Tải bản đầy đủ (.pdf) (12 trang)

Hoàn thiện pháp luật về thủ tục giải quyết phá sản doanh nghiệp ở Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (504.51 KB, 12 trang )

Hoàn thiện pháp luật về thủ tục giải quyết phá
sản doanh nghiệp ở Việt Nam hiện nay
Trần Thị Thu Trang
Khoa Luật
Luận văn ThS. ngành: Luật kinh tế; Mã số: 60 38 50
Người hướng dẫn: PGS.TS. Dương Đăng Huệ
Năm bảo vệ: 2009
Abstract. Nghiên cứu, phân tích các quy định của thủ tục giải quyết phá sản theo
quy định của Luật Phá sản năm 2004, so sánh, phân tích thủ tục giải quyết phá sản
theo Luật Phá sản doanh nghiệp năm 1993 và Luật Phá sản năm 2004, trình bày
những quy định chung về thủ tục giải quyết phá sản của một số nước trên thế giới.
Đánh giá thực trạng pháp luật về thủ tục giải quyết phá sản doanh nghiệp ở Việt
Nam trong thời gian qua, thông qua đó, xác định những vướng mắc, khó khăn của
việc áp dụng các quy định của pháp luật về thủ tục giải quyết phá sản doanh nghiệp.
Đưa ra các giải pháp hoàn thiện pháp luật về thủ tục giải quyết phá sản doanh nghiệp
nhằm xây dựng các quy định phù hợp, có hiệu quả cho việc giải quyết phá sản doanh
nghiệp.
Keywords. Pháp luật Việt Nam; Luật kinh tế; Luật phá sản; Doanh nghiệp

Content
1. Tính cấp thiết của đề tài
Ở nước ta từ những năm 1980 trở về trước nền kinh tế còn mang nặng tính hành
chính, bao cấp. Với Đại hội Đảng VI (năm 1986), công cuộc đổi mới của đất nước đã được
khởi xướng. Nền kinh tế của nước ta đã có sự tăng trưởng vượt bậc do được xây dựng và hoạt
động trên quan điểm mới - quan điểm phát triển nền kinh tế nhiều thành phần vận hành theo
cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Việc gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) cũng đã góp phần tạo cho nền
kinh tế nước ta cơ hội mới để phát triển toàn diện đồng thời cũng đặt ra những thách thức lớn,
đòi hỏi nước ta phải tiếp tục hoàn thiện môi trường kinh doanh, hoàn thiện hệ thống pháp luật
để tạo được môi trường kinh doanh lành mạnh, bình đẳng, an toàn cho nhà đầu tư.
Trong nền kinh tế thị trường, các loại hình doanh nghiệp khác nhau thuộc mọi thành


phần kinh tế đều được Nhà nước khuyến khích thành lập và tạo điều kiện hoạt động một cách
bình đẳng và cạnh tranh trong khuôn khổ pháp luật. Tuy nhiên do nhiều nguyên nhân khác
nhau mà bên cạnh những doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả, tạo ra nhiều sản phẩm cho xã hội
thì còn có một bộ phận không nhỏ những doanh nghiệp đã và đang làm ăn thua lỗ, mất khả
năng thanh toán. Vì vậy có thể nói, phá sản là một thuộc tính của nền kinh tế thị trường. Để
tạo cơ sở pháp lý cho việc xử lý tài sản của các doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản, bảo
vệ lợi ích của chủ nợ, con nợ và của Nhà nước nói chung, Nhà nước nào cũng phải ban hành
Luật Phá sản. Luật Phá sản doanh nghiệp năm 1993 của nước ta được ban hành là nhằm đảm


bảo thực hiện yêu cầu này. Tuy nhiên, trong quá trình thi hành các quy định của Luật Phá sản
doanh nghiệp năm 1993 cho thấy Luật này còn nhiều quy định tỏ ra bất cập, chưa phù hợp
với thực tế khách quan. Để khắc phục những tồn tại đó và đáp ứng được yêu cầu hội nhập
kinh tế quốc tế, từ năm 2000 Quốc hội đã có kế hoạch sửa đổi bổ sung Luật Phá sản doanh
nghiệp năm 1993. Tại kỳ họp thứ 5, Quốc hội khoá XI đã thông qua Luật phá sản mới thay
thế cho Luật Phá sản doanh nghiệp năm 1993. Luật Phá sản năm 2004 ra đời là một bước tiến
mới trong hệ thống pháp luật về phá sản ở nước ta, đã tạo điều kiện để các doanh nghiệp lâm
vào tình trạng phá sản có thể phục hồi sản xuất - kinh doanh, thúc đẩy sự lưu thông vốn trong
nền kinh tế thị trường, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ nợ. Luật Phá sản năm
2004 là kết quả của quá trình tổng kết kinh nghiệm 10 năm thi hành Luật Phá sản doanh
nghiệp năm 1993 và tiếp thu kinh nghiệm của các nước trên thế giới.
Tuy nhiên thủ tục giải quyết phá sản của Luật Phá sản năm 2004 vẫn còn một số vấn
đề hạn chế lớn như sau:
- Thứ nhất, Luật Phá sản năm 2004 xác định Toà án có vai trò trung tâm trong quá
trình tiến hành thủ tục phá sản, nhưng Toà án sẽ không thể thực hiện tốt nhiệm vụ của mình
nếu không có sự phối hợp tích cực của Cơ quan thi hành án. Trên thực tế, do thiếu các quy
định cần thiết trong Luật, cộng với việc các Chấp hành viên, Tổ trưởng Tổ quản lý, thanh lý
tài sản chưa nhận thức đầy đủ trách nhiệm, quyền hạn của mình nên đã không tích cực phối
hợp, dẫn đến việc giải quyết phá sản không đạt hiệu quả.
- Thứ hai, nhiều vấn đề phát sinh trong giai đoạn từ khi nhận đơn xin mở thủ tục giải

