Tải bản đầy đủ (.doc) (558 trang)

Chuyên Đề Những Vấn Đề Về Tổ Chức Và Hoạt Động Của Chính Quyền Cơ Sở Miền Núi

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.17 MB, 558 trang )

Chuyên đề 1 (Phần I)
Những vấn đề về tổ chức và hoạt động của chính quyền cơ sở
I. CHÍNH QUYỀN CẤP XÃ VÀ VAI TRÒ CỦA CHÍNH QUYỀN CẤP XÃ

1. Chính quyền cấp xã
Chính quyền cơ sở xã, phường, thị trấn (gọi tắt là cấp xã) bao
gồm: Hội đồng nhân dân cấp xã (HĐND) thuộc hệ thống cơ quan quyền
lực Nhà nước và Uỷ ban nhân dân cấp xã (UBND) thuộc hệ thống cơ
quan hành chính Nhà nước.
2. Vai trò của chính quyền cấp xã
Cấp xã là cấp cơ sở, cấp thấp nhất trong cơ cấu chính quyền của Nhà
nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, nhưng lại là cấp chính quyền gần dân
nhất nên có vai trò quan trọng. Chính quyền cấp xã chịu trách nhiệm trước
nhân dân địa phương và cơ quan Nhà nước cấp trên, quản lý địa phương
theo Hiến pháp, luật, các văn bản của cơ quan Nhà nước cấp trên; bảo đảm
sự lãnh đạo thống nhất của Trung ương, phát huy quyền làm chủ của nhân
dân, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, ngăn ngừa và chống các biểu
hiện tiêu cực trong cơ quan, cán bộ, viên chức Nhà nước và trong bộ máy
chính quyền địa phương (quan liêu, vô trách nhiệm, hách dịch, cửa quyền,
tham nhũng, lãng phí…); xây dựng và phát triển địa phương về mọi mặt
nhằm phục vụ lợi ích thiết thực của nhân dân.
II. HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN CẤP XÃ

1. Vị trí vai trò của Hội đồng nhân dân cấp xã
Tại Điều 1 Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân có
ghi: Hội đồng nhân dân cấp xã là cơ quan quyền lực Nhà nước ở địa
phương, đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân, do
nhân dân địa phương bầu ra, chịu trách nhiệm trước nhân dân địa phương và
cơ quan Nhà nước cấp trên.
HĐND cấp xã là cơ quan quyền lực ở cấp xã, vừa là một bộ phận cấu
thành không thể tách rời với quyền lực Nhà nước, với quyền làm chủ chung


của nhân dân, vừa đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ mọi
mặt của nhân dân địa phương.
Tính quyền lực Nhà nước của HĐND thể hiện ở chỗ HĐND là cơ
quan Nhà nước ở địa phương được nhân dân giao quyền thay mặt mình thực
hiện quyền lực Nhà nước; quyết định các vấn đề quan trọng của địa phương,
biến ý chí của nhân dân địa phương trở thành bắt buộc đối với dân cư trên
lãnh thổ địa phương.
Tính đại diện của HĐND thể hiện ở địa phương là chỉ có HĐND là cơ
quan duy nhất do cử tri bầu ra theo nguyên tắc phổ thông, trực tiếp và bỏ


phiếu kín. HĐND là đại diện tiêu biểu cho tiếng nói của các tầng lớp nhân
dân địa phương, đại diện cho trí tuệ tập thể của nhân dân.
Trong tổ chức và hoạt động của mình, HĐND phải thể hiện đầy đủ
hai tính chất đó. Nếu thiên về tính đại diện mà không thể hiện tính quyền lực
Nhà nước thì HĐND chỉ là một tổ chức xã hội. Nếu thiên về tính quyền lực
Nhà nước không chú ý đến tính đại diện thì HĐND trở thành cơ quan Nhà
nước quan liêu, xa rời nhân dân.
2. Tổ chức của Hội đồng nhân dân cấp xã
Số lượng đại biểu HĐND cấp xã do cử tri địa phương bầu ra theo quy
định tại Điều 9 Luật bầu cử Hội đồng nhân dân:
- Xã, thị trấn miền xuôi có từ 400 người trở xíông được bầu 25 đại
biểu, có trên 4000 người thì cứ thêm 2000 người được bầu thêm 01 đại biểu,
nhưng tổng số không quá 35 đại biểu.
- Xã, thị trấn miền núi và hải đảo có từ 3000 người trở xuống đến
2000 người được bầu 25 đại biểu, có trên 3000 người thì cứ thêm 1000
người được bầu thêm 01 đại biểu, nhưng tổng số không quá 35 đại biểu.
- Xã, thị trấn có dưới 2000 người trở xuống đến 1000 người được bầu
19 đại biểu.
- Xã, thị trấn có dưới 1000 được bầu 15 đại biểu.

- Phường có từ 8000 người trở xuống được bầu 25 đại biểu, có trên
8000 người thì cứ thêm 4000 người được bầu thêm 1 đại biểu, nhưng tổng
số không quá 35 đại biểu.
Nhiệm kỳ của đại hiểu HĐND cấp xã là 5 năm, nhiệm kỳ mỗi khóa
bắt đầu từ kỳ họp thứ nhất của HĐND khóa đó đến kỳ họp thứ nhất của
HĐND khóa sau (Điều 6 Luật tổ chức HĐND và UBND).
Cơ cấu tổ chức: HĐND cấp xã có thường trực HĐND, thường trực
HĐND cấp xã gồm có Chủ tịch, Phó Chủ tịch HĐND (Điều 5, Điều 52 Luật
tổ chức HĐND và UBND).
3. Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng nhân dân cấp

Trên cơ sở phạm vi đã được phân cấp HĐND quyết định những chủ
trương và biện pháp quan trọng để phát huy tiềm năng của địa phương, xây
dựng và phát triển địa phương về kinh tế, xã hội, củng cố quốc phòng, an
ninh, không ngừng cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân địa
phương, làm tròn nghĩa vụ của địa phương đối với cả nước.
Khi quyết định những vấn đề thuộc nhiệm vụ, quyền hạn của mình,
HĐND ban hành các Nghị quyết. Những Nghị quyết về các vấn đề mà pháp
luật quy định thuộc quyền phê chuẩn của cấp trên thì trước khi thi hành phải
được cấp trên phê chuẩn.
2


HĐND thực hiện quyền giám át đối với hoạt động của Thường trực
HĐND, UBND; giám sát việc thực hiện các Nghị quyết của HĐND về các
lĩnh vực được quy định (Điều 1 Luật Tổ chức HĐND và UBND).
Như vậy, HĐND có hai chức năng quyết định và giám sát:
a. Chức năng quyết định những chủ trương và biện pháp quan trọng
để phát huy tiềm năng của địa phương, xây dựng và phát triển địa phương
về kinh tế - xã hội, củng cố quốc phòng, an ninh; không ngừng cải thiện đời

sóng vật chất và tinh thần cho nhân dân địa phương, làm tròn nghĩa vụ của
địa phương đối với cả nước (Điều 1 Luật Tổ chức HĐND và UBND).
* Trong lĩnh vực kinh tế, HĐND xã, thị trấn quyết định ((Điều 29
Luật Tổ chức HĐND và UBND).
- Quyết định biện pháp thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội
hàng năm; kế hoạch sử dụng lao động công ích hàng năm; biện pháp thực
hiện chương trình khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư, khuyến công và
chuyển đổi cơ cấu kinh tế, cây trồng, vật nuôi theo quy hoạch chung;
- Quyết định dự toán ngân sáh Nhà nước trên địa bàn; dự toán thu, chi
ngân sách địa phương và phân bổ dự toán ngân sách cấp mình; phê chuẩn
quyết toán ngân sách địa phương; các chủ trương, biện pháp để triển khai
thực hiện ngân sách địa phương và điều chỉnh dự toán ngân sách địa phương
theo quy định của pháp luật; giám sát việc thực hiện ngân sách đã được Hội
đồng nhân dân quyết định;
- Quyết định biện pháp quản lý và sử dụng hợp lý, có hiệu quả quỹ
đất được để lại nhằm phục vụ các nhu cầu công ích của địa phương;
- Quyết định biện pháp xây dựng và phát triển hợp tác xã, tổ hợp tác,
kinh tế hộ gia đình ở địa phương.
- Quyết định biện pháp quản lý, sử dụng và bảo vệ nguồn nước, các
công trình thủy lợi theo phân cấp của cấp trên; biện pháp phòng, chống, khắc
phục hậu quả thiên tai, bão lụt, bảo vệ rừng, tu bổ và bảo vệ đê điều ở địa
phương.
- Quyết định biện pháp thực hiện xây dựng, tu sửa đường giao thông,
cầu, cống trong xã và các cơ sở hạ tầng khác ở địa phương;
- Quyết định biện pháp thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, chống
tham nhũng, chống buôn lậu và gian lận thương mại.
* Trong lĩnh vực giáo dục, y tế, xã hội và đời sống, văn hóa, thông
tin, thể dục thể thao, bảo vệ tài nguyên, môi trường, HĐND xã, thị trấn
quyết định (Điều 30 Luật Tổ chức HĐND và UBND).
- Quyết định biện pháp bảo đảm các điều kiện cần thiết để trẻ em vào

học tiểu học đúng độ tuổi, hoàn thành chương trình phổ cập giáo dục tiểu
học; tổ chức các trường mầm non; thực hiện bổ túc văn hóa và xóa mù chữ
cho những người trong độ tuổi;
3


