VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN THỊ THANH THƯƠNG
GIÁO DỤC NGHĨA VỤ ĐẠO ĐỨC CHO SINH VIÊN
CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG LẬP HIỆN NAY
Chuyên ngành: Đạo đức học
Mã số: 62 22 03 06
LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. Phạm Văn Nhuận
HÀ NỘI - 2017
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ........................................................................................................ 1
Chương 1. TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
CÁC
VẤN ĐỀ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN .......................................... 5
1.1. Các công trình nghiên cứu liên quan đến nghĩa vụ đạo đức và tầm quan
trọng của giáo dục nghĩa vụ đạo đức cho sinh viên các trường đại học công
lập hiện nay ..............................................................................................................6
1.2. Các công trình nghiên cứu liên quan đến thực trạng giáo dục nghĩa vụ
đạo đức cho sinh viên các trường đại học công lập hiện nay ................................18
1.3. Các công trình nghiên cứu liên quan đến các giải pháp giáo dục nghĩa vụ
đạo đức cho sinh viên các trường đại học công lập hiện nay ................................25
1.4. Khái quát kết quả nghiên cứu của các công trình khoa học đã công bố và
những vấn đề luận án tiếp tục giải quyết ...............................................................31
Kết luận chương 1........................................................................................ 35
Chương 2. NGHĨA VỤ ĐẠO ĐỨC VÀ GIÁO DỤC NGHĨA VỤ ĐẠO
ĐỨC
CHO SINH VIÊN CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG LẬP
HIỆN NAY - MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN ............................................... 36
2.1. Một số vấn đề lý luận về nghĩa vụ đạo đức ....................................................36
2.2. Quan niệm về giáo dục nghĩa vụ đạo đức cho sinh viên các trường đại
học công lập hiện nay và tầm quan trọng của nó ...................................................58
Kết luận chương 2........................................................................................ 78
Chương 3. GIÁO DỤC NGHĨA VỤ ĐẠO ĐỨC CHO SINH VIÊN
CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG LẬP HIỆN NAY - THỰC TRẠNG,
NGUYÊN NHÂN VÀ VẤN ĐỀ ĐẶT RA .................................................... 79
3.1. Thực trạng giáo dục nghĩa vụ đạo đức cho sinh viên các trường đại học
công lập hiện nay ...................................................................................................79
3.2. Nguyên nhân của những thành tựu và hạn chế trong giáo dục nghĩa vụ
đạo đức cho sinh viên các trường đại học công lập hiện nay ..............................103
3.3. Những vấn đề đặt ra trong quá trình giáo dục nghĩa vụ đạo đức cho sinh viên
các trường đại học công lập hiện nay…………………………………………117
Kết luận chương 3...................................................................................... 117
Chương 4.
NHỮNG GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM NÂNG CAO
HIỆU QUẢ GIÁO DỤC NGHĨA VỤ ĐẠO ĐỨC CHO SINH VIÊN
CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG LẬP HIỆN NAY ................................ 119
4.1. Phát huy vai trò của các chủ thể giáo dục trong giáo dục nghĩa vụ đạo
đức cho sinh viên các trường đại học công lập hiện nay .....................................120
4.2. Đổi mới nội dung và hình thức giáo dục nghĩa vụ đạo đức cho sinh viên
các trường đại học công lập hiện nay ..................................................................128
4.3. Kết hợp chặt chẽ giữa nhà trường, gia đình và xã hội trong giáo dục nghĩa vụ
đạo đức cho sinh viên các trường đại học công lập hiện nay ...................................134
4.4. Phát huy vai trò chủ động, tích cực của sinh viên các trường đại học công
lập trong học tập và thực hiện nghĩa vụ đạo đức hiện nay ..................................139
Kết luận chương 4...................................................................................... 142
KẾT LUẬN ................................................................................................ 143
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC ĐÃ CÔNG BỐ CỦA
TÁC GIẢ .................................................................................................... 145
MỞ ĐẦU
1. Lý do lựa chọn đề tài
Hiện nay, tình hình thế giới biến đổi nhanh chóng, phức tạp và nguy cơ
bùng phát những vấn nạn mang tính toàn cầu đang đặt ra nhiều vấn đề đạo đức
được cả nhân loại quan tâm. Để giải quyết những vấn đề đó và bảo đảm cho sự
phát triển bền vững, cần phải phát huy yếu tố con người không chỉ có tri thức
khoa học, mà còn phải có giác ngộ đạo đức, nghĩa vụ đạo đức cao cả. Bởi đó
chính là chiều sâu ý thức của con người (cá nhân, cộng đồng, xã hội) về trách
nhiệm, bổn phận đạo đức của mình trước cộng đồng, xã hội và với chính bản
thân mình. Nghĩa vụ đạo đức là nhân lõi của đời sống văn hoá, là động lực tinh
thần to lớn cho sự phát triển của mỗi quốc gia.
Trong Nghị quyết số 33-NQ/TW ngày 9/6/2014 Hội nghị Trung ương 9
khóa XI về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu
phát triển bền vững đất nước, Đảng ta cũng đã khẳng định tầm quan trọng của việc
xây dựng đời sống văn hoá tinh thần và vai trò của nó đối với xã hội: “Xây dựng
nền văn hóa và con người Việt Nam phát triển toàn diện, hướng đến chân - thiện mỹ, thấm nhuần tinh thần dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học. Văn hóa thực
sự trở thành nền tảng tinh thần vững chắc của xã hội, là sức mạnh nội sinh quan
trọng bảo đảm sự phát triển bền vững và bảo vệ vững chắc Tổ quốc vì mục tiêu
dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” [161]. Xây dựng đời sống
tinh thần của đất nước bao gồm việc xây dựng tư tưởng chính trị, đạo đức, giáo
dục, khoa học, văn hoá nhằm tạo ra những con người có lý tưởng, đạo đức, lối
sống lành mạnh, kỷ cương để phục vụ cho sự nghiệp xây dựng xã hội chủ nghĩa.
Trong đó giáo dục nghĩa vụ đạo đức là một nhiệm vụ trọng tâm để mỗi người
nhận thức rõ trách nhiệm đạo đức của mình trong các mối quan hệ xã hội.
Ở nước ta, sinh viên các trường đại học công lập có vị trí, vai trò rất quan
trọng trong tiến trình đổi mới phát triển đất nước. Họ là những chủ nhân tương lai
của nước nhà, là những người nắm giữ vai trò quyết định vận mệnh dân tộc đúng
1
như lời của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói: “Non sông Việt Nam có trở nên
tươi đẹp hay không, dân tộc Việt Nam có thể bước tới đài vinh quang để sánh
vai với các cường quốc năm châu được hay không, chính là một phần lớn nhờ
công học tập của các em” [85; 33]. Sinh viên các trường đại học công lập chiếm
số lượng đông đảo trên tổng số sinh viên đại học cả nước. Cùng với quá trình hội
nhập và phát triển, họ ngày càng ý thức được trách nhiệm đối với sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ đất nước. Tuy nhiên, do những đặc điểm về tâm sinh lý, hạn chế
về thế giới quan, nhân sinh quan, kinh nghiệm sống, nên trước biến đổi nhanh
chóng của tình hình đất nước, cơ hội mở rộng giao lưu hợp tác quốc tế gia tăng,
đồng thời phải đối phó với sự du nhập của văn hoá, đạo đức, lối sống xấu độc từ
bên ngoài vào làm nảy sinh những tiêu cực trong đời sống đạo đức của một bộ
phận sinh viên như biểu hiện lối sống thực dụng, coi thường các giá trị truyền
thống, vi phạm luật pháp … Những biểu hiện ấy không chỉ gây nguy hại đến các
mặt của đời sống xã hội trong thời điểm hiện tại mà còn có ảnh hưởng rất lớn
đến tương lai đất nước. Tình hình càng nghiêm trọng hơn khi các thế lực thù
địch đẩy mạnh chiến lược "diễn biến hòa bình" trên lĩnh vực văn hoá, tư tưởng,
mà trọng điểm phá hoại là thúc đẩy nhanh quá trình “tự diễn biến”, “tự chuyển
hóa” các thế hệ thứ ba, thứ tư của cách mạng Việt Nam hiện nay. Chính vì vậy,
việc giáo dục nghĩa vụ đạo đức cho sinh viên Việt Nam nói chung, sinh viên các
trường công lập nói riêng để nâng cao nhận thức, trách nhiệm, tính tự giác của mỗi
người trong thực hiện các quy tắc, chuẩn mực đạo đức xã hội càng trở nên cấp
thiết vì sự tiến bộ, phát triển chung của đất nước. Vì vậy, tác giả lựa chọn vấn đề:
“Giáo dục nghĩa vụ đạo đức cho sinh viên các trường đại học công lập hiện nay” làm
đề tài luận án tiến sĩ triết học của mình.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục đích: Làm rõ những vấn đề lý luận về nghĩa vụ đạo đức, tầm quan
trọng và thực trạng giáo dục nghĩa vụ đạo đức cho sinh viên các trường đại học
công lập; qua đó đề xuất những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục nghĩa
vụ đạo đức cho sinh viên các trường đại học công lập hiện nay.
