Tải bản đầy đủ (.pdf) (119 trang)

Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn bùi ngọc tấn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.39 MB, 119 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
------------

NGÔ THỊ DUNG

NGHỆ THUẬT TỰ SỰ TRONG TRUYỆN NGẮN
BÙI NGỌC TẤN

LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC

Hà Nội - 2016


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
------------

NGÔ THỊ DUNG

NGHỆ THUẬT TỰ SỰ TRONG TRUYỆN NGẮN
BÙI NGỌC TẤN

Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Văn học Việt Nam
Mã số: 60 22 01 21

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS Lê Dục Tú

Hà Nội - 2016



LỜI CẢM ƠN


Để hoàn thành đƣợc luận văn này, em đã nhận đƣợc rất nhiều sự giúp đỡ từ
các thầy cô trong suốt thời gian học tập và rèn luyện tại trƣờng. Xin cho em gửi lời
cảm ơn chân thành và tri ân sâu sắc nhất đến những ngƣời thầy đáng kính đã luôn
giúp đỡ em. Đặc biệt là cô Lê Dục Tú, ngƣời đã theo sát em trong suốt chặng đƣờng
làm luận văn. Cô đã tận tình chỉ bảo cho em từng chút một và cho em nhiều lời
khuyên hữu ích. Em thấy đƣợc tác phong làm việc khoa học và sự hết lòng vì học
viên từ cô. Chúng em còn phải học hỏi rất nhiều từ các thầy cô. Kính chúc các thầy
cô luôn luôn mạnh khỏe, công tác tốt, có nhiều niềm vui trong cuộc sống. Trong quá
trình học tập, thực hiện luận văn, em còn nhiều thiếu sót, mong các thầy cô thông
cảm cho em. Một lần nữa em xin chân thành cảm ơn!


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................3
1. Lí do chọn đề tài ......................................................................................................3
2. Lịch sử vấn đề .........................................................................................................3
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu ...........................................................................8
4. Tƣ liệu và phƣơng pháp nghiên cứu .......................................................................8
5. Dự kiến đóng góp của luận văn...............................................................................9
6. Cấu trúc luận văn ....................................................................................................9
Chƣơng 1. NGƢỜI KỂ CHUYỆN VÀ ĐIỂM NHÌN TRẦN THUẬT TRONG
TRUYỆN NGẮN BÙI NGỌC TẤN ......................................................................10
1.1 Khái niệm về ngƣời kể chuyện và điểm nhìn..................................................10
1.1.1 Khái niệm về người kể chuyện .........................................................................10
1.1.2 Điểm nhìn trần thuật ........................................................................................12
1.2 Ngƣời kể chuyện tƣờng minh ...........................................................................14
1.2.1 Người kể chuyện cái tôi – dẫn chuyện, chứng nhân ........................................14

1.2.2 Người kể chuyện cái tôi – nhân vật chính ........................................................18
1.2.3 Người kể chuyện cái tôi - nghe chuyện ............................................................19
1.3 Ngƣời kể chuyện hàm ẩn ..................................................................................20
1.3.1 Người kể chuyện với điểm nhìn toàn tri ...........................................................20
1.3.2 Người kể chuyện tựa vào điểm nhìn nhân vật ..................................................23
1.4 Sự đan xen hai dạng thức trần thuật ...............................................................29
Chƣơng 2: KẾT CẤU VÀ NHÂN VẬT TRONG TRUYỆN NGẮN BÙI NGỌC TẤN....34
2.1 Kết cấu ................................................................................................................34
2.1.1 Khái quát về kết cấu .........................................................................................34
2.1.2. Kết cấu tuyến tính............................................................................................35
2.1.3. Kết cấu đảo ngược ..........................................................................................42
2.1.4. Kết cấu tâm lý..................................................................................................44
2.2 Nhân vật .............................................................................................................60
2.2.1 Khái quát về nhân vật truyện ngắn ..................................................................60
2.2.2 Các kiểu nhân vật .............................................................................................61
1


2.2.3 Nghệ thuật xây dựng nhân vật .........................................................................71
Chƣơng 3. NGÔN NGỮ VÀ GIỌNG ĐIỆU TRONG TRUYỆN NGẮN ..........82
BÙI NGỌC TẤN .....................................................................................................82
3.1 Ngôn ngữ trong truyện ngắn Bùi Ngọc Tấn ...................................................82
3.1.1 Ngôn ngữ giàu chất thơ ....................................................................................83
3.1.2 Ngôn ngữ đời thường, sử dụng khẩu ngữ, tiếng lóng ......................................85
3.1.3 Vận dụng ngôn ngữ dân gian ...........................................................................88
3.1.4 Tổ chức những câu ngắn ................................................................................89
3.2 Giọng điệu trong truyện ngắn Bùi Ngọc Tấn .................................................93
3.2.2 Giọng trữ tình, chiêm nghiệm ..........................................................................97
3.2.3 Giọng lạnh lùng, khách quan .........................................................................100
KẾT LUẬN ............................................................................................................104

TÀI LIỆU THAM KHẢO ....................................................................................108
PHỤ LỤC ...............................................................................................................114

