Tải bản đầy đủ (.doc) (28 trang)

Tiểu luận văn hoá việt nam trong quá trình hội nhập quốc tế hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (230.95 KB, 28 trang )

Đề tài: "Văn hoá Việt Nam trong quá trình hội hập quốc tế hiện nay”.

-------------------------------------------------------------------------------------------------------------

A. PHẦN MỞ ĐẦU
*****
1. Tính cấp thiết của đề tài.
Văn hoá dân tộc Việt Nam được hình thành và phát triển qua hàng
nghìn năm lao động sáng tạo, đấu tranh kiên cường, là sản phẩm của sự kết
hợp nhuần nhuyễn các nhân tố khách quan và chủ quan. Cố Thủ tướng Phạm
Văn Đồng từng nói: “Văn hoá là sợi chỉ đỏ xuyên suốt toàn bộ lịch sử của
dân tộc, nó làm nên sức sống mãnh liệt, giúp cộng đồng dân tộc Việt Nam
vượt qua biết bao sống gió và thác ghềnh tưởng chừng không thể vượt qua
được, để không ngừng phát triển và lớn mạnh”.
Chúng ta đang sống trong thời đại mà quá khứ và sự đa dạng của cuộc
sống hiện tại đang hoà quyện vào nhau. Toàn bộ nền văn hoá văn minh của
nhân loại và từng quốc gia đang sống lại, đang được bổ sung cho hiện tại và
dự báo cho tương lai. Giá trị văn hoá nói chung của toàn nhân loại cũng như
các nền văn hoá của mỗi quốc gia dân tộc là do chính con người qua nhiều thế
hệ sáng tạo ra và chính văn hoá lại là điều kiện tồn tại và phát triển của đời
sống con người.
Trong sự nghiệp đổi mới hiện nay, Đảng ta xác định văn hoá là nền
tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực để thúc đẩy kinh tế
- xã hội phát triển. Nền văn hoá mà chúng ta đang xây dựng là nền văn hoá
tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, vừa kế thừa và phát huy truyền thống tốt
đẹp của văn hoá dân tộc, vừa tiếp thu tinh hoa văn hoá của nhân loại, khẳng
định được tầm vóc, trình độ, bản lĩnh và bản sắc của văn hoá Việt Nam trong
giao lưu và hợp tác quốc tế. Cùng với chính sách mở cửa, phát triển kinh tế
thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện
đại hoá đất nước, Đảng ta đã chỉ rõ cần chủ động hội nhập kinh tế để phát
triển đất nước. Trong Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của


Đảng ta xác định: “Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng nền
kinh tế độc lập, tự chủ, đưa nước ta trở thành một nước công nghiệp; ưu tiên
phát triển lực lượng sản xuất, đồng thời xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp
theo định hướng xã hội chủ nghĩa; phát huy cao độ nội lực, đồng thời tranh
thủ nguồn lực bên ngoài và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế để phát triển
nhanh, có hiệu quả và bền vững; tăng trưởng kinh tế đi liền với phát triển văn
hoá, từng bước cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, thực
hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ và cải thiện môi trường; kết hợp
phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường quốc phòng – an ninh”.
Một trong những nhân tố quan trọng tác động mạnh mẽ tới nền văn hoá
Việt Nam trong giai đoạn hiện nay là quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Việt
Nam đã từng bước mở rộng quan hệ với bên ngoài, tích cực tham gia các tổ
------------------------------------------------------------------------------------------------------------1


Đề tài: "Văn hoá Việt Nam trong quá trình hội hập quốc tế hiện nay”.

-------------------------------------------------------------------------------------------------------------

chức trong khu vực và trên thế giới, thực hiện hội hập quốc tế. Đến nay, nước
ta đã gia nhập vào các tổ chức: ASEAN và AFTA, ASEM và APEC, đã bình
thường quá quan hệ với IMF và WB, gia nhập tổ chức thương mại thế giới
WTO và trở thành thành viên không thường trực của Hội đồng Bảo an Liên
hiệp quốc,… quá trình này đã và đang mang lại những thời cơ và thách thức
đối với sự phát triển của văn hoá dân tộc.
Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế tạo ra những động lực kích thích để
xây dựng và phát triển văn hoá dân tộc, góp phần nâng cao năng lực nội sinh
của văn hoá dân tộc trong quá trình hiện đại hoá, hội nhập với trình độ phát
triển chung của các nước trong khu vực và cộng đồng quốc tế. Tuy nhiên, quá
trình hội nhập quốc tế cũng đang tạo ra những thách thức to lớn đối với nền

văn hoá dân tộc. Một số lĩnh vực văn hoá chưa tương xứng với tốc độ phát
triển kinh tế, thậm chí lại xuất hiện những biểu hiện đáng lo ngại, đặc biệt về
tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống,… Những thách thức này cần phải được
nghiên cứu và khắc phục
Về hội nhập kinh tế quốc tế, tư tưởng của Đảng ta được khẳng định rất
rõ trong Văn kiện Đại hội IX: “Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực
theo tinh thần phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế,
đảm bảo độc lập, tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích dân
tộc, an ninh quốc gia, giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc, bảo vệ môi trường”.
Song song với quá trình hội nhập kinh tế, chúng ta cần chú ý nghiên
cứu những vấn đề về văn hoá của Việt Nam hiện nay. Vì vậy, chúng tôi chọn
đề tài “Văn hoá Việt Nam trong quá trình hội nhập quốc tế hiện nay” có ý
nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế và
xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc hiện nay.
2. Lịch sử nghiên cứu đề tài.
Đất nước ta có truyền thống lịch sử văn hoá rất lâu đời. Lịch sử các chế
độ xã hội cũng như lịch sử văn hoá dân tộc diễn ra không thuần nhất, mà có
lúc quanh co, lên xuống. Văn hoá là một lĩnh vực mang tính độc lập tương
đối. Nếu hiểu văn hoá là yếu tố cốt lõi, nền tảng tinh thần, là hệ giá trị và
chuẩn mực xã hội thì lịch sử văn hoá chính là lịch sử biến đổi của các hệ giá
trị và chuẩn mực xã hội, trong đó giá trị chính trị đóng vai trò quan trọng nhất
trong việc định hướng và điều tiết xã hội.
Văn hoá Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế đã được
nhiều tác giả nghiên cứu, nhất là trong những năm gần đây, khi nền kinh tế đã
chuyển sang cơ chế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa nhằm đưa
văn hoá về với vị trí đích thực của nó với ý nghĩa là nền tảng tinh thần của xã
hội, vừa là mục tiêu và động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội. Có thể
kể đến một số công trình nghiên cứu cụ thể như sau:
------------------------------------------------------------------------------------------------------------2



Đề tài: "Văn hoá Việt Nam trong quá trình hội hập quốc tế hiện nay”.

-------------------------------------------------------------------------------------------------------------

Trần Văn Bính (chủ biên): Văn hoá dân tộc trong quá trình mở cửa ở
nước ta hiện nay. Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội - 1996.
Nguyễn Khoa Điềm (chủ biên): Về xây dựng nền văn hoá Việt Nam
tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội - 2000.
Phạm Duy Đức (chủ biên): Những thách thức của văn hoá Việt Nam
trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Nxb Thông tin – Văn hoá và Viện
Văn hoá, Hà Nội - 2006.
Phạm Duy Đức: Giao lưu văn hoá nghệ thuật và sự phát triển văn hoá ở
nước ta hiện nay. Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội - 1996.
Phạm Minh Hạc: Phát triển văn hoá, giữ gìn và phát huy bản sắc dân
tộc kết tinh với tinh hoa nhân loại. Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội - 1996.
Hội nhập quốc tế và giữ vững bản sắc. Bộ Ngoại giao. Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội - 1995.
Mấy vấn đề văn hoá và phát triển ở Việt Nam hiện nay. Bộ Văn hoá
Thông tin, Hà Nội - 1992.
Phan Ngọc: Văn hoá Việt Nam và cách tiếp cận mới. Nxb Văn hoá –
Thông tin, Hà Nội 1994.
Trần Ngọc Thêm: Văn hoá Việt Nam đối mặt với kinh tế thị trường.
Tạp chí Cộng sản, số 16 (11/1995).
Trần Quốc Vượng (chủ biên): Cơ sở văn hoá Việt Nam. Nxb Giáo dục,
Hà Nội 2003.
Toàn cầu hoá, khu vực hoá: Cơ hội và thách thức đối với các nước
đang phát triển. Trung tâm Khoa học xã hội và Nhân văn quốc gia, Hà Nội 2000.
Văn hoá trong phát triển và toàn cầu hoá. Trung tâm Khoa học xã hội
và Nhân văn quốc gia, Hà Nội - 1996.

Lương Quỳnh Khuê (chủ biên): Giáo trình Lý luận văn hoá Mác –
Lênin. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội - 2002.
Từ nhiều góc độ nghiên cứu, cách tiếp cận khác nhau, các tác giả đã đề
cập đến vai trò, đặc trưng, phương hướng của nền văn hoá mới phù hợp với
sự phát triển của đất nước, qua đó cũng thể hiện rõ quan điểm, chủ trương của
Đảng trong quá trình xây dựng nền văn hoá Việt Nam trong quá trình hội
nhập quốc tế hiện nay.
Trong phạm vi đề tài này, chúng tôi muốn tìm hiểu khái niệm, vai trò,
thực trạng và một số giải pháp để xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt
Nam trong quá trình hội nhập quốc tế hiện nay.
Những công trình nghiên cứu trên là những tài liệu rất quý báo giúp
chúng tôi khai thác mảng đề tài này.

------------------------------------------------------------------------------------------------------------3


Đề tài: "Văn hoá Việt Nam trong quá trình hội hập quốc tế hiện nay”.

-------------------------------------------------------------------------------------------------------------

B. PHẦN NỘI DUNG
*****
CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ VĂN
HOÁ VÀ HỘI NHẬP QUỐC TẾ.
1.1. Văn hoá và vai trò của văn hoá trong đời sống xã hội.
1.1.1. Khái niệm văn hoá:
Muốn nghiên cứu về văn hoá, trước hết chúng ta phải có khái niệm
chính xác và nhất quán về văn hóa. Có rất nhiều nhà nghiên cứu định nghĩa
văn hóa nhưng đến nay vẫn chưa có được một sự nhất trí và cũng chưa có
định nghĩa nào thoả mãn được cả về định tính và định lượng. Điều đó, có

những nguyên nhân sau đây:
Thứ nhất, trong số những nhà nghiên cứu về văn hóa, họ thường qui
văn hóa vào những lĩnh vực hạn hẹp, cụ thể, xem xét những bộ phận cá biệt
của nó chứ chưa có một cách tiếp cận tổng thể.
Thứ hai, văn hóa là một lĩnh vực rộng lớn, rất phong phú và phức tạp,
do đó khái niệm văn hóa cũng đa nghĩa. Khi đề cập đến nó mỗi người có một
cách hiểu riêng tùy thuộc vào góc độ tiếp cận.
Thứ ba, giống như tất cả các ngành khoa học xã hội khác, ngành văn
hóa học có lịch sử lâu dài trong lịch sử phát triển của xã hội loài người. Trong
quá trình phát triển lịch sử đó thì nội dung của khái niệm văn hóa cũng thay
đổi theo.
Ngay từ thế kỷ XIX, đã xuất hiện rất nhiều lý thuyết nghiên cứu về văn
hoá, mỗi lý thuyết đưa ra một hướng tiếp cận khác nhau cùng nhiều biến thái
của nó khiến cho việc đi tìm một định nghĩa văn hoá khả dĩ thoả mãn tất cả là
điều khó có thể thực hiện được.
Trong tác phẩm “Văn hoá nguyên thuỷ” của E.Thailơ, ông đưa ra định
nghĩa về văn hoá như sau: “Văn hoá, hiểu theo nghĩa rộng nhất của nó là
những phức thể bao gồm hiểu biết, tín ngưỡng, nghệ thuật, đạo đức, pháp
luật, phong tục cùng những khả năng và tập quán khác mà con người có
được với tư cách là một thành viên của xã hội”.
Theo ông Federico Mayor Laragoza - nguyên Tổng Giám đốc
UNESCO thì: "Văn hóa là tổng thể sống động các hoạt động sáng tạo trong
quá khứ và hiện tại. Qua các thế kỷ, hoạt động sáng tạo ấy đã hình thành nên
một hệ thống các giá trị, các truyền thống và các thị hiếu - những yếu tố xác
định đặc tính riêng của mỗi dân tộc”.
Trong những năm 1942-1943, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đưa ra khái
niệm: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng
tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn
giáo văn hoá, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hằng ngày về mặc,
------------------------------------------------------------------------------------------------------------4



Đề tài: "Văn hoá Việt Nam trong quá trình hội hập quốc tế hiện nay”.