- Quyết định biện pháp giáo dục, chăm sóc thanh niên, thiếu niên, nhi
đồng; xây dựng nếp sống văn minh, gia đình văn hóa, giáo dục truyền thống
đạo đức tốt đẹp; giữ gìn thuần phong mỹ tục của dân tộc; ngăn chặn việc
truyền bá văn hóa phẩm phản động, đồi trụy, bài trừ mê tín, hủ tục, phòng,
chống các tệ nạn xã hội ở địa phương;
- Quyết định biện pháp phát triển hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể
dục thể thao; hướng dẫn tổ chức các lễ hội cổ truyền, bảo vệ và phát huy giá
trị các di tích lịch sử - văn hóa và danh lam thắng cảnh ở địa phương theo
quy định của pháp luật;
- Quyết định việc xây dựng, tu sửa trường lớp, công trình văn hóa
thuộc địa phương quản lý;
- Quyết định biện pháp bảo đảm giữ gìn vệ sinh, xử lý rác thải, phòng,
chống dịch bệnh, biện pháp bảo vệ môi trường trong phạm vi quản lý; biện
pháp thực hiện chương trình y tế cơ sở, chính sách dân số và kế hoạch hoá
gia đình;
- Quyết định biện pháp thực hiện chính sách, chế độ đối với thương
binh, bệnh binh, gia đình liệt sĩ, những người và gia đình có công với nước,
thực hiện công tác cứu trợ xã hội và vận động nhân dân giúp đỡ gia đình
khó khăn, người già, người tàn tật, trẻ mồ côi không nơi nương tựa; biện
pháp thực hiện xoá đói, giảm nghèo.
* Trong lĩnh vực quốc phòng, an ninh, trật tự an toàn xã hội, HĐND
xã, thị trấn quyết định (Điều 31 Luật Tổ chức HĐND và UBND)
- Quyết định biện pháp bảo đảm thực hiện chế độ nghĩa vụ quân sự;
xây dựng lực lượng dân quân, tự vệ và quốc phòng toàn dân.

- Quyết định biện pháp thực hiện nhiệm vụ hậu cần tại chỗ; thực hiện
chính sách hậu phương quân đội và chính sách đối với các lực lượng vũ
trang nhân dân ở địa phương;
- Quyết định biện pháp bảo đảm giữ gìn an ninh, trật tự công cộng, an
toàn xã hội; phòng, chống cháy, nổ; đấu tranh phòng ngừa, chống tội phạm
và các hành vi vi phạm pháp luật khác trên địa bàn.
* Trong lĩnh vực thực hiện chính sách dân tộc và chính sách tôn giáo,
HĐND xã, thị trấn quyết định (Điều 32 Luật Tổ chức HĐND và UBND)
- Quyết định biện pháp thực hiện chính sách dân tộc, cải thiện đời
sống vật chất và tinh thần, nâng cao dân trí của đồng bào các dân tộc thiểu
số; bảo đảm thực hiện quyền bình đẳng giữa các dân tộc, tăng cường đoàn
kết toàn dân và tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau giữa các dân tộc ở địa phương;
- Quyết định biện pháp thực hiện chính sách tôn giáo, bảo đảm quyền tự
do tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân địa phương theo quy định của pháp
luật.
4


* Trong lĩnh vực thi hành pháp luật, HĐND xã, thị trấn quyết định
(Điều 33 Luật Tổ chức HĐND và UBND)
- Quyết định biện pháp bảo đảm việc thi hành Hiến pháp, luật, các
văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên và nghị quyết của mình ở địa
phương;
- Quyết định biện pháp bảo hộ tính mạng, tự do, danh dự, nhân phẩm,
các quyền và lợi ích hợp pháp khác của công dân;
- Quyết định biện pháp bảo vệ tài sản, lợi ích của Nhà nước; bảo hộ
tài sản của cơ quan, tổ chức, cá nhân ở địa phương;
- Quyết định biện pháp bảo đảm việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của
công dân theo quy định của pháp luật.
* Trong lĩnh vực xây dựng chính quyền địa phương, Hội đồng nhân

dân xã, thị trấn quyết định (Điều 34 Luật Tổ chức HĐND và UBND)
- Bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Chủ tịch, Phó Chủ tịch Hội đồng nhân
dân, Chủ tịch, Phó Chủ tịch và thành viên khác của Uỷ ban nhân dân cùng
cấp; bãi nhiệm đại biểu Hội đồng nhân dân và chấp nhận việc đại biểu Hội
đồng nhân dân xin thôi làm nhiệm vụ đại biểu theo quy định của pháp luật;
- Bỏ phiếu tín nhiệm đối với người giữ chức vụ do Hội đồng nhân dân
bầu;
- Bãi bỏ một phần hoặc toàn bộ quyết định, chỉ thị trái pháp luật của
Uỷ ban nhân dân cùng cấp;
- Thông qua đề án thành lập mới, nhập, chia và điều chỉnh địa giới
hành chính ở địa phương để đề nghị cấp trên xem xét, quyết định.
* Hội đồng nhân dân phường thực hiện những nhiệm vụ, quyền hạn
quy định tại các Điều 29, 30, 31, 32, 33 và 34 của Luật này và thực hiện
những nhiệm vụ, quyền hạn sau đây:
- Quyết định biện pháp thực hiện thống nhất kế hoạch phát triển kinh
tế - xã hội và quy hoạch đô thị; thực hiện nhiệm vụ giải phóng mặt bằng;
bảo đảm trật tự giao thông đô thị, trật tự xây dựng trên địa bàn phường;
- Quyết định biện pháp xây dựng nếp sống văn minh đô thị; biện pháp
phòng, chống cháy, nổ, giữ gìn vệ sinh; bảo vệ môi trường, trật tự công cộng
và cảnh quan đô thị trong phạm vi quản lý;
- Quyết định biện pháp quản lý dân cư và tổ chức đời sống nhân dân
trên địa bàn phường.
b. Chức năng giám sát (Điều 1, Điều 57, Điều 58 Luật Tổ chức
HĐND và UBND)
- Hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân được tiến hành thường
xuyên, gắn liền với việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn do pháp luật quy định.
Giám sát của Hội đồng nhân dân bao gồm: giám sát của Hội đồng
nhân dân tại kỳ họp; giám sát của Thường trực Hội đồng nhân dân; giám sát
5



của các Ban của Hội đồng nhân dân và giám sát của đại biểu Hội đồng nhân
dân.
- Hội đồng nhân dân thực hiện quyền giám sát đối với hoạt động của
Thường trực Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân; giám sát việc thực hiện
các nghị quyết của Hội đồng nhân dân; giám sát việt tuân theo pháp luật của
cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân
và của công dân ở địa phương.
Hội đồng nhân dân giám sát thông qua các hoạt động sau đây:
+ Xem xét báo cáo công tác của Thường trực Hội đồng nhân dân, Uỷ
ban nhân dân, Toà án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp;
+ Xem xét việc trả lời chất vấn của Chủ tịch Hội đồng nhân dân, Chủ
tịch Uỷ ban nhân dân, các thành viên khác của Uỷ ban nhân dân, Thủ trưởng
cơ quan chuyên môn thuộc Uỷ ban nhân dân, Viện trưởng Viện kiểm sát
nhân dân, Chánh án Toà án nhân dân cùng cấp;
+ Xem xét văn bản quy phạm pháp luật của Uỷ ban nhân dân cùng
cấp, nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp dưới trực tiếp khi phát hiện có
dấu hiệu trái với Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị
quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội, văn bản quy phạm pháp luật của cơ
quan nhà nước cấp trên và nghị quyết của Hội đồng nhân dân cùng cấp;
+ Thành lập Đoàn giám sát khi xét thấy cần thiết;
+ Bỏ phiếu tín nhiệm đối với người giữ chức vụ do Hội đồng nhân dân
bầu.
4. Hình thức hoạt động của Hội đồng nhân dân cấp xã
Hình thức hoạt động của HĐND cấp xã được thể hiện qua ba hình
thức: hoạt động thông qua các kỳ họp của HĐND; hoạt động của thường
trực HĐND; hoạt động của các đại biểu HĐND. Kỳ họp HĐND là hình thức
hoạt động chủ yếu của HĐND (Điều 3 Luật Tổ chức HĐND và UBND)
a. Kỳ họp của HĐND cấp xã (Từ Điều 48 đến Điều 51 Luật Tổ chức
HĐND và UBND)

Hội đồng nhân dân các cấp họp thường lệ mỗi năm hai kỳ. Ngoài kỳ
họp thường lệ, Hội đồng nhân dân tổ chức các kỳ họp chuyên đề hoặc kỳ
họp bất thường theo đề nghị của Chủ tịch Hội đồng nhân dân, Chủ tịch Uỷ
ban nhân dân cùng cấp hoặc khi có ít nhất một phần ba tổng số đại biểu Hội
đồng nhân dân cùng cấp yêu cầu. Thường trực Hội đồng nhân dân quyết
định triệu tập kỳ họp thường lệ của Hội đồng nhân dân chậm nhất là hai
mươi ngày, kỳ họp chuyên đề hoặc bất thường chậm nhất là mười ngày
trước ngày khai mạc kỳ họp.
Hội đồng nhân dân họp công khai. Khi cần thiết, Hội đồng nhân dân
quyết định họp kín theo đề nghị của Chủ tọa cuộc họp hoặc của Chủ tịch Uỷ
ban nhân dân cùng cấp.
6


