật.

- Làm các công việc để thu lợi nhuận cho bản thân. Bao gồm sản xuất nông
nghiệp trên đất do chính thành viên được quyền sử dụng; hoặc hoạt động kinh tế
phi nông nghiệp do chính thành viên đó làm chủ toàn bộ hoặc một phần.
- Làm công việc cho hộ gia đình mình nhưng không được trả thù lao dưới
hình thức tiền lương, tiền công cho công việc đó. Bao gồm sản xuất nông nghiệp
trên đất do chủ hộ hoặc một thành viên trong hộ có quyền sử dụng; hoạt động kinh
tế phi nông nghiệp do chủ hộ hoặc một thành viên trong hộ làm chủ hoặc quản lý.
Theo khái niệm trên, hoạt động được coi là việc làm cần thỏa mãn hai điều
kiện:
+ Một là, hoạt động đó phải có ích và tạo ra thu nhập cho người lao động và
cho các thành viên trong gia đình.
+ Hai là, hoạt động đó phải đúng luật; không bị pháp luật cấm.
Hai tiêu thức này có quan hệ chặt chẽ với nhau, và là điều kiện cần và đủ
của một hoạt động được thừa nhận là việc làm. Nếu một hoạt động chỉ tạo ra thu
nhập nhưng vi phạm luật pháp như: trộm cắp, buôn bán hêrôin, mại dâm,... Không


thể được công nhận là việc làm. Mặt khác, một hoạt động dù là hợp pháp, có ích
nhưng không tạo ra thu nhập cũng không được thừa nhận là việc làm - chẳng hạn
như công việc nội trợ hàng ngày của phụ nữ cho chính gia đình mình: đi chợ, nấu
cơm, giặt giũ quần áo,... Nhưng nếu người phụ nữ đó cũng thực hiện các công việc
nội trợ tương tự cho gia đình người khác thì hoạt động của họ lại được thừa nhận là
việc làm vì được trả công.
Điểm đáng lưu ý là tùy theo phong tục, tập quán của mỗi dân tộc và pháp luật
của các quốc gia mà người ta có một số quy định khác nhau về việc làm: Ví dụ: mại
dâm của phụ nữ được coi là việc làm của phụ nữ ở Thái Lan, Philippin vì được pháp
luật bảo hộ và quản lý; nhưng ở Việt Nam hoạt động đó được coi là hoạt động phi
pháp, vi phạm pháp luật và không được thừa nhận là việc làm.
Tuy nhiên, với khái niệm trên, theo tác giả luận văn có điểm còn bất hợp lý:
có những hoạt động có ích cho gia đình, cho xã hội, không vi phạm pháp luật,

nhưng không tạo ra thu nhập "trực tiếp" cho người tham gia hoạt động - như công
việc nội trợ của phụ nữ,... lại không được coi là việc làm. Nhờ phụ nữ làm công
việc nội trợ, đã góp phần làm giảm chi tiêu của gia đình; tạo điều kiện cho chồng,
con yên tâm hoạt động sản xuất, kinh doanh đồng thời góp phần tăng thêm lượng
vốn đầu tư vào sản xuất, phát triển sản xuất, tăng thu nhập cho cả gia đình. Như vậy,
thực chất của vấn đề ở đây là công việc nội trợ của phụ nữ cũng đã góp phần làm tăng thu
nhập của cả gia đình.
Với ý nghĩa đó, tác giả luận văn đồng tình với quan điểm: việc làm là một dạng
hoạt động có ích, không bị pháp luật ngăn cấm, có thu nhập hoặc tạo điều kiện tăng
thêm thu nhập cho người thân, gia đình hoặc cộng đồng [39, tr. 32].
Trong nền kinh tế thị trường, ở đâu có lợi nhuận, các doanh nghiệp sẽ tăng
cường sử dụng lao động, tăng sản lượng, khối lượng việc làm sẽ tăng lên. Mặt
khác, khi nhu cầu thị trường suy giảm, các doanh nghiệp sẽ phải cắt giảm sản
lượng, khối lượng việc làm sẽ giảm.
danh môc tµi liÖu tham kh¶o


1.

Nguyễn Thế Bá (Chủ biên, 2004), Quy hoạch xây dựng phát triển đô thị, Nxb
Xây dựng, Hà Nội.