-------------------------------------------------------------------------------------------------------------

ăn, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó
chính là văn hoá. Văn hoá là sự tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt
cùng với biểu hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng
những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn”.
Kế thừa định nghĩa của các nhà khoa học trong và ngoài nước, chúng ta
có thể đi đến định nghĩa về văn hoá như sau: “Văn hoá là hệ thống các giá trị
vật chất và tinh thần được sáng tạo, tích luỹ trong lịch sử nhờ quá trình hoạt
động thực tiễn của con người. Các giá trị này được cộng đồng chấp nhận,
vận hành trong đời sống xã hội và liên tiếp truyền lại cho thế hệ sau. Văn hoá
thể hiện trình độ phát triển và những đặc tính riêng của mỗi dân tộc”.
Như vậy, theo quan niệm của chúng tôi, văn hoá là cái gì còn lại khi
người ta đã quên đi tất cả, là cái vẫn thiếu khi người ta đã học tất cả. Văn hóa
là một hiện tượng khách quan, là tổng hoà của tất cả các khía cạnh của đời
sống. Ngay cả những khía cạnh nhỏ nhặt nhất của cuộc sống cũng mang
những dấu hiệu văn hóa. Rất nhiều thứ mới thoạt nhìn thì giống nhau, nhưng
nếu xem xét kỹ thì lại có những điểm riêng biệt. Trong thực tế, không có sự
giống nhau tuyệt đối.
1.1.2. Vai trò của văn hoá trong phát triển kinh tế - xã hội.
1.1.2.1. Quá trình đổi mới nhận thức về vai trò của văn hoá trong
phát triển kinh tế - xã hội.
Từ lâu loài người đã nhận thức được rằng, văn hoá là toàn bộ mặt tinh
thần của xã hội, là tấm gương phản chiếu tâm hồn, hơi thở của một dân tộc,
một đất nước. Vài chục năm trở lại đây người ta đã nhận thức thêm ràng, văn
hoá không chỉ là kết quả của hoạt động xã hội mà ngược lại chính nó là mục

tiêu và động lực của sự phát triển xã hội. Mọi kế hoạch phát triển nếu muốn
đạt kết quả tốt phải xuất phát từ mục tiêu và cách nhìn văn hoá. Văn hoá vốn
có vị trí trung tâm và giữ vai trò điều tiết xã hội ở mỗi quốc gia dân tộc. Nhờ
bản sắc dân tộc được giữ gìn và phát triển mà nhiều quốc gia có được nền
kinh tế và văn hoá phát triển nhịp nhàng, sự phát triển về kinh tế lại tạo điều
kiện cho sự phát triển của văn hoá tạo ra những khả năng sáng tạo đa dạng và
phong phú cho dân tộc. Kinh nghiệm của một số nước phát triển cho thấy
trong quá trình phát triển kết hợp những yếu tố ngoại sinh (vốn, kỹ thuật, kinh
nghiệm quản lý,...) với yếu tố nội sinh (kế thừa, phát huy các giá trị văn hoá
truyền thống của dân tộc) đã đạt được những thành tựu đáng kể. Điều đó nói
lên bản sắc văn hoá của dân tộc có ảnh hưởng rất quan trọng đối với sự phát
triển.
Kế thừa kinh nghiệm của dân tộc, tiếp thu tinh thần của thời đại, dựa
trên định hướng phát triển của đất nước, Đảng và Nhà nước ta đã sớm đổi mới
tư duy về văn hoá, tiến đến một nhận thức mới sâu sắc, toàn diện về văn hoá
và vai trò của nó đối với sự phát triển kinh tế - xã hội. Từ Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ VI tới nay, trong quan điểm, đường lối và chính sách phát
------------------------------------------------------------------------------------------------------------5


Đề tài: "Văn hoá Việt Nam trong quá trình hội hập quốc tế hiện nay”.

-------------------------------------------------------------------------------------------------------------

triển, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn khẳng định: Văn hoá là nền tảng tinh
thần của xã hội, vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế
- xã hội. Quan điểm này hàm chứa một nội dung lý luận và thực tiễn vô cùng
sâu sắc, vừa bổ sung và phát triển lý luận văn hoá mác xít, vừa vận dụng vào
thực tiễn xây dựng đất nước trong những điều kiện mới.
1.1.2.2. Văn hoá là nền tảng tinh thần của xã hội.

Văn hoá tinh thần đóng vai trò quyết định nhất trong việc làm lành
mạnh hoá đời sống tinh thần, nâng cao chất lượng đời sống tinh thần của xã
hội. Vì: “Văn hoá tinh thần là bộ phận cấu thành hữu cơ của văn hoá, bao
gồm hệ thống những giá trị tinh thần được sáng tạo và tích luỹ trong lịch sử
nhờ hoạt động sản xuất tinh thần của con người. Văn hoá tinh thần biểu hiện
sự phát triển về trí tuệ, tinh thần, cảm xúc của con người hướng tới cái đúng,
cái tốt, cái đẹp”.
Trước đây, người ta thường nhấn mạnh cơ sở kinh tế là nền tảng tinh
thần của xã hội, trên đó xây dựng kiến trúc thượng tầng, trong đó văn hoá
chịu sự quy định chặt chẽ của nền kinh tế và có tác động trở lại đối với nền
kinh tế. Văn hoá tinh thần thường mang dấu ấn của các hình thái kinh tế - xã
hội, do đó văn hoá nhất trí với thượng tầng kiến trúc về phương diện đó. Nói
đến văn hoá là nói đến những giá trị liên tục được sáng tạo trong quá trình
lịch sử lâu dài. Đó là những giá trị trường tồn trong lịch sử. Chức năng cao cả
của văn hoá là hướng con người tới cái chân, cái thiện, cái mỹ. Văn hoá Việt
Nam là nền tảng tinh thần của xã hội, là toàn bộ những giá trị tinh thần do
cộng đồng các dân tộc Việt Nam sáng tạo ra trong quá trình dựng nước và giữ
nước. Những giá trị đó là tiềm năng, là năng lượng tinh thần góp phần hình
thành những phẩm chất, năng lực của các thế hệ. Nhờ nền tảng và sức mạnh
văn hoá ấy mà trải qua nhiều thời kỳ bị đô hộ, dân tộc Việt Nam chẳng những
không bị đồng hoá mà vẫn giữ vững và phát huy bản sắc của mình và còn
quật cường đứng lên giành lại độc lập cho dân tộc, lấy sức ta mà giải phóng
cho ta.
Hiện nay, nước ta đang trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, phát
triển nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã
hội chủ nghĩa nhằm phát triển kinh tế là vì hạnh phúc của con người. Con
người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển. Vì vậy, cùng với
mục tiêu phát triển kinh tế, Đảng ta chú trọng đến sự phát triển về văn hoá để
tạo ra sự phát triển hài hoà, cân đối. Trong cơ chế thị trường, văn hoá một mặt
dựa vào chuẩn mực của cái đúng, cái tốt, cái đẹp, hướng dẫn và thúc đẩy

người lao động không ngừng phát huy sáng kiến, sáng tạo trong lao động,
nâng cao tay nghề, tạo ra năng suất, chất lượng cao, làm giàu cho mình và cho
xã hội. Mặt khác, văn hoá với chức năng vốn có của nó sẽ tham gia vào quá
trình ngăn chặn, khắc phục những mặt xấu do cơ chế thị trường tạo ra. Văn
hoá sử dụng sức mạnh của các giá trị truyền thống, của đạo lý dân tộc và góp
------------------------------------------------------------------------------------------------------------6


Đề tài: "Văn hoá Việt Nam trong quá trình hội hập quốc tế hiện nay”.

-------------------------------------------------------------------------------------------------------------

phần xây dựng đời sống tinh thần lành mạnh, phong phú, hướng con người tới
cái chân, thiện, mỹ.
Với ý nghĩa như vậy, văn hoá trở thành nền tảng tinh thần của xã hội.
Chăm lo văn hoá là chăm lo củng cố nền tảng tinh thần của xã hội. Thiếu nền
tảng tinh thần tiến bộ và lành mạnh, không quan tâm giải quyết tốt mối quan
hệ giữa phát triển kinh tế và tiến bộ xã hội thì không thể có sự phát triển kinh
tế, xã hội bền vững.
1.1.2.3. Văn hoá vừa là động lực, vừa là mục tiêu của sự phát triển
kinh tế - xã hội.
Trong một xã hội, văn hoá và phát triển luôn luôn là hai mặt đi liền với
nhau và tác động lẫn nhau. Văn hoá là một bộ phận không thể tách rời của
cuộc sống và nhận thức. Văn hoá thực chất là tổng thể sống động của các hoạt
động sáng tạo của con người trong quá khứ và hiện tại. Văn hoá ghi dấu ấn
của mình lên hoạt động kinh tế của con người và xác định những mặt mạnh,
yếu riêng của quá trình sản xuất trong một xã hội. Văn hoá đã khơi dậy và
nhân lên tiềm năng sáng tạo của con người. Kinh nghiệm thực tiễn của nhiều
nước cho thấy: hễ nước nào tự đặt ra cho mình mục tiêu phát triển kinh tế mà
tách rời môi trường văn hoá thì nhất định sẽ xảy ra tình trạng mất cân đối

nghiêm trọng cả về mặt kinh tế lẫn văn hoá và tiềm năng sáng tạo của nước ấy
sẽ bị suy yếu đi nhiều. Các mục tiêu, các động cơ phát triển kinh tế - xã hội
phải đặt trong môi trường văn hoá, phải tìm trong văn hoá. Trong “Thập niên
thế giới phát triển văn hoá”, ông Tổng Giám đốc UNESSCO cũng đã phát
biểu: “Từ nay trở đi, văn hoá cần coi mình là nguồn cổ xuý trực tiếp cho sự
phát triển và ngược lại phát triển cần thừa nhận văn hoá giữ một vị trí trung
tâm, một vai trò điều tiết xã hội”. Không coi văn hoá như một động lực,
không tập trung đầu tư cho sự chấn hưng sự nghiệp văn hoá thì kinh tế không
phát triển. Nhưng nếu không biết hướng sự phát triển kinh tế vào mục tiêu
văn hoá tức sự phát triển và hoàn thiện con người, phát triển và hoàn thiện xã
hội thì chẳng bao giờ vươn tới chủ nghĩa xã hội được.
Trong quá trình đổi mới đất nước, đổi mới văn hoá có nghĩa là toàn bộ
hoạt động văn hoá phải phục vụ đắc lực có hiệu quả cho sự nghiệp đổi mới.
Văn hoá phải tham gia trực tiếp như một động lực và mục tiêu của chiến lược
phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Tổng kết kinh nghiệm xây dựng đất nước trong những năm qua, đặc
biệt trong 20 năm đổi mới, Đảng Cộng sản Việt Nam ngày càng khẳng định:
Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội thì cần phải coi trọng vai trò động lực của
văn hoá. Một nền văn hoá càng phát triển thì càng có điều kiện đẩy nhanh
việc phát triển kinh tế và cải thiện đời sống xã hội. Bởi vì, một nền văn hoá
tiên tiến, bản thân nó có khả năng đưa lại cho con người những kiến thức mới,
những tâm hồn phong phú, những cảm xúc đẹp, những lối sống lành mạnh, do
------------------------------------------------------------------------------------------------------------7


Đề tài: "Văn hoá Việt Nam trong quá trình hội hập quốc tế hiện nay”.