Ngày họp, nơi họp và chương trình của kỳ họp Hội đồng nhân dân
phải được thông báo cho nhân dân biết, chậm nhất là năm ngày, trước ngày
khai mạc kỳ họp.
Kỳ họp Hội đồng nhân dân được tiến hành khi có ít nhất hai phần ba
tổng số đại biểu Hội đồng nhân dân tham gia.
Tài liệu cần thiết của kỳ họp Hội đồng nhân dân phải được gửi đến
đại biểu Hội đồng nhân dân chậm nhất là năm ngày trước ngày khai mạc kỳ
họp.
b. Hoạt động của thường trực HĐND (Chủ tịch, Phó chủ tịch HĐND
cấp xã) (Điều 53 Luật Tổ chức HĐND và UBND)
Thường trực Hội đồng nhân dân có những nhiệm vụ và quyền hạn sau
đây:
* Chủ tịch HĐND cấp xã:
- Triệu tập và chủ tọa các kỳ họp của Hội đồng nhân dân; phối hợp
với Uỷ ban nhân dân trong việc chuẩn bị kỳ họp của Hội đồng nhân dân;
- Đôn đốc, kiểm tra Uỷ ban nhân dân cùng cấp và các cơ quan nhà

nước khác ở địa phương thực hiện các nghị quyết của Hội đồng nhân dân;
- Giám sát việc thi hành pháp luật tại địa phương;
- Giữ mối liên hệ với đại biểu Hội đồng nhân dân; tổng hợp chất vấn
của đại biểu Hội đồng nhân dân để báo cáo Hội đồng nhân dân;
- Tiếp dân, đôn đốc, kiểm tra và xem xét tình hình giải quyết kiến
nghị, khiếu nại, tố cáo của công dân; tổng hợp ý kiến, nguyện vọng của nhân
dân để báo cáo tại kỳ họp của Hội đồng nhân dân;
- Trình Hội đồng nhân dân bỏ phiếu tín nhiệm đối với người giữ chức vụ
do Hội đồng nhân dân bầu theo đề nghị của Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
cùng cấp hoặc của ít nhất một phần ba tổng số đại biểu Hội đồng nhân dân;
- Phối hợp với Uỷ ban nhân dân quyết định việc đưa ra Hội đồng nhân
dân hoặc đưa ra cử tri bãi nhiệm đại biểu Hội đồng nhân dân theo đề nghị
của Ban thường trực Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cùng cấp;
- Báo cáo về hoạt động của Hội đồng nhân dân cùng cấp lên Hội
đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân cấp trên trực tiếp;
- Giữ mối liên hệ và phối hợp công tác với Ban thường trực Uỷ ban
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cùng cấp; mỗi năm hai lần thông báo cho Uỷ
ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cùng cấp về hoạt động của Hội đồng nhân
dân.
c. Hoạt động của đại biểu HĐND cấp xã (Từ Điều 36 đến Điều 47
Luật Tổ chức HĐND và UBND)
Đại biểu Hội đồng nhân dân là người đại diện cho ý chí, nguyện vọng
của nhân dân địa phương, gương mẫu chấp hành chính sách, pháp luật của
7


Nhà nước; tuyên truyền, vận động nhân dân thực hiện chính sách, pháp luật
và tham gia vào việc quản lý nhà nước.
* Nhiệm vụ:
- Đại biểu Hội đồng nhân dân có nhiệm vụ tham dự đầy đủ các kỳ

họp, phiên họp của Hội đồng nhân dân, tham gia thảo luận và biểu quyết các
vấn đề thuộc nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng nhân dân; Đại biểu Hội
đồng nhân dân nào không tham dự được kỳ họp phải có lý do và phải báo
cáo trước với Chủ tịch Hội đồng nhân dân; Đại biểu Hội đồng nhân dân nào
không tham dự được phiên họp phải có lý do và phải báo cáo trước với Chủ
tọa phiên họp.
- Đại biểu Hội đồng nhân dân phải liên hệ chặt chẽ với cử tri ở đơn vị
bầu ra mình, chịu sự giám sát của cử tri, có trách nhiệm thu thập và phản
ánh trung thực ý kiến, nguyện vọng, kiến nghị của cử tri; bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của cử tri; thực hiện chế độ tiếp xúc và ít nhất mỗi năm một
lần báo cáo với cử tri về hoạt động của mình và của Hội đồng nhân dân, trả
lời những yêu cầu và kiến nghị của cử tri; Sau mỗi kỳ họp Hội đồng nhân
dân, đại biểu Hội đồng nhân dân có trách nhiệm báo cáo với cử tri về kết
quả của kỳ họp, phổ biến và giải thích các nghị quyết của Hội đồng nhân
dân, vận động và cùng với nhân dân thực hiện các nghị quyết đó.
- Đại biểu Hội đồng nhân dân nhận được yêu cầu, kiến nghị của cử tri
phải có trách nhiệm trả lời cử tri.
Khi nhận được khiếu nại, tố cáo của nhân dân, đại biểu Hội đồng
nhân dân có trách nhiệm nghiên cứu, kịp thời chuyển đến người có thẩm
quyền giải quyết, theo dõi, đôn đốc việc giải quyết; đồng thời thông báo cho
người khiếu nại, tố cáo biết.
Trong thời hạn do pháp luật quy định, người có thẩm quyền phải xem
xét, giải quyết và thông báo bằng văn bản cho đại biểu Hội đồng nhân dân
biết kết quả.
* Quyền hạn:
- Đại biểu Hội đồng nhân dân có quyền chất vấn Chủ tịch Hội đồng
nhân dân, Chủ tịch và các thành viên khác của Uỷ ban nhân dân. Người bị chất
vấn phải trả lời về những vấn đề mà đại biểu Hội đồng nhân dân chất vấn.
Trong thời gian Hội đồng nhân dân họp, đại biểu Hội đồng nhân dân
gửi chất vấn đến Thường trực Hội đồng nhân dân cùng cấp. Người bị chất

vấn phải trả lời trước Hội đồng nhân dân tại kỳ họp đó. Trong trường hợp
cần điều tra, xác minh thì Hội đồng nhân dân có thể quyết định cho trả lời
tại kỳ họp sau của Hội đồng nhân dân hoặc cho trả lời bằng văn bản gửi đến
đại biểu đã chất vấn và Thường trực Hội đồng nhân dân.

8


Trong thời gian giữa hai kỳ họp Hội đồng nhân dân, chất vấn của đại
biểu Hội đồng nhân dân được gửi đến Thường trực Hội đồng nhân dân cùng
cấp để chuyển đến người bị chất vấn và quyết định thời hạn trả lời chất vấn.
- Đại biểu Hội đồng nhân dân có quyền yêu cầu cơ quan nhà nước, tổ
chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân kịp thời chấm dứt những
việc làm trái pháp luật, chính sách của Nhà nước trong cơ quan, tổ chức, đơn vị
hoặc của cán bộ, công chức, nhân viên cơ quan, tổ chức, đơn vị đó.
Khi đại biểu Hội đồng nhân dân yêu cầu gặp người phụ trách của cơ
quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân thì
người đó có trách nhiệm tiếp.
- Đại biểu Hội đồng nhân dân có quyền kiến nghị với cơ quan nhà
nước về việc thi hành pháp luật, chính sách của Nhà nước và về những vấn
đề thuộc lợi ích chung. Cơ quan hữu quan có trách nhiệm trả lời kiến nghị
của đại biểu.
Đại biểu Hội đồng nhân dân có quyền đề nghị Hội đồng nhân dân bỏ
phiếu tín nhiệm đối với người giữ chức vụ do Hội đồng nhân dân bầu.
- Về tự do thân thể: trong thời gian Hội đồng nhân dân họp, nếu
không được sự đồng ý của Chủ tọa kỳ họp thì không được bắt giữ đại biểu
Hội đồng nhân dân. Nếu vì phạm tội quả tang hoặc trong trường hợp khẩn
cấp mà đại biểu Hội đồng nhân dân bị tạm giữ thì cơ quan ra lệnh tạm giữ
phải báo cáo ngay với Chủ tọa kỳ họp.
Giữa hai kỳ họp Hội đồng nhân dân, nếu cơ quan nhà nước có thẩm

quyền ra lệnh tạm giữ đại biểu Hội đồng nhân dân thì phải thông báo cho
Chủ tịch Hội đồng nhân dân cùng cấp.
* Việc bãi nhiệm hoặc mất quyền đại biểu HĐND:
- Đại biểu Hội đồng nhân dân có thể xin thôi làm nhiệm vụ đại biểu vì
lý do sức khoẻ hoặc vì lý do khác. Việc chấp nhận đại biểu Hội đồng nhân
dân xin thôi làm nhiệm vụ đại biểu do Hội đồng nhân dân cùng cấp xét và
quyết định.
- Đại biểu Hội đồng nhân dân nào không còn xứng đáng với sự tín
nhiệm của nhân dân thì tuỳ mức độ phạm sai lầm mà bị Hội đồng nhân dân
hoặc cử tri bãi nhiệm. Thường trực Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân
quyết định việc đưa ra Hội đồng nhân dân hoặc cử tri bãi nhiệm đại biểu Hội
đồng nhân dân theo đề nghị của Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cùng
cấp.
Trong trường hợp Hội đồng nhân dân bãi nhiệm đại biểu Hội đồng
nhân dân thì việc bãi nhiệm phải được ít nhất hai phần ba tổng số đại biểu
Hội đồng nhân dân biểu quyết tán thành.
Trong trường hợp cử tri bãi nhiệm đại biểu Hội đồng nhân dân thì việc
bãi nhiệm được tiến hành theo thể thức do Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định.
9