2
- Nhiệm vụ của luận án:
+ Tổng quan các công trình nghiên cứu có liên quan đến đề tài luận án.
+ Làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về nghĩa vụ đạo đức; giáo dục nghĩa vụ
đạo đức cho sinh viên đại học công lập; phân tích tầm quan trọng của giáo dục
nghĩa vụ đạo đức cho sinh viên các trường đại học công lập hiện nay.
+ Phân tích, làm rõ thực trạng giáo dục nghĩa vụ đạo đức cho sinh viên
các trường đại học công lập hiện nay và nguyên nhân của nó.
+ Đề xuất những giải pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục nghĩa
vụ đạo đức cho sinh viên các trường đại học công lập hiện nay.
3. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Luận án dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về đạo đức, nghĩa vụ
đạo đức, giáo dục nghĩa vụ đạo đức, ngoài ra luận án tham khảo một số kết
quả nghiên cứu đã được công bố có liên quan trực tiếp đến đề tài luận án.
- Luận án được thực hiện dựa trên phương pháp luận chung của chủ nghĩa
duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử kết hợp với các phương pháp
nghiên cứu cơ bản như: phân tích - tổng hợp; lôgic - lịch sử; đối chiếu và so
sánh, khái quát hoá, trừu tượng hoá…
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu của luận án là giáo dục nghĩa vụ đạo đức cho sinh
viên các trường đại học công lập hiện nay.
- Phạm vi khảo sát: sinh viên các trường đại học công lập ở Việt Nam;
thời gian nghiên cứu là từ sau đổi mới (1986) đến nay.
5. Đóng góp mới của luận án
- Góp phần làm sáng tỏ một số quan điểm về nghĩa vụ đạo đức trong lịch sử
và quan điểm mácxít về nghĩa vụ đạo đức; làm rõ tầm quan trọng và nội dung giáo
dục nghĩa vụ đạo đức cho sinh viên đại học công lập hiện nay.
- Góp phần làm rõ thực trạng giáo dục nghĩa vụ đạo đức cho sinh viên các
trường đại học công lập hiện nay.
3
- Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục nghĩa vụ đạo
đức cho sinh viên các trường đại học công lập hiện nay.
6. Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn của luận án
- Luận án góp phần làm sáng tỏ thêm lý luận về nghĩa vụ đạo đức, giáo
dục nghĩa vụ đạo đức.
- Kết quả của luận án có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho nghiên
cứu, giảng dạy đạo đức học và giáo dục nghĩa vụ đạo đức cho sinh viên.
7. Kết cấu của luận án
- Luận án gồm: mở đầu, nội dung có 4 chương (13 tiết), kết luận, danh mục
các công trình khoa học đã công bố của tác giả, danh mục tài liệu tham khảo.
4
Chương 1
TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
CÁC VẤN ĐỀ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
Việt Nam đang trong giai đoạn mở cửa, hội nhập quốc tế, tăng cường giao
lưu, hợp tác với các quốc gia trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Chính
sách đối ngoại rộng mở đã mang lại cho đất nước nhiều cơ hội phát triển, mở
rộng các mối quan hệ kinh tế, giao lưu học hỏi kinh nghiệm quản lý, kinh doanh,
trao đổi các giá trị văn hóa… Điều này không chỉ làm cho Việt Nam tiến gần
hơn với những xu hướng chung của thế giới, mà còn giúp chúng ta khẳng định
được vị thế trên trường quốc tế. Nhưng mở cửa, hội nhập cũng luôn tiềm ẩn
những mặt trái của nó. Đó là tâm lý, lối sống thực dụng, quá coi trọng lợi nhuận
và giá trị đồng tiền của nền kinh tế thị trường đã dẫn đến sự lệch chuẩn các giá trị
đạo đức, văn hóa, lối sống. Một trong những đối tượng chịu ảnh hưởng rõ nét nhất
sự tác động hai mặt của quá trình mở cửa, hội nhập quốc tế đó là tầng lớp sinh
viên, bởi họ có nhiều cơ hội tiếp xúc, giao lưu với các nhân tố mới được du nhập
từ bên ngoài vào. Tình hình mới đặt ra yêu cầu mới đó là tăng cường giáo dục
đạo đức, nghĩa vụ đạo đức cho sinh viên tạo bước chuyển biến căn bản để họ
nâng cao tính tự giác, tự nguyện thực hiện tốt nghĩa vụ đạo đức phù hợp với
yêu cầu của xã hội. Vì vậy, giáo dục nghĩa vụ đạo đức cho sinh viên các trường
đại học công lập hiện nay có ý nghĩa đặc biệt, cần được triển khai nghiên cứu
và áp dụng vào thực tiễn.
Hiện nay, đã có nhiều công trình nghiên cứu, luận văn, luận án đề cập đến
vấn đề đạo đức xã hội nói chung, giáo dục đạo đức với đối tượng học sinh, sinh
viên nói riêng. Để có cái nhìn tổng quát nhất về tình hình nghiên cứu trong và ngoài
nước về các vấn đề có liên quan đến nội dung nghiên cứu của luận án, tác giả đã
khảo sát các tài liệu bao gồm sách giáo trình, sách tham khảo, tạp chí, báo mạng,
luận văn, luận án… về đạo đức, giáo dục đạo đức, nghĩa vụ đạo đức; thực trạng đời
sống đạo đức sinh viên hiện nay; định hướng, giải pháp nâng cao hiệu quả giáo dục
5
nghĩa vụ đạo đức cho sinh viên. Qua đó, rút ra được những yếu tố kế thừa, đồng
thời chỉ ra những vấn đề luận án cần đi sâu nghiên cứu giải quyết, đóng góp mới
của luận án khi nghiên cứu nghĩa vụ đạo đức, giáo dục nghĩa vụ đạo đức của sinh
viên các trường đại học công lập hiện nay.