quyết phá sản cho đến lúc Toà án ra quyết định tuyên bố phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã
đều do cán bộ của các cơ quan nhà nước thực hiện.Các quy định của Luật như vậy là không
phù hợp với nguyên tắc dân sự là quyền quyết định và tự định đoạt thuộc về các đương sự.
- Thứ ba, theo Luật Phá sản doanh nghiệp năm 1993, có 2 tổ chức được thành lập là
Tổ quản lý tài sản và Tổ thanh toán tài sản. Để đảm bảo tập trung đầu mối quản lý, giảm thủ
tục hành chính, Luật Phá sản năm 2004 đã quy định thành lập một Tổ là Tổ quản lý và thanh
lý tài sản do một Chấp hành viên của Cơ quan thi hành án cùng cấp làm tổ trưởng. Tuy nhiên,
trên thực tế, hoạt động của Tổ quản lý và thanh lý tài sản đã không đạt hiệu quả do nhiều quy
định về nó chưa hợp lý, chưa khoa học, không phù hợp với điều kiện cụ thể của nước ta hiện
nay.
- Thứ tư, theo quy định của Luật Phá sản năm 2004, người đại diện theo pháp luật của
doanh nghiệp được uỷ quyền cho người khác đề nghị Toà án mở thủ tục phá sản với chính
doanh nghiệp mình và tham gia toàn bộ quá trình giải quyết của Toà án. Tuy nhiên, do Luật
không quy định cụ thể điều kiện của người được uỷ quyền nên trên thực tế có nhiều người
nhận uỷ quyền của các doanh nghiệp nhưng lại không nắm được tình hình công nợ, tình hình
tài sản của doanh nghiệp nên đã kê khai không đúng với Tổ quản lý, thanh lý tài sản. Việc
thiếu những quy định chặt chẽ về trách nhiệm của các doanh nghiệp cũng như của Tổ quản
lý, thanh lý tài sản đã dẫn đến nhiều khoản nợ phải thu của doanh nghiệp phá sản đã không
được thu hồi kịp thời trước khi tuyên bố phá sản, làm cho việc thụ lý giải quyết vụ án phá sản
bị kéo dài.
Từ những ví dụ nêu trên, cùng với nhiều hạn chế có tính thủ tục khác đã làm giảm
hiệu lực của Luật Phá sản năm 2004 trong cuộc sống. Để góp phần nâng cao hơn nữa hiệu lực
và hiệu quả của Luật này, Tôi chọn đề tài: “Hoàn thiện pháp luật về thủ tục giải quyết phá sản
doanh nghiệp ở Việt Nam hiện nay” làm đề tài luận văn tốt nghiệp cao học luật tại Đại học
Quốc gia Hà Nội.
2. Tình hình nghiên cứu
Vấn đề phá sản có thể nói không còn là vấn đề hoàn toàn mới mẻ ở Việt Nam. Xung
quanh vấn đề này, đã có nhiều công trình nghiên cứu do các nhà khoa học pháp lý, người làm
công tác thực tiễn của Việt Nam thực hiện. Các công trình nghiên cứu về pháp luật phá sản



được thực hiện dưới nhiều hình thức với nhiều cấp độ khác nhau. Trong đó có công trình
nghiên cứu toàn diện về các vấn đề liên quan đến pháp luật phá sản nhưng cũng có công trình
chỉ nghiên cứu một khía cạnh nhất định liên quan đến pháp luật phá sản.
Trong số các công trình nghiên cứu về pháp luật phá sản ở nước ta sau khi Luật Phá
sản năm 2004 được ban hành, có thể kể đến một số công trình nghiên cứu như sau:
- Công trình nghiên cứu khoa học cấp Bộ của TS. Nguyễn Văn Dũng về “Cơ sở lý
luận và thực tiễn của việc áp dụng các quy định của Luật phá sản về thủ tục phá sản” năm
2004;
- Luận văn thạc sỹ Luật học của Nguyễn Trường Nhật Phượng với đề tài “Chế độ
pháp lý về phá sản- Thực tiễn thi hành và hướng hoàn thiện”, được bảo vệ thành công tại
trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh tháng 8/2004. Luận văn dày 156 trang đã
nghiên cứu một cách tương đối toàn diện các vấn đề liên quan đến pháp luật về phá sản ở
nước ta trong đó có Luật Phá sản năm 2004. Tuy nhiên do luận văn được viết khi Luật Phá
sản năm 2004 mới được ban hành nên chưa xem xét, đánh giá được tính hiệu lực và hiệu quả
của Luật Phá sản năm 2004;
- Công trình nghiên cứu “Pháp luật phá sản của Việt Nam” của PGS.TS Dương Đăng
Huệ, Nhà xuất bản tư pháp, năm 2005. Đây là công trình chuyên khảo nghiên cứu một cách
đầy đủ, toàn diện các vấn đề liên quan đến phá sản như một hạ tầng của kinh tế thị trường và
pháp luật về phá sản với tư cách là một công cụ pháp lý để giải quyết hậu quả của doanh
nghiệp bị Toà án tuyên bố phá sản. Công trình này cũng đã dành nhiều trang cho việc nghiên
cứu các quy định mới của Luật Phá sản năm 2004 so với Luật Phá sản doanh nghiệp năm
1993. Tuy nhiên, do tính bao quát của mình nên công trình đã không dành nhiều công sức
cho việc nghiên cứu một cách chi tiết các thủ tục phá sản theo Luật Phá sản năm 2004.
- Luận án tiến sĩ “Hoàn thiện các quy định liên quan đến quản lý và thanh lý tài sản
phá sản” của Nguyễn Thị Hồng Vân, được bảo vệ thành công tại khoa Luật, Đại học quốc gia
Hà Nội năm 2008. Đây là một công trình nghiên cứu rất chuyên sâu về các hạn chế, yếu kém
trong các quy định của pháp luật có liên quan đến công tác quản lý và thanh lý tài sản phá sản
và Tổ quản lý, thanh lý tài sản. Như vậy, các nội dung khác của Luật Phá sản chưa được đề
cập đến trong luận án này;