- Trong trường hợp đại biểu Hội đồng nhân dân bị truy cứu trách
nhiệm hình sự thì Thường trực Hội đồng nhân dân quyết định tạm đình chỉ
việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của đại biểu Hội đồng nhân dân đó.
Đại biểu Hội đồng nhân dân phạm tội, bị Toà án kết án và bản án đã
có hiệu lực pháp luật thì đương nhiên mất quyền đại biểu Hội đồng nhân
dân.
III. TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA UỶ BAN NHÂN DÂN CẤP XÃ
1. Vị trí vai trò của Uỷ ban nhân dân cấp xã
Uỷ ban nhân dân cấp xã là cơ quan chấp hành của HĐND, cơ quan

hành chính Nhà nước ở địa phương; chịu trách nhiệm chấp hành Hiến pháp,
luật, các văn bản của cơ quan Nhà nước cấp trên, nghị quyết của HĐND cấp
xã (Điều 123 Hiến pháp 1992).
2. Tổ chức và hoạt động của UBND cấp xã
Uỷ ban nhân dân cấp xã do HĐND xã bầu ra, gồm Chủ tịch, Phó Chủ
tịch và uỷ viên. Danh sách thành viên UBND phải được cấp trên trực tiếp
phê chuẩn. Chủ tịch UBND là đại biểu HĐND, các thành viên khác của
UBND không nhất thiết là đại biểu HĐND. UBND cấp xã có từ 3 đến 5
thành viên, số Phó Chủ tịch Uỷ ban nhân dân của mỗi cấp do Chính phủ quy
định.
Hoạt động của UBND thể hiện ở hoạt động của tập thể UBND, hoạt
động của Chủ tịch UBND và của các thành viên UBND. Những vấn đề quan
trọng thuộc thẩm quyền của UBND phải được thảo luận tập thể và quyết
định theo đa số. Uỷ ban nhân dân mỗi tháng họp ít nhất một lần (Điều 119,
Điều 120, Điều 122, Điều 123 Luật Tổ chức HĐND và UBND).
3. Nhiệm vụ, quyền hạn của UBND cấp xã (Điều 111 đến Điều 118
Luật Tổ chức HĐND và UBND)
UBND xã thực hiện hoạt động quản lý hành chính nhà nước ở địa
phương trên các lĩnh vực: kinh tế, văn hóa, giáo dục, xã hội, đời sống, xây
dựng chính quyền địa phương và quản lý địa giới hành chính, quốc phòng,
an ninh, trật tự an toàn xã hội, thực hiện chính sách dân tộc và chính sách
tôn giáo, thi hành pháp luật.
* Trong lĩnh vực kinh tế, Uỷ ban nhân dân xã, thị trấn thực hiện
những nhiệm vụ, quyền hạn sau đây:
- Xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội hàng năm trình Hội
đồng nhân dân cùng cấp thông qua để trình Uỷ ban nhân dân huyện phê
duyệt; tổ chức thực hiện kế hoạch đó;
- Lập dự toán thu ngân sách nhà nước trên địa bàn; dự toán thu, chi
ngân sách địa phương và phương án phân bổ dự toán ngân sách cấp mình;
dự toán điều chỉnh ngân sách địa phương trong trường hợp cần thiết và lập

10


quyết toán ngân sách địa phương trình Hội đồng nhân dân cùng cấp quyết
định và báo cáo Uỷ ban nhân dân, cơ quan tài chính cấp trên trực tiếp;
- Tổ chức thực hiện ngân sách địa phương, phối hợp với các cơ quan
nhà nước cấp trên trong việc quản lý ngân sách nhà nước trên địa bàn xã, thị
trấn và báo cáo về ngân sách nhà nước theo quy định của pháp luật;
- Quản lý và sử dụng hợp lý, có hiệu quả quỹ đất được để lại phục vụ
các nhu cầu công ích ở địa phương; xây dựng và quản lý các công trình công
cộng, đường giao thông, trụ sở, trường học, trạm y tế, công trình điện, nước
theo quy định của pháp luật;
- Huy động sự đóng góp của các tổ chức, cá nhân để đầu tư xây dựng
các công trình kết cấu hạ tầng của xã, thị trấn trên nguyên tắc dân chủ, tự
nguyện. Việc quản lý các khoản đóng góp này phải công khai, có kiểm tra,
kiểm soát và bảo đảm sử dụng đúng mục đích, đúng chế độ theo quy định
của pháp luật.
* Trong lĩnh vực nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp, thuỷ lợi và
tiểu thủ công nghiệp, Uỷ ban nhân dân xã, thị trấn thực hiện những nhiệm
vụ, quyền hạn sau đây:
- Tổ chức và hướng dẫn việc thực hiện các chương trình, kế hoạch, đề
án khuyến khích phát triển và ứng dụng tiến bộ khoa học, công nghệ để phát
triển sản xuất và hướng dẫn nông dân chuyển đổi cơ cấu kinh tế, cây trồng,
vật nuôi trong sản xuất theo quy hoạch, kế hoạch chung và phòng trừ các
bệnh dịch đối với cây trồng và vật nuôi;
- Tổ chức việc xây dựng các công trình thuỷ lợi nhỏ; thực hiện việc tu
bổ, bảo vệ đê điều, bảo vệ rừng; phòng, chống và khắc phục hậu quả thiên
tai, bão lụt; ngăn chặn kịp thời những hành vi vi phạm pháp luật về bảo vệ
đê điều, bảo vệ rừng tại địa phương;
- Quản lý, kiểm tra, bảo vệ việc sử dụng nguồn nước trên địa bàn theo

quy định của pháp luật;
- Tổ chức, hướng dẫn việc khai thác và phát triển các ngành, nghề
truyền thống ở địa phương và tổ chức ứng dụng tiến bộ về khoa học, công
nghệ để phát triển các ngành, nghề mới.
* Trong lĩnh lực xây dựng, giao thông vận tải, Uỷ ban nhân dân xã,
thị trấn thực hiện những nhiệm vụ, quyền hạn sau đây:
- Tổ chức thực hiện việc xây dựng, tu sửa đường giao thông trong xã
theo phân cấp;
- Quản lý việc xây dựng, cấp giấy phép xây dựng nhà ở riêng lẻ ở
điểm dân cư nông thôn theo quy định của pháp luật, kiểm tra việc thực hiện
pháp luật về xây dựng và xử lý vi phạm pháp luật theo thẩm quyền do pháp
luật quy định;
11


- Tổ chức việc bảo vệ, kiểm tra, xử lý các hành vi xâm phạm đường
giao thông và các công trình cơ sở hạ tầng khác ở địa phương theo quy định
của pháp luật;
- Huy động sự đóng góp tự nguyện của nhân dân để xây dựng đường
giao thông, cầu, cống trong xã theo quy định của pháp luật.
* Trong lĩnh vực giáo dục, y tế, xã hội, văn hoá và thể dục thể thao,
Uỷ ban nhân dân xã, thị trấn thực hiện những nhiệm vụ, quyền hạn sau đây:
- Thực hiện kế hoạch phát triển sự nghiệp giáo dục ở địa phương;
phối hợp với trường học huy động trẻ em vào lớp một đúng độ tuổi; tổ chức
thực hiện các lớp bổ túc văn hoá, thực hiện xoá mù chữ cho những người trong
độ tuổi;
- Tổ chức xây dựng và quản lý, kiểm tra hoạt động của nhà trẻ, lớp
mẫu giáo, trường mầm non ở địa phương; phối hợp với Uỷ ban nhân dân
cấp trên quản lý trường tiểu học, trường trung học cơ sở trên địa bàn;
- Tổ chức thực hiện các chương trình y tế cơ sở, dân số, kế hoạch hoá gia

đình được giao; vận động nhân dân giữ gìn vệ sinh; phòng, chống các dịch bệnh;
- Xây dựng phong trào và tổ chức các hoạt động văn hoá, thể dục thể
thao; tổ chức các lễ hội cổ truyền, bảo vệ và phát huy giá trị của các di tích
lịch sử - văn hoá và danh lam thắng cảnh ở địa phương theo quy định của
pháp luật;
- Thực hiện chính sách, chế độ đối với thương binh, bệnh binh, gia
đình liệt sĩ, những người và gia đình có công với nước theo quy định của
pháp luật;
- Tổ chức các hoạt động từ thiện, nhân đạo; vận động nhân dân giúp
đỡ các gia đình khó khăn, người già cô đơn, người tàn tật, trẻ mồ côi không
nơi nương tựa; tổ chức các hình thức nuôi dưỡng, chăm sóc các đối tượng
chính sách ở địa phương theo quy định của pháp luật;
- Quản lý, bảo vệ, tu bổ nghĩa trang liệt sĩ; quy hoạch, quản lý nghĩa
địa ở địa phương.
* Trong lĩnh vực quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội và thi
hành pháp luật ở địa phương, Uỷ ban nhân dân xã, thị trấn thực hiện những
nhiệm vụ, quyền hạn sau đây:
- Tổ chức tuyên truyền, giáo dục xây dựng quốc phòng toàn dân, xây
dựng làng xã chiến đấu trong khu vực phòng thủ địa phương;
- Thực hiện công tác nghĩa vụ quân sự và tuyển quân theo kế hoạch;
đăng ký, quản lý quân nhân dự bị động viên; tổ chức thực hiện việc xây
dựng, huấn luyện, sử dụng lực lượng dân quân tự vệ ở địa phương;
- Thực hiện các biện pháp bảo đảm an ninh, trật tự, an toàn xã hội;
xây dựng phong trào quần chúng bảo vệ an ninh Tổ quốc vững mạnh; thực
12


hiện biện pháp phòng ngừa và chống tội phạm, các tệ nạn xã hội và các hành
vi vi phạm pháp luật khác ở địa phương;
- Quản lý hộ khẩu; tổ chức việc đăng ký tạm trú, quản lý việc đi lại