1.1. Các công trình nghiên cứu liên quan đến nghĩa vụ đạo đức và tầm
quan trọng của giáo dục nghĩa vụ đạo đức cho sinh viên các trường đại học
công lập hiện nay
1.1.1. Các công trình nghiên cứu liên quan đến nghĩa vụ đạo đức
Nếu như đạo đức nói chung là mảng đề tài được nhiều học giả, nhà nghiên
cứu quan tâm, thì những nghiên cứu chuyên sâu về nghĩa vụ đạo đức hiện nay
còn khá khiêm tốn. Là một trong những phạm trù cơ bản của đạo đức học Mác Lênin, vấn đề nghĩa vụ đạo đức chủ yếu được trình bày trong các giáo trình Đạo
đức học dùng trong các trường đại học và cao đẳng như: Giáo trình đạo đức học
(PTS. Trần Hậu Kiêm (chủ biên) (1996), Trần Thế Vĩnh, Nguyễn Văn Đằng,
Nxb Chính trị quốc gia Hà Nội), Giáo trình Đạo đức học (PGS.TS Vũ Trọng
Dung (chủ biên) (2005), Nxb Lý luận chính trị Hà Nội), Giáo trình Đạo đức học
Mác - Lênin (Học viện chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh - Khoa Triết học (2006),
Nxb Chính trị quốc gia Hà Nội), Giáo trình Đạo đức học (Trần Đăng Sinh Nguyễn Thị Thọ (đồng chủ biên) (2008), Nxb Đại học Sư phạm)…
Trong các cuốn sách đó có thể nhận thấy nghĩa vụ đạo đức được trình bày
khá đầy đủ về định nghĩa, lịch sử hình thành, phát triển của phạm trù cơ bản này
từ cổ đại đến quan điểm của đạo đức học Mác - Lênin. Các tác giả đều thống
nhất cho rằng nghĩa vụ đạo đức chiếm một vị trí quan trọng trong đời sống đạo
đức của xã hội và nó là sự thể hiện trách nhiệm đạo đức của con người vì lợi ích
chung, lợi ích của người khác và của bản thân mình.
Theo các tác giả, từ thời kì cổ đại, nhiều nhà triết học phương Tây và
phương Đông đã bàn đến nghĩa vụ đạo đức. Phần lớn các triết gia phương Tây
đều cùng quan điểm cho rằng nghĩa vụ đạo đức gắn liền với con người lý tính.
Thực hiện nghĩa vụ đạo đức có nghĩa là mỗi người tự nguyện làm những điều
6
tốt, tránh xa những điều xấu và đó là con đường dẫn đến hạnh phúc. Chẳng hạn
Xôcrát cho rằng, thực hiện nghĩa vụ đạo đức là vì mục đích sống của mỗi cá nhân
và sự đòi hỏi của xã hội, còn Platon lại cho rằng, bổn phận đạo đức tối cao là
chăm sóc cho tâm hồn mình. Cùng thời kì đó, các trường phái triết học phương
Đông lại có khuynh hướng giải thích về nghĩa vụ đạo đức gắn liền với những
vấn đề của đời sống xã hội. Con người không thể tồn tại nếu không thực hiện
nghĩa vụ đạo đức. Việc thực hiện đạo đức tốt đến đâu chính là cơ sở để xác định
một người là chính nhân quân tử hay chỉ là bậc tiểu nhân; hoặc đã được “giải
thoát” đến mức độ nào.
Thời kỳ Trung cổ, đặc biệt ở phương Tây, quan điểm thần học thống trị
đời sống xã hội khiến cho quan điểm về nghĩa vụ đạo đức cũng có sự thay đổi
căn bản gắn với thần học. Thiên chúa giáo, nguồn gốc của nghĩa vụ đạo đức
được lí giải chính là trách nhiệm của con người trước Thượng đế. Con người
thực hiện nghĩa vụ đạo đức để chuộc những lỗi lầm của con người ở cuộc sống
hiện tại và hướng tới cuộc sống giải thoát không còn đau khổ, hưởng hạnh phúc
ở một thế giới khác sau cái chết (nơi Thiên đàng).
Đến thế kỷ XVII - XVIII, khoa học thực nghiệm ra đời, chủ nghĩa duy vật
siêu hình phát triển mạnh mẽ đã bác bỏ quan điểm thần học về nghĩa vụ đạo đức.
Các nhà triết học cho rằng nghĩa vụ đạo đức gắn với đời sống của con người.
Thực hiện nghĩa vụ đạo đức mang lại cho con người hạnh phúc, vinh quang, sự
hài lòng và sự tôn trọng.
Trong triết học Cổ điển Đức, I.Cantơ đã trình bày có hệ thống nhiều quan
điểm, tư tưởng mới về đạo đức. Theo ông, đã là con người thì ai cũng phải thực
hiện nghĩa vụ đạo đức, phải sống hài hòa với tự nhiên, tôn trọng mình và người
khác, sống theo lẽ phải, bình đẳng. Do đứng trên lập trường quan điểm duy tâm
và “bất khả tri” luận nên ông cho rằng “mệnh lệnh tuyệt đối” chính là cái điều
khiển chuẩn mực đạo đức cũng như bắt buộc con người phải làm tròn bổn phận,
thực hiện nghĩa vụ đạo đức của mình.
7
Quan điểm của các trường phái triết học hiện đại có nhiều điểm khác
biệt so với những quan điểm truyền thống. Các nhà triết học theo chủ nghĩa
hiện sinh, chủ nghĩa cấu trúc và chủ nghĩa thực chứng đều có xu hướng cho
rằng các chuẩn mực đạo đức và thực hiện nghĩa vụ đạo đức mang tính chủ
quan. Sự tự do của con người - “tự luật” là cái tuyệt đối và chi phối tất cả.
Các chuẩn mực đạo đức là do cá nhân qui định, còn các chuẩn mực, giá trị
đạo đức bên ngoài do xã hội quy định - “tha luật” đều không có giá trị gì đáng
kể. Nhiều giáo trình đã trình bày khái lược những nét cơ bản nhất trong quan
niệm về nghĩa vụ đạo đức của một số triết gia, trường phái tư tưởng ngoài
mácxít khác.
Các công trình nghiên cứu liên quan đến nghĩa vụ đạo đức tập trung nhiều
vào mảng phân tích quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về nghĩa vụ đạo đức.
Trong khả năng bao quát của mình, tác giả nhận thấy phần lớn các giáo trình đều
thống nhất cho rằng: “Nghĩa vụ đạo đức là sự thể hiện trách nhiệm đạo đức của
con người trước lợi ích chung (cộng đồng, giai cấp, dân tộc, nhân loại) và lợi ích
của người khác, là ý thức về cái cần phải làm và mong muốn được làm vì những
lợi ích đó” [54; 117]. Như vậy, nghĩa vụ đạo đức vừa là yêu cầu của xã hội đối
với cá nhân, vừa là cái bên trong mà mỗi con người ý thức được, chuyển hóa
thành động lực thôi thúc hành động vì nhu cầu, sự hoàn thiện của chính mình.
Cơ sở của việc thực hiện nghĩa vụ đạo đức chính là sự tự nguyện, tự giác của con
người. Mỗi cá nhân thực hiện tốt nghĩa vụ đạo đức sẽ góp phần tạo nên xã hội
lành mạnh, phát triển. Sự phát triển cao nhất trong ý thức của con người về thực
hiện nghĩa vụ đạo đức mang giá trị xã hội cao nhất chính là tinh thần yêu nước,
tự nguyện xả thân vì đất nước, mong muốn được đóng góp phần công sức của cá
nhân cho sự nghiệp chung của đất nước.
Nguồn gốc nhận thức của con người cá nhân về nghĩa vụ đạo đức được
hình thành dần từ tuổi bé thơ thông qua giáo dục của gia đình, đến tuổi đi học, nhà
trường đóng vai trò quan trọng trong việc giáo dục về nghĩa vụ đạo đức và mỗi cá
nhân cũng dần ý thức rõ, thực hiện trách nhiệm đạo đức đối với cộng đồng, xã hội
8
và trách nhiệm với chính bản thân mình. Ý thức về thực hiện nghĩa vụ đạo đức
của mỗi người vừa là kết quả của quá trình giáo dục, truyền đạt, vừa là kết quả của
sự trải nghiệm, trưởng thành của cá nhân. Con người nhận thức về nghĩa vụ của
mình và thực hiện nghĩa vụ đạo đức ấy trong suốt cả cuộc đời và không ngừng tự
hoàn thiện mình qua trải nghiệm cuộc sống.