2


MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1 Bùi Ngọc Tấn là một nhà văn có nhiều đóng góp cho văn học Việt Nam
hiện đại. Trong cả hai giai đoạn sáng tác (1954-1968 và 1990 đến 2014), tác giả đều
có những tác phẩm nhận đƣợc sự quan tâm đông đảo của bạn đọc nhƣ: Một thời để
mất (1995), Chuyện kể năm 2000 (2000), Rừng xưa xanh lá (2004), Biển và chim
bói cá (2008), Người chăn kiến (2010),…Nhà văn là hội viên của nhiều tổ chức văn
học uy tín. Các tác phẩm của ông nhận đƣợc nhiều giải thƣởng giá trị.
1.2 Bên cạnh thể loại kí, tiểu thuyết, truyện ngắn Bùi Ngọc Tấn giữ một vị trí
quan trọng trong sự nghiệp sáng tác của nhà văn. Phần lớn các truyện ngắn đƣợc
ông viết trong giai đoạn sau. Chúng có vai trò nhƣ một sự khởi đầu thứ hai, đánh
dấu sự trở lại của nhà văn.Truyện ngắn của Bùi Ngọc Tấn mang nhiều giá trị đặc
sắc. Đặc biệt, tập truyện ngắn Người chăn kiến (2010) thu hút sự quan tâm của đông
đảo bạn đọc.
1.3 Các tác phẩm đã đƣợc công bố của Bùi Ngọc Tấn đều thuộc mảng văn
xuôi, chủ yếu là văn xuôi tự sự. Nghệ thuật tự sự là vấn đề then chốt của văn học.
Nhiều năm gần đây, tự sự học trở thành tâm điểm của giới nghiên cứu, phê bình.
Tìm hiểu truyện ngắn Bùi Ngọc Tấn từ góc độ nghệ thuật tự sự là hƣớng tiếp cận
nhiều tiềm năng, hy vọng tìm ra đƣợc những giá trị đặc sắc của truyện ngắn Bùi
Ngọc Tấn.
Với những lý do trên, ngƣời viết chọn đề tài “Nghệ thuật tự sự trong truyện
ngắn Bùi Ngọc Tấn” làm đề tài cho luận văn.
2. Lịch sử vấn đề
2.1 Đôi nét về nhà văn Bùi Ngọc Tấn

Tác giả sinh năm 1934, mất năm 2014, quê ở Thủy Nguyên, Hải Phòng. Bùi
Ngọc Tấn bắt đầu viết báo, viết văn từ năm 1954 khi vừa tròn 20 tuổi. Tác giả là
phóng viên báo Tiền Phong (1954-1959) với bút danh Tân Sắc. Sau đó, ông làm
biên tập cho báo Hải Phòng (1960-1968). Ông có thời gian “đi tập trung cải tạo 5

3


năm” (1968-1973). Sau đó, ông làm việc tại Quốc doanh đánh cá Hạ Long 20 năm
(1974-1994).
Sự nghiệp văn chƣơng của Bùi Ngọc Tấn có nhiều trắc trở, nhà văn có một
khoảng thời gian dài ngừng cầm bút (1975-1990). Con đƣờng viết văn của tác giả
chia làm hai giai đoạn, giai đoạn một, từ năm 1954 đến năm 1968, giai đoạn hai, từ
năm 1990 cho đến 2014. Có thể nói quãng thời gian đi cải tạo đã để lại nhiều ám
ảnh trong cuộc đời nhà văn. Bùi Ngọc Tấn từng tuyên bố với bạn năm 1974 “Mình
bẻ bút rồi. Đoạn tuyệt hẳn đấy.” Nhƣng nhƣ Dƣơng Tƣờng nhận xét “Những năm
tháng hoạn nạn – theo quy luật bù trừ của tạo hoá? Đã tạo cho Bùi Ngọc Tấn hội
nhập – thậm chí đồng hoá – vào môi trƣờng dƣới đáy, giàu thêm bao trải nghiệm
trên mọi cũng bậc trầm luân của nhân sinh và hoà đồng với những thân phận phó –
ngƣời (sous – homes) sau này trở thành tiêu mẫu cho những nhân vật của anh. “ [69,
tr. 6 ]. Và Bùi Ngọc Tấn lại tiếp tục viết để hoàn thành nghiệp văn.
Các tác phẩm của Bùi Ngọc Tấn đƣợc nhiều bạn đọc biết đến nhƣ:
-

Một thời để mất - hồi ký (1995)

-

Những người rách việc - truyện ngắn (1996)


-

Một ngày dài đằng đẵng - truyện ngắn (1999)

-

Chuyện kể năm 2000 - tiểu thuyết (2000)

-

Truyện ngắn Bùi Ngọc Tấn – truyện ngắn (2003)

-

Rừng xưa xanh lá - ký chân dung (2004)

-

Biển và chim bói cá - tiểu thuyết (2008)

-

Người chăn kiến - truyện ngắn (2010)
Bùi Ngọc Tấn là hội viên Hội Nhà văn Việt Nam. Ông từng đƣợc nhận nhiều

giải thƣởng, giải thƣởng của tạp chí Văn nghệ, tạp chí Văn nghệ Quân đội, bộ Văn
hóa, nhà xuất bản Hội Nhà văn, giải Nguyễn Bỉnh Khiêm (Hải Phòng), giải thƣởng
của Hội Nhà Văn Việt Nam, giải Henri Queffenlec (Pháp), giải thƣởng sách hay do
độc giả và học giả bình chọn.