-------------------------------------------------------------------------------------------------------------

đó có thể khiến họ có điều kiện tham gia sản xuất ra nhiều của cải vật chất

cho xã hội.
Văn hoá thể hiện trình độ vung trồng ngày càng cao, ngày càng toàn
diện của con người, làm cho con người và xã hội ngày càng đổi mới, tiến bộ
hơn, hoàn thiện hơn. Trong đó, bản chất nhân văn, nhân đạo của mỗi cá nhân
và của cả cộng đồng được bồi dưỡng, phát huy và ngày càng trở thành giá trị
cao quý, thành chuẩn mực hàng đầu của xã hội. Mục tiêu của Đảng đề ra:
“Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh” là mục tiêu
của văn hoá, mục tiêu của sự phát triển. Một xã hội gọi là văn minh không chỉ
ở chỗ nó có nền kinh tế phát triển và cuộc sống vật chất dồi dào mà còn thể
hiện ở những quan hệ tốt đẹp giữa người với người, ở sự công bằng, dân chủ,
ở một đời sống tinh thần phong phú và cao đẹp. Nó phải được đánh giá bằng
phẩm giá trí tuệ, đạo đức của con người. Ở đó, nhân cách và lối sống là đích
cuối cùng mà sự phát triển của xã hội phải hướng tới. Cố vấn Võ Văn Kiệt đã
từng nói: “Kinh tế và văn hoá là hai nội dung cốt lõi của sự sinh tồn và phát
triển của dân tộc. Muốn xây dựng kinh tế phải có con người được đào tạo,
rèn luyện trong môi trường văn hoá lành mạnh”. Theo định hướng đó, văn
hoá phải thật sự trở thành mục tiêu của sự phát triển, đồng thời cũng phải có
một cơ chế chính sách đảm bảo cho kinh tế và văn hoá phát triển song song.
Xây dựng và phát triển kinh tế phải nhằm mục tiêu văn hoá, vì xã hội công
bằng văn minh thì con người mới phát triển toàn diện. Văn hoá là kết quả của
kinh tế, đồng thời là động lực của sự phát triển kinh tế. Các nhân tố văn hoá
phải gắn kết chặt chẽ với đời sống và hoạt động xã hội trên mọi phương diện
chính trị, kinh tế, xã hội, luật pháp, kỷ cương,... biến thành nguồn lực nội sinh
quan trọng nhất của sự phát triển.
Một chính sách phát triển đúng đắn phải là chính sách làm cho văn hoá
thấm sâu vào các lĩnh vực hoạt động sáng tạo của con người: văn hoá trong tu
duy của nhà chiến lược, trong nhận thức của nhà hoạch định chính sách, văn
hoá trong quản lý, trong vốn học vấn và sự tinh thông nghề nghiệp của người
lao động; văn hoá trở thành động lực, mục tiêu và điều tiết sự phát triển kinh
tế - xã hội.

1.2. Hội nhập quốc tế và vai trò của hội nhập quốc tế trong lĩnh vực
văn hoá.
1.2.1. Hội nhập quốc tế là gì?.
Chúng ta hiện đang chứng kiến xu thế phát triển mạnh mẽ của toàn cầu
hóa và hội nhập kinh tế quốc tế. Đó là quá trình gắn kết nền kinh tế của một
nước với nền kinh tế khu vực và thế giới, tham gia vào tiến trình phân công
lao động quốc tế. Hội nhập kinh tế quốc tế là xu thế khách quan, cuốn hút mọi
quốc gia, dân tộc và có tác động sâu rộng đến đời sống kinh tế - chính trị thế
giới.
------------------------------------------------------------------------------------------------------------8


Đề tài: "Văn hoá Việt Nam trong quá trình hội hập quốc tế hiện nay”.

-------------------------------------------------------------------------------------------------------------

Ngay sau khi đất nước ta giành được độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
nêu ra những tư tưởng, chủ trương về mở cửa, đa dạng hóa quan hệ hợp tác
quốc tế. Tuy nhiên, do hoàn cảnh lịch sử, chúng ta đã không có điều kiện triển
khai một cách đầy đủ tư tưởng về mở cửa, hội nhập kinh tế quốc tế của
Người.
Kế tục tư tưởng Hồ Chí Minh, trong quá trình triển khai công cuộc đổi
mới hơn 20 năm qua, Đảng và Nhà nước ta đã có những quyết sách phù hợp
về chủ trương, đường lối cũng như biện pháp tiến hành hội nhập kinh tế quốc
tế. Do vậy, chúng ta đã đạt được những thành tựu to lớn, quan trọng, tranh thủ
có hiệu quả các nguồn lực và sự ủng hộ của quốc tế, góp phần đáng kể vào sự
nghiệp phát triển kinh tế - xã hội, tạo ra thế và lực mới cho đất nước, vị thế
quốc tế thuận lợi chưa từng có. Bên cạnh đó, ngày càng hội nhập sâu rộng,
toàn diện vào nền kinh tế thế giới và khu vực, chúng ta đồng thời phải đối
phó, vượt qua không ít khó khăn, quan tâm xử lý nhiều vấn đề để tiến trình

hội nhập của đất nước phát triển vững chắc và hiệu quả.
Hiện nay, xu thế toàn cầu hóa về kinh tế và quá trình hội nhập kinh tế
thế giới đang diễn ra ở mọi quốc gia. Tình hình đó đặt nền văn hóa của mỗi
dân tộc trước những biến động lớn. Phải chăng trong quá trình hội nhập kinh
tế quốc tế, các nền văn hóa dân tộc sẽ trở nên đồng nhất, mất hết bản sắc của
mình? Không ít các nhà lý luận phương Tây đang cổ vũ cho xu hướng đó.
Nhưng cuộc sống vẫn có quy luật của nó.
Trong Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng đã nêu:
“Hội nhập kinh tế quốc tế là yêu cầu khách quan, phải chủ động, có lộ trình
phù hợp với bước đi tích cực, vững chắc, không do dự chần chừ, nhưng cũng
không được nóng vội, giản đơn.
Phải tích cực mở rộng thị trường bên ngoài để đẩy mạnh xuất khẩu,
đồng thời phải chủ động mở cửa thị trường trong nước, kể cả thị trường dịch
vụ, để thu hút mạnh vốn đầu tư, công nghệ và kỷ năng quản lý tiên tiến, nâng
cao hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế”.
Hội nhập quốc tế nghĩa là ra với đại dương với nhiều sóng to gió lớn. Ở
lĩnh vực nào cũng cần phải có người cầm lái có bản lĩnh và có tầm nhìn xa
trông rộng. Trên thế giới đã có nhiều bài học về sự phát triển hài hòa giữa
kinh tế và văn hóa. Những bài học nào cũng chỉ có những giá trị nhất định
chứ không thể là chìa khoá vạn năng. Chiến lược xây dựng nền văn hóa Việt
Nam phong phú, đậm đà bản sắc dân tộc là hoàn toàn đúng đắn nhưng triển
khai xây dựng quản lý văn hóa toàn xã hội là vô cùng khó khăn phức tạp, là
thách thức lớn cần có sức mạnh của nhiều cấp nhiều ngành mới có thể làm
được.Với quyết tâm và phương pháp đúng đắn thì cuối cùng căn bệnh nào
cũng tìm ra được thuốc đặc trị, cũng tìm được giải pháp giải quyết có hiệu
quả.
Từ sự phân tích trên, chúng ta có thể nhận thấy: Hội nhập quốc tế là
một quá trình liên kết, thường xuyên diễn ra sự đồng hóa và dị hóa. Khả năng
------------------------------------------------------------------------------------------------------------9



Đề tài: "Văn hoá Việt Nam trong quá trình hội hập quốc tế hiện nay”.

-------------------------------------------------------------------------------------------------------------

đồng hóa và dị hóa này không chỉ phụ thuộc vào sự phát triển của nền kinh tế
mỗi nước, mà chủ yếu còn tùy thuộc vào bản lĩnh văn hóa và sức sống của
mỗi dân tộc.
1.2.2. Vai trò của hội nhập quốc tế trong lĩnh vực văn hoá.
Sau 20 năm thực hiện chính sách đổi mới, mở cửa nền kinh tế cho thấy
sự tác động tích cực của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực lên nền
kinh tế nước ta. Chúng ta đã thực hiện cùng một lúc ba quá trình đổi mới cơ
chế quản lý kinh tế trong nước, tích cực hội nhập và đang từng bước thực hiện
thành công sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Tuy nhiên,
chặn đường phía trước còn rất dài và khó khăn, nhiều thách thức. Việc tìm cơ
chế hội nhập phù hợp và giữ gìn và phát huy được bản sắc văn hoá truyền
thống của dân tộc là việc làm rất cần thiết. Hội nhập quốc tế có những ảnh
hưởng tích cực, tiêu cực đối với lĩnh vực văn hoá như:
1.2.2.1. Những tác động tích cực.
Hội nhập quốc tế cùng với sự xuất hiện của các nhân tố như: sự vận
động của hàng hoá, sự lưu động của tư bản và công nghệ thông tin thì sự xuất
hiện của văn hoá đại chúng trên phạm vi toàn cầu hoá như một hệ quả tất yếu
tương hỗ với các yếu tố đó. Nó tạo ra động lực văn hoá - xã hội mới bằng
nhiều cách biểu hiện với những sản phẩm khoa học kỹ thuật mới xuất hiện
ngày càng nhiều như máy tính điện tử, các dụng cụ sinh hoạt “tinh khôn” và
cao hơn là công nghệ sinh học, côn nghệ vũ trụ,... tất cả vượt ra ngoài phạm vi
biên giới của một quốc gia.
Chúng ta có thể nhận thấy rằng, với sự tác động của quá trình hội nhập
kinh tế quốc tế đã phá vỡ cách nhìn hạn hẹp của các nền văn hoá riêng lẽ, kể
cả những nước “đóng cửa”. Vấn đề đặt ra cho các dân tộc là phải giải quyết

hài hoà giữa lợi ích dân tộc và lợi ích quốc tế, giữa hội nhập và giữ bản sắc
quốc gia dân tộc mình. Chính trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, văn
hoá của các dân tộc có điều kiện tiếp nhận, thâu hoá, làm tăng giá trị sáng tạo
và nhân văn của mỗi nền văn hoá. Sự sáng tạo và tính nhân bản được nhân lên
thể hiện sự đa dạng, đa sắc của nền văn minh nhân loại. Các nền văn hoá có
cơ hội thể hiện sắc màu và sức sống tiềm tàng của mình, bởi vì mỗi nền văn
hoá đều có khả năng tạo ra ảnh hưởng và chịu sự tác động của các nền văn
hoá khác. Nét riêng đặc sắc của thành tựu của nền văn hoá ngày càng cao thì
sức hấp dẫn và độ ảnh hưởng của nó ngày càng lớn. Việc sàng lọc và tiếp thu
tinh hoa văn hoá nhân loại phụ thuộc vào khả năng tiếp nhận, thâu hoá của
từng nền văn hoá.
Hội nhập kinh tế quốc tế còn tạo ra những điều kiện thuận lợi cho việc
rút ngắn thời gian, không gian để văn hoá trải rộng và giao lưu, tác động ảnh
------------------------------------------------------------------------------------------------------------10


Đề tài: "Văn hoá Việt Nam trong quá trình hội hập quốc tế hiện nay”.