2.

Ban T- t-ởng Văn hóa Trung -ơng - Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
(2002), Con đ-ờng công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn
Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

3.


Trần Văn Bính (Chủ biên, 1998), Văn hóa trong quá trình đô thị hóa ở n-ớc
ta hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

4.

Nguyễn Văn Bính - Chu Tiến Quang (đồng Chủ biên, 1999), Phát triển nông
nghiệp nông thôn trong giai đoạn công nghiệp hóa và hiện đại hóa ở Việt
Nam, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội.

5.

Bộ Giáo dục và Đào tạo - Tr-ờng Đại học Kinh tế quốc dân (2000), "Chính
sách và các hình thức tổ chức sản xuất trong nông nghiệp nông thôn Việt
Nam thập niên đầu thế kỷ 21", Kỷ yếu hội thảo khoa học: Kinh tế các tr-ờng
đại học, Sầm Sơn.

6.

Bộ Giáo dục và Đào tạo - Tr-ờng Đại học Kinh tế quốc dân (2005), Kinh tế
Việt Nam năm 2004: Tiếp tục quá trình đổi mới - thành tựu và vấn đề, Hà
Nội.

7.

Bộ Lao động - Th-ơng binh và Xã hội (1999), Hệ thống văn bản pháp luật
thực hiện ch-ơng trình mục tiêu quốc gia về việc làm, Nxb Lao động - Xã
hội, Hà Nội.

8.


Bộ Xây dựng (1994), Xã hội học trong quy hoạch xây dựng và quản lý đô thị,
Ch-ơng trình KC.11. Đề tài: KC-11-12, Hà Nội.

9.

Bộ Xây dựng (1999), Quy hoạch xây dựng các đô thị Việt Nam, Nxb Xây
dựng, Hà Nội.

10.

Bộ Xây dựng - Ban Tổ chức Cán bộ Chính phủ (1990), Thông t- số 31/TTLBTCCBCP, ngày 20-11 về quy hoạch đô thị, Hà Nội.


11.

Bộ Xây dựng - Ban Tổ chức Cán bộ Chính phủ (2002), Thông t- số 02/2002TTLB-TCCBCP ngày 17/2 về quy hoạch đô thị, Hà Nội.

12.

Nguyễn Tiến Dỵ (Chủ biên, 1997), Quy hoạch các đô thị Việt Nam và những
dự án phát triển đến sau năm 2000, Nxb Thống kê - Tạp chí Kinh tế và dự
báo - Bộ Kế hoạch và Đầu t-, Hà Nội.

13.

Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

14.


Đinh Văn Hải (2004), Giải pháp tài chính để phát triển kinh tế trang trại
vùng trung du và miền núi phía Bắc Việt Nam, Luận án tiến sĩ Kinh tế, Học
viện Tài chính, Hà Nội.

15.

Trần Thị Bích Hằng (2000), Vấn đề dân số - lao động - việc làm đồng bằng
sông Hồng, Luận án tiến sĩ Địa lý, Tr-ờng Đại học S- phạm Hà Nội, Hà Nội.

16.

Hệ thống văn bản pháp quy về kiến trúc quy hoạch phát triển đô thị và xây
dựng kết cấu hạ tầng (1998), Nxb Xây dựng, Hà Nội.

17.

Trần Ngọc Hiên - Trần Văn Chử (đồng Chủ biên, 1998), Đô thị hóa và chính
sách phát triển đô thị trong công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.

18.

Vũ Hiền - Trịnh Hữu Đản (Chủ biên, 1998), Nghị quyết Trung -ơng 4 (khóa
VIII) và vấn đề tín dụng nông nghiệp, nông thôn, Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội.

19.

Hiệp hội đô thị Việt Nam (5/2005), Đô thị Việt Nam, Hà Nội.


20.

Đặng Thái Hoàng (Chủ biên, 2004), Hợp tuyển thiết kế đô thị, Nxb Xây
dựng, Hà Nội.

21.

Nguyễn Đình H-ơng (Chủ biên, 2000), Đô thị hóa và quản lý đô thị ở Hà
Nội, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

22.

V.I. Lênin (1981), Toàn tập, tập 3, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.

23.