của người nước ngoài ở địa phương.
* Trong việc thực hiện chính sách dân tộc và chính sách tôn giáo, Uỷ
ban nhân dân xã, thị trấn có nhiệm vụ tổ chức, hướng dẫn và bảo đảm thực
hiện chính sách dân tộc, chính sách tôn giáo; quyền tự do tín ngưỡng, tôn
giáo của nhân dân ở địa phương theo quy định của pháp luật.
* Trong việc thi hành pháp luật, Uỷ ban nhân dân xã, thị trấn thực
hiện những nhiệm vụ, quyền hạn sau đây:
- Tổ chức tuyên truyền, giáo dục pháp luật; giải quyết các vi phạm
pháp luật và tranh chấp nhỏ trong nhân dân theo quy định của pháp luật;
- Tổ chức tiếp dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo và kiến nghị của công
dân theo thẩm quyền;
- Tổ chức thực hiện hoặc phối hợp với các cơ quan chức năng trong
việc thi hành án theo quy định của pháp luật; tổ chức thực hiện các quyết
định về xử lý vi phạm hành chính theo quy định của pháp luật.
* Uỷ ban nhân dân phường thực hiện những nhiệm vụ, quyền hạn quy
định tại các điều 111, 112, 113, 114, 115, 116 và 117 của Luật này và thực
hiện những nhiệm vụ, quyền hạn sau đây:
- Tổ chức thực hiện các nghị quyết của Hội đồng nhân dân phường về
việc bảo đảm thực hiện thống nhất kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và
quy hoạch đô thị, xây dựng nếp sống văn minh đô thị, phòng, chống các tệ
nạn xã hội, giữ gìn trật tự vệ sinh, sạch đẹp khu phố, lòng đường, lề đường,
trật tự công cộng và cảnh quan đô thị; quản lý dân cư đô thị trên địa bàn;
- Thanh tra việc sử dụng đất đai của tổ chức, cá nhân trên địa bàn
phường theo quy định của pháp luật;
- Quản lý và bảo vệ cơ sở hạ tầng kỹ thuật trên địa bàn phường theo
phân cấp; ngăn chặn, xử lý các hành vi vi phạm đối với các cơ sở hạ tầng kỹ
thuật theo quy định của pháp luật;
- Kiểm tra giấy phép xây dựng của tổ chức, cá nhân trên địa bàn
phường; lập biên bản, đình chỉ những công trình xây dựng, sửa chữa, cải tạo
không có giấy phép, trái với quy định của giấy phép và báo cáo cơ quan nhà

nước có thẩm quyền xem xét, quyết định.
4. Nhiệm vụ, quyền hạn của Chủ tịch UBND cấp xã (Điều 127
Luật Tổ chức HĐND và UBND)
- Lãnh đạo công tác của Uỷ ban nhân dân, các thành viên của Uỷ ban
nhân dân, các cơ quan chuyên môn thuộc Uỷ ban nhân dân:
+ Đôn đốc, kiểm tra công tác của các cơ quan chuyên môn thuộc Uỷ
ban nhân dân cấp mình và Uỷ ban nhân dân cấp dưới trong việc thực hiện
13


Hiến pháp, luật, các văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên, nghị quyết của
Hội đồng nhân dân và quyết định, chỉ thị của Uỷ ban nhân dân cùng cấp;
+ Quyết định các vấn đề thuộc nhiệm vụ, quyền hạn của Uỷ ban nhân
dân cấp mình, trừ các vấn đề quy định tại Điều 124 của Luật này;
+ Áp dụng các biện pháp nhằm cải tiến lề lối làm việc; quản lý và
điều hành bộ máy hành chính hoạt động có hiệu quả; ngăn ngừa và đấu
tranh chống các biểu hiện quan liêu, vô trách nhiệm, hách dịch, cửa quyền,
tham nhũng, lãng phí và các biểu hiện tiêu cực khác của cán bộ, công chức
và trong bộ máy chính quyền địa phương;
+ Tổ chức việc tiếp dân, xét và giải quyết kiến nghị, khiếu nại, tố cáo
của nhân dân theo quy định của pháp luật.
- Triệu tập và chủ tọa các phiên họp của Uỷ ban nhân dân;
- Phê chuẩn kết quả bầu các thành viên của Uỷ ban nhân dân cấp dưới
trực tiếp; điều động, đình chỉ công tác, miễn nhiệm, cách chức Chủ tịch, Phó
Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp dưới trực tiếp; phê chuẩn việc miễn nhiệm,
bãi nhiệm các thành viên của Uỷ ban nhân dân cấp dưới trực tiếp; bổ nhiệm,
miễn nhiệm, điều động, cách chức, khen thưởng, kỷ luật cán bộ, công chức
nhà nước theo sự phân cấp quản lý;
- Đình chỉ việc thi hành hoặc bãi bỏ những văn bản trái pháp luật của
cơ quan chuyên môn thuộc Uỷ ban nhân dân cấp mình và văn bản trái pháp

luật của Uỷ ban nhân dân, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp dưới trực tiếp;
- Đình chỉ việc thi hành nghị quyết trái pháp luật của Hội đồng nhân
dân cấp dưới trực tiếp và đề nghị Hội đồng nhân dân cấp mình bãi bỏ;
- Chỉ đạo và áp dụng các biện pháp để giải quyết các công việc đột
xuất, khẩn cấp trong phòng, chống thiên tai, cháy, nổ, dịch bệnh, an ninh,
trật tự và báo cáo Uỷ ban nhân dân trong phiên họp gần nhất;
- Ra quyết định, chỉ thị để thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình.
5. Quan hệ của chính quyền cấp xã với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
và các đoàn thể nhân dân (Điều 9, Điều 125 Luật Tổ chức HĐND và UBND)
HĐND, UBND, Chủ tịch, Phó Chủ tịch HĐND và UBND, các đại
diện HĐND, cán bộ khác trong bộ máy chính quyền phối hợp chặt chẽ với
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên, các tổ chức xã hội
khác chăm lo và bảo vệ lợi ích của nhân dân, vận động nhân dân tham gia
quản lý nhà nước và thực hiện các nghĩa vụ đối với nhà nước.

14


15


Chuyên đề 2 (Phần I)
Những vấn đề cơ bản về pháp luật, pháp chế và công tác
phổ biến, giáo dục pháp luật ở cơ sở
I. Một số vấn đề đại cương về Nhà nước và Pháp luật
1.1. Pháp luật Việt Nam xã hội chủ nghĩa là gì?
Pháp luật Việt Nam xã hội chủ nghĩa là hệ thống các quy tắc xử sự,
thể hiện ý chí của giai cấp công nhân và nhân dân lao động Việt Nam, dưới
sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam, do Nhà nước cộng hoà xã hội chủ
nghĩa Việt Nam ban hành và bảo đảm thực hiện bằng sức mạnh cưỡng chế

của Nhà nước.
1.2. Vai trò của Pháp luật Việt Nam xã hội chủ nghĩa
- Pháp luật Việt Nam bảo đảm thực hiện nền dân chủ XHCN, phát
huy quyền lực của nhân dân, bảo đảm công bằng xã hội.
- Pháp luật bảo đảm cho việc thực hiện có hiệu quả chức năng tổ chức
quản lý của kinh tế, xây dựng cơ sở vật chất của XHCN.
- Pháp luật là cơ sở để giữ vững an ninh chính trị và TTATXH
- Pháp luật có vai trò giáo dục, răn đe mạnh mẽ tất cả mọi người.
- Pháp luật Việt Nam xã hội chủ nghĩa tạo dựng những quan hệ mới
hợp tác và phát triển.
1.3. Các loại văn bản quy phạm pháp luật ở nước ta
Theo Hiến pháp năm 1992, Nước ta có những văn bản pháp luật sau đây:
a. Hiến pháp (Hiến pháp hiện hành năm 1992) là luật cơ bản do Quốc
hội thông qua có hiệu lực pháp lý cao nhất trong hệ thống các văn bản pháp
luật. Hiến pháp quy định những vấn đề cơ bản nhất của nước ta: Hình thức
và bản chất của Nhà nước, chế độ chính trị, chế độ kinh tế, văn hoá, xã hội,
quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, hệ thống tổ chức, nguyên tắc hoạt
động và thẩm quyền của các cơ quan Nhà nước.
b. Các đạo luật (hay còn gọi là Bộ luật) là các văn bản quy phạm pháp
luật, do Quốc hội, cơ quan cao nhất của quyền lực Nhà nước ban hành cụ
thể hóa Hiến pháp nhằm điều chỉnh các loại quan hệ xã hội trong các lĩnh
vực hoạt động của Nhà nước.
c. Nghị quyết của Quốc hội: Được ban hành để giải quyết các vấn đề
quan trọng thuộc thẩm quyền của Quốc hội như: Kế hoạch phát triển kinh tế,
xã hội, chính sách, tài chính, tiền tệ quốc gia, chính sách dân tộc, tôn giáo,
đối ngoại, quốc phòng, an ninh, dự toán Ngân sách Nhà nước, phê chuẩn
điều ước quốc tế, thành lập Bộ, chia tách tỉnh...
d. Pháp lệnh do ủy thường vụ Quốc hội ban hành. Pháp lệnh có hiệu
lực pháp lý thấp hơn Hiến pháp, Luật và Nghị quyết của Quốc hội, nhưng là
văn bản có hiệu lực pháp lý cao hơn trong các văn bản dưới luật.