Việc khái lược các quan điểm trong lịch sử triết học về đạo đức học thường
được các tác giả tổng hợp lại từ các sách viết về lịch sử triết học. Trong các sách
như: Đạo đức học phương Đông cổ đại (PTS. Vũ Tình (1998), Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội), Triết lý trong văn hóa phương Đông (Nguyễn Hùng Hậu
(2002), Nxb Đại học Sư phạm), Lược khảo triết học phương Tây hiện đại (Bùi
Đăng Duy - Nguyễn Tiến Dũng (2003), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội), Đại
cương lịch sử triết học phương Tây TS. Đỗ Minh Hợp - TS. Nguyễn Thanh - TS.
Nguyễn Anh Tuấn (2006), Nxb tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh), Diện mạo
triết học phương Tây hiện đại (Đỗ Minh Hợp (2006), Nxb Hà Nội)… đã trình
bày một cách tương đối hệ thống các quan điểm nổi bật của từng triết gia, từng
trường phái triết học từ thời kì cổ đại đến hiện đại.
Trong hệ thống quan điểm về nhân học, về chính trị - xã hội, về siêu
hình học, về bản thể của thế giới, về phương pháp… vấn đề đạo đức có thể
được trình bày xen kẽ hoặc trở thành vấn đề riêng. Quan điểm về đạo đức học
nói chung, hay nghĩa vụ đạo đức nói riêng chịu ảnh hưởng sâu sắc thế giới
quan duy vật hay thế giới quan duy tâm của mỗi triết gia. Ví dụ như Xôcrát cho
rằng, thực hiện nghĩa vụ đạo đức là vì mục đích sống của mỗi cá nhân và sự đòi
hỏi của xã hội, còn Platon lại cho rằng, bổn phận đạo đức tối cao là chăm sóc
cho tâm hồn mình; hay Cantơ cho rằng, “mệnh lệnh tuyệt đối” qui định các
chuẩn mực đạo đức của con người và buộc con người thực hiện nghĩa vụ đạo
đức đó. Thông qua việc tìm hiểu quan điểm của các triết gia về đạo đức, nghĩa
vụ đạo đức, tác giả luận án đã rút ra những quan điểm cơ bản nhất và sắp xếp
theo trình tự thời gian để tạo nên hệ thống quan điểm về nghĩa vụ đạo đức tồn
tại như một bức tranh đa sắc.
9
Một số cuốn sách khác cũng bàn đến phạm trù nghĩa vụ đạo đức như Hệ
thống phạm trù đạo đức học và giáo dục đạo đức cho sinh viên (PGS, TS Trần
Hậu Kiêm - TS Đoàn Đức Hiếu (2004), Nxb Chính trị quốc gia Hà Nội), Tập bài
giảng đạo đức học (Phạm Văn Chung (2012), Nxb Chính trị quốc gia Hà Nội).
Trong đó tác giả Phạm Văn Chung cũng đã trình bày sơ lược lịch sử các quan
điểm về nghĩa vụ đạo đức. Ngoài những quan điểm của các nhà triết học tiểu
biểu, tác giả còn bổ sung thêm quan điểm của tác giả Nhật Bản Tomnobu
Imamichi, tác giả người Pháp Francois Jullien. Một điểm khác biệt khi trình bày
về nghĩa vụ đạo đức trong Tập bài giảng này là tác giả đã dành những mục riêng
để trình bày sâu hơn về ngữ nghĩa của phạm trù nghĩa vụ đạo đức, bản chất, tính
chất quan trọng, nguồn gốc, cơ sở và ý nghĩa của nghĩa vụ đạo đức. Đặc biệt khi
trình bày về tính chất của nghĩa vụ đạo đức, tác giả đã chỉ ra nghĩa vụ đạo đức
của con người có năm tính chất: tính chính đáng, yêu cầu làm tròn nghĩa vụ, sự
thống nhất giữa tính đạo đức, xã hội và pháp lý của nghĩa vụ, tính đa dạng,
phong phú và thống nhất của nghĩa vụ, tính lịch sử của nghĩa vụ. Đây là những
nghiên cứu lý luận khá sâu sắc về nghĩa vụ đạo đức tạo điều kiện thuận lợi trong
vận dụng vào thực tiễn cuộc sống.
Qua việc tìm hiểu tính chất của nghĩa vụ đạo đức, tác giả của Tập bài
giảng rút ra kết luận là đối với những đối tượng khác nhau trong xã hội thì yêu
cầu về thực hiện nghĩa vụ đạo đức cũng khác nhau. Các chuẩn mực đạo đức mà
đối tượng nhất định phải tuân theo cũng phải phù hợp với từng hoàn cảnh, thời
điểm cụ thể chứ không có chuẩn mực chung cho mọi đối tượng, mọi xã hội,
mọi thời điểm. Ngoài ra, tác giả cũng phân tích một số ví dụ về nghĩa vụ đạo
đức trong lịch sử thể hiện trong Kinh Thi và sách Trung Dung. Như vậy, nghĩa
vụ đạo đức được tác giả kết luận chính là việc người ta phải làm những công
việc nhất định trong cuộc sống của mình.
Trên thế giới, các tác phẩm có bàn đến nghĩa vụ đạo đức thường khai thác
theo chiều cạnh lịch sử triết học hoặc khái lược những quan điểm nổi tiếng của
các triết gia. Trong Đạo đức học, (G. Bandzeladze (1985), Nxb Giáo dục), tác
10
giả G. Bandzeladze đã chỉ ra “cuộc sống con người trước hết là đấu tranh để thực
hiện nghĩa vụ trước những người khác và xã hội” [39; 288]. Như vậy, nghĩa vụ
được hiểu là sự cần thiết phục tùng ý chí của xã hội. Khái niệm nghĩa vụ được
hiểu cụ thể hơn khi đưa thêm vào những khái niệm “tự do bên ngoài”, “tự do bên
trong”, “cưỡng chế bên ngoài”, “cưỡng chế bên trong”. Nếu trong hoạt động
thực hiện nghĩa vụ có sự kết hợp giữa tất yếu khách quan và tự do chủ quan thì
đó là nghĩa vụ pháp lý. Nếu hành động thực hiện nghĩa vụ là sự thống nhất giữa
tất yếu chủ quan và tự do khách quan thì đó là nghĩa vụ đạo đức. Với cách hiểu
như vậy, nghĩa vụ đạo đức chính là trách nhiệm đối với người khác hoặc đối với
xã hội và nó xuất phát do sự thôi thúc từ bên trong của mỗi người.
Trong tác phẩm 120 nhà triết học - cuộc đời, số phận, học thuyết
(P.S.Taranốp (1997), người dịch và hiệu đính: Đỗ Minh Hợp, Nguyễn Anh Tuấn,
Nguyễn Vũ Hảo, “tavria” Simpheropol), tác giả đã trình bày bao quát các nhân vật
có tư tưởng rất quan trọng từ Vua Sôlômông đến Nitsê và Vaxili Rôđanốp. Cuốn
sách đã nêu ngắn gọn những sự kiện tiểu sử làm nổi bật tính độc đáo của các nhà
tư tưởng, những yếu tố quan trọng nhất trong học thuyết, lập trường khoa học,
niềm tin, định hướng nhận thức…
Tác giả Samuel Enoch Stumpf, trong sách Lịch sử triết học và các
luận đề (Samuel Enoch Stumpf (2004), Biên dịch: Đỗ Văn Thuấn, Lưu Văn
Hy; Hiệu đính: Nguyễn Việt Long, Nxb Lao động, Hà Nội), cũng dựa trên
việc phân tích quan điểm của các nhà triết học, đã nêu lên đầy đủ, chi tiết
nội dung tư tưởng của một số nhà triết học từ thời cổ đại đến cận đại. Tư
tưởng của mỗi triết gia thường bao gồm trong đó là quan điểm đạo đức học
và có đề cập đến vấn đề nghĩa vụ đạo đức. Ví dụ khi trình bày về triết học
đạo đức của Platon, tác giả đã phân tích cơ sở hình thành quan điểm đạo đức
của Platon, khái niệm về linh hồn; nguyên nhân của cái ác, quên hay ngu
dốt; phục hồi đạo đức đã mất; đức hạnh như là sự hoàn thành chức năng. Với
sự trình bày tỉ mỉ như vậy đã giúp cho người đọc có cái nhìn cụ thể về đối
tượng muốn tìm hiểu.