V.I .Lênin (1981), Toàn tập, tập 23, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.

24.

V.I. Lênin (1981), Toàn tập, tập 40, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.


25.

Trần Thị Lộc (1996), Tạo việc làm tại khu vực kinh tế ngoài quốc doanh ở đô
thị, Luận án phó tiến sĩ Khoa học kinh tế, Tr-ờng Đại học Kinh tế quốc dân,
Hà Nội.

26.


Một số chính sách quốc gia về việc làm và xóa đói giảm nghèo (2002), Nxb
Lao động, Hà Nội.

27.

Ngô Anh Ngà (2004), "Nông dân các vùng quy hoạch đô thị và khu công
nghiệp làm gì khi hết đất canh tác", Nông thôn mới, 127(2), tr. 13.

28.

Phạm Thành Nghị - Vũ Hoàng Ngân (Chủ biên, 2004), Quản lý nguồn nhân
lực ở Việt Nam, một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb Khoa học xã hội, Hà
Nội.

29.

Phạm Văn Nhật (2003), Quá trình đô thị hóa và ảnh h-ởng của nó tới môi
tr-ờng n-ớc và không khí ở thành phố Việt Trì, Luận án tiến sĩ Địa lý,
Tr-ờng Đại học S- phạm Hà Nội, Hà Nội.

30.

Những vấn đề quy hoạch đô thị và dân c- (1984), Ng-ời dịch Đào Trọng
Năng và Nguyễn Thục ý, Nxb Khoa học kỹ thuật, Hà Nội.

31.

Lê Du Phong - Nguyễn Thành Độ (đồng Chủ biên, 1999), Chuyển dịch cơ
cấu kinh tế trong điều kiện hội nhập với khu vực và thế giới, Nxb Chính trị

quốc gia, Hà Nội.

32.

Đàm Quang Ph-ờng (1995), Đô thị Việt Nam, ch-ơng trình KC.11, Bộ Xây
dựng, Hà Nội.

33.

Chu Tiến Quang (Chủ biên, 2005), Huy động và sử dụng các nguồn lực trong
phát triển kinh tế nông thôn thực trạng và giải pháp, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội.

34.

Số liệu thống kê - lao động - việc làm ở Việt Nam 2004 (2005), Nxb Lao động xã hội, Hà Nội.

35.

Sở Lao động Th-ơng binh và Xã hội tỉnh Hải D-ơng, Báo cáo thực hiện đề
tài: Nghiên cứu thực trạng và các giải pháp giải quyết việc làm cho lao động
sau khi bàn giao đất cho các khu công nghiệp, cụm công nghiệp và các khu
đô thị mới trên địa bàn tỉnh Hải D-ơng,


36.

Trần Cao Sơn (1995), Dân số và tiến trình đô thị hóa động thái phát triển và
triển vọng, Luận án phó tiến sĩ Kinh tế, Trung tâm Nghiên cứu dân số và phát
triển - Trung tâm Khoa học xã hội và Nhân văn quốc gia, Hà Nội.


37.

Tập đơn đề nghị giải quyết các v-ớng mắc trong giải phóng mặt bằng ở Hà
Nam (2004), Hà Nam.

38.

Tr-ơng Quang Thao (1998), Đô thị hôm qua - hôm nay và ngày mai, Nxb
Xây dựng, Hà Nội.

39.

Đặng Xuân Thao (2000), Mối quan hệ giữa dân số và việc làm ở nông thôn
đồng bằng sông Hồng trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Luận
án tiến sĩ xã hội học, Viện Xã hội học - Trung tâm Khoa học xã hội và Nhân
văn, Hà Nội.

40.

Nguyễn Thị Thơm (Chủ nhiệm đề tài, 2004), Thị tr-ờng lao động Việt Nam,
thực trạng và giải pháp, Kỷ yếu đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ, Hà Nội.

41.

Trần Thị Thu (2002), Tạo việc làm cho lao động nữ Hà Nội trong thời kỳ
công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Luận án tiến sĩ kinh tế, Tr-ờng Đại học Kinh
tế quốc dân, Hà Nội.

42.