đ. Nghị quyết của ủy ban thường vụ Quốc hội thường được ban hành
để giải thích Hiến pháp, Luật, Pháp lệnh, giám sát việc thi hành Hiến pháp,
văn bản pháp luật của Quốc hội, ủy ban thường vụ Quốc hội, giám sát hoạt
động của Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối
cao.
e. Lệnh, quyết định của Chủ tịch nước, có vai trò chính thức hóa
những điều mà Quốc hội và ủy ban thường vụ Quốc hội đã quyết định.
g. Nghị quyết, Nghị định của Chính phủ là những văn bản được ban
hành nhân danh tập thể Chính phủ, là phương tiện pháp lý cơ bản mà chính
phủ sử dụng để thực hiện nhiệm vụ, chức năng của mình.
h. Quyết định, Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ là phương tiện mà
Thủ tướng sử dụng trong hoạt động điều hành Chính phủ chỉ đạo, giám sát
của cơ quan nhà nước trung ương và địa phương.
i. Quyết định, Chỉ thị, Thông tư của các Bộ, các cơ quan ngang Bộ và
cơ quan khác thuộc Chính phủ để thi hành Luật, Pháp lệnh và các văn bản
của Chính phủ, trong phạm vi quyền hạn của mình. ở nước ta có một hình
thức Thông tư được dùng khá phổ biến là Thông tư liên Bộ, Thông tư liên
ngành.
k. Nghị quyết của Hội đồng thẩm phán, TAND tối cao được ban hành để
hướng dẫn các Tòa án áp dụng thống nhất pháp luật, tổng kết kinh nghiệm xét
xử.
l. Nghị quyết của HĐND các cấp. HĐND địa phương là cơ quan đại
diện của nhân dân địa phương có quyền ra các Nghị quyết về các vấn đề
thuộc thẩm quyền của mình. Nghị quyết của HĐND cấp dưới phải phù hợp,
không trái, không mâu thuẫn với pháp luật, Nghị quyết của HĐND và văn
bản của UBND cấp trên.
m. Quyết định, Chỉ thị của UBND các cấp trong phạm vi thẩm quyền
do Luật định, UBND các cấp ra Qyết định, Chỉ thị để thực hiện những văn

bản của các cơ quan Nhà nước cấp trên, HĐND cùng cấp và để điều hành
hoạt động quản lý Nhà nước ở địa phương.
n. Các cơ quan chuyên môn của UBND cấp tỉnh, cấp huyện, các cơ
quan quản lý ở cơ sở (các đơn vị hành chính sự nghiệp, đơn vị kinh tế) cũng
có quyền ban hành các Quyết định, Chỉ thị để thực hiện nhiệm vụ và chức
năng của mình.
- Việc ban hành các văn bản pháp luật phải tuân theo nguyên tắc:
+ Tất cả các văn bản pháp luật không trái và mâu thuẫn với Hiến
pháp.
+ Các văn bản dưới luật, phải phù hợp với các văn bản luật, không
được trái và mâu thuẫn với nhau.
17


+ Văn bản của cơ quan cấp dưới phải phù hợp; không trái và mâu
thuẫn với văn bản của cơ quan cấp trên.
II. Hệ thống pháp luật của Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam
Hệ thống pháp luật của Nhà nước ta gồm:
1. Luật Hiến pháp (còn gọi là Luật Nhà nước) là tổng thể các quy
phạm pháp luật cơ bản, điều chỉnh các quan hệ chính trị, kinh tế, văn hóa,
xã hội, quan hệ giữa Nhà nước và công dân, quy định vị trí, chức năng,
nhiệm vụ, tổ chức bộ máy Nhà nước, các nguyên tắc tổ chức và hoạt động
của cơ quan Nhà nước.
2. Luật Hành chính là tổng thể các quy phạm pháp luật điều chỉnh các
quan hệ hình thành trong lĩnh vực hoạt động của quản lý Nhà nước.
3. Luật Dân sự là tổng thể các quy phạm pháp luật,điều chỉnh các
quan hệ tài sản; quan hệ sở hữu; quan hệ thừa kế, quan hệ nhiệm vụ, dân sự
và các quan hệ nhân thân gồm tác giả, phát minh, sáng chế, sở hữu công
nghiệp, quan hệ danh dự, nhân phẩm tên gọi.
4. Luật Tố tụng dân sự là tổng thể các quy phạm pháp luật, điều chỉnh

các quan hệ hình thành trong quá trình xét xử các tranh chấp dân sự và quá
trình thực hiện các quyết định của Tòa án giải quyết tranh chấp dân sự.
5. Luật Tố tụng hình sự là tổng thể các quy phạm pháp luật điều chỉnh
các quan hệ trong điều tra, xét xử và kiểm sát việc điều tra, xét xử các vụ án
hình sự. Nó quy định những nguyên tắc, thủ tục điều tra, xét xử và kiểm sát
quyền và nghĩa vụ những người tham gia tố tụng hình sự.
6. Luật Đất đai là tổng thể các quy phạm pháp luật điều chỉnh các
quan hệ xã hội hình thành trong việc sử dụng và bảo vệ đất đai.
7. Luật Lao động là tổng thể các quy phạm pháp luật điều chỉnh các
quan hệ lao động giữa người lao động và người sử dụng lao động và các
quan hệ xã hội liên quan trực tiếp tới quan hệ lao động.
8. Luật Kinh tế (gọi là luật Thương mại) là tổng thể các quy phạm
pháp luật làm cơ sở pháp lý về tổ chức và hoạt động của các thành phần
kinh tế quốc doanh và ngoài quốc doanh.
9. Luật Hôn nhân và gia đình là tổng thể các quy phạm pháp luật điều
chỉnh những quan hệ nhân thân và quan hệ tài sản phát sinh do việc kết hôn
giữ nam và nữ.
III. Một số vấn đề cơ bản về pháp chế xã hội chủ nghĩa
1. Pháp chế xã hội chủ nghĩa là gì?
Pháp chế xã hội chủ nghĩa chính là sự đòi hỏi, yêu cầu các cơ quan
Nhà nước, các tổ chức xã hội và mọi công dân phải tuân thủ và thực hiện
đúng đắn, nghiêm chỉnh pháp luật trong hoạt động của mình cụ thể là:
a. Các cơ quan Nhà nước từ Trung ương xuống địa phương tổ chức và
hoạt động trên nguyên tắc pháp chế. Nguyên tắc pháp chế đòi hỏi công tác,
18


tổ chức và hoạt động của bộ máy Nhà nước và từng cơ quan, tổ chức Nhà
nước phải được tiến hành theo đúng quy định của pháp luật, chống sự lạm
quyền, lẩn tránh trách nhiệm và nghĩa vụ.

b. Mọi cán bộ viên chức, công chức Nhà nước phải tôn trọng và thực
hiện đúng thẩm quyền và thủ tục được pháp luật quy định trong hoạt động
công vụ của mình, mọi hành vi vi phạm pháp luật, kỷ luật Nhà nước phải
được phát hiện kịp thời và xử lý nghiêm minh.
c. Đảng cộng sản Việt Nam là lực lượng lãnh đạo Nhà nước, lãnh đạo
xã hội, nhưng sự lãnh đạo của Đảng phải tôn trọng nguyên tắc pháp chế.
Mọi tổ chức của Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật.
d. Các tổ chức chính trị - xã hội và đoàn thể nhân dân tổ chức và hoạt
động theo nguyên tắc pháp chế, tổ chức và thực hiện quyền lực Nhà nước,
bảo vệ lợi ích hợp pháp của công dân. Việc thành lập và hoạt động của mọi
tổ chức, đoàn thể phải dựa vào pháp luật, phải hợp pháp, trong khuôn khổ
pháp luật, tôn trọng và thực hiện đúng pháp luật, không vi phạm những điều
mà pháp luật Nhà nước đã ngăn cấm.
đ. Mọi công dân không phân biệt địa vị, tuổi tác, dân tộc, tôn giáo,
giới tính đều phải ý thức được rằng pháp luật là chuẩn mực cao nhất, thước
đo chung cho mọi hành vi sử sự của công dân trong quan hệ với Nhà nước,
tổ chức và với cá nhân công dân khác; phải tuân thủ, sử dụng và thi hành
nghiêm chỉnh các yêu cầu của pháp luật trong hoạt động của mình. Thực
hiện được nguyên tắc trên là điều kiện bảo đảm mọi công dân bình đẳng
trước pháp luật, bảo đảm công bằng xã hội.
2. Những yêu cầu của pháp chế xã hội chủ nghiã ở nước ta hiện
nay
Để thiết lập một xã hội ổn định phát triển có kỷ cương, trật tự; nghĩa
là xã hội có pháp chế thì phải thực hiện các yêu cầu sau:
a. Bảo đảm tính thống nhất trong việc xây dựng, ban hành pháp luật
và thực hiện pháp luật, tôn trọng tính tối cao của Hiến pháp và pháp luật.
b. Các cơ quan Nhà nước và các viên chức Nhà nước, các tổ chức
chính trị - xã hội và đoàn thể nhân dân, mọi công dân có nghĩa vụ thực hiện
pháp luật, không có ngoại lệ, mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật,
bất cứ tổ chức, cá nhân nào vi phạm pháp luật đều bị truy cứu trách nhiệm

pháp lý, được xử lý nghiêm minh. Không chấp nhận những biểu hiện phân
biệt đối sử và đặc quyền, đặc lợi trong thực hiện pháp luật; không cho phép
lạm dụng chức vụ, quyền hạn lẩn tránh hoặc cố tình làm trái pháp luật.
c. Bảo đảm và bảo vệ quyền tự do và lợi ích hợp pháp của công dân
theo đúng pháp luật, tránh gây phiền hà, cửa quyền, sách nhiễu đối với công
dân.
19


d. Phòng ngừa, ngăn chặn kịp thời và xử lý công minh mọi vi phạm
pháp luật.
3. Tăng cường pháp chế trong giai đoạn hiện nay
Tăng cường pháp chế là đòi hỏi cấp thiết của sự nghiệp đổi mới kinh
tế, cải cách nền hành chính quốc gia theo hướng xây dựng Nhà nước pháp
quyền và ngăn chặn, loại trừ các vi phạm pháp luật, kỷ luật Nhà nước, nâng
cao hiệu lực quản lý Nhà nước, bảo đảm dân chủ và ngăn chặn vi phạm
pháp luật, cần phải tăng cường thực hiện tốt những công việc sau đây:
a. Đẩy mạnh công tác xây dựng pháp luật để dần dần đạt tới một hệ
thống pháp luật tương đối hoàn chỉnh và đồng bộ.
b. Tổ chức tốt công tác thực hiện pháp luật, bảo đảm nguyên tắc: công
dân được làm tất cả những gì pháp luật không cấm, còn Nhà nước chỉ được
làm những gì mà pháp luật cho phép.
c. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát và thực hiện pháp luật.
d. Kiện toàn các cơ quan quản lý Nhà nước và tư pháp ở tất cả các
cấp, các ngành.
e. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng để tăng cường pháp chế xã hội
chủ nghĩa ở nước ta.
IV. Công tác tuyên truyền, phổ biến và giáo dục pháp luật trong nhân
dân
a. Những vấn đề chung về nghiệp vụ phổ biến, giáo dục pháp luật