4


Với Bùi Ngọc Tấn, văn chƣơng phải viết về sự thật, phải giản dị và chân thành
nhƣ từng hơi thở của cuộc sống. Văn chƣơng là một lao động cực nhọc. Văn
chƣơng còn đầy rẫy chông gai và hiểm nguy. Ngƣời nghệ sỹ là “những ngƣời mang
nghiệp chƣớng”, mang sự nhếch nhác trần ai của ngƣời làm nghề. Nhà văn phải
“bấm chân xuống đáy đời mà bƣớc.” Dù vậy, Bùi Ngọc Tấn vẫn yêu văn chƣơng
bằng cả tấm chân tình bởi nhƣ ông từng tâm sự trong bài viết Bùi Ngọc Tấn – Người
chăn kiến “Văn chƣơng là thế. Dìm không xuống, kéo không lên. Nó tồn tại bằng
giá trị tự thân. Sống bằng cái gì mình có.” [71]
Hiếm có nhà văn nào lại nhìn đời với sự đôn hậu và bao dung nhƣ Bùi Ngọc
Tấn. Dƣơng Tƣờng nhận xét “Đọc Bùi Ngọc Tấn, tôi thêm tin rằng sự sa đoạ tâm
hồn trƣớc thử thách của số mệnh không phải là tội tổ tông truyền. Cái lớn lao của
Bùi Ngọc Tấn là ở chỗ tất cả những vùi dập cay nghiệt của số phận không hề làm
anh hằn học, chua chát mà chỉ thêm bao dung. Phải là một tâm hồn rất quảng đại
mới có thể nói về những nghiệm sinh ê chề của mình với một chất u – mua độ
lƣợng và lạc quan đến thế” [69, tr. 7]
Văn của Bùi Ngọc Tấn rất đẹp. Con ngƣời “đổi buồn lấy vui” ấy tâm niệm,
viết để sống nhẹ hơn, viết để sống tốt hơn. Ông thuộc về kẻ yếu, kẻ ở tầng đáy “Văn
nghệ, theo tôi, quý trƣớc hết vẫn là ở cái lòng nhân, là tình yêu thƣơng con ngƣời.
Với tôi, mỗi lần viết là để mình đƣợc tốt hơn lên…Với tôi, văn chƣơng thuộc về
những kẻ yếu, những ngƣời bất hạnh, những ngƣời đau khổ, những ngƣời ở tầng
đáy, những ngƣời chịu đựng lịch sử. Tôi viết về họ, phụng sự họ” [25]
Bùi Ngọc Tấn là ngƣời biết “chƣng cất cái đau thành hy vọng, thành tiếng
cƣời. Đó là hóa học của nhân bản hay có khi là bí quyết đạt đạo của những bậc
hiền” (Dƣơng Tƣờng). Ông là một nhà văn theo đúng nghĩa “văn chƣơng là cuộc
đời”, một nhà văn chân chính.
Với ông, văn chƣơng là một lao động nghiêm túc “Tôi viết dàn trải lắm. Phần
chữa vất vả hơn phần viết. Giai đoạn trƣớc, trời nóng quá, tôi đã phải lấy nƣớc đá ra

lau thật mát sàn, rồi nằm bò ra đó viết. Trời mất điện, tôi thắp đèn dầu. Năm 1990,
mẹ tôi mất, ba tháng sau tôi mới viết trở lại. Tôi còn nhớ, có đợt tôi ngồi viết mà

5


mặt mũi nóng bừng lên nhƣ ngƣời vừa uống bia về. Có những chuyện tôi viết nhƣ
trong vô thức. Cái gì viết trong vô thức khi đọc lại thì hay lắm”. [38]
Ngày 22/5/2014, Bùi Ngọc Tấn phát hiện một khối u ở phổi. Nhà văn tin là
mình sẽ cầm cự đƣợc vài ba năm. Nhƣng ông không ngờ mình đã mắc trọng bệnh,
vài tháng sau đó, 18/12/2014 nhà văn qua đời để lại nhiều tiếc thƣơng.
2.2 Lịch sử nghiên cứu truyện ngắn Bùi Ngọc Tấn
Bùi Ngọc Tấn từng tâm sự trên trang bìa tập truyện ngắn Người chăn kiến
“Năm 1955, tôi đến với văn chƣơng bằng truyện ngắn Hai chiếc máy bơm in trên
Văn nghệ. Truyện viết với chủ đề chống tƣ tƣởng trông chờ máy bơm, phải tích cực
đào giếng chống hạn, đƣợc dịch in trong Le Vietnam en marche (tạp chí đối ngoại
của nƣớc ta) ngay số đầu tiên. Năm 1990, tôi trở lại văn chƣơng cũng bằng truyện
ngắn Cún, viết về một con chó, nhƣng thực ra là chuyện ngƣời. Từ viết minh hoạ
cho một chủ trƣơng chính sách đến viết về con ngƣời phải mất 35 năm”. [67]
Nhà văn có một quãng im lặng kéo dài trong đời cầm bút. Các truyện ngắn ra
đời, đánh dấu sự cầm bút trở lại của nhà văn. Hàng loạt truyện ngắn của Bùi Ngọc
Tấn đƣợc gom lại thành hai tập Những người rách việc (1996), Một ngày dài đằng
đẵng (1999). Nhìn chung, các truyện ngắn của ông không đƣợc chú ý nhiều. Năm
2003, Nhà xuất bản Hải Phòng cho in tập Truyện ngắn Bùi Ngọc Tấn. Đặc biệt là
năm 2010, tập Người chăn kiến thu hút đông đảo độc giả. Cuốn sách đƣợc giới thiệu
là cuốn sách hay trong chuyên mục “Mỗi ngày một cuốn sách” trên kênh VTV1
ngày 10/10/2012. Có thể nói, đây là tập truyện ngắn làm nên “thƣơng hiệu” Bùi
Ngọc Tấn.
Dù đã xuất hiện một thời gian dài song những đánh giá về truyện ngắn Bùi
Ngọc Tấn còn thƣa thớt, chỉ rải rác trong một số bài điểm sách, bài phê bình, bài