Phạm Khánh Toàn (2002), Vấn đề sử dụng đất trong quy hoạch và phát triển
các khu dân c- ven đô Hà Nội trong quá trình đô thị hóa, Luận án tiến sĩ
Kiến trúc, Tr-ờng Đại học Kiến trúc, Hà Nội.

43.

Tổng cục Thống kê (2001), Tình hình kinh tế - xã hội Việt Nam 10 năm 1991
- 2000, Hà Nội.

44.

Tổng cục Thống kê (2005), Niên giám thống kê 2004, Nxb Thống kê, Hà Nội.

45.

Tổng cục Thống kê (2004), Kinh tế xã hội Việt Nam 3 năm 2001 - 2003, Nxb
Thống kê, Hà Nội.

46.

Tổng cục Thống kê (2004), Kết quả điều tra mức sống hộ gia đình, Nxb
Thống kê, Hà Nội.

47.

ủy ban nhân dân tỉnh Hà Nam (2002), Ph-ơng án hỗ trợ giải phóng mặt
bằng của tỉnh Hà Nam, Hà Nam.



48.

ủy ban nhân dân Hà Nam (2003), Ph-ơng án hỗ trợ giải phóng mặt bằng của
tỉnh Hà Nam, Hà Nam.

49.

ủy ban nhân dân Hà Nam (2004), Ph-ơng án hỗ trợ giải phóng mặt bằng của
tỉnh Hà Nam, Hà Nam.

50.

ủy ban nhân dân tỉnh Hải D-ơng (2005), Báo cáo nghiên cứu tổng kết
ch-ơng trình giải quyết việc làm giai đoạn 2001 - 2005 và ph-ơng h-ớng
thực hiện 2006 - 2010, Hải D-ơng.

51.

Văn bản pháp quy mới về đầu t- xây dựng nhà ở, đất ở, đất đai xây dựng kiến
trúc quy hoạch phát triển đô thị - quản lý doanh nghiệp và kinh tế tài chính
xây dựng (1999), Nxb Xây dựng, Hà Nội.

52.

Viện Chiến l-ợc (2004), Quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội - một số vấn
đề lý luận và thực tiễn, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.


Giải quyết việc làm cho lao động nông nghiệp trong quá
trình đô thị hóa ở nước ta hiện nay

Đoàn Thị Hả
Người hướng dẫn : PGS. TS. Đỗ Đức Bình
NHỮNG CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN

CNH, HĐH : Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
CNXH

: Chủ nghĩa xã hội

KT-XH

: Kinh tế - xã hội

XHCN

: Xã hội chủ nghĩa


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Việt Nam là một nước đang phát triển, có tiềm năng lao động rất lớn với trên
42 triệu lao động, trong đó lao động nông nghiệp chiếm trên 70% (trên 30 triệu lao
động nông nghiệp). Khả năng tạo việc làm cho lao động nói chung và đặc biệt là
lao động nông thôn rất khó khăn, tình trạng thiếu việc làm, thất nghiệp có xu
hướng gia tăng, điều đó đã ảnh hưởng rất lớn đến tới sự phát triển kinh tế, xã hội,
chính trị, an ninh của quốc gia, nguyên nhân của vấn đề này là: Nền kinh tế của đất
nước phát triển chậm, khả năng thu hút lao động và tạo việc làm mới hạn chế; trình
độ của độ ngũ người lao động thấp, không đáp ứng được yêu cầu của sự phát triển,
thông tin về thị trường, thông tin về khoa học công nghệ rất yếu, nghèo, thiếu vốn,
thiếu công nghệ...

Để phát triển nền kinh tế đòi hỏi đất nước phải chuyển dịch cơ cấu kinh tế,
từ cơ cấu kinh tế thuần nông, độc canh hay nói cách khác là một đất nước nông
nghiệp, sản xuất nhỏ lạc hậu phải chuyển sang nền văn minh mới: nền văn minh
công nghiệp, thực hiện thành công quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH,
HĐH), phấn đấu đến năm 2020 Việt Nam trở thành một đất nước công nghiệp hiện
đại ngang tầm với các nước trong khu vực.
Đi liền với quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế của đất nước theo hướng
CNH, HĐH, nhiều thành phố, khu công nghiệp, thị trấn, thị tứ mới được mọc lên.
Hay có thể nói, đô thị hóa là kết quả tất yếu của quá trình CNH, HĐH nền kinh tế
nước nhà.
Đô thị hóa đem lại nhiều cái lợi cho sự phát triển kinh tế - xã hội (KT-XH) của
đất nước, song bản thân nó lại gây ra không ít những mâu thuẫn mới đòi hỏi phải
được giải quyết: quá trình đô thị hóa gia tăng sẽ đẩy một bộ phận nông dân ra khỏi
vùng đất mà họ vẫn thường sinh sống (quá trình bần cùng hóa những người lao