1. Kh¸i qu¸t vÒ c«ng t¸c phæ biÕn, gi¸o dôc ph¸p luËt.
1.1. Khái niệm phổ biến, giáo dục pháp luật
Hiện nay, có nhiều định nghĩa, khái niệm về “phổ biến, giáo dục pháp
luật” (PBGDPL) và “công tác phổ biến, giáo dục pháp luật” nhưng theo
cách hiểu thông thường thì:
- PBGDPL: là việc truyền bá pháp luật cho đối tượng nhằm nâng cao
tri thức, tình cảm, niềm tin pháp luật cho đối tượng từ đó nâng cao ý thức
tôn trọng pháp luật, nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật của đối tượng.
- Công tác PBGDPL: là công tác, bao gồm tất cả các công đoạn như:
định hướng công tác PBGDPL; lập chương trình, kế hoạch PBGDPL, áp
dụng các hình thức PBGDPL; triển khai chương trình PBGDPL; kiểm tra,
sơ kết, tổng kết, đúc rút kinh nghiệm... về PBGDPL.
PBGDPL trước hết nhằm cung cấp những kiến thức pháp luật liên quan
đến đời sống của mỗi thành viên trong xã hội dù họ ở vị trí nào. Sau nữa là
tạo dần thói quen hành xử theo pháp luật của mỗi công dân, tức là tạo ra ý
thức chấp hành pháp luật (hành vi hợp pháp) của họ. PBGDPL còn làm cho
tính công khai và minh bạch của pháp luật được thể hiện trong đời sống xã
hội. Nhiệm vụ của PBGDPL là từng bước tạo ra một mặt bằng dân trí pháp
lý tương đối đồng đều, làm cho tính tối thượng của Hiến pháp và các đạo
20


luật được bảo đảm trong tiến trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa Việt Nam.
1.2. Giáo dục pháp luật là khâu đầu tiên trong quá trình triển
khai thực hiện pháp luật
Sự khẳng định vai trò của pháp luật trong đời sống xã hội gắn liền với
quá trình không ngừng nâng cao ý thức và tính tích cực tham gia của mọi
tầng lớp nhân dân trong việc bảo vệ pháp luật. Tăng cường pháp chế xã hội
chủ nghĩa (mà một trong những yếu tố cấu thành là sự phát triển của nhận

thức pháp luật và văn hoá pháp lý của nhân dân), mở rộng và hoàn thiện nền
dân chủ sẽ không có ý nghĩa khi không thực hiện được một cách toàn diện,
hiệu quả công tác giáo dục pháp luật cho cán bộ và nhân dân. Việc thực thi
và chấp hành pháp luật phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố khác nhau, trong đó
có yếu tố ý thức pháp luật và văn hoá pháp lý của nhân dân.
Đặc trưng rõ nét của ý thức pháp luật - thể hiện thái độ của các thành
viên trong xã hội đối với kỷ cương, pháp luật là sự đánh giá và ghi nhận tính
công bằng của pháp luật xã hội chủ nghĩa. Pháp luật chỉ có thể trở thành
công cụ có tác dụng điều chỉnh những hành vi đúng đắn khi sự cần thiết của
nó đối với xã hội được ghi nhận, chấp nhận, khi mà nghĩa vụ chấp hành các
quy định của pháp luật thực sự trở thành nhu cầu chấp hành một cách tự
nguyện và có ý thức của bản thân mỗi người. Bởi thế có thể coi ý thức pháp
luật như là tiền đề tư tưởng cho sự củng cố và phát triển nền pháp chế.
Trong thực tế, không phải lúc nào việc chấp hành pháp luật cũng trở
thành ý thức tự nguyện. Bởi vậy trong điều kiện hiện nay, vai trò của giáo
dục pháp luật là hình thành ý thức pháp luật, góp phần giúp mỗi người nhận
ra tính công bằng của pháp luật, chấp hành pháp luật trên cơ sở tự nguyện,
xuất phát từ nhu cầu của bản thân, mà không phải do sự sợ hãi trước sự
trừng phạt.
Tuân thủ pháp chế xã hội chủ nghĩa còn phụ thuộc không nhỏ vào trình
độ văn hoá pháp lý của nhân dân. Trình độ văn hóa pháp lý không chỉ phản
ánh sự hiểu biết các quy định của pháp luật một cách tổng thể, cần thiết cho
mỗi con người, gắn liền với các nghĩa vụ của họ mà còn là sự hiểu biết một
cách sâu sắc ý nghĩa của pháp luật trong cuộc sống xã hội, sự tôn trọng pháp
luật và biết vận dụng pháp luật một cách đúng đắn.
Mặt khác cần kết hợp giữa giáo dục ý thức pháp luật và đạo đức. Đạo
đức là những tiêu chuẩn, những nguyên tắc ứng xử được dư luận xã hội thừa
nhận, quy định hành vi, quan hệ của con người đối với nhau và đối với xã
hội. Trong các quan niệm về công bằng, thiện ác, nhân đạo, tự do, lương
tâm, danh dự... không có sự đối lập giữa pháp luật và đạo đức. Pháp luật là

chỗ dựa và là cơ sở của việc hình thành đạo đức mới. Các nguyên tắc căn
bản của đạo đức mới được thể chế hoá thành các quy phạm pháp luật. Do
21


đó, pháp luật bảo vệ và phát triển đạo đức, bảo vệ tính công bằng, chủ nghĩa
nhân đạo, tự do, lòng tin và lương tâm con người. Giáo dục đạo đức tạo nên
những tiền đề cần thiết để hình thành ở công dân sự tôn trọng sâu sắc đối
với pháp luật. Ngược lại, giáo dục pháp luật tạo ra khả năng thiết lập trong
đời sống thực tiễn thường ngày những nguyên tắc của đạo đức, củng cố các
nghĩa vụ đạo đức, thiết lập lập trường không dung thứ với các biểu hiện
chống đối xã hội.
Có thể nói, giáo dục pháp luật và giáo dục đạo đức cùng tác động vào
lòng tin của con người đối với sự cần thiết tuân theo những nguyên tắc cơ
bản của đạo đức mới, lòng tin đối với giá trị xã hội của pháp luật và lòng
tin đối với những quy phạm đạo đức và pháp luật trong đời sống thực tế
hàng ngày, hướng đến hoàn thiện những mối quan hệ lẫn nhau giữa con
người với con người.
Tóm lại, giáo dục pháp luật với những phương thức khác nhau, trong đó
có phổ biến, tuyên truyền pháp luật, tạo điều kiện cho việc nâng cao trình độ
văn hoá pháp lý của người dân. Đồng thời, sự phát triển của văn hóa pháp lý
cũng chịu ảnh hưởng trực tiếp của hoạt động thực thi pháp luật của các cơ
quan Nhà nước. Hiệu quả tác động này lại phụ thuộc vào trình độ văn hoá
pháp lý của đội ngũ cán bộ, công chức; phụ thuộc vào việc họ thực thi đúng
pháp luật, có thái độ tôn trọng pháp luật. Bởi vậy, thực hiện nhiệm vụ nâng
cao văn hoá pháp lý đòi hỏi không chỉ nâng cao trình độ văn hoá chung của
nhân dân mà còn phải tăng cường năng lực thực thi pháp luật cho đội ngũ cán
bộ, công chức các cơ quan Nhà nước. Một trong những nguyên nhân của tình
trạng vi phạm pháp luật là do trình độ văn hoá pháp lý của một bộ phận nhân
dân, trong đó có cả cán bộ, công chức còn thấp. Rõ ràng, việc nâng cao văn

hoá pháp lý có quan hệ gắn bó mật thiết với việc tiếp tục tăng cường pháp
chế.
Trong điều kiện xây dựng một xã hội công bằng, dân chủ và văn minh
thì một trong những điều kiện quan trọng là làm sao để người dân được
tham gia tích cực vào các hoạt động quản lý xã hội bằng pháp luật. Tăng
cường dân chủ cũng có nghĩa là mở rộng sự tham gia của người dân vào các
hoạt động lập pháp, hành pháp và tư pháp, thực hiện giám sát hoạt động của
các cơ quan Nhà nước. Chính điều này đã nâng cao trách nhiệm của mỗi
người trong xã hội. PBGDPL góp phần quan trọng trong việc thúc đẩy sự
lớn mạnh của tính tích cực, đảm bảo hành trang kiến thức pháp lý cần thiết
cho sự tham gia vào hoạt động xây dựng pháp luật và thực thi pháp luật.
1.3. Vị trí, vai trò của công tác phổ biến giáo dục pháp luật trong
đời sống xã hội.
Trong những năm qua, đặc biệt những năm gần đây, bên cạnh việc
xây dựng và không ngừng hoàn thiện hệ thống pháp luật, Đảng và Nhà
22