11
Trong một tác phẩm khác là Bàn về xác lập cơ sở đạo đức (Francois
Jullien (2013), Nxb Lao động), thông qua nghiên cứu đạo đức học của Mạnh Tử,
Francois Jullien cũng đã bàn đến nghĩa vụ đạo đức như là sự tự giác, chân thành
và chủ động của cá nhân trong hành vi đạo đức của mình. Tìm hiểu về đạo đức
học của Mạnh Tử cũng đã giúp F.Jullien rút ra được mối quan hệ giữa những
vấn đề đạo đức trong quá khứ và hiện tại, đặc biệt là mối quan hệ giữa trách
nhiệm đạo đức của cá nhân đối với người khác, với cộng đồng và trách nhiệm
đạo đức của cá nhân đối với chính bản thân mình.
Với tác giả Edgar Morin (2012), ông đã trình bày quan điểm mới mẻ về
đạo đức qua bộ Phương pháp (Chu Tiến Ánh dịch, Phạm Khiêm Ích biên tập và
giới thiệu), Nxb Tri thức). Theo ông, đạo đức học hiện đại là sự thống nhất của
tự thân - đạo đức, xã hội - đạo đức, nhân học - đạo đức. Đạo đức học phức hợp
gắn bó chặt chẽ với đạo lý, luân lý và nó biểu lộ ra như là mệnh lệnh đối với
mỗi cá nhân khi cá nhân cảm nhận về việc thực hiện bổn phận, nghĩa vụ đạo
đức của mình. Đạo đức của con người cũng biểu lộ thông qua mối quan hệ giữa
cá nhân - xã hội - giống loài. Trong bối cảnh hiện nay, khi diễn ra khủng hoảng
trên lĩnh vực tư tưởng, đạo đức cũng rơi vào cuộc khủng hoảng. Tái tạo nguồn
cho đạo đức chính là tái sinh các nguồn của tính trách nhiệm và mối liên kết
giữa cá nhân, xã hội, giống loài.
Có thể nói rằng, vấn đề nghĩa vụ đạo đức đã thu hút sự quan tâm của các
nhà tư tưởng, các học giả, nhà nghiên cứu từ phương Đông đến phương Tây, từ cổ
đại đến hiện đại. Trong khả năng bao quát của mình, những tư liệu đó là tài liệu
tham khảo hết sức quý giá để nghiên cứu sinh thực hiện mục đích, nhiệm vụ của
luận án đã xác định.
1.1.2. Các công trình nghiên cứu liên quan đến tầm quan trọng của giáo
dục nghĩa vụ đạo đức cho sinh viên các trường đại học công lập hiện nay
Về vấn đề đạo đức sinh viên, nhìn chung các tác giả đều có quan điểm cho
rằng, sự suy thoái đạo đức biểu hiện ở một bộ phận sinh viên hiện nay là một
thực trạng đáng lo ngại và có ảnh hưởng xấu đến tương lai của nước nhà. Chính
12
vì vậy việc giáo dục cho thanh niên, sinh viên nhận thức đầy đủ về các giá trị
đạo đức và thực hiện nghĩa vụ đạo đức trong bối cảnh nước ta đang xây dựng
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một việc vô cùng quan
trọng và cấp bách.
Tại Hội thảo khoa học “Giáo dục đạo đức cho học sinh, sinh viên ở nước
ta: Thực trạng và giải pháp” do Hội Khoa học Tâm lý - Giáo dục Việt Nam tổ
chức tháng 7-2008, đã thu hút sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu cũng như
các giảng viên, giáo viên. Trong số gần 70 tham luận, có một số tham luận đề
cập đến vấn đề giáo dục nghĩa vụ đạo đức cho học sinh, sinh viên. Tác giả Lê
Như Bình, trong bài “Xác định những phẩm chất đạo đức cần rèn luyện cho sinh
viên” cho rằng về giáo dục nghĩa vụ đạo đức trong trường đại học nên hướng
vào rèn luyện cho sinh viên ở hai nội dung cơ bản đó là trách nhiệm cộng đồng
và trách nhiệm bản thân” [155].
Tháng 4 năm 2014, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã tổ chức Hội thảo với chủ
đề “Công tác giáo dục đạo đức, lối sống cho học sinh, sinh viên”. Hội thảo đã
thu hút sự quan tâm của các nhà quản lý, các nhà giáo dục với hơn 40 bản tham
luận, trong đó có nhiều báo cáo đã đề cập đến tầm quan trọng của việc giáo dục
đạo đức cho sinh viên. Tác giả Nguyễn Thị Thọ trong bài tham luận “Giáo dục
đạo đức cho sinh viên trong các trường đại học hiện nay - Thực trạng và giải
pháp” đã chỉ ra rằng về mặt lý luận, giáo dục đạo đức là một quá trình lâu dài và
liên tục. Giáo dục đại học là sự tiếp nối của giáo dục gia đình và các bậc học
trước đó nhằm hướng đến mục tiêu đào tạo ra những con người vừa “hồng” vừa
“chuyên”. Về mặt thực tiễn, hiện nay trên thế giới đang có những bước chuyển
mình mạnh mẽ do sự tác động của quá trình toàn cầu hóa, thúc đẩy giao lưu, hợp
tác giữa các nước. Việt Nam đang trong giai đoạn chuyển đổi sang nền kinh tế
thị trường đã gây ra những tác động tiêu cực trong đời sống đạo đức con người,
đặc biệt là thế hệ trẻ. Nhiều những biểu hiện tiêu cực về mặt đạo đức như lối
sống thực dụng, buông thả, không quan tâm đến trách nhiệm của bản thân với
gia đình và xã hội… Trước tình hình đó, tác giả khẳng định “cùng với việc
13
“luyện tài” cho sinh viên thì “rèn đức” là vô cùng quan trọng” [12; 124] để sinh
viên trở thành những người chủ tương lai thực sự của đất nước.
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng Cộng sản Việt Nam cũng
đặc biệt quan tâm đến vấn đề giáo dục đạo đức, lối sống cho thanh niên, sinh viên.
Trong Phương hướng, nhiệm vụ phát triển đất nước 5 năm (2010 - 2015), khi bàn
về đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục, đào tạo, Đảng ta cũng nhấn mạnh: “…
nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, đặc biệt coi trọng giáo dục lý tưởng, giáo
dục truyền thống lịch sử cách mạng, đạo đức, lối sống, năng lực sáng tạo, kĩ năng
thực hành, tác phong công nghiệp, ý thức trách nhiệm xã hội”. [39; 216].
Trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020, Đảng khẳng
định “làm tốt công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, truyền thống, lý tưởng, đạo
đức, lối sống; tạo điều kiện học tập, lao động, giải trí, phát triển thể lực, trí tuệ
cho thế hệ trẻ” [31; 242, 243]. Tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII của
Đảng, quan điểm này một lần nữa được khẳng định trong “Phương hướng,
nhiệm vụ và giải pháp phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2016 - 2020” là “Đổi
mới căn bản và toàn diện giáo dục, đào tạo theo hướng mở, hội nhập, xây dựng
xã hội học tập, phát triển toàn diện năng lực, thể chất, nhân cách, đạo đức, lối
sống, ý thức tôn trọng pháp luật và trách nhiệm công dân” [32; 296]. Điều này đã
chứng tỏ rằng việc giáo dục đạo đức, nghĩa vụ đạo đức, trách nhiệm xã hội cho
thế hệ trẻ nói chung và đội ngũ sinh viên nói riêng là công tác mang tính quốc
gia và đặc biệt được coi trọng.