động) làm cho đất canh tác bình quân đầu người đã thấp (0,17ha/người lao động)
nay còn thấp hơn.
Lao động nông nghiệp không có việc làm, thất nghiệp gia tăng, đời sống thấp,
mâu thuẫn xã hội tăng. Góp phần giải quyết các vấn đề bức xúc nêu trên, đề tài
"Giải quyết việc làm cho lao động nông nghiệp trong quá trình đô thị hóa ở
nước ta hiện nay" là một vấn đề có ý nghĩa trên cả phương diện lý luận và thực
tiễn.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Vấn đề “đô thị hoá”, “đô thị hoá nông nghiệp, nông thôn”; vấn đề “việc làm”
của lao động nói chung và lao động nông nghiệp nói riêng đã được nhiều tác giả,
cơ quan nghiên cứu trên cả phương diện lý luận và thực tiễn.
- Đô thị hoá và chính sách phát triển đô thị trong công nghiệp hoá, hiện đại
hoá ở Việt Nam do GS. TS. Trần Ngọc Hiên - Trần Văn Chử (đồng chủ biên),
NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998.

- Đô thị hoá và quản lý đô thị ở Hà Nội do GS. TS. Nguyễn Đình Hương
(chủ biên), NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000.
- Huy động và sử dụng các nguồn lực trong phát triển kinh tế nông thôn –
thực trạng và giải pháp do TS. Chu Tiến Quang (chủ biên), NXB Chính trị quốc
gia, Hà Nội, 2005.
- Quản lý nguồn nhân lực ở Việt Nam. Một số vấn đề lý luận và thực tiễn,
NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội, 2004.
- Tạo việc làm ở khu vực kinh tế ngoài quốc doanh ở đô thị, Luận án Phó
tiến sĩ Kinh tế của Trần Thị Lộc, Trường Đại học Kinh tế quốc dân, Hà Nội, 1996.
- Tạo việc làm cho lao động nữ trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá,
Luận án Phó tiến sĩ Kinh tế của Trần Thị Thu, Trường Đại học Kinh tế quốc dân,
Hà Nội, 2002...
Tuy nhiên, việc nghiên cứu giải quyết việc làm cho lao động nông nghiệp
trong quá trình đô thị hoá chưa được các tác giả đề cập và giải quyết vấn đề một


cách có hệ thống. Gần đây, ở một số địa phương đô thị hoá diễn ra mạnh mẽ, vấn
đề giải quyết việc làm cho nông dân mất đất một phần hoặc suất toàn bộ đất đai do
chuyển mục đích sử dụng đất trở nên bức xúc, một số cơ quan chủ quản ở các địa
phương cũng đã bắt đầu nghiên cứu về giải quyết việc làm cho lao động nông
nghiệp, song vấn đề mới dừng lại ở địa bàn các địa phương, thiếu tính hệ thống.
Do vậy, luận văn đã góp phần hoàn thiện cơ sở lý luận và thực tiễn, đề xuất
các giải pháp trong việc giải quyết việc làm cho lao động nông nghiệp nước ta
trong quá trình đô thị hoá, đô thị hoá nông nghiệp, nông thôn. Hy vọng góp thêm
tiếng nói cùng các nhà nghiên cứu, quản lý giải quyết tốt vấn đề cấp bách trong
giai đoạn hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
* Mục đích
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn về lao động và việc làm của lao động
nông nghiệp trong quá trình đô thị hóa ở Việt Nam và một số nước láng giềng trong

khu vực, từ đó đề xuất phương hướng, biện pháp giải quyết việc làm cho lao động nông
nghiệp nước ta trong quá trình đô thị hóa ở Việt Nam hiện nay.
* Nhiệm vụ
- Nghiên cứu những vấn đề lý luận về việc làm của lao động nông nghiệp
trong quá trình đô thị hóa, kinh nghiệm tạo việc làm cho lao động ở một số nước
trong khu vực.
- Nghiên cứu thực trạng của quá trình đô thị hóa ở Việt Nam và tác động của
nó tới việc làm cho người lao động.
- Nghiên cứu hiện trạng việc làm của lao động nông nghiệp trong quá trình
đô thị hóa hiện nay ở nước ta.
- Đề xuất những biện pháp tạo việc làm cho lao động nông nghiệp trong quá
trình đô thị hóa hiện nay ở nước ta.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu


- Đối tượng nghiên cứu của luận văn: Luận văn tập trung nghiên cứu lao
động nông nghiệp; quá trình đô thị hóa; việc làm cho lao động nông nghiệp; tạo
việc làm cho lao động nông nghiệp trongquá trình đô thị hóa.
- Phạm vi nghiên cứu: Tạo việc làm cho lao động nông nghiệp trong quá
trình đô thị hóa
- Thời gian: từ 1986 đến nay
5. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn lấy chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử làm phương
pháp luận chung. Đặc biệt, chú trọng sử dụng các phương pháp đặc trưng của kinh
tế chính trị - phương pháp trừu tượng hóa. Ngoài ra, còn sử dụng các phương pháp
khác: thống kê, so sánh, điều tra, phân tích, tổng hợp...
6. Đóng góp của luận văn
- Hệ thống hóa những vấn đề lý luận cơ bản về việc làm của lao động nông
nghiệp trong quá trình đô thị hóa.
- Đánh giá được thực trạng, định hướng quá trình đô thị hóa ở nước ta thời

gian qua và tác động của nó tới việc làm của người lao động.
- Đánh giá được thực trạng về việc làm của người lao động nông nghiệp trong
quá trình đô thị hóa hiện nay ở nước ta.
- Đề xuất phương hướng biện pháp tạo việc làm cho lao động nông nghiệp
trong quá trình đô thị hóa hiện nay ở nước ta.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của
luận văn gồm 3 chương, 8 tiết.
Chương 1: Một số vấn đề lý luạn, thực tiễn về việc làm cho lao đông nông
nghiệp trong quá trình đô thị hoá.
Chương 2: Thực trạng về việc làm cho lao động nông nghiệp trong quá trình
đô thị hoá ở nước ta hiện nay.


Chương 3: Phương hướng và giải pháp giải quyết việc làm cho người lao
động nông nghiệp trong quá trình đô thị hoá ở nước ta.


Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN, THỰC TIỄN VỀ VIỆC LÀM
CHO LAO ĐỘNG NÔNG NGHIỆP TRONG QUÁ TRÌNH ĐÔ THỊ HÓA

1.1. Lao động nông nghiệp, ảnh hưởng của quá trình đô thị hóa đến việc
làm của lao động nông nghiệp
1.1.1. Khái niệm lao động nông nghiệp
Khái niệm "lao động" tùy theo góc độ nghiên cứu mà các nhà khoa học đưa
ra các quan niệm về "lao động" tương ứng. Tuy nhiên, các quan điểm đều tập trung
chủ yếu vào hai khía cạnh: Thứ nhất, coi lao động là hoạt động, là phương thức tồn
tại của con người. Thứ hai, coi lao động chính là bản thân con người, là sự nỗ lực
vật chất và tinh thần của con người dưới dạng hoạt động tạo ra những sản phẩm vật

chất và tinh thần để thỏa mãn nhu cầu của con người. Dựa vào quan niệm lao động
là hành động xã hội, người ta phân biệt năm yếu tố cơ bản tạo nên cấu trúc của lao
động: đối tượng lao động, mục đích lao động, công cụ lao động, điều kiện lao động
và chủ thể lao động. Trong đó chủ thể lao động là con người với tất cả đặc điểm
tâm sinh lý, xã hội được hình thành và phát triển trong quá trình xã hội hóa cá
nhân. Đối với mỗi dạng hoạt động lao động đòi hỏi ở mỗi cá nhân một tri thức, kỹ
năng, kỹ xảo nhất định. Trên cơ sở đó, tác giả luận văn đồng tình với khái niệm
"lao động" chính là bản thân con người với tất cả sự nỗ lực vật chất, tinh thần của
nó, thông qua hoạt động lao động của mình, sử dụng các công cụ lao động, tác
động đến đối tượng lao động để đạt được mục đích nhất định [14, tr. 15]. Lao động
hoạt động trong lĩnh vực sản xuất kinh doanh nông nghiệp được coi là lao động
nông nghiệp.
Để hiểu rõ hơn bản chất khái niệm "lao động", chúng ta cần nghiên cứu
thêm các khái niệm: nguồn nhân lực, nguồn lao động.