chia sẻ. Tuy vậy, các tác giả có nhận xét khái quát về truyện ngắn Bùi Ngọc Tấn.
Đầu tiên phải kể đến bài viết của Dƣơng Tƣờng trên báo Văn nghệ số 49
ngày 04/12/1999, sau đƣợc chọn làm lời giới thiệu trong lần xuất bản cuốn Truyện
ngắn Bùi Ngọc Tấn (NXB Hải Phòng, 2003). Bài viết với tiêu đề Bùi Ngọc Tấn và
hóa học của nhân bản. Dƣơng Tƣờng chỉ ra đó là những truyện ngắn ngồn ngộn
6


chất sống. Ông lý giải chính những năm tháng hoạn nạn đã giúp Bùi ngọc Tấn có thêm sự
trải nghiệm, có thêm chất liệu sống cho những trang viết của mình. Chúng không hề làm
cho nhà văn hằn học, chua chát mà ngƣợc lại càng thêm bao dung, lạc quan.
Tiếp đến là bài viết của Vũ Quốc Văn Tân sắc Bùi Ngọc Tấn, một nhà văn
đặc sắc in trên báo Tiền phong ngày 25/12/2005. Tác giả bài viết sau khi giới thiệu
về cuộc đời của Bùi Ngọc Tấn, về cuốn hồi ức văn học Một thời để mất, đã có
những nhận xét về các truyện ngắn của Bùi Ngọc Tấn. Tác giả cho rằng đọc truyện
nào cũng đầy ắp vốn sống, ngồn ngộn chi tiết và lấp lánh tài hoa, gợi mở. Bùi Ngọc
Tấn có lối viết văn lạ, dung dị mà hiện đại, viết về con ngƣời bình thƣờng với sự
trân trọng và thƣơng xót. Truyện nào cũng xúc động. Đặc sắc là cái chất hóm hỉnh
đôi khi trào lộng rất riêng, không giống ai. Bùi Ngọc Tấn còn khéo léo ngay trong
cách đặt tên cho tác phẩm của mình.
Thu Hà có bài viết hàm súc, cô đọng chỉ ra những đặc trƣng của Bùi Ngọc
Tấn trong bài Sự giản dị mạnh mẽ đăng trên Tuổi trẻ online ngày 31/10/2011. Bài
viết nhận xét sự giản dị trong câu chữ và ý tƣởng, trong mọi vấn đề của tập truyện,
về tuyến nhân vật, những trải nghiệm cảm xúc ấn tƣợng. Tác giả cho rằng nhà văn
đã thực sự đến đích trên con đƣờng văn của mình.
Bài viết Thư kí thời đại: nhà văn Bùi Ngọc Tấn của Nguyễn Văn Tuấn đăng
trên buingoctan.wordpress.com ngày11/04/2012 giới thiệu hai tác phẩm của Bùi
Ngọc Tấn là Viết về bè bạn và Truyện ngắn Bùi Ngọc Tấn. Tác giả bài viết nhận xét
tập truyện này là một trò chuyện với vô cùng. Đề tài của tập truyện là cuộc sống nhà
tù và ám ảnh sau khi ra tù, những hoàn cảnh éo le, những câu chuyện thƣơng tâm

thời kỳ đổi mới. Văn phong trầm tĩnh, bao dung, ngắn gọn, cô đọng, văn chƣơng
của sự thật, thể hiện những suy nghĩ chiều sâu của một tác giả đứng tuổi.
Đáng kể nhất là bài viết Bùi Ngọc Tấn, Nhà văn, và hắn của Phạm Xuân
Nguyên đƣợc in trong phần kết của tập truyện Người chăn kiến. Tác giả phân tích
sâu sắc, kĩ lƣỡng mối quan hệ của nhân vật “hắn” trong văn học từ trƣớc cách mạng
tháng tám 1945 đến nay. Nhà phê bình cho rằng đọc Bùi Ngọc Tấn hãy đọc theo

7


hắn. Ông có so sánh “hắn” của Tạ Duy Anh, của nguyễn Khải với hắn của Bùi
Ngọc Tấn. Ngƣời viết chỉ ra nên tiếp cận Người chăn kiến từ góc độ “hắn”.
Bên cạnh đó, một số luận văn tìm hiểu về văn chƣơng Bùi Ngọc Tấn xuất
hiện rải rác. Đáng kể là một số đề tài:
1. Đặc điểm văn xuôi Bùi Ngọc Tấn qua “Biển và chim bói cá” và “Người
chăn kiến” (Luận văn thạc sĩ của Nguyễn Thị Bích Vân, Đại học Đà
Nẵng, bảo vệ ngày 25/05/2013)
2. Đặc điểm nghệ thuật tiểu thuyết, truyện ngắn Bùi Ngọc Tấn (Luận văn
thạc sĩ của Bùi Thị Kim Nga, Đại học sƣ phạm thành phố Hồ Chí Minh,
bảo vệ năm 2013)
Các đề tài trên đều khai thác văn xuôi của Bùi Ngọc Tấn trên các phƣơng
diện nghệ thuật. Các tác giả đã có những nhận xét xác đáng trong đề tài. Tuy nhiên
cả hai đề tài đều lấy phạm vi là văn xuôi Bùi Ngọc Tấn. Chƣa có đề tài nào đi sâu
vào tìm hiểu truyện ngắn Bùi Ngọc Tấn một cách hệ thống và toàn diện.
Dù vậy, đây là tƣ liệu quý báu giúp ngƣời viết có cơ sở tìm hiểu truyện ngắn
Bùi Ngọc Tấn.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
a. Đối tượng
Luận văn lấy đối tƣợng nghiên cứu chính là các truyện ngắn của Bùi Ngọc
Tấn, tập trung vào nghệ thuật tự sự.

b. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn chủ yếu đi sâu nghiên cứu vấn đề nghệ thuật tự sự của truyện ngắn
Bùi Ngọc Tấn qua 20 truyện ngắn đƣợc tuyển tập trong hai cuốn Truyện ngắn Bùi
Ngọc Tấn (NXB Hải Phòng, 2003) và Người chăn kiến (NXN Hội Nhà văn và Nhã
Nam, 2010)
4. Tƣ liệu và phƣơng pháp nghiên cứu
4.1 Tư liệu
Về mặt tƣ liệu, ngƣời viết cố gắng tìm hiểu đề tài qua sách, báo, nguồn
internet.