- Công trình nghiên cứu khoa học cấp Bộ “ Thực trạng pháp luật về phá sản và việc
hoàn thiện môi trường pháp luật kinh doanh tại Việt Nam” của Bộ Tư pháp bảo vệ năm
2009…
Ngoài ra, còn có nhiều bài viết, công trình nghiên cứu đăng trên các tạp chí, các báo
cáo chuyên đề, hội thảo chuyên đề về phá sản và pháp luật về phá sản như:
- “Về thực trạng pháp luật phá sản Việt Nam hiện nay” của TS. Dương Đăng Huệ,
Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 1/2003;
- “Tài sản phá sản và phân chia tài sản của con nợ bị phá sản” của Hà Thị Thanh
Bình, Tạp chí nghiên cứu lập pháp, số 5/2003;
- “Phá sản doanh nghiệp- Một số vấn đề lý luận và thực tiễn” của Nguyễn Tấn Hơn,
Nhà xuất bản chính trị quốc gia, năm 2005;
- Đặc san chuyên đề về Luật phá sản của Tạp chí Toà án nhân dân, tháng 8-2004;
- Báo cáo rà soát, đánh giá thực tiễn thi hành Luật phá sản năm 2004, Bộ Tư pháp,
năm 2008…
Tuy nhiên, qua nghiên cứu tôi thấy, vấn đề về hoàn thiện pháp luật về thủ tục giải
quyết phá sản doanh nghiệp ở Việt Nam hiện nay vẫn chưa được nhiều nhà khoa học và
những người làm công tác thực tiễn quan tâm nghiên cứu một cách toàn diện, sâu sắc. Vì vậy,
trong bối cảnh khi mà pháp luật Việt Nam về vấn đề này còn nhiều hạn chế thì việc nghiên
cứu đề tài này là rất cần thiết và bổ ích.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài


Để áp dụng đúng đắn các quy định của pháp luật phá sản, cần nghiên cứu để nắm
vững các quy định của pháp luật về phá sản bao gồm: Luật Phá sản năm 2004, các văn bản
hướng dẫn thi hành như Nghị quyết của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao, Nghị
định của Chính phủ…Trong phạm vi luận văn, tôi tập trung nghiên cứu các quy định về thủ
tục giải quyết phá sản doanh nghiệp của Luật Phá sản năm 2004. Thông qua nghiên cứu,
phân tích, luận văn nêu ra những ưu điểm và tồn tại của từng loại thủ tục phá sản và đưa ra
một số giải pháp để hoàn thiện các quy định của pháp luật về các loại thủ tục đó nhằm góp
phần nâng cao hiệu quả hoạt động giải quyết phá sản doanh nghiệp ở Việt Nam trong giai

đoạn hiện nay.
4. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận của Chủ nghĩa Mac- Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật bao gồm phương pháp luận của chủ nghĩa duy
vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, các văn kiện đại hội Đảng, quan điểm của Đảng
và Nhà nước đối với nền kinh tế nói chung và hoạt động của doanh nghiệp nói riêng.
Các phương pháp cụ thể được vận dụng khi viết luận văn là phương pháp phân tích,
tổng hợp, chứng minh, hệ thống hoá pháp luật và phương pháp luật học so sánh. Luận văn
tiến hành tổng hợp và phân tích các quy định trong các văn bản pháp luật của Việt Nam về
phá sản để đánh giá thực trạng, những khó khăn, vướng mắc trong việc giải quyết các doanh
nghiệp lâm vào tình trạng phá sản. Trên cơ sở đó, luận văn sẽ đưa ra những kiến nghị về việc
hoàn thiện các quy định về thủ tục giải quyết phá sản doanh nghiệp ở Việt Nam trong giai
đoạn hiện nay. Sự vận dụng một cách nhuần nhuyễn các phương pháp nghiên cứu cụ thể nêu
trên sẽ góp phần đưa đến thành công của luận văn.
5. Những đóng góp mới của Luận văn
Trên cơ sở nghiên cứu các quy định của pháp luật về thủ tục giải quyết phá sản doanh
nghiệp, luận văn sẽ làm sáng tỏ cơ sở lý luận và thực tiễn, đề xuất các giải pháp nhằm giải
quyết một cách nhanh chóng, kịp thời, hiệu quả của các doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá
sản. Cụ thể, luận văn có những đóng góp mới sau đây:
Một là, nghiên cứu, phân tích các quy định của thủ tục giải quyết phá sản theo quy
định của Luật Phá sản năm 2004, so sánh, phân tích thủ tục giải quyết phá sản theo Luật Phá
sản doanh nghiệp năm 1993 và Luật Phá sản năm 2004.
Hai là, nhận diện và trình bày những quy định chung về thủ tục giải quyết phá sản của
một số nước trên thế giới .
Ba là, đánh giá thực trạng pháp luật về thủ tục giải quyết phá sản doanh nghiệp trong
thời gian qua. Thông qua đó, xác định những vướng mắc, khó khăn của việc áp dụng các quy
định của pháp luật về thủ tục giải quyết phá sản doanh nghiệp.
Bốn là, kiến nghị phương hướng, giải pháp hoàn thiện pháp luật về thủ tục giải quyết
phá sản doanh nghiệp nhằm xây dựng các quy định phù hợp, có hiệu quả cho việc giải quyết
phá sản doanh nghiệp.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của Luận văn
Kết quả nghiên cứu của Luận văn sẽ đóng góp một phần nhỏ vào việc làm sáng tỏ
những vấn đề lý luận và thực tiễn trong việc giải quyết phá sản doanh nghiệp. Những kiến
nghị từ kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ góp phần trực tiếp vào việc hoàn thiện pháp luật
Việt Nam về thủ tục giải quyết phá sản doanh nghiệp trong thời gian tới.
7. Kết cấu của Luận văn:
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của Luận văn
gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về phá sản doanh nghiệp và thủ tục giải quyết phá sản
doanh nghiệp ở Việt Nam hiện nay
Chương 2: Pháp luật về thủ tục giải quyết phá sản doanh nghiệp ở Việt Nam hiện nay