Nguồn nhân lực theo nghĩa rộng là nguồn lực con người của một quốc gia,
một vùng lãnh thổ, là một bộ phận nguồn lực có thể huy động được để tham gia
vào quá trình phát triển đất nước.
Theo nghĩa hẹp, nguồn nhân lực là bộ phận của dân số trong độ tuổi lao
động theo quy định của pháp luật có khả năng tham gia lao động. Nguồn nhân lực
được biểu hiện trên hai mặt: về số lượng, là tổng thể những người trong độ tuổi lao
động và thời gian làm việc có thể huy động được của họ. Về chất lượng, nguồn
nhân lực thể hiện ở sức khỏe, trình độ chuyên môn, ý thức, tác phong, thái độ làm
việc của người lao động.
Nguồn lao động (hay lực lượng lao động) là một bộ phận dân số trong độ
tuổi lao động quy định thực tế có tham gia lao động và những người không có việc
làm nhưng đang tích cực tìm kiếm việc làm. Nguồn lao động cũng được biểu hiện
trên hai mặt: số lượng và chất lượng như nguồn nhân lực. Về độ tuổi, mỗi quốc gia
có quy định giới hạn tối đa và giới hạn tối thiểu khác nhau: giới hạn tối thiểu ở

Braxin: 10 tuổi, Úc: 15 tuổi, Mỹ: 16 tuổi,... phần lớn các quốc gia quy định độ tuổi
này từ 14 hoặc 15 tuổi. Ở Việt Nam quy định 15 tuổi, giới hạn tối đa: các nước Bắc
Âu (Đan Mạch, Thụy Sĩ, Na Uy, Phần Lan) quy định độ tuổi này là 74 tuổi. Còn
các nước đang phát triển: Malaixia, Ai Cập, Mêhicô,... quy định độ tuổi này là 65
tuổi. Ở Việt Nam độ tuổi này được quy định: 60 tuổi đối với nam và 55 tuổi đối
với nữ [25, tr. 5].
Trong điều kiện ngày nay (nền kinh tế thị trường, hội nhập với nền kinh tế
khu vực và thế giới, nền kinh tế tri thức,...) việc không ngừng nâng cao chất lượng
nguồn lao động có ý nghĩa quan trọng đặc biệt. Số lượng lao động đông đảo không còn
chiếm ưu thế, nhất là với lao động có chất lượng thấp.
Điểm đáng lưu ý của lao động nông nghiệp là mọi hoạt động lao động, sản
xuất kinh doanh trong lĩnh vực nông nghiệp đều gắn liền với đối tượng cây trồng,
vật nuôi - là những cơ thể sống với những đặc điểm riêng biệt, không thể xóa bỏ,
làm cho lao động nông nghiệp mang sắc thái riêng, không giống với lao động trong
một số ngành kinh tế khác. Đặc biệt là tính chất thời vụ của lao động nông nghiệp,


làm cho lao động nông nghiệp lúc thì căng thẳng, lúc lại nhàn rỗi; tình trạng thiếu
việc làm tạm thời là khá phổ biến.
1.1.2. Khái niệm việc làm
Theo tổ chức Lao động quốc tế (ILO): Việc làm là những hoạt động lao
động được trả công bằng tiền và bằng hiện vật.
Điều 13, chương 2 (việc làm) Bộ luật Lao động của nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam: "Mọi hoạt động lao động tạo ra nguồn thu nhập, không bị
pháp luật cấm đều được thừa nhận là việc làm". Khái niệm này được vận dụng
trong các cuộc điều tra về thực trạng lao động và việc làm hàng năm của Việt Nam
và được cụ thể hóa thành ba dạng hoạt động sau:
- Làm các công việc để nhận tiền công, tiền lương dưới dạng bằng tiền hoặc
bằng hiện vật.
- Làm các công việc để thu lợi nhuận cho bản thân. Bao gồm sản xuất nông