8


4.2 Phương pháp nghiên cứu
Luận văn dự kiến sử dụng một số phƣơng pháp sau:
- Phƣơng pháp phân tích
- Phƣơng pháp tổng hợp
- Phƣơng pháp so sánh
- Phƣơng pháp thống kê
- Phƣơng pháp loại hình
5. Dự kiến đóng góp của luận văn
Ngƣời viết mong muốn luận văn sẽ đóng góp một cách tƣơng đối đầy đủ và hệ
thống về nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Bùi Ngọc Tấn trên các khía cạnh:
ngƣời kể chuyện, điểm nhìn trần thuật, kết cấu và nhân vật, ngôn ngữ và giọng điệu.
Từ đó, góp phần vào việc nhìn nhận những đóng góp của truyện ngắn Bùi Ngọc Tấn
vào truyện ngắn Việt Nam hiện đại nói riêng, văn xuôi nói chung.
6. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, Phụ lục, phần Nội dung
luận văn của tôi gồm 3 chƣơng:
Chƣơng 1: Ngƣời kể chuyện và điểm nhìn trần thuật trong truyện ngắn Bùi

Ngọc Tấn
Chƣơng 2: Kết cấu và nhân vật trong truyện ngắn Bùi Ngọc Tấn
Chƣơng 3: Ngôn ngữ và giọng điệu trong truyện ngắn Bùi Ngọc Tấn

9


Chƣơng 1
NGƢỜI KỂ CHUYỆN VÀ ĐIỂM NHÌN TRẦN THUẬT TRONG TRUYỆN
NGẮN BÙI NGỌC TẤN
1.1 Khái niệm về ngƣời kể chuyện và điểm nhìn
1.1.1 Khái niệm về người kể chuyện
Tự sự là một trong ba phƣơng thức cơ bản tái hiện đời sống, bên cạnh trữ tình
và kịch. Tự sự học đƣợc định hình từ những năm 60-70 của thế kỷ XX ở Pháp, là
một phân nhánh chủ yếu của thi pháp học hiện đại, nghiên cứu cấu trúc của văn bản
trần thuật.
Theo Từ điển thuật ngữ văn học, Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi
(đồng chủ biên) thuật ngữ “narrator” đƣợc dịch là ngƣời trần thuật hoặc ngƣời kể
chuyện. Các tác giả cũng đƣa ra khái niệm về ngƣời trần thuật “Ngƣời trần thuật là
một nhân vật hƣ cấu hoặc có thật, mà văn bản tự sự là do hành vi ngôn ngữ của anh
ta tạo thành. Trong khi kể miệng, ngƣời trần thuật là một ngƣời sống sinh động.
Trong trần thuật viết phi văn học (nhƣ báo chí, lịch sử), ngƣời trần thuật nói chung
đồng nhất với tác giả. Nhƣng trong tác phẩm trần thuật mang tính chất văn học thì
ngƣời trần thuật lại khác, nó bị trừu tƣợng hóa đi, trở thành một nhân vật ẩn hoặc
hiện trong tác phẩm tự sự” [40, tr. 221].
Trƣớc đây, khái niệm ngƣời kể chuyện thƣờng bị bỏ qua, ngƣời đọc chỉ chú ý
vào nhân vật, các sự kiện, biến cố, các biện pháp tu từ,….Về sau, khi ngành nghiên
cứu tự sự học, trần thuật học phát triển mạnh thì thuật ngữ này mới thực sự đƣợc
chú ý. Ngƣời ta không còn quá đề cao cách xây dựng nhân vật, tạo ra các kịch tính,
biến cố lớn mà quan tâm nhiều đến cách kể chuyện của tác phẩm.

Quan niệm đồng nhất ngƣời kể chuyện và tác giả dần dần đƣợc xóa bỏ. Ngƣời
kể chuyện chính là hình tƣợng do nhà văn sáng tạo nên, mang nhiệm vụ trần thuật
và chỉ im lặng khi nhân vật lên tiếng. Ngƣời kể chuyện có thể mang tƣ tƣởng của
nhà văn, thể hiện cách nhìn nhận, đánh giá của ngƣời nghệ sỹ về thế giới khách
quan nhƣng tuyệt đối không bao giờ đƣợc đồng nhất hai khái niệm này. “Ngƣời kể
chuyện là hình tƣợng ƣớc lệ về ngƣời trần thuật trong tác phẩm văn học, chỉ xuất
10