-------------------------------------------------------------------------------------------------------------

hưởng lẫn nhau, tạo nên những sản phẩm vật chất và tinh thần do sự sáng tạo
của con người.
Qua kết quả điều tra xã hội học được tiến hành tại Thành phố Hồ Chí
Minh vào tháng 10 năm 2004, xu thế hội nhập đã mang lại thuận lợi cho việc
xây dựng và phát triển nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc:
“- Tăng cường giao lưu văn hoá giữa Việt Nam và thế giới: 93%.
- Tạo điều kiện để trao đổi khoa học công nghệ: 84%.
- Thúc đẩy sự hiểu biết lẫn nhau giữa các dân tộc: 84%.
- Tạo điều kiện để văn hoá Việt Nam tiến bước cùng thời đại: 78%.
- Mở rộng hợp tác quốc tế trong giáo dục – đào tạo: 78%.

- Trao đổi kinh nghiệm và kỹ năng bảo tồn, phát huy văn hoá dân tộc:
77,5%.
- Đáp ứng nhu cầu hưởng thụ văn hoá ngày càng cao của nhân dân:
74,6%.
- Góp phần hiện đại hoá cơ sở vật chất kỹ thuật của văn hoá dân tộc:
69,7%.
- Thúc đẩy dịch vụ văn hoá phát triển: 60%”.
1.2.2.2. Những mặt tiêu cực.
Bên cạnh những mặt tích cực đã nêu trên, hội nhập kinh tế quốc tế đã
đem lại nhiều tác động tiêu cực đối với nền văn hoá dân tộc. Một số quốc gia
dân tộc chưa nhận thức được đầy đủ tác động hai mặt của quá trình hội nhập
kinh tế quốc tế, họ chỉ chú ý đến văn hoá hiện đại mà quên văn hoá truyền
thống, xem nhẹ tính kế thừa, dẫn đến nguy cơ làm lu mờ, đánh mất văn hoá
truyền thống. Ở những nơi đó, người ta thường quay lưng lại với những giá trị
văn hoá truyền thống tốt đẹp, kéo văn hoá tụt xuống mức dung tục, tầm
thường, tạo ra những chướng ngại cho quá trình nâng cao mặt bằng dân trí,
làm ô nhiễm môi trường nhân văn. Sự đồng nhất hoá các hệ thống giá trị và
tiêu chuẩn đã làm suy kiệt khả năng sáng tạo của các nền văn hoá, nhân tố hết
sức quan trọng đối với sự tồn tại của cả nhân loại.
Hội nhập kinh tế quốc tế lại diễn ra trong sự phát triển không đồng đều
giữa các quốc gia dân tộc. Với sức mạnh của kỹ thuật và đồng tiền, văn hoá
phương Tây đã tỏ ra có ưu thế lấn lướt và áp đặt những giá trị của mình lên
các nước đang phát triển, nhất là các nước chậm phát triển. Hiện tượng bị nô
dịch, bị đồng hoá là có thật, thậm chí một số thế lực quốc tế còn muốn thực
hiện “xâm lăng về văn hoá”. Chủ nghĩa đế quốc về văn hoá đã xâm nhập vào
nhiều nước thông qua sách báo, phim ảnh, truyền hình, du lịch và nhiều hoạt
động nguy hại khác.
Tác động của hội nhập kinh tế quốc tế vào các nước đang phát triển và
chậm phát triển đã tạo ra nhiều mâu thuẫn và nghịch lý nhưng ở Việt Nam thì
ảnh hưởng về văn hoá trong quá trình hội nhập còn phức tạp nhiều hơn. Nước

------------------------------------------------------------------------------------------------------------11


Đề tài: "Văn hoá Việt Nam trong quá trình hội hập quốc tế hiện nay”.

-------------------------------------------------------------------------------------------------------------

ta đang thực hiện nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đó
là nền kinh tế thị trường chưa hoàn thiện đã làm cho tác động mang tính tiêu
cực của hội nhập quốc tế đối với văn hoá Việt Nam nguy hại nhiều hơn. Vốn
đang sống trong nền kinh tế bao cấp, mọi giá trị truyền thống được bảo tồn và
giữ gìn, nay bước vào nền kinh tế thị trường trong xu thế hội nhập và toàn cầu
hoá, mọi giá trị và các tiêu cuẩn văn hoá đứng trước nguy cơ bị đồng hoá với
văn hoá đại chúng, giới trẻ Việt Nam dễ bị rơi vào lối sống tự do cá nhân, vô
trách nhiệm với gia đình và xã hội, chú ý đến lợi ích cá nhân mà xem nhẹ lợi
ích của cộng đồng, chú ý đến lợi ích trước mắt mà xem nhẹ lợi ích cơ bản lâu
dài.
Đứng trước những tác động của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế về
văn hoá, Đảng ta đã từng khẳng định: Văn hoá Việt Nam là sự kết tinh văn
hoá truyền thống Việt Nam và tinh hoa của nhiều nền văn hoá thế giới.
Nhưng Việt Nam luôn phản đối sự tiếp nhận xô bồ mọi thứ văn hoá ngoại lai,
không phù hợp với truyền thống văn hoá của mình. Điều cơ bản và quan trọng
nhất trong hội nhập văn hoá của Việt Nam là giữ vững nguyên tắc tự chủ hội
nhập vì một nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Để thực hiện được
điều này, trước hết cần chăm lo xây dựng và phát triển nền văn hoá thật sự là
nền tảng tinh thần của xã hội. Vì thế, cần tăng cường giáo dục tư tưởng, đạo
đức, lối sống lành mạnh trong quảng đại quần chúng nhân dân, nhất là thế hệ
trẻ là một yêu cầu khách quan. Bên cạnh đó, chúng ta cũng không bảo thủ mà
luôn rũ bỏ những trở ngại do nếp tư duy cũ, thói sinh hoạt tản mạn, lề mề,
manh mún,... để từng bước đổi mới nhận thức, xây dựng lối sống, tác phong

làm việc phù hợp với yêu cầu của xã hội công nghiệp hiện đại. Trong khi đó
vẫn tiếp tục duy trì những giá trị tốt đẹp của lối sống cộng đồng, cần phải tăng
cường chú ý đến giá trị cá nhân, tôn trọng nghề nghiệp cá nhân, tạo điều kện
cho những cá nhân khẳng định vị trí của họ trong xã hội.
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG QUÁ TRÌNH HỘI NHẬP QUỐC
TẾ VỀ VĂN HOÁ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY.
2.1. Phát triển văn hoá, nền tảng tinh thần của xã hội.
Văn hoá Việt Nam đã trải qua mấy nghìn năm lịch sử trong quá trình
dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam. Trong thời đại ngày nay,
chúng ta phải tiếp tục phát triển sâu rộng và nâng cao chất lượng nền văn hoá
Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, gắn kết chặt chẽ và đồng bộ hơn
nữa với quá trình phát triển kinh tế - xã hội, làm cho văn hoá thấm sâu vào
mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.
Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện giá trị, nhân cách con người Việt Nam,
bảo vệ và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc trong thời kỳ công nghiệp hoá,
hiện đại hoá, hội nhập kinh tế quốc tế. Bồi dưỡng các giá trị văn hoá trong
thanh niên, sinh viên, học sinh lý tưởng sống, lối sống, năng lực trí tuệ, đạo
đức và bản lĩnh văn hoá của con người Việt Nam. Phát huy tinh thần tự
------------------------------------------------------------------------------------------------------------12


Đề tài: "Văn hoá Việt Nam trong quá trình hội hập quốc tế hiện nay”.

-------------------------------------------------------------------------------------------------------------

nguyện và năng lực làm chủ của nhân dân trong đời sống văn hoá “Toàn dân
đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá”. Phát huy tiềm năng, khuyến khích sáng
tác văn học, nghệ thuật, tạo ra những tác phẩm có giá trị cao về tư tưởng và
nghệ thuật. Nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống nhà văn hoá, bảo tàng,
thư viện,… bảo vệ và phát huy giá trị tài liệu lưu trữ.

Tạo điều kiện cho các lĩnh vực sản xuất, thông tin đại chúng phát triển,
nâng cao chất lượng tư tưởng và văn hoá, vươn lên hiện đại về mô hình, cơ
cấu tổ chức và cơ sở vật chất - kỹ thuật; đồng thời xây dựng cơ chế quản lý
phù hợp, chủ động và có khoa học. Đảm bảo tự do cho mọi hoạt động sáng
tạo văn hoá, văn học nghệ thuật đi đôi với phát huy trách nhiệm công dân của
các văn nghệ sĩ. Có chính sách trọng dụng các tài năng văn hoá, chăm lo đời
sống vật chất và tinh thần cho các văn nghệ sĩ. Đẩy mạnh các hoạt động lý
luận và phê bình văn học, nghệ thuật. Đổi mới nội dung và phương thức hoạt
động và cơ cấu tổ chức của các hội văn học, nghệ thuật từ Trung ương đến địa
phương.
Tăng cường quản lý Nhà nước về văn hoá. Xây dựng cơ chế, chính
sách phát triển văn hoá trong quá trình hội nhập. Tích cực chủ động mở rộng
giao lưu và hợp tác quốc tế về văn hoá, chống sự thâm nhập của các loại văn
hoá phẩm độc hại, lai căng,… Đồng thời, phát huy tính năng động, chủ động
của các cơ quan Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị xã hội tham gia hoạt động trên các lĩnh vực văn hoá. Xây dựng và phát triển
chương trình giáo dục văn hoá - thẩm mỹ, nếp sống văn minh, hiện đại trong
nhân dân.
2.2. Về lĩnh vực dịch vụ văn hoá.
Toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế có những tác động tích cực
đối với sự phát triển của hoạt động kinh doanh dịch vụ văn hoá:
Thứ nhất, toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế góp phần làm gia
tăng số lượng các loại hình dịch vụ văn hoá. Hoạt động dịch vụ văn hoá đã
xuất hiện từ lâu trong lịch sử xã hội loài người. Ngày nay, quá trình hội nhập
kinh tế quốc tế đã góp phần làm cho hoạt động dịch vụ văn hoá có những
chuyển biến đáng kể. Nếu như trước đây Nhà nước đóng vai trò là thành phần
kinh tế chủ yếu trong kinh doanh dịch vụ văn hoá thì hiện nay, có rất nhiều
các thành phần kinh tế cùng tham gia, chấm dứt sự độc quyền của thành phần
kinh tế Nhà nước. Có thể khẳng định rằng, chưa bao giờ các loại hình dịch vụ
văn hoá lại nở rộ như hiện nay như: Trong lĩnh vực điện ảnh, sự cởi mở của
cơ chế chính sách mới đã tạo điều kiện cho các hãng phim tư nhân ra đời.