Chương 3: Một số giải pháp hoàn thiện pháp luật về thủ tục giải quyết phá sản doanh nghiệp
ở Việt Nam hiện nay

References
Tiếng Việt
1. Bộ Chính trị (1996), Báo cáo chính trị tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Hà
Nội.
2. Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2006), Báo cáo tình hình doanh nghiệp và định hướng phát
triển giai đoạn 2001- 2006, Hà Nội
3. Bộ Tư pháp (2008), Báo cáo rà soát, đánh giá thực tiễn thi hành Luật Phá sản năm
2004, Hà Nội
4. Chính phủ (2006), Nghị định số 67/2006/NĐ-CP hướng dẫn việc áp dụng Luật phá sản
đối với doanh nghiệp đặc biệt là tổ quản lý, thanh lý tài sản, Hà Nội.
5. Chính phủ (2006), Nghị định số 163/2006/NĐ-CP ngày 29-12-2006 về giao dịch bảo
đảm, Hà Nội.
6. Ngô Cường (2001), Pháp luật quốc tế về phá sản và vận dụng vào việc xây dựng Luật
phá sản (sửa đổi) ở nước ta, Hà Nội.

7. Nguyễn Văn Dũng (2004), Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc áp dụng các quy định của
Luật phá sản về thủ tục phá sản, Hà Nội.
8. Nguyễn Tấn Hơn (2005), Phá sản doanh nghiệp- một số vấn đề thực tiễn, NXB chính trị
quốc gia, Hà Nội.
9. Dương Đăng Huệ (2004), “Địa vị pháp lý của các chủ thể tham gia giải quyết phá sản
theo Luật Phá sản”, Đặc san chuyên đề về Luật phá sản, Hà Nội.
10. Nguyễn Trường Nhật Phượng (2004), Chế độ pháp lý về phá sản - thực tiễn thi hành và
hướng hoàn thiện, Hồ Chí Minh.
11. Quốc hội (1995), Bộ Luật dân sự, Hà Nội.
12. Quốc hội (2005), Bộ Luật dân sự, Hà Nội.
13. Quốc hội (2003), Luật Đất đai, Hà Nội.
14. Quốc hội (1993), Luật Phá sản doanh nghiệp, Hà Nội.
15. Quốc hội (2004), Luật Phá sản, Hà Nội.
16. Đỗ Cao Thắng (2006), “Thực tế vận dụng Luật Phá sản năm 2004 và những vướng
mắc”, Kỷ yếu hội thảo: Luật Phá sản năm 2004 - những tồn tại, vướng mắc.
17. Phạm Xuân Thọ (2006), “Giải quyết phá sản tại thành phố Hồ Chí Minh, thực trạng,
vướng mắc và kiến nghị”, Kỷ yếu hội thảo: Luật Phá sản năm 2004- những tồn tại,
vướng mắc.
18. Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội (2006), “Luật Phá sản năm 2004 - những tồn tại
vướng mắc”, Kỷ yếu hội thảo: Luật Phá sản năm 2004 - những tồn tại vướng mắc.
19. Tòa án nhân dân tối cao (2005), Nghị quyết số 03/2005/NQ-HĐTP ngày 28-4-2005 của
Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành một số quy định
của Luật phá sản năm 2004, Hà Nội.
20. Toà án nhân dân tối cao (2005), Báo cáo tổng kết ngành Tòa án nhân dân, Hà Nội.
21. Toà án nhân dân tối cao (2006), Báo cáo tổng kết ngành Tòa án nhân dân, Hà Nội.
22. Toà án nhân dân tối cao (2007), Báo cáo tổng kết ngành Tòa án nhân dân, Hà Nội.
23. Trung tâm từ điển Luật học (1996), Từ điển Tiếng Việt, NXB Đà Nẵng.
Tiếng Anh
24. Australia (2001), Company Code, section 494.