hiện khi nào câu chuyện đƣợc kể bởi một nhân vật cụ thể trong tác phẩm. Đó có thể
là hình tƣợng của chính tác giả (ví dụ “tôi” trong Đôi mắt), dĩ nhiên không nên đồng
nhất hoàn toàn với tác giả ngoài đời, có thể là một nhân vật đặc biệt do tác giả sáng
tạo ra (ví dụ: ngƣời điên trong Nhật ký người điên của Lỗ Tấn), có thể là một ngƣời
biết một câu chuyện nào đó. Một tác phẩm có thể có một hoặc nhiều ngƣời kể
chuyện” [40, tr. 221].
Vai trò của ngƣời kể chuyện trong tác phẩm rất lớn, giúp đem lại cho tác phẩm
một cái nhìn và một sự đánh giá bổ sung về mặt tâm lý, nghề nghiệp hay lập trƣờng
xã hội cho cái nhìn tác giả, làm cho sự trình bày, tái tạo con ngƣời và đời sống trong
tác phẩm thêm phong phú, sáng tạo.
Sách Lý luận văn học nêu “Thông thƣờng, tác phẩm tự sự nào cũng xuất hiện
ngƣời kể chuyện với tƣ cách là một nhân vật trung gian có nhiệm vụ kể lại đầu đuôi
diễn biến của toàn bộ câu chuyện. Ngƣời kể chuyện có mặt ở mọi thời điểm, mọi
nơi chốn và luôn luôn ẩn hiện trên từng trang sách.” [15, tr. 253].
Theo Genette, dựa vào việc tồn tại của ngƣời kể chuyện đƣợc báo hiệu nhƣ thế
nào trong văn bản, ngƣời ta phân biệt ngƣời kể chuyện giấu mặt và ngƣời kể chuyện
lộ diện. Một ngƣời kể chuyện lộ diện (overt narrator) là anh/cô ta tự nhắc đến mình
ở ngôi thứ nhất (“Tôi”, “Chúng tôi”); ngƣời trực tiếp hoặc gián tiếp hƣớng đến
ngƣời nghe; một ngƣời sẵn sàng biểu hiện thái độ thân thiện với ngƣời đọc bất cứ
lúc nào cần đến. Ngƣời kể chuyện giấu mặt (covert narrator), ngƣợc lại, là một
ngƣời không bày tỏ những đặc điểm công khai nhƣ đã nêu trên. Cụ thể là anh ta/cô

ta là ngƣời không hƣớng đến chính mình hay ngƣời nhận hoặc ngƣời nghe; một
ngƣời có giọng điệu và phong cách ít nhiều trung tính (không có đặc tính rõ rệt);
một ngƣời mơ hồ về giới tính; một ngƣời thể hiện không “có ý muốn quan tâm” đến
bất cứ thứ gì; một ngƣời không sẵn sàng bộc lộ dù rất cần thiết.
Sự phân biệt dựa trên “quan hệ với câu chuyện” của ngƣời kể chuyện có ngƣời
kể chuyện ngôi thứ nhất và ngƣời kể chuyện ngôi thứ ba. Trong trần thuật ngôi thứ
nhất, câu chuyện đƣợc kể bởi một ngƣời kể chuyện hiện diện nhƣ một nhân vật
trong truyện. Một trƣờng hợp đặc biệt của trần thuật ngôi thứ nhất là tự truyện,

11


trong đó ngƣời kể chuyện là vai chính trong câu chuyện. Trong trần thuật ngôi thứ
ba, câu chuyện đƣợc kể bởi ngƣời thứ ba, không phải là nhân vật trong truyện.
Nhìn chung, các phƣơng thức tự sự quy về: trần thuật theo ngôi thứ nhất và
trần thuật theo ngôi thứ ba. Theo lý thuyết tự sự của Mieke Bal, sự phân biệt giữa
ngƣời trần thuật ngôi thứ nhất và ngôi thứ ba thực chất là không tồn tại, vì xét từ
điểm nhìn ngữ pháp, chủ thể này luôn là một ngôi thứ nhất. Nhiều lý thuyết khác
nhau về ngƣời kể chuyện tồn tại song đều thống nhất nhau ở những điểm mấu chốt.
Ngƣời kể chuyện là vấn đề trung tâm của tự sự học. Bên cạnh đó, điểm nhìn là một
trong những vấn đề cơ bản, then chốt của trần thuật.
1.1.2 Điểm nhìn trần thuật
Điểm nhìn đƣợc hiểu là vị trí, chỗ đứng của ngƣời kể chuyện để xem xét, bình
luận, miêu tả các sự việc, hiện tƣợng trong tác phẩm. Điểm nhìn có vai trò quan
trọng trong việc dẫn dắt ngƣời đọc đi vào thế giới nghệ thuật mà nhà văn đã xây
dựng lên. “Không thể có nghệ thuật nếu không có điểm nhìn, bởi nó thể hiện sự chú
ý, quan tâm và đặc điểm của chủ thể trong việc tạo ra cái nhìn nghệ thuật. Giá trị
của sáng tạo nghệ thuật một phần không nhỏ là do đem lại cho ngƣời thƣởng thức
một cái nhìn mới đối với cuộc sống. Sự đổi thay của nghệ thuật bắt đầu từ đổi thay
điểm nhìn” [40, tr. 113].

Trong bài Phối cảnh và điểm nhìn trong văn bản nghệ thuật, tác giả Đào Duy
Hiệp đã trích dẫn trong Từ điển bách khoa về các khoa học và ngôn ngữ của hai tác
giả Oswald Ducrot và Tzvetan Todorov “Thuật ngữ cách nhìn hay điểm nhìn dựa
vào mối quan hệ giữa ngƣời kể chuyện và thế giới đƣợc thể hiện. Truyện kể đƣợc
tạo nên từ nơi bắt đầu điểm nhìn” [24, tr. 106]. Tác giả cũng sơ đồ hóa ba kiểu điểm
nhìn của Genette. Trong đó, focalisation zéro là điểm nhìn biết tuốt, focalisatinon
interne là điểm nhìn đƣợc đặt vào bên trong nhân vật (interne fixe : cố định, interne
variable : biến đổi, interne multiple : đa bội) và focalisation externe là điểm nhìn
bên ngoài.
Ngƣời kể chuyện toàn tri ứng với điểm nhìn zero. Ngƣời kể chuyện mang sức
mạnh toàn năng, thông suốt, tƣờng tận hết mọi chuyện không chỉ ở hiện tại mà còn
12