Ngoài hãng phim Bến Nghé đã có thâm niên trong nghề còn có các hãng phim
khác như: Á Châu, Thiên Ngân, Phước Sang,... Sự bùng nổ các sân khấu biểu
diễn, từ sân khấu ca nhạc, thời trang tới sân khấu hài kịch, kịch nói,... quy mô
của các sân khấu hết sức đa dạng. Việc điểm qua một số loại hình dịch vụ văn
hoá trên cho thấy quá trình mở cửa hội nhập kinh tế quốc tế đã có những tác
------------------------------------------------------------------------------------------------------------13


Đề tài: "Văn hoá Việt Nam trong quá trình hội hập quốc tế hiện nay”.

-------------------------------------------------------------------------------------------------------------

động nhất định đối với nền văn hoá nước ta. Nó làm cho các sản phẩm văn
hoá, các dịch vụ văn hoá có nguồn gốc từ nước ngoài du nhập vào Việt Nam
và những dịch vụ văn hoá trong nước phát triển hơn.
Thứ hai, toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế làm cho chất lượng
các dịch vụ văn hoá được nâng cao, tạo điều kiện để các nhà sản xuất, kinh
doanh dịch vụ văn hoá trong nước có cơ hội tiếp cận với công nghệ, kỹ thuật
mới trong lĩnh vực này. Nhiều nhà đầu tư của nước ngoài vào Việt Nam mang
theo những dự án phát triển ở nhiều lĩnh vực, trong đó có các dự án về dịch
vụ văn hoá. Những năm gần đây, cụm từ “thị trường văn hoá phẩm” đã được
chấp nhận và dùng tương đối rộng rãi. Có thị trường ắt có cạnh tranh. Khi
tham gia vào thị trường, các dịch vụ văn hoá muốn tồn tại phải chú ý đến
nhiều khâu, đặc biệt là khâu nâng cao chất lượng sản phẩm. Chính vì vậy, các
phòng thu (audio) chú trọng việc trang bị những trang thiết bị kỹ thuật hiện
đại để cho ra đời những băng đĩa hình nét âm trong, các nhà xuất bản chú
trọng từ khâu vẽ bìa, trình bày đến in ấn để cho ra đời những quyển sách, tờ
báo đẹp về hình thức. Các chương trình biểu diễn văn nghệ, nghệ thuật được
đầu tư kỹ thuật từ phục trang, nhạc cụ đến mỹ thuật sân khấu. Ngay cả các
quán cà phê, internet, trò chơi điện tử cũng thu hút khách bằng việc lắp đặt

máy mới với những bộ vi xử lý tốc độ cao.
Toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế đã có những tác động tích cực
tới sự phát triển của các dịch vụ văn hoá. Nó thúc đẩy sự gia tăng các loại
hình dịch vụ văn hoá, mở rộng các thành phần tham gia kinh doanh cũng như
góp phần vào việc nâng cao chất lượng của các loại hình dịch vụ này.
Thứ ba, toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế góp phần làm thoả
mãn nhu cầu về văn hoá của mọi tầng lớp dân cư, thu hẹp khoảng cách hưởng
thụ văn hoá giữa các vùng miền, giữa các quốc gia. Các nhà nghiên cứu đã
chỉ ra rằng, yếu tố mức sống có vị trí như những điều kiện kinh tế, tài chính
quy định mức độ tham gia vào các quá trình văn hoá. Nhu cầu hưởng thụ văn
hoá của các tầng lớp dân cư, nhất là bộ phận dân cư đô thị có xu hướng ngày
càng phong phú, tỷ lệ thuận với mức sống của họ. Các dịch vụ văn hoá cũng
phát triển mạnh để đáp ứng nhu cầu đó. Người dân có thể thoải mái lựa chọn
những loại hình dịch vụ văn hoá phù hợp với khả năng tài chính, thị hiếu, lứa
tuổi, giới tính của mình.
Hội nhập kinh tế quốc tế cũng đã thu hẹp khoảng cách giữa các vùng
miền, quốc gia. Sự du nhập công nghệ cao từ nước ngoài vào đã khiến cho
quá trình sản xuất và phân phối các sản phẩm văn hoá trở nên nhanh chóng và
thuận lợi hơn.
Thứ tư, hội nhập kinh tế quốc tế góp phần khai thác hữu hiệu lợi ích
kinh tế của văn hoá, biến văn hoá trở thành một nguồn lực thật sự trong công
cuộc phát triển.

------------------------------------------------------------------------------------------------------------14


Đề tài: "Văn hoá Việt Nam trong quá trình hội hập quốc tế hiện nay”.

-------------------------------------------------------------------------------------------------------------


Trên thế giới, dịch vụ văn hoá từ lâu đã trở thành một nghề đem lại lợi
nhuận khổng lồ. Hay nói cách khác, hiệu ích kinh tế của văn hoá đã được
nhiều quốc gia khai thác triệt để.
Ở Việt Nam, hiệu ích kinh tế của văn hoá thường ít được xem trọng.
Quá trình đổi mới, mở cửa đã tạo điều kiện để các loại dịch vụ, trong đó có
dịch vụ văn hoá phát triển. Những tiềm năng của thị trường văn hoá bước đầu
đã thu hút sự quan tâm của các nhà đầu tư, các nhà kinh tế. Nhiều người mạnh
dạn bỏ vốn kinh doanh loại hình dịch vụ này và thực tế cho thấy nếu biết khai
thác đúng nhu cầu của thị trường thì khả năng sinh lợi rất cao.
Bên cạnh những tác động tích cực của quá trình hội nhập kinh tế quốc
tế cũng như những ảnh hưởng tiêu cực đối với lĩnh vực kinh doanh dịch vụ
văn hoá. Hiện nay, do quá đề cao tính thương mại của dịch vụ văn hoá, quá
chú trọng đến việc khai thác lợi ích kinh tế của lĩnh vực này mà coi nhẹ tính
nghệ thuật, tính giáo dục, tính nhận thức của văn hoá, thậm chí bất chấp cả
pháp luật. Trong quá trình giao lưu, hội nhập quốc tế không ít các sản phẩm
phản văn hoá đã thâm nhập vào nước ta bằng nhiều con đường khác nhau. Để
cạnh tranh trong kinh doanh, để đáp ứng những thị hiếu không lành mạnh của
một bộ phận công chúng, nhiều người đã tìm cách tung ra thị trường những ấn
phẩm văn hoá có nội dung độc hại. Không chỉ có những sản phẩm văn hoá từ
nước ngoài thâm nhập vào thị trường trong nước mà nay tại Việt Nam, nhiều
nhà kinh doanh bất chấp pháp luật, bất chấp đạo đức, thuần phong mỹ tục của
dân tộc cho ra đời nhiều ấn phẩm xấu. Mới đây, dư luận đã phản ứng trước rất
nhiều người mẫu tham gia video có tên “Tình nghệ sĩ” do một số Việt kiều về
nước dàn dựng hoặc vụ việc của nữ diễn viên Hoàng Thuỳ Linh,... có nội
dung không lành mạnh. Toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế cũng mang
tới nguy cơ đánh mất bản sắc dân tộc mà một số nhà nghiên cứu gọi là “đồng
phục văn hoá”. Nhiều thanh thiếu niên Việt Nam ngày nay hàng ngày, hàng
giờ tiếp xúc với văn hoá phương Tây thông qua các kênh truyền hình, mạng
internet, sách báo và các ấn phẩm văn hoá khác trở nên tôn sùng lối sống tiêu
thụ, quay lưng lại với các giá trị truyền thống.

Hiện nay, toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế đưa đến nhiều thời
cơ nhưng cũng không ít những khó khăn thách thức cho văn hoá Việt Nam
nói chung và lĩnh vực dịch vụ văn hoá nói riêng là phải giải quyết tốt bài toán
giữa hiệu ích kinh tế và hiệu ích xã hội trong kinh doanh dịch vụ văn hoá. Có
như vậy mới đảm bảo chiến lược xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến,
đầm đà bản sắc dân tộc.
2.3. Về lĩnh vực xuất nhập khẩu văn hoá.
Trong Văn kiện Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương Đảng
khoá VIII xác định: “Làm tốt việc giới thiệu văn hoá, đất nước và con người
Việt Nam với thế giới; tiếp thu có chọn lọc các giá trị nhân văn khoa học, tiến
bộ của nước ngoài. Phổ biến những kinh nghiệm tốt xây dựng và phát triển
------------------------------------------------------------------------------------------------------------15


Đề tài: "Văn hoá Việt Nam trong quá trình hội hập quốc tế hiện nay”.

-------------------------------------------------------------------------------------------------------------

văn hoá của các nước. Ngăn ngừa sự xâm nhập các sản phẩm văn hoá phản
động, đồi truỵ.
Giúp đỡ cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài hiểu biết tình hình
nước nhà, thu nhận thông tin và sản phẩm văn hoá từ trong nước ra, nêu cao
lòng yêu nước, tự tôn dân tộc, giữ gìn truyền thống, bản sắc dân tộc, phát huy
trí tuệ, tài năng sáng tạo, đóng góp vào công cuộc xây dựng đất nước”.
Thời gian qua, công tác xuất nhập khẩu các sản phẩm văn hoá đã bám
sát chủ trương, đường lối trên và đã đạt được những thành tích nhất định góp
phần đáng kể vào công cuộc xây dựng đất nước, xây dựng một xã hội Việt
Nam “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh”. Chính
công tác này đã biểu hiện một cách sinh động nhất sự đánh giá của Hội nghị
lần thứ 9 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá IX: “Quan hệ đối ngoại của

Đảng được mở rộng, hoạt động đối ngoại nhân dân sống động hơn” và
“tranh thủ được sự đồng tình, ủng họ của các tổ chức nhân dân, tổ chức
chính trị - xã hội, tổ chức phi chính phủ quốc gia và quốc tế đối với sự nghiệp
đổi mới, xây dựng và bảo vệ tổ quốc của ta”.
Các hoạt động hợp tác quốc tế, trong đó có hoạt động xuất khẩu văn
hoá của nước ta đã tranh thủ được những điểm đồng thuận, tích cực phục vụ
đắc lực cho đường lối đối ngoại của Đảng, của dân tộc. Chúng ta đã hợp tác
và giao lưu văn hoá với nhiều nước trên thế giới như: Hoa Kỳ, Trung Quốc,
Nhật Bản, Pháp, Nga, Thái Lan, Lào, Campuchia,... Bên cạnh những hoạt
động giao lưu văn hoá của Việt Nam ở nước ngoài thì nhiều hoạt động giao
lưu văn hoá quốc tế cũng diễn ra rất sôi động ở trong nước như: tuần phim
Úc, tuần phim Châu Âu, tuần Phim Tây Ban Nha, tuần phim Nhật Bản, tuần
phim Hàn Quốc,.... được tổ chức có hiệu quả tại các thành phố lớn như Hà
Nội và Hồ Chí Minh.
Các hoạt động xuất nhập khẩu văn hoá không chỉ giới hạn trong khuôn
khổ giao lưu văn hoá giữa Việt Nam và các quốc gia khác mà còn được phát
huy tác dụng của mình trong các quan hệ giữa Việt Nam và các tổ chức quốc
tế. Việt Nam đã duy trì tốt các mối quan hệ giao lưu văn hoá với các tổ chức
quốc tế mà mình là nước thành viên. Song song với việc đẩy mạnh tiến trình
giao lưu văn hoá với các nước và các tổ chức quốc tế Việt Nam không ngừng
phát triển công tác thông tin đối ngoại. Công tác xuất khẩu văn hoá còn được
thể hiện qua sự kết hợp các loại hình văn hoá nghệ thuật trong các tuần văn
hoá, các đợt chiếu phim, các cuộc triển lãm và sự tham gia của Việt Nam
trong các hội thảo, hội nghị, các diễn đàn quốc tế, các cuộc triển lãm lớn về
cổ vật Việt Nam và các hoạt động văn hoá khác.
Chúng ta có thể kết luận rằng, công tác xuất nhập khẩu văn hoá trong
điều kiện toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam trong thời
gian qua đã có sự phát triển vượt bậc kể cả về số lượng và chất lượng. Công
tác này có sự phối hợp đồng bộ giữa văn hoá và du lịch, hàng không, thương
mại,... và được diễn ra với nhiều hình thức phong phú, đa dạng, nhiều chiều,

------------------------------------------------------------------------------------------------------------16


Đề tài: "Văn hoá Việt Nam trong quá trình hội hập quốc tế hiện nay”.