25. Australia (2001), Company Code, section 446.
26. Australia (2001), Company Code, section 459.
27. Pamela Hanrahan, Ian Ramsay, Geof Stapledon (2004), Commercial Application of
Company Law.
28. United States (1978), Bankruptcy Code, section 341.
29. United States (1978), Bankruptcy Code ,section 362.
30. Vanessa Finc (2009), Corporate Insolvency Law: Perspectives and Principles,
CamBridge University Press.
Trang web
31. />32. />33. Http://oldfrench.radio86.com/view_news.php?id=502
34. ej0106_iv.html
35. Http://www.chinalawblog.com/2007/06/chinas_new_bankruptcy_law_firs.html
36. www.investorwords.com


Hoàn thiện pháp luật về thủ tục giải quyết phá
sản doanh nghiệp ở Việt Nam hiện nay
Trần Thị Thu Trang
Khoa Luật
Luận văn ThS. ngành: Luật kinh tế; Mã số: 60 38 50
Người hướng dẫn: PGS.TS. Dương Đăng Huệ
Năm bảo vệ: 2009
Abstract. Nghiên cứu, phân tích các quy định của thủ tục giải quyết phá sản theo
quy định của Luật Phá sản năm 2004, so sánh, phân tích thủ tục giải quyết phá sản
theo Luật Phá sản doanh nghiệp năm 1993 và Luật Phá sản năm 2004, trình bày
những quy định chung về thủ tục giải quyết phá sản của một số nước trên thế giới.
Đánh giá thực trạng pháp luật về thủ tục giải quyết phá sản doanh nghiệp ở Việt
Nam trong thời gian qua, thông qua đó, xác định những vướng mắc, khó khăn của
việc áp dụng các quy định của pháp luật về thủ tục giải quyết phá sản doanh nghiệp.

Đưa ra các giải pháp hoàn thiện pháp luật về thủ tục giải quyết phá sản doanh nghiệp
nhằm xây dựng các quy định phù hợp, có hiệu quả cho việc giải quyết phá sản doanh
nghiệp.
Keywords. Pháp luật Việt Nam; Luật kinh tế; Luật phá sản; Doanh nghiệp

Content
1. Tính cấp thiết của đề tài
Ở nước ta từ những năm 1980 trở về trước nền kinh tế còn mang nặng tính hành
chính, bao cấp. Với Đại hội Đảng VI (năm 1986), công cuộc đổi mới của đất nước đã được
khởi xướng. Nền kinh tế của nước ta đã có sự tăng trưởng vượt bậc do được xây dựng và hoạt
động trên quan điểm mới - quan điểm phát triển nền kinh tế nhiều thành phần vận hành theo
cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Việc gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) cũng đã góp phần tạo cho nền
kinh tế nước ta cơ hội mới để phát triển toàn diện đồng thời cũng đặt ra những thách thức lớn,
đòi hỏi nước ta phải tiếp tục hoàn thiện môi trường kinh doanh, hoàn thiện hệ thống pháp luật
để tạo được môi trường kinh doanh lành mạnh, bình đẳng, an toàn cho nhà đầu tư.
Trong nền kinh tế thị trường, các loại hình doanh nghiệp khác nhau thuộc mọi thành
phần kinh tế đều được Nhà nước khuyến khích thành lập và tạo điều kiện hoạt động một cách
bình đẳng và cạnh tranh trong khuôn khổ pháp luật. Tuy nhiên do nhiều nguyên nhân khác
nhau mà bên cạnh những doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả, tạo ra nhiều sản phẩm cho xã hội
thì còn có một bộ phận không nhỏ những doanh nghiệp đã và đang làm ăn thua lỗ, mất khả
năng thanh toán. Vì vậy có thể nói, phá sản là một thuộc tính của nền kinh tế thị trường. Để
tạo cơ sở pháp lý cho việc xử lý tài sản của các doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản, bảo
vệ lợi ích của chủ nợ, con nợ và của Nhà nước nói chung, Nhà nước nào cũng phải ban hành
Luật Phá sản. Luật Phá sản doanh nghiệp năm 1993 của nước ta được ban hành là nhằm đảm


bảo thực hiện yêu cầu này. Tuy nhiên, trong quá trình thi hành các quy định của Luật Phá sản
doanh nghiệp năm 1993 cho thấy Luật này còn nhiều quy định tỏ ra bất cập, chưa phù hợp
với thực tế khách quan. Để khắc phục những tồn tại đó và đáp ứng được yêu cầu hội nhập

kinh tế quốc tế, từ năm 2000 Quốc hội đã có kế hoạch sửa đổi bổ sung Luật Phá sản doanh
nghiệp năm 1993. Tại kỳ họp thứ 5, Quốc hội khoá XI đã thông qua Luật phá sản mới thay
thế cho Luật Phá sản doanh nghiệp năm 1993. Luật Phá sản năm 2004 ra đời là một bước tiến
mới trong hệ thống pháp luật về phá sản ở nước ta, đã tạo điều kiện để các doanh nghiệp lâm
vào tình trạng phá sản có thể phục hồi sản xuất - kinh doanh, thúc đẩy sự lưu thông vốn trong
nền kinh tế thị trường, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ nợ. Luật Phá sản năm
2004 là kết quả của quá trình tổng kết kinh nghiệm 10 năm thi hành Luật Phá sản doanh
nghiệp năm 1993 và tiếp thu kinh nghiệm của các nước trên thế giới.
Tuy nhiên thủ tục giải quyết phá sản của Luật Phá sản năm 2004 vẫn còn một số vấn
đề hạn chế lớn như sau:
- Thứ nhất, Luật Phá sản năm 2004 xác định Toà án có vai trò trung tâm trong quá
trình tiến hành thủ tục phá sản, nhưng Toà án sẽ không thể thực hiện tốt nhiệm vụ của mình
nếu không có sự phối hợp tích cực của Cơ quan thi hành án. Trên thực tế, do thiếu các quy
định cần thiết trong Luật, cộng với việc các Chấp hành viên, Tổ trưởng Tổ quản lý, thanh lý
tài sản chưa nhận thức đầy đủ trách nhiệm, quyền hạn của mình nên đã không tích cực phối
hợp, dẫn đến việc giải quyết phá sản không đạt hiệu quả.
- Thứ hai, nhiều vấn đề phát sinh trong giai đoạn từ khi nhận đơn xin mở thủ tục giải
quyết phá sản cho đến lúc Toà án ra quyết định tuyên bố phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã
đều do cán bộ của các cơ quan nhà nước thực hiện.Các quy định của Luật như vậy là không
phù hợp với nguyên tắc dân sự là quyền quyết định và tự định đoạt thuộc về các đương sự.
- Thứ ba, theo Luật Phá sản doanh nghiệp năm 1993, có 2 tổ chức được thành lập là
Tổ quản lý tài sản và Tổ thanh toán tài sản. Để đảm bảo tập trung đầu mối quản lý, giảm thủ
tục hành chính, Luật Phá sản năm 2004 đã quy định thành lập một Tổ là Tổ quản lý và thanh
lý tài sản do một Chấp hành viên của Cơ quan thi hành án cùng cấp làm tổ trưởng. Tuy nhiên,
trên thực tế, hoạt động của Tổ quản lý và thanh lý tài sản đã không đạt hiệu quả do nhiều quy
định về nó chưa hợp lý, chưa khoa học, không phù hợp với điều kiện cụ thể của nước ta hiện
nay.
- Thứ tư, theo quy định của Luật Phá sản năm 2004, người đại diện theo pháp luật của
doanh nghiệp được uỷ quyền cho người khác đề nghị Toà án mở thủ tục phá sản với chính
doanh nghiệp mình và tham gia toàn bộ quá trình giải quyết của Toà án. Tuy nhiên, do Luật