có khả năng tái hiện lại quá khứ và dự báo trƣớc tƣơng lai. Với vai trò nhƣ thƣợng
đế, Chúa trời, ngƣời kể chuyện biết hết mọi chuyện nhân sinh, vũ trụ. Ngay cả đời
sống nội tâm phức tạp, thầm kín của con ngƣời cũng đƣợc anh ta thâu tóm và kể lại
một cách trung thực. Độ bao quát hiện thực của ngƣời kể chuyện bao giờ cũng lớn
hơn hết thảy mọi nhân vật. Con mắt của ngƣời trần thuật có mặt ở khắp mọi nơi,
mọi lúc, xoáy sâu vào từng chi tiết nhỏ của đời sống để kể lại cho độc giả. Nhờ vậy
mà mọi hiện thực đều đƣợc phơi bày một cách rõ nét. Điều này dƣờng nhƣ đang trở
thành một hạn chế lớn của kiểu ngƣời kể chuyện toàn tri và điểm nhìn zero. Ngày
nay, dạng ngƣời kể chuyện này không đƣợc nhiều nhà văn sử dụng vì nó tạo ra tâm
lý nhàm chán cho độc giả. Con ngƣời hiện đại luôn đƣợc xem là một thực tế phức
tạp và khó hiểu. Bởi vậy, mọi câu chuyện đƣợc viết ra đều phải tạo cho ngƣời đọc
hứng thú khám phá, một thái độ biết hoài nghi, phủ nhận. Nhƣng kiểu ngƣời kể
chuyện toàn tri với điểm nhìn zero lại không thể thực hiện đƣợc điều đó khi mọi chỗ
trống đều đƣợc lấp đầy, mọi hiện thực đều đƣợc phơi bày khiến độc giả rơi vào
cảm giác tẻ nhạt, thiếu hứng thú, nó tạo ra một lớp độc giả lƣời biếng.
Ngƣời kể chuyện bên trong gắn với điểm nhìn bên trong, điểm nhìn của nhân

vật, nội tiêu điểm. Ở đây, nhà văn thôi không nói nữa mà xây dựng lên kiểu nhân
vật tự nhìn, nhân vật tự nói và tự chiêm nghiệm, tự đánh giá. Bởi vậy, nó mang tính
chân thực và gần gũi hơn. Tầm bao quát hiện thực, sự hiểu biết của ngƣời kể chuyện
tƣơng ứng với nhân vật trong truyện.
Ngƣời kể chuyện bên ngoài thƣờng gắn với điểm nhìn bên ngoài, ngoại tiêu
điểm. Trong những văn bản tự sự sử dụng kiểu ngƣời kể chuyện này, độc giả dƣờng
nhƣ không hề cảm nhận đƣợc sự tồn tại của kiểu ngƣời kể chuyện. Bởi vì khi đó
ngƣời kể chuyện giấu mình, đứng ngoại câu chuyện để miêu tả, trần thuật lại một
cách khách quan và trung thực. Đặc biệt nội tâm của nhân vật không đƣợc đi sâu
khám phá mà chỉ chủ yếu là ghi lại lời nói và hành động của nhân vật.
Trong tác phẩm tự sự, chọn cách xuất phát từ điểm nhìn nào để ngƣời kể
chuyện kể lại chuyện cũng chính là dụng ý nghệ thuật của nhà văn. Có những tác
phẩm từ đầu đến cuối đều nhất mực tuân thủ theo một kiểu ngƣời kể chuyện, một

13


điểm nhìn duy nhất. Tuy nhiên, trong nhiều trƣờng hợp, đó lại là sự phối ghép của
nhiều điểm nhìn khác nhau mà ngƣời ta gọi đó là lối kể chuyện phân mảnh. Ở lối kể
chuyện này xuất hiện nhiều kiểu ngƣời kể chuyện trong cùng một tự sự, kể lại sự
việc bằng nhiều điểm nhìn khác nhau. Có thể mở đầu, ngƣời kể chuyện giấu mình
để kể, sau đó, chức năng trần thuật có thể đƣợc chuyển cho một hay nhiều nhân vật,
từ điểm nhìn chúa trời chuyển sang điểm nhìn bên trong,...Với lối viết phân mảnh
nhƣ vậy, sẽ tạo nên cái nhìn đa dạng, đa chiều cho tác phẩm, và đặc biệt là nó
không gây cảm giác nhàm chán cho độc giả mà luôn luôn là sự hào hứng muốn
khám phá tiếp câu chuyện.
Tìm hiểu truyện ngắn của Bùi Ngọc Tấn trên phƣơng diện ngƣời kể chuyện và
điểm nhìn trần thuật chúng tôi nghiên cứu các khía cạnh đã trình bày ở trên. Ngƣời
viết có thống kê sau : 4/20 truyện ngắn đƣợc trần thuật theo ngôi thứ nhất, 12/20
truyện ngắn đƣợc trần thuật theo ngôi thứ ba, 4 truyện ngắn đan xen hai dạng thức