-------------------------------------------------------------------------------------------------------------

làm cho bạn bè quốc tế hiểu về Việt Nam hơn, trên cơ sở đó mà tăng cường
hợp tác đầu tư kinh tế, buôn bán với các doanh nghiệp và thương nhân Việt
Nam. Hoạt động xuất nhập khẩu văn hoá đối với quá trình hội nhập kinh tế
quốc tế và giao lưu văn hoá Việt Nam với các nước. Tuy nhiên, tình trạng
xuất nhập khẩu văn hoá ở nước ta diễn ra trong bối cảnh hội nhập kinh tế
quốc tế một mặt thúc đẩy quá trình phát triển kinh tế đất nước, nhưng mặt
khác cũng đe doạ sự bình ổn của nền văn hoá dân tộc như Nghị quyết Hội
nghị lần thứ 9 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá IX đã chỉ rõ: “Nhân tố
văn hoá và con người trong phát triển chưa được nhận thức đầy đủ và chưa
được coi trọng đúng mức ở nhiều cấp, nhiều ngành. Chất lượng các sản
phẩm văn hoá, nghệ thuật chưa cao, còn nhiều biểu hiện sai trái, tiêu cực”.
Những tiêu cực này chủ yếu do công tác quản lý.
2.4. Về quản lý Nhà nước trên lĩnh vực văn hoá - thông tin.
2.4.1. Công tác xây dựng văn bản chỉ đạo, quản lý.
Đảng Cộng sản Việt Nam đã có nhiều văn kiện quan trọng để chỉ đạo,
quản lý hoạt động văn hoá thông tin. Ngoài các Văn kiện Đại hội Đảng toàn
quốc lần thứ VI, VII, VIII, IX, X; Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Ban Chấp hành
Trung ương cũng có nhiều chỉ thị, nghị quyết quan trọng, đặc biệt là Nghị
quyết Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương khoá VIII và Kết luận
của Hội nghị lần thứ 10 Ban Chấp hành Trung ương khoá IX. Đồng thời, Nhà
nước và Chính phủ cũng đã ban hành nhiều hệ thống văn bản luật, dưới luật
về chỉ đạo, quản lý văn hoá thông tin. Các văn bản này đã tạo hành lang pháp
lý cho hoạt động văn hoá thông tin, góp phần nâng cao hiệu quả quản lý của

Nhà nước đối với lĩnh vực này; ngăn chặn những tiêu cực trong hoạt động
kinh doanh và dịch vụ văn hoá, đẩy lùi một bước các tệ nạn xã hội, từng bước
khôi phục trật tự, kỷ cương trong văn hoá – thông tin. Tuy nhiên, trong phạm
vi quản lý của Nhà nước về văn hoá – thông tin, vẫn còn thiếu luật điện ảnh
và một số lĩnh vực khác trước nhu cầu hội nhập khu vực và quốc tế, cần phải
hoàn thiện pháp luật như quyền tác giả văn học, nghệ thuật, báo chí, xuất
bản,....
2.4.2. Hệ thống bộ máy quản lý văn hoá – thông tin.
Bộ máy quản lý văn hoá – thông tin từ Trung ương đến địa phương
được tổ chức theo mô hình 4 cấp: Cấp Trung ương có Bộ Văn hoá – Thông
tin, cấp tỉnh (thành phố) có Sở Văn hoá – Thông tin, cấp huyện (quận, thị xã)
có Phòng Văn hoá – Thông tin, cấp xã (phường, thị trấn) có Ban Văn hoá –
Thông tin. Trong đó, Bộ Văn hoá – Thông tin chịu trách nhiệm quản lý Nhà
nước và hướng dẫn nghiệp vụ cho các địa phương nhưng không trực tiếp quản
lý hệ thống Sở, Phòng, Ban ở các cấp cơ sở.
------------------------------------------------------------------------------------------------------------17


Đề tài: "Văn hoá Việt Nam trong quá trình hội hập quốc tế hiện nay”.

-------------------------------------------------------------------------------------------------------------

2.4.3. Về đội ngũ cán bộ và đào tạo nguồn nhân lực.
Hiện nay, cán bộ làm công tác văn hoá - thông tin đông, có độ tuổi
tương đối cao, tính năng động sáng tạo kém và kiến thức quản lý còn hạn chế;
một bộ phận không nhỏ chưa được đào tạo, bồi dưỡng đầy đủ về chuyên môn,
nghiệp vụ, đặc biệt là về quản lý hành chính, dẫn đến thực tế là không theo
kịp tình hình xã hội; quản lý lỏng lẻo về nghiệp vụ, hữu khuynh trong xem
xét, xử lý những vụ việc chuyên môn và có liên quan đến chuyên môn nghiệp
vụ. Những yếu kém trong công tác cán bộ chủ yếu là do chưa nhận thức đầy

đủ yêu cầu phải chuyển biến mạnh mẽ hơn về công tác tổ chức quản lý Nhà
nước bằng pháp luật và chính sách. Nhiều cán bộ chỉ loay hoay trong các hoạt
động nghiệp vụ mà chưa quan tâm đến việc quản lý các hoạt động văn hoá
trong xã hội.
Việc thi tuyển cán bộ, công chức vào ngành hiện nay đang được tiến
hành bài bản. Tuy nhiên, trong cơ chế thị trường, việc lựa chọn được người
giỏi vào ngành là rất khó khăn do một số nguyên nhân: lương trong bộ máy
hành chính thấp; có hiện tượng nể nang, nhiều khi thi tuyển chỉ là hình thức,
ưu tiên lựa chọn con em trong ngành,.... Đặc biệt, công tác quy hoạch cán bộ
lãnh đạo, quản lý không được tiến hành một cách khoa học. Tình trạng hẫng
hụt cán bộ diễn ra phổ biến từ cơ quan Bộ đến địa phương.
2.5. Những thuận lợi và khó khăn đối với nền văn hoá Việt Nam
trong quá trình hội nhập quốc tế.
2.5.1. Những thuận lợi.
Hội nhập quốc tế có thể tạo ra những cơ hội cho văn hoá Việt Nam phá
triển như:
Thứ nhất, hội nhập quốc tế tạo điều kiện thuận lợi để đổi mới tư duy về
văn hoá trong cơ chế thị trường và mở rộng giao lưu văn hoá trong xu thế
toàn cầu hoá. Đây là cơ hội rất lớn để chúng ta xem xét, đánh giá vai trò của
văn hoá trong sự phát triển kinh tế - xã hội, gắn kết chặt chẽ nhiệm vụ xây
dựng và phát triển văn hoá với nhiệm vụ phát triển kinh tế và xây dựng Đảng,
củng cố hệ thống chính trị, khai thác văn hoá như một động lực, như nguồn
lực để phát triển kinh tế - xã hội. Văn hoá đã được Đảng ta xác định là nền
tảng tinh thần, vừa là mục tiêu và động lực thúc đẩy kinh tế - xã hội phát
triển. Hội nghị lần thứ 10 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá IX đã
khẳng định: Phát triển văn hoá gắn liền với phát triển kinh tế và xây dựng
Đảng, củng cố hệ thống chính trị. Đảm bảo thực hiện tốt ba lĩnh vực trên là
điều kiện cho sự đảm bảo phát triển bền vững của đất nước.
Thứ hai, hội nhập quốc tạo điều kiện phát triển giáo dục – đào tạo, khoa
học công nghệ, xây dựng và phát triển nguồn lực con người, đặc biệt là nâng

cao trình độ chuyên môn của đội ngũ trí thức và nguồn nhân lực chất lượng
------------------------------------------------------------------------------------------------------------18


Đề tài: "Văn hoá Việt Nam trong quá trình hội hập quốc tế hiện nay”.

-------------------------------------------------------------------------------------------------------------

cao trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá, góp phần xây dựng văn minh
đô thị và công nghiệp, tạo động lực để hiện đại hoá văn hoá dân tộc.
Thứ ba, hội nhập quốc tế giúp chuyển giao vốn, khoa học kỹ thuật,
công nghệ, chuyển giao kỹ năng, kinh nghiệm tổ chức và phát triển các ngành
công nghiệp văn hoá và dịch vụ văn hoá, thúc đẩy quá trình dân chủ hoá về
thông tin toàn cầu, kích thích năng lực sáng tạo của nền văn hoá dân tộc.
Thứ tư, hội nhập quốc tế nhằm mở rộng xuất nhập khẩu văn hoá phẩm,
hợp tác quốc tế về văn hoá, góp phần nâng cao trình độ dân trí, đáp ứng nhu
cầu văn hoá tinh thần ngày càng cao của nhân dân.
Thứ năm, hội nhập quốc tế góp phần tăng trưởng kinh tế, tạo điều kiện
để xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại cho sự nghiệp phát triển văn hoá
dân tộc.
Thứ sáu, hội nhập quốc tế tác động vào tinh thần dân tộc, ý thức cộng
đồng, kích thích tinh thần dân tộc phát triển, thúc đẩy tinh thần cạnh tranh để
nâng cao vị thế văn hoá của dân tộc trong khu vực và cộng đồng quốc tế.
2.5.2. Những khó khăn.
Trong quá trình hội nhập quốc tế, bên cạnh những thuận lợi, chúng ta
cũng gặp không ít những khó khăn đối với nền văn hoá Việt Nam như:
Thứ nhất, sự tụt hậu của văn hoá so với các nước trong khu vực. Do
gắn liền với hình thái ý thức xã hội thời kỳ văn minh tiền công nghiệp, sự đổi
mới tư duy về văn hoá diễn ra chậm, những yếu tố tâm lý của tập quán cũ níu
kéo mạnh, gây cản trợ cho sự năng động của văn hoá. Từ đó, dẫn đến tốc độ

phát triển của văn hoá chưa tương xứng với sự phát triển của kinh tế. Mặt
khác, các chỉ tiêu về mức hưởng thụ văn hoá của nước ta cũng như các phát
minh, các sáng chế khoa học, các giải thưởng về văn học, nghệ thuật, thể thao
quốc tế của Việt Nam có khả năng tụt hậu so với các nước trong khu vực và
cộng đồng quốc tế.
Thứ hai, sự chệch hướng về phát triển văn hoá. Mục tiêu xây dựng nền
văn hoá Việt Nam trong thời kỳ đổi mới là xây dựng nền văn hoá tiên tiến,
đậm đà bản sắc dân tộc. Mục tiêu này đang bị nhiều cản trở do tính thương
mại của hoạt động văn hoá diễn ra một cách xô bồ, hỗn loạn, không chỉ dừng
lại ở suy thoái lối sống và đạo đức xã hội mà còn có nguy cơ làm biến dạng cả
mục tiêu lý luận chính trị định hướng, vi phạm các nguyên tắc và chuẩn mực
xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Sự du nhập tràn lan
và hỗn loạn văn hoá nước ngoài, đặc biệt chủ nghĩa đế quốc trong văn hoá tác
động vào có thể làm cho văn hoá nước ta suy yếu và lệ thuộc nước ngoài.
Thứ ba, sự phân hoá xã hội trên lĩnh vực văn hoá diễn ra mạnh mẽ cùng
với quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Đời sống văn hoá các vùng nông thôn,
miền núi, đời sống văn hoá của những nhóm xã hội nghèo so với các vùng đô
thị, các loại hình nghề nghiệp có thu nhập cao khoảng cách ngày càng xa,
------------------------------------------------------------------------------------------------------------19


Đề tài: "Văn hoá Việt Nam trong quá trình hội hập quốc tế hiện nay”.