Trong sách Sinh viên Việt Nam làm theo lời Bác thi đua học tập, rèn
luyện, sáng tạo, tình nguyện vì ngày mai lập nghiệp, xây dựng đất nước giàu
mạnh, văn minh do Trung ương Hội sinh viên (biên soạn 2014) đã tổng hợp toàn
bộ các bài phát biểu, báo cáo diễn ra tại Đại hội đại biểu toàn quốc Hội sinh viên
Việt Nam lần thứ IX. Đại hội đã nêu lên mục tiêu, phương hướng công tác Hội
và phong trào sinh viên trong giai đoạn 2013 - 2018. Mục tiêu được đặt lên
hàng đầu chính là “xây dựng lớp sinh viên thời kỳ mới có lý tưởng cao đẹp,
đạo đức cách mạng trong sáng, lối sống lành mạnh, luôn đi đầu trong học tập,
14
nghiên cứu khoa học, nắm bắt công nghệ mới; có kiến thức chuyên môn, lịch
sử, xã hội phong phú; hiểu biết, tôn trọng và chấp hành pháp luật” [127; 44,
45]. Như vậy, đạo đức không chỉ là yếu tố song hành cùng tri thức mà nó còn là
yếu tố được xem trọng hơn, giữ vai trò nền tảng trong cấu trúc nhân cách.
Nhiệm vụ của Hội sinh viên Việt Nam chính là làm cho sinh viên nhận thức
được về các giá trị, chuẩn mực đạo đức xã hội và thực hiện đúng theo những
chuẩn mực đó cũng chính là thực hiện nghĩa vụ đạo đức.
Nhiều nhà khoa học khi nghiên cứu về đạo đức đã khẳng định giáo dục
đạo đức cho sinh viên có vai trò rất quan trọng. Tác giả PGS. TS Lương Gia
Ban và PGS. TS Nguyễn Thế Kiệt (2013) đã đưa ra những luận giải thuyết
phục về tầm quan trọng và nội dung giáo dục đạo đức mới cho sinh viên trong
sách Giáo dục đạo đức mới cho sinh viên trong điều kiện kinh tế thị trường ở
Việt Nam hiện nay (Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội). Các tác giả đã phân tích
sáu lý do khẳng định giáo dục đạo đức mới cho sinh viên là nhiệm vụ quan
trọng đặc biệt mang tầm chiến lược ở nước ta hiện nay là: góp phần xây dựng
nhân cách sinh viên phát triển toàn diện; góp phần hoàn thiện con người nói
chung và sinh viên nói riêng; góp phần xây dựng hài hòa đời sống vật chất và
tinh thần; hướng sinh viên đến các giá trị nhân văn, nhân đạo; tạo ra cơ chế
“phòng ngừa”, “miễn dịch” cho xã hội; xuất phát từ chính yêu cầu, nhiệm vụ
của bản thân sinh viên.
Tuy không trực tiếp bàn đến phạm trù nghĩa vụ đạo đức nhưng thông qua nội
dung giáo dục đạo đức mới, các tác giả đã xác định nghĩa vụ đạo đức của sinh viên
là “nối tiếp sự nghiệp của lớp người đi trước, đẩy mạnh công cuộc đổi mới, thực
hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng đất nước ngày càng giàu mạnh” [6;
68]. Những phân tích sâu sắc của các tác giả là nguồn tài liệu hữu ích cho nghiên
cứu sinh trong việc triển khai nội dung nghiên cứu của luận án.
Bàn đến tầm quan trọng của việc giáo dục cho sinh viên thực hiện nghĩa vụ
đạo đức, sách Hệ thống phạm trù đạo đức học và giáo dục đạo đức cho sinh viên
(PGS, TS Trần Hậu Kiêm - TS Đoàn Đức Hiếu (2004), Nxb Chính trị quốc gia Hà
15
Nội) đã chỉ ra “sinh viên là những người chủ tương lai của đất nước, họ sẽ là
người kế thừa và làm phong phú thêm nội dung đạo đức mới xã hội chủ nghĩa
trong giai đoạn phát triển xã hội bước vào công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước” [69; 106]. Tác giả đã trích dẫn quan điểm Mác - Lênin về vai trò của đạo
đức trong công tác tổ chức và xây dựng chủ nghĩa cộng sản, đồng thời đưa ra quan
điểm của Hồ Chí Minh cho rằng để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội thì cần
phải có những con người có đạo đức cách mạng. Việc giáo dục đạo đức cách
mạng và thực hiện các chuẩn mực đạo đức cách mạng là rất cần thiết cho tất cả
mọi công dân Việt Nam. Trong đó, giáo dục cho thanh niên, sinh viên trách nhiệm
thực hiện các chuẩn mực đạo đức là một bộ phận rất quan trọng để hướng đến xã
hội cộng sản chủ nghĩa.
Tuy không bàn trực tiếp đến đối tượng sinh viên, song thông qua đối
tượng thanh niên, sách Đạo đức xã hội ở nước ta hiện nay vấn đề và giải pháp
GS.VS. Nguyễn Duy Quý (2006), Nxb Chính trị quốc gia Hà Nội) đã chỉ ra việc
giáo dục cho thanh niên thực hiện nghĩa vụ đạo đức là rất cần thiết trong bối
cảnh của nước ta sau 20 năm thực hiện công cuộc đổi mới. Tác giả khẳng định
đại đa số đoàn viên, thanh niên có ý thức chính trị - xã hội tốt nhưng bên cạnh đó
vẫn còn một bộ phận không nhỏ thanh niên bộc lộ những hạn chế, yếu kém như
giảm sút ý chí, mất niềm tin vào chủ nghĩa xã hội, ca ngợi phương Tây quá mức,
chạy theo lối sống vật chất, chỉ ham hưởng thụ… Những hạn chế này đã tạo ra
điều kiện thuận lợi để các thế lực thù địch, phần tử xấu dụ dỗ, kích động thanh
niên chống phá sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Vì vậy, việc giáo
dục thực hiện các chuẩn mực đạo đức, định hướng lối sống cho thanh niên là
công việc rất quan trọng để mỗi thanh niên có quan điểm sống, thái độ chính trị;
định hướng giá trị; xác định mối quan hệ với tập thể; lựa chọn hành vi, thái độ
tích cực với các hoạt động trong đời sống thực tiễn.
Kết quả nghiên cứu của Đề tài khoa học cấp Nhà nước mã số KX03.16/06-10
“Thực trạng và xu hướng biến đổi lối sống của thanh niên Việt Nam trong quá trình
đổi mới và hội nhập quốc tế” đã được xuất bản dưới nhan đề Thanh niên và lối sống
16
của thanh niên Việt Nam trong quá trình đổi mới và hội nhập quốc tế (Nxb Chính trị
quốc gia 2011 do PGS. TS Phạm Hồng Tung chủ biên). Sau khi đề cập đến “Một số
xu hướng biến đổi tiêu cực trong lối sống của thanh niên Việt Nam trong thập niên
đầu thế kỷ XXI” đã đề xuất các giải pháp cơ bản để xây dựng lối sống lành mạnh cho
thanh niên nói chung, sinh viên nói riêng, trong đó giải pháp “đầu tư nâng cao chất
lượng các môn học giáo dục đạo đức, giáo dục công dân và giáo dục kỹ năng sống
cho học sinh, sinh viên” [129; 469]. Cuốn sách đã chỉ ra giáo dục nghĩa vụ đạo đức
cần phải được quan tâm một cách đúng mức.
Ngoài các công trình nghiên cứu đã được đề cập đến trong Hội thảo, các
văn kiện, sách, báo và tạp chí chuyên ngành cũng quan tâm nghiên cứu đến vấn
đề giáo dục đạo đức cho sinh viên. Tác giả Nguyễn Thế Kiệt trong bài viết “Vai
trò của giáo dục đạo đức trong xây dựng nhân cách sinh viên hiện nay” (Tạp chí
Lý luận chính trị, số 7 - 2015) khẳng định: “Giáo dục đạo đức cho sinh viên là
nhiệm vụ quan trọng đặc biệt, mang tầm chiến lược và ở một chừng mực nào đó
có ý nghĩa sống còn đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” [75; 30].