nước ta thường xuyên quan tâm đến việc PBGDPL sâu rộng trong các
tầng lớp nhân dân.
Nhận thức rõ vị trí, vai trò, tầm quan trọng của công tác PBGDPL,
Đảng ta thường xuyên quan tâm đến công tác PBGDPL. Có thể thấy rõ điều
này qua các Văn kiện, Nghị quyết, Chỉ thị của Đảng như sau:
- Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ V (1982):
“...Các cấp Uỷ đảng, các cơ quan nhà nước, các đoàn thể phải thường
xuyên phổ biến, giải thích pháp luật trong các tầng lớp nhân dân, đưa việc
giáo dục pháp luật vào các trường học, các cấp học, xây dựng ý thức sống
có pháp luật và tôn trọng pháp luật.
Các cơ quan nhà nước phối hợp chặt chẽ với các đoàn thể, vận động
quần chúng thực hiện đường lối, chính sách của Đảng, kế hoạch và pháp

luật của Nhà nước.
Các đoàn thể có nhiệm vụ giáo dục đoàn viên, hội viên của mình về
chủ nghĩa xã hội, về pháp chế xã hội chủ nghĩa... tuyên truyền, thuyết phục
quần chúng tự giác thi hành chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà
nước...”.
- Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (1986):
“...Coi trọng công tác giáo dục, tuyên truyền, giải thích pháp luật. Đưa
việc dạy pháp luật vào hệ thống các trường của Đảng, của Nhà nước (kể cả
các trường phổ thông, đại học) của các đoàn thể nhân dân. Cán bộ quản lý
các cấp từ trung ương đến đơn vị cơ sở phải có kiến thức về quản lý hành
chính và hiểu biết về pháp luật, cần sử dụng nhiều hình thức và biện pháp để
giáo dục, nâng cao ý thức pháp luật và làm tư vấn pháp luật cho nhân
dân...”.
- Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII (1991):
“...Điều quan trọng để phát huy dân chủ là xây dựng và hoàn chỉnh hệ
thống pháp luật, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, nâng cao trình độ
dân trí, hiểu biết pháp luật và ý thức tuân thủ pháp luật của nhân dân.
Thường xuyên giáo dục pháp luật, xây dựng ý thức sống và làm việc theo
pháp luật trong nhân dân...”.
“...Tăng cường giáo dục pháp luật, nâng cao hiểu biết và ý thức tôn
trọng pháp luật, sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật, bảo đảm cho
pháp luật được thi hành một cách nghiêm minh, thống nhất và công bằng...”.
- Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII (1996)
“...Triển khai mạnh mẽ công tác tuyên truyền và giáo dục pháp luật,
huy động lực lượng của các đoàn thể chính trị, xã hội, nghề nghiệp, các
phương tiện thông tin đại chúng tham gia vào đợt vận động thiết lập trật tự
kỷ cương và các hoạt động thường xuyên xây dựng nếp sống và làm việc
theo pháp luật trong các cơ quan Nhà nước và trong xã hội...”.
23



- Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về một
số nhiệm vụ trọng tâm của công tác tư pháp trong thời gian tới:
"...Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật với
nhiều hình thức phong phú, sinh động, đặc biệt là thông qua các phiên toà
xét xử lưu động và bằng những phán quyết công minh để tuyên truyền, nâng
cao ý thức pháp luật cho cán bộ và nhân dân...”.
- Chỉ thị số 32-CT/TW ngày 9/12/2003 của Ban Bí thư về tăng cường
sự lãnh đạo của Đảng trong công tác PBGDPL, nâng cao ý thức chấp hành
pháp luật của cán bộ, nhân dân:
“...phổ biến, giáo dục pháp luật là một bộ phận của công tác giáo dục
chính trị, tư tưởng, là nhiệm vụ của toàn bộ hệ thống chính trị đặt dưới sự
lãnh đạo của Đảng. Trong những năm tới, cần tập trung chỉ đạo, tổ chức
thực hiện thật tốt công tác này để góp phần tạo chuyển biến căn bản về ý
thức tôn trọng pháp luật và nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật của cán bộ và
nhân dân...”.
- Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị về Chiến
lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010,
định hướng đến năm 2020:
“...Phát triển hệ thống thông tin và phổ biến, giáo dục pháp luật, xây
dựng và triển khai Chương trình quốc gia về phổ biến, giáo dục pháp luật
dài hạn...”.
Nghị quyết số 61/2007/NQ-CP ngày 07/12/2007 của Chính phủ về việc
tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 32-CT/TW ngày 09/12/2003 của Ban Bí thư
Trung ương Đảng (khoá IX) về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong công
tác phổ biến, giáo dục pháp luật, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của
cán bộ, nhân dân:
“ ... Tiếp tục quán triệt đầy đủ và sâu sắc hơn nữa về ý nghĩa, vai trò,
tầm quan trọng của công tác phổ biến, giáo dục pháp luật cho cán bộ, đảng
viên và nhân dân theo đúng tinh thần Chỉ thị số 32-CT/TW ngày 09 tháng

12 năm 2003 của Ban Bí thư Trung ương Đảng; xác định rõ phổ biến, giáo
dục pháp luật là một bộ phận của công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, là
nhiệm vụ của toàn bộ hệ thống chính trị đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng ...”
Quyết định số 37/2008/QĐ-TTg ngày 12 tháng 03 năm 2008 của Thủ
tướng Chính phủ ban hành Chương trình phổ biến giáo dục pháp luật từ năm
2008 đến năm 2012 nêu mục tiêu chung là: “Tiếp tục tạo sự chuyển biến
mạnh mẽ về ý thức tôn trọng và chấp hành pháp luật của cán bộ, nhân dân;
đổi mới phương thức tổ chức thực hiện phổ biến, giáo dục pháp luật và nâng
cao chất lượng nguồn nhân lực làm công tác phổ biến, giáo dục pháp luật;
tuyên truyền kịp thời, thường xuyên nội dung pháp luật phù hợp với từng
đối tượng, địa bàn; tổ chức có hiệu quả công tác phổ biến, giáo dục pháp
24


luật trên toàn quốc, góp phần thực hiện nếp sống và làm việc theo Hiến pháp
và pháp luật, xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Việt Nam của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.”.
Pháp luật là phương tiện để Nhà nước quản lý xã hội, là phương tiện,
công cụ để công dân thực thực hiện các quyền và lợi ích hợp pháp cũng như
các nghĩa vụ của mình. Tuy nhiên, có công cụ, phương tiện rồi cũng chưa
đủ. Cái chính là để tất cả các cơ quan, tổ chức, các đoàn thể xã hội và mọi
công dân đều biết, hiểu và sử dụng được một cách có hiệu quả công cụ pháp
luật. PBGDPL là khâu đầu tiên của hoạt động thực thi pháp luật, là cầu nối
truyền tải pháp luật vào cuộc sống và là một trong những mắt xích quan
trọng của việc tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa. Bởi vậy, giáo dục
pháp luật là nhằm hình thành lòng tin vào pháp luật, thói quen và ý thức tôn
trọng, tuân thủ pháp luật cho mọi công dân, nhằm phát huy vai trò, hiệu lực
của pháp luật trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam
XHCN.
Xuất phát từ vị trí, vai trò của công tác PBGDPL mà trong các văn kiện

của Đảng và Nghị quyết của Quốc hội đều xác định công tác PBGDPL là
một công việc trọng tâm và thường xuyên của các cơ quan Nhà nước và của
các cấp, các ngành và của toàn xã hội.
Ngày 17/01/2003, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số
13/2003/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình
PBGDPL từ năm 2003-2007. Đây là những văn bản pháp luật có ý nghĩa
quan trọng, khẳng định quyết tâm của Đảng và Nhà nước ta trong việc đẩy
mạnh công tác PBGDPL, làm chuyển biến nhận thức, từng bước nâng cao ý
thức chấp hành pháp luật của cán bộ, nhân dân, góp phần tăng cường pháp
chế XHCN, quản lý xã hội bằng pháp luật trong thời kỳ đổi mới. Đây cũng
là chương trình hành động của Chính phủ nhằm thực hiện Nghị quyết Đại
hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII và lần thứ IX, Nghị quyết số 08-NQ/TW
ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư
pháp trong thời gian tới.
Để tiếp tục đưa công tác PBGDPL lên một tầng cao mới, đáp ứng yêu
cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, xây dựng nhà nước pháp quyền
Việt Nam xã hội chủ nghĩa, ngày 09 tháng 12 năm 2003, Ban Bí thư Trung
ương Đảng cộng sản Việt Nam đã ban hành Chỉ thị số 32/CT-TW về tăng
cường sự lãnh đạo của Đảng trong công tác PBGDPL, nâng cao ý thức chấp
hành pháp luật của cán bộ, nhân dân. Ngày 16/12/2004, Chính phủ ban hành
Quyết định số 212/2004/QĐ-TTg phê duyệt Chương trình hành động quốc
gia PBGDPL và nâng cao ý thức chấp hành pháp luật cho cán bộ, nhân dân
ở xã, phường, thị trấn từ năm 2005 đến năm 2010. Ngày 07/12/2007, Chính
phủ ban hành Nghị quyết số 61/2007/NQ-CP về việc tiếp tục thực hiện Chỉ
25


×