không quy định cụ thể điều kiện của người được uỷ quyền nên trên thực tế có nhiều người
nhận uỷ quyền của các doanh nghiệp nhưng lại không nắm được tình hình công nợ, tình hình
tài sản của doanh nghiệp nên đã kê khai không đúng với Tổ quản lý, thanh lý tài sản. Việc
thiếu những quy định chặt chẽ về trách nhiệm của các doanh nghiệp cũng như của Tổ quản
lý, thanh lý tài sản đã dẫn đến nhiều khoản nợ phải thu của doanh nghiệp phá sản đã không
được thu hồi kịp thời trước khi tuyên bố phá sản, làm cho việc thụ lý giải quyết vụ án phá sản
bị kéo dài.
Từ những ví dụ nêu trên, cùng với nhiều hạn chế có tính thủ tục khác đã làm giảm
hiệu lực của Luật Phá sản năm 2004 trong cuộc sống. Để góp phần nâng cao hơn nữa hiệu lực
và hiệu quả của Luật này, Tôi chọn đề tài: “Hoàn thiện pháp luật về thủ tục giải quyết phá sản
doanh nghiệp ở Việt Nam hiện nay” làm đề tài luận văn tốt nghiệp cao học luật tại Đại học
Quốc gia Hà Nội.
2. Tình hình nghiên cứu
Vấn đề phá sản có thể nói không còn là vấn đề hoàn toàn mới mẻ ở Việt Nam. Xung
quanh vấn đề này, đã có nhiều công trình nghiên cứu do các nhà khoa học pháp lý, người làm
công tác thực tiễn của Việt Nam thực hiện. Các công trình nghiên cứu về pháp luật phá sản


được thực hiện dưới nhiều hình thức với nhiều cấp độ khác nhau. Trong đó có công trình
nghiên cứu toàn diện về các vấn đề liên quan đến pháp luật phá sản nhưng cũng có công trình
chỉ nghiên cứu một khía cạnh nhất định liên quan đến pháp luật phá sản.
Trong số các công trình nghiên cứu về pháp luật phá sản ở nước ta sau khi Luật Phá
sản năm 2004 được ban hành, có thể kể đến một số công trình nghiên cứu như sau:
- Công trình nghiên cứu khoa học cấp Bộ của TS. Nguyễn Văn Dũng về “Cơ sở lý
luận và thực tiễn của việc áp dụng các quy định của Luật phá sản về thủ tục phá sản” năm
2004;
- Luận văn thạc sỹ Luật học của Nguyễn Trường Nhật Phượng với đề tài “Chế độ
pháp lý về phá sản- Thực tiễn thi hành và hướng hoàn thiện”, được bảo vệ thành công tại
trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh tháng 8/2004. Luận văn dày 156 trang đã
nghiên cứu một cách tương đối toàn diện các vấn đề liên quan đến pháp luật về phá sản ở