Trong “Nâng cao chất lượng giáo dục lý luận chính trị cho sinh viên trong các
trường đại học ở Việt Nam hiện nay” của Nguyễn Thành Trung (Tạp chí Triết
học số 5 - 2016), tác giả chỉ ra: “Trong giai đoạn hiện nay, mặt trái của kinh tế
thị trường, toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế đã tác động không nhỏ đến mọi mặt
của đời sống xã hội, trong đó có các giá trị văn hóa truyền thống về đạo đức, lối
sống, tình cảm, tư tưởng… của một bộ phận trong thế hệ trẻ, đặc biệt là sinh viên
- một lực lượng quan trọng trong xã hội Việt Nam hiện nay. Vì thế, việc nâng
cao chất lượng, hiệu quả của giáo dục lý luận chính trị trong môi trường đại học
đóng một vai trò quan trọng” [128; 93, 94].
Bên cạnh đó cũng có rất nhiều bài báo bàn đến sự cần thiết của giáo dục
đạo đức cho sinh viên Việt Nam hiện nay từ nhiều khía cạnh khác nhau như
“Nâng cao chất lượng giáo dục phẩm chất đạo đức cho sinh viên các trường sư
phạm hiện nay” của Tạ Hoa Dung và Lê Thị Điệp (Tạp chí Lý luận chính trị, số
3 - 2014), “Định hướng giá trị nhân cách cho sinh viên Việt Nam hiện nay” của
17
Trần Sỹ Phán và Trần Thị Hồng Lê (Tạp chí Lý luận chính trị và truyền thông, số
4 - 2015), “Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng vào giáo dục
đạo đức cho thanh niên Việt Nam hiện nay” của Phạm Hùng Dũng (Tạp chí Triết
học 9 - 2015)… Những tài liệu này có ý nghĩa trong quá trình nghiên cứu sinh phân
tích tầm quan trọng của giáo dục nghĩa vụ đạo đức cho sinh viên các trường đại học
công lập ở nước ta hiện nay.
1.2. Các công trình nghiên cứu liên quan đến thực trạng giáo dục
nghĩa vụ đạo đức cho sinh viên các trường đại học công lập hiện nay
Trong suốt chiều dài lịch sử nhân loại có rất nhiều tác phẩm viết về đạo
đức. Tuy nhiên, trong những năm gần đây, vấn đề này nhận được sự quan tâm sâu
sắc của các nhà nghiên cứu do sự biến đổi nhanh chóng của các hệ giá trị đạo đức
trong xã hội và những ảnh hưởng tiêu cực của nó đến sự phát triển của đời sống xã
hội. Đạo đức được nghiên cứu cả về mặt lý luận và thực tiễn. Nghiên cứu đạo đức
ở nhiều chiều cạnh khác nhau góp phần làm phong phú và sáng tỏ thêm nhiều luận
điểm triết học. Về thực tiễn, đạo đức là vấn đề không tách rời cuộc sống của con
người. Những vấn đề đạo đức liên quan đến chất lượng, giá trị cuộc sống, mục
đích và phương thức sống của con người và rất gần gũi với mỗi cá nhân. Nghiên
cứu tính muôn vẻ, sống động của thực tiễn đạo đức giúp cho việc nắm bắt chiều
sâu, tính quy định của nó để xác định hệ thống các giải pháp định hướng phát triển
đúng đắn những vấn đề đạo đức còn tồn tại trong xã hội.
Ở nước ta, cùng với sự phát triển kinh tế - xã hội, nhiều vấn đề đạo đức đã
được đem ra luận bàn. Có nhiều công trình nghiên cứu, bài báo, tạp chí và tác
phẩm viết về đạo đức rất phong phú, đa dạng dưới các chiều cạnh lý luận và thực
tiễn, trong đó có nhiều công trình nghiên cứu về đời sống đạo đức của sinh viên.
Thông qua việc phản ánh thực trạng đời sống đạo đức sinh viên và thực trạng
giáo dục đạo đức, lối sống cho sinh viên hiện nay, nghiên cứu sinh đã tiếp thu
chọn lọc và làm sâu sắc những nội dung mà các công trình nghiên cứu trước đây
chưa đề cập nhiều về thực trạng giáo dục nghĩa vụ đạo đức cho sinh viên các
trường đại học công lập hiện nay.
18
Trực tiếp bàn đến thực trạng giáo dục đạo đức cho sinh viên ở nước ta
hiện nay, có nhiều báo cáo khoa học trong Hội thảo “Công tác giáo dục đạo đức,
lối sống cho học sinh, sinh viên” đã chỉ ra thành tựu và hạn chế trong thực hiện
giáo dục đạo đức, lối sống cho sinh viên. Vụ Công tác học sinh, sinh viên của Bộ
Giáo dục và Đào tạo trong báo cáo “Thực trạng đạo đức, lối sống và công tác
giáo dục đạo đức, lối sống cho học sinh, sinh viên đại học, cao đẳng, trung cấp
chuyên nghiệp” nêu lên nội dung giáo dục đạo đức bao gồm: giáo dục phẩm chất
chính trị, giáo dục đạo đức, giáo dục lối sống. Các nội dung này được thực hiện
thông qua các hình thức như: tổ chức tuần sinh hoạt công dân; ghép các nội dung
giáo dục vào chương trình dạy học; rèn luyện kỹ năng thông qua các câu lạc bộ,
tổ chức; thực hiện đối thoại sinh viên; tổ chức các phong trào tương thân tương
ái; hướng dẫn người học thực hiện quy chế; giáo dục đạo đức thông qua các hoạt
động của Đoàn, Hội. Những thành tựu đạt được gồm có: sinh viên được tiếp cận,
tìm hiểu về đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước; được giáo dục tri
thức và các kỹ năng “mềm”; sinh viên nắm bắt và thực hiện quy chế; đội ngũ
thực hiện công tác giáo dục đạo đức được thường xuyên tập huấn; các văn bản
chỉ đạo được cụ thể hóa và triển khai; vai trò của Đoàn, Hội được phát huy tích
cực… Hạn chế trong giáo dục đạo đức cho học sinh, sinh viên là nội dung và
hình thức giáo dục còn ít đổi mới; sự phối hợp giữa gia đình với nhà trường chưa
chặt chẽ; một số cán bộ Đoàn, Hội chưa đáp ứng được yêu cầu công tác…
Những phân tích cụ thể, sâu sắc của báo cáo đã phần nào chỉ ra được thực trạng
giáo dục đạo đức cho học sinh, sinh viên ở nước ta hiện nay.
Cũng trong Hội thảo đó, tác giả Dương Thị Thúy Nga, Trịnh Huy Hồng
với đề tài “Giáo dục đạo đức, lối sống cho sinh viên trong giai đoạn hiện nay Những vấn đề đặt ra và hướng giải quyết” đã chỉ ra hàng loạt những biểu hiện
đáng lo lắng về đạo đức, lối sống của sinh viên như lối sống lệch chuẩn, vô cảm,
bạo lực, gian lận… Các tác giả đã chỉ ra một trong những nguyên nhân gây ra
tình trạng này là do công tác giáo dục đạo đức, lối sống cho sinh viên còn nhiều
bất cập. Biểu hiện của sự bất cập đó là chưa coi trọng công tác giáo dục đạo đức
19
cho sinh viên; nội dung giáo dục đạo đức nặng về lý thuyết, khuôn mẫu; phương
pháp và hình thức giáo dục đạo đức sơ cứng, thuyết giảng một chiều, kiểm tra và
đánh giá đạo đức còn nặng mang tính áp đặt, bình quân, chiếu lệ.