nghiệp trên đất do chính thành viên được quyền sử dụng; hoặc hoạt động kinh tế
phi nông nghiệp do chính thành viên đó làm chủ toàn bộ hoặc một phần.
- Làm công việc cho hộ gia đình mình nhưng không được trả thù lao dưới
hình thức tiền lương, tiền công cho công việc đó. Bao gồm sản xuất nông nghiệp
trên đất do chủ hộ hoặc một thành viên trong hộ có quyền sử dụng; hoạt động kinh
tế phi nông nghiệp do chủ hộ hoặc một thành viên trong hộ làm chủ hoặc quản lý.
Theo khái niệm trên, hoạt động được coi là việc làm cần thỏa mãn hai điều
kiện:
+ Một là, hoạt động đó phải có ích và tạo ra thu nhập cho người lao động và
cho các thành viên trong gia đình.
+ Hai là, hoạt động đó phải đúng luật; không bị pháp luật cấm.
Hai tiêu thức này có quan hệ chặt chẽ với nhau, và là điều kiện cần và đủ
của một hoạt động được thừa nhận là việc làm. Nếu một hoạt động chỉ tạo ra thu
nhập nhưng vi phạm luật pháp như: trộm cắp, buôn bán hêrôin, mại dâm,... Không


thể được công nhận là việc làm. Mặt khác, một hoạt động dù là hợp pháp, có ích
nhưng không tạo ra thu nhập cũng không được thừa nhận là việc làm - chẳng hạn
như công việc nội trợ hàng ngày của phụ nữ cho chính gia đình mình: đi chợ, nấu
cơm, giặt giũ quần áo,... Nhưng nếu người phụ nữ đó cũng thực hiện các công việc
nội trợ tương tự cho gia đình người khác thì hoạt động của họ lại được thừa nhận là
việc làm vì được trả công.
Điểm đáng lưu ý là tùy theo phong tục, tập quán của mỗi dân tộc và pháp luật
của các quốc gia mà người ta có một số quy định khác nhau về việc làm: Ví dụ: mại
dâm của phụ nữ được coi là việc làm của phụ nữ ở Thái Lan, Philippin vì được pháp
luật bảo hộ và quản lý; nhưng ở Việt Nam hoạt động đó được coi là hoạt động phi
pháp, vi phạm pháp luật và không được thừa nhận là việc làm.
Tuy nhiên, với khái niệm trên, theo tác giả luận văn có điểm còn bất hợp lý:
có những hoạt động có ích cho gia đình, cho xã hội, không vi phạm pháp luật,
nhưng không tạo ra thu nhập "trực tiếp" cho người tham gia hoạt động - như công

việc nội trợ của phụ nữ,... lại không được coi là việc làm. Nhờ phụ nữ làm công
việc nội trợ, đã góp phần làm giảm chi tiêu của gia đình; tạo điều kiện cho chồng,
con yên tâm hoạt động sản xuất, kinh doanh đồng thời góp phần tăng thêm lượng
vốn đầu tư vào sản xuất, phát triển sản xuất, tăng thu nhập cho cả gia đình. Như vậy,
thực chất của vấn đề ở đây là công việc nội trợ của phụ nữ cũng đã góp phần làm tăng thu
nhập của cả gia đình.
Với ý nghĩa đó, tác giả luận văn đồng tình với quan điểm: việc làm là một dạng
hoạt động có ích, không bị pháp luật ngăn cấm, có thu nhập hoặc tạo điều kiện tăng
thêm thu nhập cho người thân, gia đình hoặc cộng đồng [39, tr. 32].
Trong nền kinh tế thị trường, ở đâu có lợi nhuận, các doanh nghiệp sẽ tăng
cường sử dụng lao động, tăng sản lượng, khối lượng việc làm sẽ tăng lên. Mặt
khác, khi nhu cầu thị trường suy giảm, các doanh nghiệp sẽ phải cắt giảm sản
lượng, khối lượng việc làm sẽ giảm.
danh môc tµi liÖu tham kh¶o


×