nước ta trong đó có Luật Phá sản năm 2004. Tuy nhiên do luận văn được viết khi Luật Phá
sản năm 2004 mới được ban hành nên chưa xem xét, đánh giá được tính hiệu lực và hiệu quả
của Luật Phá sản năm 2004;
- Công trình nghiên cứu “Pháp luật phá sản của Việt Nam” của PGS.TS Dương Đăng
Huệ, Nhà xuất bản tư pháp, năm 2005. Đây là công trình chuyên khảo nghiên cứu một cách
đầy đủ, toàn diện các vấn đề liên quan đến phá sản như một hạ tầng của kinh tế thị trường và
pháp luật về phá sản với tư cách là một công cụ pháp lý để giải quyết hậu quả của doanh
nghiệp bị Toà án tuyên bố phá sản. Công trình này cũng đã dành nhiều trang cho việc nghiên
cứu các quy định mới của Luật Phá sản năm 2004 so với Luật Phá sản doanh nghiệp năm
1993. Tuy nhiên, do tính bao quát của mình nên công trình đã không dành nhiều công sức
cho việc nghiên cứu một cách chi tiết các thủ tục phá sản theo Luật Phá sản năm 2004.
- Luận án tiến sĩ “Hoàn thiện các quy định liên quan đến quản lý và thanh lý tài sản
phá sản” của Nguyễn Thị Hồng Vân, được bảo vệ thành công tại khoa Luật, Đại học quốc gia
Hà Nội năm 2008. Đây là một công trình nghiên cứu rất chuyên sâu về các hạn chế, yếu kém
trong các quy định của pháp luật có liên quan đến công tác quản lý và thanh lý tài sản phá sản
và Tổ quản lý, thanh lý tài sản. Như vậy, các nội dung khác của Luật Phá sản chưa được đề
cập đến trong luận án này;
- Công trình nghiên cứu khoa học cấp Bộ “ Thực trạng pháp luật về phá sản và việc
hoàn thiện môi trường pháp luật kinh doanh tại Việt Nam” của Bộ Tư pháp bảo vệ năm
2009…
Ngoài ra, còn có nhiều bài viết, công trình nghiên cứu đăng trên các tạp chí, các báo
cáo chuyên đề, hội thảo chuyên đề về phá sản và pháp luật về phá sản như:
- “Về thực trạng pháp luật phá sản Việt Nam hiện nay” của TS. Dương Đăng Huệ,
Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 1/2003;
- “Tài sản phá sản và phân chia tài sản của con nợ bị phá sản” của Hà Thị Thanh
Bình, Tạp chí nghiên cứu lập pháp, số 5/2003;
- “Phá sản doanh nghiệp- Một số vấn đề lý luận và thực tiễn” của Nguyễn Tấn Hơn,
Nhà xuất bản chính trị quốc gia, năm 2005;
- Đặc san chuyên đề về Luật phá sản của Tạp chí Toà án nhân dân, tháng 8-2004;
- Báo cáo rà soát, đánh giá thực tiễn thi hành Luật phá sản năm 2004, Bộ Tư pháp,

năm 2008…
Tuy nhiên, qua nghiên cứu tôi thấy, vấn đề về hoàn thiện pháp luật về thủ tục giải
quyết phá sản doanh nghiệp ở Việt Nam hiện nay vẫn chưa được nhiều nhà khoa học và
những người làm công tác thực tiễn quan tâm nghiên cứu một cách toàn diện, sâu sắc. Vì vậy,
trong bối cảnh khi mà pháp luật Việt Nam về vấn đề này còn nhiều hạn chế thì việc nghiên
cứu đề tài này là rất cần thiết và bổ ích.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài


Để áp dụng đúng đắn các quy định của pháp luật phá sản, cần nghiên cứu để nắm
vững các quy định của pháp luật về phá sản bao gồm: Luật Phá sản năm 2004, các văn bản
hướng dẫn thi hành như Nghị quyết của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao, Nghị
định của Chính phủ…Trong phạm vi luận văn, tôi tập trung nghiên cứu các quy định về thủ
tục giải quyết phá sản doanh nghiệp của Luật Phá sản năm 2004. Thông qua nghiên cứu,
phân tích, luận văn nêu ra những ưu điểm và tồn tại của từng loại thủ tục phá sản và đưa ra
một số giải pháp để hoàn thiện các quy định của pháp luật về các loại thủ tục đó nhằm góp
phần nâng cao hiệu quả hoạt động giải quyết phá sản doanh nghiệp ở Việt Nam trong giai
đoạn hiện nay.
4. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận của Chủ nghĩa Mac- Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật bao gồm phương pháp luận của chủ nghĩa duy
vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, các văn kiện đại hội Đảng, quan điểm của Đảng
và Nhà nước đối với nền kinh tế nói chung và hoạt động của doanh nghiệp nói riêng.
Các phương pháp cụ thể được vận dụng khi viết luận văn là phương pháp phân tích,
tổng hợp, chứng minh, hệ thống hoá pháp luật và phương pháp luật học so sánh. Luận văn
tiến hành tổng hợp và phân tích các quy định trong các văn bản pháp luật của Việt Nam về
phá sản để đánh giá thực trạng, những khó khăn, vướng mắc trong việc giải quyết các doanh
nghiệp lâm vào tình trạng phá sản. Trên cơ sở đó, luận văn sẽ đưa ra những kiến nghị về việc
hoàn thiện các quy định về thủ tục giải quyết phá sản doanh nghiệp ở Việt Nam trong giai
đoạn hiện nay. Sự vận dụng một cách nhuần nhuyễn các phương pháp nghiên cứu cụ thể nêu

trên sẽ góp phần đưa đến thành công của luận văn.
5. Những đóng góp mới của Luận văn
Trên cơ sở nghiên cứu các quy định của pháp luật về thủ tục giải quyết phá sản doanh
nghiệp, luận văn sẽ làm sáng tỏ cơ sở lý luận và thực tiễn, đề xuất các giải pháp nhằm giải
quyết một cách nhanh chóng, kịp thời, hiệu quả của các doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá
sản. Cụ thể, luận văn có những đóng góp mới sau đây:
Một là, nghiên cứu, phân tích các quy định của thủ tục giải quyết phá sản theo quy
định của Luật Phá sản năm 2004, so sánh, phân tích thủ tục giải quyết phá sản theo Luật Phá
sản doanh nghiệp năm 1993 và Luật Phá sản năm 2004.
Hai là, nhận diện và trình bày những quy định chung về thủ tục giải quyết phá sản của
một số nước trên thế giới .
Ba là, đánh giá thực trạng pháp luật về thủ tục giải quyết phá sản doanh nghiệp trong
thời gian qua. Thông qua đó, xác định những vướng mắc, khó khăn của việc áp dụng các quy
định của pháp luật về thủ tục giải quyết phá sản doanh nghiệp.
Bốn là, kiến nghị phương hướng, giải pháp hoàn thiện pháp luật về thủ tục giải quyết
phá sản doanh nghiệp nhằm xây dựng các quy định phù hợp, có hiệu quả cho việc giải quyết
phá sản doanh nghiệp.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của Luận văn
Kết quả nghiên cứu của Luận văn sẽ đóng góp một phần nhỏ vào việc làm sáng tỏ
những vấn đề lý luận và thực tiễn trong việc giải quyết phá sản doanh nghiệp. Những kiến
nghị từ kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ góp phần trực tiếp vào việc hoàn thiện pháp luật
Việt Nam về thủ tục giải quyết phá sản doanh nghiệp trong thời gian tới.
7. Kết cấu của Luận văn:
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của Luận văn
gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về phá sản doanh nghiệp và thủ tục giải quyết phá sản
doanh nghiệp ở Việt Nam hiện nay
Chương 2: Pháp luật về thủ tục giải quyết phá sản doanh nghiệp ở Việt Nam hiện nay