Trong sách Giáo dục đạo đức mới cho sinh viên trong điều kiện kinh tế thị
trường ở Việt Nam hiện nay (PGS. TS Lương Gia Ban và PGS. TS Nguyễn Thế
Kiệt (2013), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội), các tác giả cũng đã phân tích rõ
thực trạng giáo dục đạo đức mới cho sinh viên trong điều kiện kinh tế thị trường
ở Việt Nam hiện nay. Thực trạng giáo dục đạo đức được khảo sát thông qua việc
giảng dạy và học tập môn học, nhất là môn khoa học Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh; sự tác động của các phong trào chính trị - xã hội; sự tác động của các
phương tiện thông tin đại chúng và nghệ thuật; sự chủ động giáo dục từ gia đình
và thực trạng học tập, thực hiện đạo đức của chính sinh viên. Từ thực trạng đó,
các tác giả đã phân tích các nhóm nguyên nhân của thành tựu và hạn chế trong
giáo dục đạo đức cho sinh viên.
Đề tài nghiên cứu khoa học “Đạo đức sinh viên trong quá trình chuyển
sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam - Thực trạng,
vấn đề và giải pháp” của Trương Văn Phước (2003) đã đi vào nghiên cứu sự
chuyển đổi thang giá trị đạo đức ở nước ta từ khi chuyển sang thực hiện mô hình
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và sự tác động của nền kinh tế đối
với việc sinh viên thực hiện nghĩa vụ đạo đức. Thực trạng cho thấy bên cạnh đa số
sinh viên có ý thức tốt trong thực hiện nghĩa vụ đạo đức thì cũng còn một bộ phận
sinh viên chưa nhận thức đúng đắn về nghĩa vụ đạo đức trong mối quan hệ với
cộng đồng. Từ đó tác giả đưa ra các giải pháp để hạn chế những tác động tiêu cực
của kinh tế thị trường đến việc sinh viên nhận thức và thực hiện nghĩa vụ đạo đức.
Bên cạnh những công trình nghiên cứu quy mô bàn đến giáo dục đạo
đức cho sinh viên Việt Nam hiện nay, có rất nhiều các tác phẩm, công trình
nghiên cứu đề cập gián tiếp đến thực trạng đạo đức sinh viên, thực trạng giáo
dục đạo đức cho sinh viên thông qua thực trạng đạo đức chung của toàn xã
hội. Các sách tiêu biểu như: Sự biến đổi của thang giá trị đạo đức trong nền
20
kinh tế thị trường với việc xây dựng đạo đức mới cho cán bộ quản lý ở nước
ta hiện nay (PGS.PTS. Nguyễn Chí Mỳ chủ biên (1999), (sách tham khảo),
Nxb Chính trị quốc gia Hà Nội); Một số vấn đề lối sống, đạo đức, chuẩn giá
trị xã hội (GS.TSKH. Huỳnh Khái Vinh chủ biên (2001), Nxb Chính trị quốc
gia Hà Nội); Đạo đức trong nền công vụ (Tô Tử Hạ, Trần Anh Tuấn, Nguyễn
Thị Kim Thảo (2002), Nxb Lao động - xã hội, Hà Nội); Mấy vấn đề đạo đức
trong điều kiện kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay (GS.TS. Nguyễn Trọng
Chuẩn và PGS.TS. Nguyễn Văn Phúc đồng chủ biên (2003), Nxb Chính trị
quốc gia Hà Nội); Đạo đức xã hội ở nước ta hiện nay vấn đề và giải pháp
(GS.VS. Nguyễn Duy Quý chủ biên (2006), Nxb Chính trị quốc gia Hà Nội);
Ý thức đạo đức trong điều kiện kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay (Lê Thị
Tuyết Ba (2010), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội)…
Trong Đạo đức xã hội ở nước ta hiện nay vấn đề và giải pháp GS. VS.
Nguyễn Duy Quý đã tìm hiểu vấn đề đạo đức dưới sự tác động của kinh tế,
chính trị nước ta hiện nay và phân tích đạo đức của từng nhóm đối tượng
trong xã hội như cán bộ, đảng viên, thanh niên… trong các điều kiện hoàn
cảnh cụ thể như trong lao động, trong giao tiếp, trong cuộc sống gia đình. Tác
giả đã nêu lên những nguyên nhân khách quan và chủ quan dẫn đến những
tiêu cực trong đời sống đạo đức ở nước ta trong giai đoạn hiện nay. Một trong
những nguyên nhân xuất phát từ thực tế vấn đề giáo dục đạo đức và giáo dục
nghĩa vụ đạo đức chưa được thực sự coi trọng. Đối với vấn đề đạo đức của
thanh niên, tác giả đã thông qua các số liệu thống kê xã hội học để nêu lên
những ưu điểm, hạn chế trong biểu hiện đạo đức của họ để từ đó đưa ra những
kết luận và khuyến nghị, trong đó có giải pháp về giáo dục cho thanh niên
nâng cao nhận thức, trách nhiệm về thực hiện nghĩa vụ đạo đức của mình.
Trong sách Mấy vấn đề đạo đức trong điều kiện kinh tế thị trường ở nước
ta hiện nay GS.TS. Nguyễn Trọng Chuẩn và PGS.TS. Nguyễn Văn Phúc với
nhiều bài viết đã đề cập đến những vấn đề lý luận và thực tiễn đạo đức hiện nay,
từ đó đề ra những giải pháp giáo dục cho con người thực hiện các chuẩn mực
21
đạo đức trong bối cảnh xây dựng nền kinh tế thị trường ở nước ta. Tuy nhiên,
cuốn sách là tập hợp của nhiều bài viết với nhiều tác giả nên các quan điểm chưa
mang tính hệ thống và còn nhiều ý kiến khác nhau về thực trạng đạo đức, giáo
dục đạo đức, giáo dục nghĩa vụ đạo đức trong nền kinh tế thị trường ở nước ta
hiện nay.
Sách Mấy vấn đề đạo đức học mácxít và xây dựng đạo đức trong điều kiện
kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay của tác giả PGS. TS. Nguyễn Thế Kiệt
(2012) Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội) trình bày về các kiểu đạo đức
trong lịch sử; qui luật tồn tại và phát triển của đạo đức; vai trò của đạo đức mới
trong xã hội hiện nay và tầm quan trọng của xây dựng đạo đức mới trong cán bộ,
đảng viên.
TS Lê Thị Tuyết Ba trong sách Ý thức đạo đức trong điều kiện kinh tế
thị trường ở Việt Nam hiện nay đã trình bày sơ lược các quan điểm về ý thức
đạo đức, vai trò của ý thức đạo đức và sự biến đổi ý thức đạo đức trong điều
kiện kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay. Tác giả khẳng định rằng ý thức đạo
đức có vai trò to lớn trong đời sống con người. Nó giúp điều chỉnh v à định
hướng hành vi của con người. Khi con người có ý thức về nghĩa vụ đạo đức
của mình, thực hiện nghĩa vụ đạo đức sẽ tạo thành động lực để thúc đẩy sự
phát triển của xã hội. Trên cơ sở phân tích những thay đổi tích cực, tiêu cực
của ý thức đạo đức trong nền kinh tế thị trường ở nước ta, tác giả đã đưa ra
giải pháp hoàn thiện cơ chế thị trường, tăng cường vai trò của pháp luật, giáo
dục nghĩa vụ đạo đức để xây dựng ý thức đạo đức ngày một tốt hơn.
Sách Chuẩn mực đạo đức con người Việt Nam hiện nay - Viện Khoa học
Xã hội Nhân văn quân sự (2006), Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, đã dành một
chương để bàn về chuẩn mực đạo đức con người Việt Nam trong xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa hiện nay. Các tác giả đã phân tích những biến đổi
kinh tế - xã hội thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa tác động đến chuẩn mực đạo
đức của con người Việt Nam hiện nay. Một mặt, tính năng động của nền kinh tế
làm cho cách nghĩ về chuẩn mực đạo đức xã hội đổi thay theo hướng tích cực, các
22