-------------------------------------------------------------------------------------------------------------

nhất là đời sống của vùng dân tộc và miền núi sẽ ngày càng gặp nhiều khó
khăn trước quá trình hội nhập quốc tế.
Thứ tư, sự suy thoái về lối sống, đạo đức, có nguy cơ ngày càng tăng,
nhất là sự sa sút về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống và nếp sống ở một bộ
phận cán bộ, đảng viên và nhân dân, mức độ trầm trọng của tệ quan liêu, tham

nhũng, lãng phí, của các tệ nạn xã hội và tiêu cực xã hội khác. Đây là một
trong những nguyên nhân dẫn đến sự mất ổn định, thậm chí đe doạ sự tồn tại
chế độ chính trị - xã hội.
Thứ năm, sức cạnh tranh của văn hoá dân tộc với các nền văn hoá trong
khu vực và cộng đồng quốc tế yếu.
Thứ sáu, đội ngũ trí thức khoa học và trí thức văn nghệ gặp nhiều khó
khăn trong sáng tạo. Thị trường khoa học mới hình thành, còn nhiều bất cập
cả về chính sách và quản lý sở hữu trí tuệ. Việc thu hút nhân tài vào các cơ
quan công quyền khó khăn do chế độ đãi ngộ thấp. Tình trạng rò rỉ chất xám
ngày càng gia tăng nếu không có chiến lược sử dụng nhân tài hợp lý.
Thứ bảy, trình độ quản lý văn hoá có nguy cơ ngày càng tụt hậu so với
tốc độ của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Vì vậy, xây dựng một nhà nước
thông minh và một chính phủ hiệu quả không chỉ trong chính trị, kinh tế mà
trong văn hoá là một vấn đề bức thiết đặt ra ở nước ta hiện nay.
Nói tóm lại, càng bước vào quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, chúng ta
cần phải tổ chức lại “mặt trận văn hoá” và “văn hoá phải soi đường” cho
quốc dân đi như lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Văn hoá phải tham gia
vào dự báo, khám phá, sáng tạo, phải góp phần giải quyết những khó khăn
nêu trên để thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng hệ thống chính trị
vững mạnh, thực hiện thắng lợi mục tiêu của sự nghiệp đổi mới “Dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh”.
CHƯƠNG 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP XÂY DỰNG VÀ PHÁT
TRIỂN NỀN VĂN HOÁ VIỆT NAM TRONG QUÁ TRÌNH HỘI NHẬP
QUỐC TẾ.
Hiện nay, Việt Nam đã có quan hệ ngoại giao với trên 170 quốc gia,
trao đổi thương mại với trên 150 nền kinh tế và quan hệ đầu tư trên 70 nước
và vùng lãnh thổ. Việt Nam đã trở thành thành viên của ASEAN và AFTA,
ASEM và APEC, gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO và trở thành
thành viên không thường trực của Hội đồng Bảo an Liên hiệp quốc,… Quá
trình hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng tác động mạnh mẽ vào quá trình xây

dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
Kết luận Hội nghị lần thứ 10 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá IX đã
nhấn mạnh: “Trong quá trình mở rộng, hội nhập kinh tế quốc tế và giao lưu
văn hoá, cùng với việc tập trung xây dựng những giá trị mới của văn hoá Việt
Nam đương đại, cần đẩy mạnh công tác bảo tồn, kế thừa và phát huy các giá
------------------------------------------------------------------------------------------------------------20


Đề tài: "Văn hoá Việt Nam trong quá trình hội hập quốc tế hiện nay”.

-------------------------------------------------------------------------------------------------------------

trị tốt đẹp của truyền thống văn hoá dân tộc và tiếp nhận chọn lọc tinh hoa
của văn hoá thế giới, bắt kịp sự phát triển của thời đại”.
Để thực hiện tốt tư tưởng chỉ đạo trên, chúng ta cần tập trung vào thực
hiện một số giải pháp để tận dụng thời cơ, vượt qua những khó khăn thách
thức do quá trình hội nhập quốc tế tác động đến nền văn hoá dân tộc như:
3.1. Tăng cường nâng cao nhận thức của các tổ chức Đảng, cơ quan
nhà nước, các đoàn thể chính trị xã hội, các doanh nghiệp và toàn thể
nhân dân về vai trò của văn hoá dân tộc trong quá trình hội nhập quốc
tế.
Trước hết, chúng ta phải luôn luôn xem trọng nền văn hoá của dân tộc.
Văn hoá dân tộc phải là nền tảng tinh thần, là động lực và mục tiêu của quá
trình phát triển kinh tế - xã hội nói chung và quá trình hội nhập quốc tế nói
riêng. Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế phải dựa trên nền tảng văn hoá của
dân tộc, trước hết là sự chuẩn bị về nguồn nhân lực chất lượng cao, ở việc xây
dựng phẩm chất và năng lực của các thế hệ công dân tham gia vào quá trình
hội nhập kinh tế vì mục tiêu xây dựng và phát triển đất nước giàu mạnh. Trình
độ trí tuệ, tính năng động, tinh thần yêu nước, độc lập tự chủ, sáng tạo, bản
lĩnh và nhiệt tình cách mạng của các thế hệ công dân là nhân tố hàng đầu có ý

nghĩa quyết định cho sự thành công của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Mặt khác, quá trình hội nhập kinh tế quốc tế cũng hướng tới các giá trị nhân
văn, tham gia vào việc xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản
sắc dân tộc. Quá trình xây dựng nền kinh tế quốc tế không được tách rời quá
trình xây dựng nền văn hoá Việt Nam hiện đại.
Đảng và Nhà nước ta cần phải có chính sách, phương hướng giáo dục ý
thức công dân, tinh thần kỷ luật, tôn trọng pháp luật trong nước, luật quốc tế
và luật pháp của các nước đối tác cho người lao động. Quán triệt toàn diện và
sâu sắc những quan điểm chỉ đạo của Đảng ta về hội nhập kinh tế quốc tế.
Nâng cao tinh thần chủ động của các cấp uỷ Đảng, các Bộ, ngành; các đoàn
thể chính trị - xã hội và các địa phương về vai trò của hội nhập kinh tế quốc tế
cũng như những thời cơ và thách thức đối với sự nghiệp đổi mới, đối với việc
xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam.
Cần phải thường xuyên bồi dưỡng và cung cấp thông tin kinh tế quốc tế
đối với đội ngũ trí thức, văn nghệ sĩ, đội ngũ nhà báo và các nhà hoạt động
văn hoá, giáo dục để nâng cao tính tích cực của họ trong quá trình tham gia
vào phát triển văn hoá dân tộc thời kỳ hội nhập quốc tế.
Phát huy vai trò của thông tin đại chúng như báo chí, phát thanh truyền
hình, xuất bản trong việc thông tin về những thời cơ và thách thức của quá
trình toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế, phát hiện các nhân tố tích cực,
khắc phục các mặt yếu kém để nâng cao vị trí của văn hoá dân tộc Việt Nam
trong quá trình hội nhập quốc tế.
------------------------------------------------------------------------------------------------------------21


Đề tài: "Văn hoá Việt Nam trong quá trình hội hập quốc tế hiện nay”.

-------------------------------------------------------------------------------------------------------------

3.2. Tiếp tục củng cố và hoàn thiện hệ thống chính sách và pháp

luật nhằm vừa đảm bảo giữ gìn và phát huy bản sắc dân tộc, vừa chủ
động tiếp thu tinh hoa văn hoá thế giới thông qua việc mở rộng hợp tác
và giao lưu văn hoá thế giới, nâng cao vị thế của văn hoá Việt Nam trong
cộng đồng khu vực và quốc tế.
Thứ nhất, rà soát lại chính sách và hệ thống luật pháp liên quan đến
quan hệ của Việt Nam đối với các nước và các tổ chức quốc tế để có những
bước điều chỉnh thích hợp với quá trình hội nhập kinh tế quốc tế và mở rộng
giao lưu hợp tác văn hoá.
Thứ hai, có kế hoạch củng cố, tăng cuờng các quan hệ của Việt Nam
với các đối tác quốc tế. Nghiên cứu khả năng và xúc tiến đàm phán để mở
rộng hợp tác giao lưu về văn hoá, tháo gỡ những vướng mắc đang cản trở
trong sự hợp tác văn hoá Việt Nam và các đối tác khác.
Thứ ba, củng cố và tăng cường việc giới thiệu thành tựu văn hoá, quảng
bá hình ảnh Việt Nam ở nước ngoài và thường xuyên chủ động giới thiệu
những tinh hoa, những kinh nghiệm xây dựng và phát triển văn hoá của nước
ngoài tới Việt Nam. Tăng cường hiệu quả và hoạt động của các cơ quan văn
hoá làm công tác đối ngoại.
Thứ tư, tăng cường hoạt động và đề cao tính chủ động của các cơ quan
văn hoá trong việc tham gia các diễn đàn quốc tế, chủ động đưa ra các sáng
kiến, tranh thủ sự hợp tác và hỗ trợ kỹ thuật, kinh nghiệm quản lý, đào tạo
chuyên môn. Sẵn sàng chủ động đăng cai các hội thảo, các hoạt động thể thao
văn hoá khu vực và quốc tế. Đồng thời, tăng cường vận động các nước và các
tổ chức quốc tế, các doanh nghiệp và Việt kiều tham gia vào đầu tư xây dựng
và phát triển văn hoá Việt Nam.
Thứ sáu, đẩy mạnh công tác thông tin văn hoá đối ngoại, đấu tranh
chống lại các quan điểm sai trái, thù địch, củng cố tình hữu nghị hoà bình,
hợp tác và phát triển giữa các quốc gia, các dân tộc.
3.3. Tạo động lực để văn hoá dân tộc phát triển trong quá trình hội
nhập kinh tế quốc tế.
Thứ nhất, đánh giá lợi thế cạnh tranh của văn hoá Việt Nam trong quá

trình giao lưu hợp tác quốc tế. Xác định các chương trình, kế hoạch đẩy mạnh
đầu tư của Nhà nước về việc bảo tồn, tôn tạo di sản văn hoá truyền thống dân
tộc và các lĩnh vực sản xuất và dịch vụ văn hoá có lợi thế cạnh tranh như các
loại hình nghệ thuật cổ truyền, văn hoá ẩm thực,…
Thứ hai, cần đầu tư vào các công trình văn hoá trọng điểm của quốc
gia, của khu vực và các tỉnh, thành, tạo dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của nền
văn hoá Việt Nam khang trang, hiện đại, xứng đáng với tầm cở của một quốc
gia có trên 60 triệu dân hiện đang trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại
hoá đất nước. Các công trình văn hoá này phải đảm bảo tính bền vững, tính
------------------------------------------------------------------------------------------------------------22


Đề tài: "Văn hoá Việt Nam trong quá trình hội hập quốc tế hiện nay”.