Chương 3: Một số giải pháp hoàn thiện pháp luật về thủ tục giải quyết phá sản doanh nghiệp
ở Việt Nam hiện nay

References
Tiếng Việt
1. Bộ Chính trị (1996), Báo cáo chính trị tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Hà
Nội.
2. Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2006), Báo cáo tình hình doanh nghiệp và định hướng phát
triển giai đoạn 2001- 2006, Hà Nội
3. Bộ Tư pháp (2008), Báo cáo rà soát, đánh giá thực tiễn thi hành Luật Phá sản năm
2004, Hà Nội
4. Chính phủ (2006), Nghị định số 67/2006/NĐ-CP hướng dẫn việc áp dụng Luật phá sản
đối với doanh nghiệp đặc biệt là tổ quản lý, thanh lý tài sản, Hà Nội.
5. Chính phủ (2006), Nghị định số 163/2006/NĐ-CP ngày 29-12-2006 về giao dịch bảo
đảm, Hà Nội.
6. Ngô Cường (2001), Pháp luật quốc tế về phá sản và vận dụng vào việc xây dựng Luật
phá sản (sửa đổi) ở nước ta, Hà Nội.
7. Nguyễn Văn Dũng (2004), Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc áp dụng các quy định của
Luật phá sản về thủ tục phá sản, Hà Nội.
8. Nguyễn Tấn Hơn (2005), Phá sản doanh nghiệp- một số vấn đề thực tiễn, NXB chính trị
quốc gia, Hà Nội.
9. Dương Đăng Huệ (2004), “Địa vị pháp lý của các chủ thể tham gia giải quyết phá sản
theo Luật Phá sản”, Đặc san chuyên đề về Luật phá sản, Hà Nội.
10. Nguyễn Trường Nhật Phượng (2004), Chế độ pháp lý về phá sản - thực tiễn thi hành và
hướng hoàn thiện, Hồ Chí Minh.
11. Quốc hội (1995), Bộ Luật dân sự, Hà Nội.
12. Quốc hội (2005), Bộ Luật dân sự, Hà Nội.
13. Quốc hội (2003), Luật Đất đai, Hà Nội.
14. Quốc hội (1993), Luật Phá sản doanh nghiệp, Hà Nội.
15. Quốc hội (2004), Luật Phá sản, Hà Nội.

16. Đỗ Cao Thắng (2006), “Thực tế vận dụng Luật Phá sản năm 2004 và những vướng
mắc”, Kỷ yếu hội thảo: Luật Phá sản năm 2004 - những tồn tại, vướng mắc.
17. Phạm Xuân Thọ (2006), “Giải quyết phá sản tại thành phố Hồ Chí Minh, thực trạng,
vướng mắc và kiến nghị”, Kỷ yếu hội thảo: Luật Phá sản năm 2004- những tồn tại,
vướng mắc.
18. Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội (2006), “Luật Phá sản năm 2004 - những tồn tại
vướng mắc”, Kỷ yếu hội thảo: Luật Phá sản năm 2004 - những tồn tại vướng mắc.
19. Tòa án nhân dân tối cao (2005), Nghị quyết số 03/2005/NQ-HĐTP ngày 28-4-2005 của
Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành một số quy định
của Luật phá sản năm 2004, Hà Nội.
20. Toà án nhân dân tối cao (2005), Báo cáo tổng kết ngành Tòa án nhân dân, Hà Nội.
21. Toà án nhân dân tối cao (2006), Báo cáo tổng kết ngành Tòa án nhân dân, Hà Nội.
22. Toà án nhân dân tối cao (2007), Báo cáo tổng kết ngành Tòa án nhân dân, Hà Nội.
23. Trung tâm từ điển Luật học (1996), Từ điển Tiếng Việt, NXB Đà Nẵng.
Tiếng Anh
24. Australia (2001), Company Code, section 494.


25. Australia (2001), Company Code, section 446.
26. Australia (2001), Company Code, section 459.
27. Pamela Hanrahan, Ian Ramsay, Geof Stapledon (2004), Commercial Application of
Company Law.
28. United States (1978), Bankruptcy Code, section 341.
29. United States (1978), Bankruptcy Code ,section 362.
30. Vanessa Finc (2009), Corporate Insolvency Law: Perspectives and Principles,
CamBridge University Press.
Trang web
31. />32. />33. Http://oldfrench.radio86.com/view_news.php?id=502
34. ej0106_iv.html
35. Http://www.chinalawblog.com/2007/06/chinas_new_bankruptcy_law_firs.html

36. www.investorwords.com



×