-------------------------------------------------------------------------------------------------------------

thẩm mỹ, tính hiện đại và phục vụ quảng đại quần chúng nhân dân lao động
và những người nước ngoài đến làm việc tại Việt Nam. Cần có những chiến
lược đầu tư theo quy hoạch tổng thể đảm bảo gắn kết với quy hoạch phát triển
kinh tế - xã hội và dân cư của đất nước trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp
hoá, hiện đại hoá và hội nhập kinh tế quốc tế. Cần khắc phục tình trạng đầu tư
dàn trải, chắp vá, ít hiệu quả,…
Thứ ba, Nhà nước cần có chiến lược xây dựng các ngành công nghiệp
văn hoá để tạo ra sản phẩm văn hoá của xã hội công nghiệp và hội nhập kinh
tế quốc tế, nhất là việc chủ động tham gia vào phát triển kinh tế tri thức gắn
với khoa học – công nghệ hiện đại. Vấn đề giữ gìn, bảo vệ và phát huy bản
sắc văn hoá dân tộc phải được tiến hành đồng bộ ở nhiều hướng tiếp cận khác
nhau, trong đó đặc biệt lưu ý đến việc bảo vệ các giá trị văn hoá mới. Nhà
nước cần có chương trình quốc gia về xây dựng và phát triển các ngành công
nghiệp văn hoá của đất nước, xác định lợi thế cạnh tranh, các hướng ưu tiên

và lộ trình để phát triển các ngành công nghiệp này. Trước hết là ngành công
nghiệp truyền thông, công nghiệp điện ảnh, công nghiệp sản xuất băng đĩa.
Nếu không quan tâm đầu tư vào các lĩnh vực này thì nguy cơ bị xâm nhập bởi
các sản phẩm văn hoá từ bên ngoài vào là điều khó tránh khỏi.
Thứ tư, cần đẩy mạnh xã hội hoá các hoạt động văn hoá. Tăng cường
huy động các nguồn lực khác nhau ở trong và ngoài nước, Việt kiều và các
nguồn lực quốc tế tham gia đầu tư, hỗ trợ cho việc xây dựng các công trình
văn hoá, sáng tạo các giá trị văn hoá mới.
Thứ năm, các chính sách khuyến khích và tôn vinh những người có
công trong việc xây dựng và phát triển văn hoá Việt Nam trong thời kỳ hiện
nay.
Thứ sáu, đổi mới công tác đào tạo đại học và cao đẳng về lĩnh vực văn
hoá, nghệ thuật, kể cả khu vực sáng tác, phê bình, nghiên cứu lý luận và quản
lý văn hoá nghệ thuật cho phù hợp với quá trình đẩy mạnh công nghiệp hoá,
hiện đại hoá và hội nhập kinh tế quốc tế. Cần đưa ra một số bộ môn mới như:
Quản lý văn hoá, maketing văn hoá - nghệ thuật, kinh doanh nghệ thuật trong
hội nhập kinh tế quốc tế và một số loại hình nghệ thuật mới của khu vực và
quốc tế. Có chính sách cử sinh viên và cán bộ đào tạo nâng cao trình độ ở các
nước trong khu vực ASEAN và cộng đồng quốc tế.
Thứ bảy, cần tranh thủ sự giúp đỡ của UNESCO để tiếp tục đề nghị
đăng ký một số công trình văn hoá của Việt Nam được công nhận là di sản
văn hoá thế giới. Khai thông thị trường văn hoá phẩm của Việt Nam với thế
giới. Có chính sách bảo hộ và bảo vệ các tài sản văn hoá quý hiếm của dân
tộc. Chống tự do hoá, thương mại hoá tràn lan của các sản phẩm văn hoá.
Thứ tám, tranh thủ các nguồn lực trong nước và hợp tác quốc tế để bảo
vệ văn hoá đồng bào các dân tộc thiểu số, khắc phục tình trạng chênh lệch,
sáng tạo và thưởng thụ văn hoá của các dân tộc, các vùng, miền. Tiếp tục đầu
tư xây dựng đời sống văn hoá ở những xã gặp nhiều khó khăn, vùng dân tộc
------------------------------------------------------------------------------------------------------------23



Đề tài: "Văn hoá Việt Nam trong quá trình hội hập quốc tế hiện nay”.

-------------------------------------------------------------------------------------------------------------

thiếu số. Khuyến khích các nhà đầu tư, các doanh nghiệp hỗ trợ, giúp đỡ các
hoạt động văn hoá và thường xuyên tổ chức các giải thưởng về văn hoá, nghệ
thuật ở tất cả các loại hình như ca nhạc, sân khấu, điện ảnh, văn học, hội hoạ,
… cần chúng trọng tiêu chuẩn dân tộc và hiện đại mang tính sáng tạo cao của
sáng tác văn hoá. Khuyến khích và hỗ trợ các nghệ sĩ, các nhà doanh nghiệp
tham gia đầu tư trên lĩnh vực văn hoá.
Thứ chín, phát triển thị trường văn hoá lành mạnh, đưa nhiều sản phẩm
văn hoá độc đáo, mang đậm bản sắc dân tộc Việt Nam ra thị trường khu vực
và thế giới. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền đối nội, đối ngoại nhằm nâng
cao vị thế của văn hoá Việt Nam trong đời sống đất nước và cộng đồng quốc
tế. Đặc biệt là việc giáo dục ý thức tiêu dùng các sản phẩm văn hoá của dân
tộc, hình thành tâm lý tiêu dùng lành mạnh, phù hợp với trình độ kinh tế và
thu nhập, khắc phục tâm lý sùng hàng ngoại, xô bồ, lai căng trong việc hưởng
thụ văn hoá trong thời kỳ hiện nay.
3.4. Đổi mới công tác quản lý Nhà nước về văn hoá.
Sự nghiệp đổi mới đất nước đã và đang diễn ra toàn diện, triệt để và sâu
sắc nhằm thực hiện mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân
chủ và văn minh” để tiến bước vững chắc lên chủ nghĩa xã hội. Sự nghiệp đổi
mới đã làm thay đổi cơ sở vật chất của nền văn hoá, xây dựng những chủ
nhân mới, tạo lập môi trường mới cho sáng tạo và hưởng thụ văn hoá theo
hướng dân tộc, hiện đại và nhân văn, gắn liền với quá trình hội nhập kinh tế
quốc tế và mở rộng giao lưu văn hoá thế giới. Muốn thực hiện được những
nội dung trên, chúng ta cần phải:
Thứ nhất, đổi mới công tác quản lý văn hoá kể cả công tác quản lý Nhà
nước và công tác quản lý nghiệp vụ. Nhà nước cần bổ sung hoàn chỉnh hệ

thống các văn bản pháp luật về lĩnh vực văn hoá trên cơ sở đảm bảo định
hướng chính trị, tư tưởng, bảo vệ bản sắc văn hoá dân tộc, mở rộng tự do dân
chủ trong sáng tạo và truyền bá các giá trị văn hoá gắn liền với việc thực hiện
các Công ước quốc tế và các quy định chung của ASEAN trên lĩnh vực văn
hoá.
Thứ hai, trong quá trình hội nhập Tổ chức thương mại thế giới WTO,
vấn đề cấp bách là phải xác định được các khu vực cần được bảo vệ trên lĩnh
vực văn hoá, tránh tự do hoá thương mại tràn lan để giữ gìn truyền thống văn
hoá và bản sắc văn hoá dân tộc. Đây là một trong những vấn đề phức tạp và tế
nhị cần có sự cân nhắc cẩn thận để bảo vệ môi trường văn hoá lành mạnh,
tránh sự xâm nhập một cách xô bồ, nhiễu loạn các sản phẩm văn hoá từ bên
ngoài vào làm thất thoát các sản phẩm quý hiếm của dân tộc.
Thứ ba, Nhà nước cần đầu tư đào tạo các chuyên gia trên lĩnh vực văn
hoá, đặc biệt là các chuyên gia về luật văn hoá Việt Nam và quốc tế, nắm
vững luật pháp của quốc tế và các nước đối tác của Việt Nam. Tăng cường
trao đổi kinh nghiệm quốc tế về quản lý văn hoá trong thời kỳ hội nhập kinh
------------------------------------------------------------------------------------------------------------24


Đề tài: "Văn hoá Việt Nam trong quá trình hội hập quốc tế hiện nay”.

-------------------------------------------------------------------------------------------------------------

tế quốc tế cả vĩ mô và vi mô. Đồng thời, Nhà nước cần tăng cường đầu tư và
nâng cao chất lượng hoạt động của các cơ quan làm công tác xuất nhập khẩu
văn hoá. Khuyến khích việc xuất khẩu nhiều sản phẩm văn hoá phẩm của Việt
Nam ra nước ngoài, đẩy mạnh liên kết du lịch văn hoá, khai thác hợp lý và có
hiệu quả nguồn tài nguyên văn hoá của đất nước để phát triển kinh tế trong
quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Đổi mới cơ chế quản lý văn hoá ở các cấp
theo hướng tinh giản, hiện đại, hiệu quả, có khả năng xử lý kịp thời những

tình huống xảy ra trong quản lý.
Thứ tư, kết hợp chặt chẽ các phương pháp quản lý văn hoá như phương
pháp hành chính, kinh tế, giáo dục, chú ý đúng mức tới sự tác động của quy
luật thị trường vào trong hoạt động văn hoá. Tăng cường công tác kiểm tra,
thanh tra các hoạt động văn hoá ở các cấp, các ngành, kịp thời chấn chỉnh
những sai lầm, thiếu sót xảy ra trong quản lý. Tăng cường quản lý văn hoá
theo Hiến pháp và pháp luật. Thực hiện dân chủ hoá, công khai hoá trong
công tác quản lý.
Thứ năm, chú trọng đúng mức tới các tổ chức văn hoá tự nguyện của
cộng đồng dân cư, các nhóm xã hội, các hiệp hội, câu lạc bộ,… Phát huy vai
trò dân chủ, tự quản trong quản lý đời sống văn hoá của cộng đồng dân cư
trên cơ sở thực hiện đúng luật pháp của Nhà nước.
Thứ sáu, có kế hoạch chủ động đấu tranh chống lại các quan điểm tư
tưởng tư sản phản động chống lại đường lối đổi mới của Đảng và Nhà nước,
quản lý tốt các hội thảo, hội nghị quốc tế, các đoàn công tác và biểu diễn nghệ
thuật ở nước ngoài. Xử lý nghiêm khắc những phần tử lợi dụng tự do ngôn
luận, tự do báo chí để gây rối tư tưởng, lợi dụng tôn giáo và dân tộc để làm
mất đoàn kết nội bộ, đặc biệt là trong tầng lớp trí thức, văn nghệ sĩ, trong sinh
viên, học sinh, khu vực đô thị, đồng bào các dân tộc thiểu số ở vùng Tây Bắc,
Tây Nguyên và Tây Nam bộ.

------------------------------------------------------------------------------------------------------------25


×