trần thuật. Điều này cho thấy nỗ lực đổi mới ở thể loại truyện ngắn của tác giả trên
phƣơng diện trần thuật. Hơn nữa, việc lựa chọn ngôi trần thuật và điểm nhìn trần
thuật giúp nhà văn chuyển tải những thông điệp tới độc giả.
1.2 Ngƣời kể chuyện tƣờng minh
1.2.1 Người kể chuyện cái tôi – dẫn chuyện, chứng nhân
Theo thống kê của ngƣời viết, 8/20 truyện ngắn xuất hiện "tôi". Trong đó, 7/8
truyện ngắn, ngƣời kể chuyện xƣng tôi đóng vai trò dẫn truyện, chứng nhân. 1/8
truyện ngắn, ngƣời kể chuyện xƣng tôi đóng vai trò nhân vật chính. Điều này cho
thấy việc sử dụng cái tôi – chứng nhân chiếm ƣu thế nhiều hơn so với cái tôi - nhân
vật chính.
Trong văn bản, ngƣời kể chuyện lộ diện, hoàn toàn xác định, kể lại câu chuyện
có thể của chính mình, có thể của nhân vật khác mình đƣợc nghe hay trực tiếp
chứng kiến. Truyện ngắn lúc này đƣợc trần thuật theo ngôi thứ nhất. Lý thuyết trần
thuật của Genette đã chỉ ra trần thuật ngôi thứ nhất đƣợc kể bởi một ngƣời kể
chuyện hiện diện trong tác phẩm với tƣ cách một nhân vật. Đó là một câu chuyện về
những sự kiện mà bản thân anh/cô ta tự trải nghiệm. Một câu chuyện về trải nghiệm

14


cá nhân. Nhân vật xƣng tôi vừa là nhân vật, vừa là ngƣời kể chuyện, kể lại những
trải nghiệm của chính mình và của những nhân vật khác. Nếu ngƣời kể chuyện là
nhân vật chính thì anh/cô ta là một cái tôi – vai chính, nếu anh/cô ta là vai phụ thì
anh/cô ta là cái tôi - chứng nhân.
Trong Những thành tựu của truyện ngắn sau 1975, Bích Thu đã cho rằng một
trong những thành tựu của truyện ngắn sau 1975 là nghệ thuật trần thuật với sự xuất
hiện của “tôi”. Tác giả bài bài viết nhận định “Các nhà văn rất chú trọng đến các
khía cạnh truyền đạt giọng điệu cái tôi của mình trong tác phẩm khiến hình thức kể
chuyện ở ngôi thứ nhất xuất hiện ngày càng nhiều. Kể ở ngôi thứ nhất, nhân vật
ngƣời kể chuyện xƣng tôi kể chuyện về bản thân hay về ngƣời khác nhƣng không lộ

rõ là tác giả. Nhân vật ngƣời kể chuyện xƣng tôi giữ vai trò quyết định đối với toàn
bộ cấu trúc văn bản. “Tôi” là nhân vật xuyên suốt còn những nhân vật khác chỉ
đƣợc miêu tả từ điểm nhìn của ngƣời kể chuyện.” [58].
Trong phần thứ nhất của tiểu thuyết Biển và chim bói cá, Bùi Ngọc Tấn lựa
chọn cái "tôi" – vai chính, một câu chuyện về trải nghiệm cá nhân của cậu bé tên
Phong lần đầu đƣợc đi biển. Lối trần thuật từ ngôi thứ nhất với điểm nhìn bên trong
đƣợc sử dụng duy nhất với nhân vật tôi trong suốt 15 lần xuất hiện. Với truyện
ngắn, cái tôi đóng vai trò dẫn chuyện, chứng nhân chiếm ƣu thế hơn. 7/8 truyện
ngắn ngƣời xƣng tôi đóng vai trò này. Đó là các truyện Cún, Người mua nhà của bố
mẹ tôi, Lạc đội hình, Làng có 99 cái ao, cây đa 99 cành và ông đại tá về hưu, Dị
bản một truyện đã in, Một ngày dài đằng đẵng, Trung sĩ.
Nhân vật "tôi" trong Cún phảng phất nhƣ nhân vật ông giáo trong truyện ngắn
Lão Hạc của Nam Cao. "Tôi" chứng kiến toàn bộ cuộc đời Cún và câu chuyện của
anh Trung hàng xóm. Ngƣời kể chuyện đóng vai trò dẫn dắt chuyện. Nhân vật tôi
mở đầu câu chuyện về Cún một cách trực tiếp "Cún là hàng xóm của tôi. Tôi chỉ
sống bên cạnh Cún có một năm thôi. Đó cũng là một năm duy nhất Cún có mặt trên
cuộc đời này, là cả cuộc đời của Cún. Giờ đây Cún đã biến mất, không để lại một
dấu vết gì." Liền sau đó là nguồn gốc, quê quán, lý do Cún đƣợc đƣa đến ở với anh
Trung. Thỉnh thoảng, nhân vật xƣng tôi có kể về chuyện của mình "Tôi, một anh

15


chàng viết báo tỉnh lẻ, có một số bài báo đƣợc mọi ngƣời để ý đến. Nhà tôi khách
khứa nhiều" nhƣng chỉ phục vụ cho việc kể những câu chuyện có liên quan đến anh
Trung và Cún. Ngƣời kể chuyện không hề giấu mình đi mà đƣợc xác định rõ, có tên
tuổi, nghề nghiệp, nơi ở. Quá khứ, hiện tại của nhân vật chính đƣợc tôi kể lại chi
tiết. Các sự việc xảy đến với anh Trung, với Cún, "tôi" đều chứng kiến. "Tôi" có
tham gia vào diễn biến cốt truyện nhƣng không nhiều, chỉ đóng vai trò bổ sung nhƣ
đoạn về ông khách, đoạn ăn ngô bung.

Người mua nhà của bố mẹ tôi là câu chuyện về nhân vật "cô Thoan" nhƣng lại
đƣợc bắt đầu bằng suy nghĩ của nhân vật "tôi" về quyết định hệ trọng : bán ngôi
nhà, bán mảnh vƣờn của bố mẹ để lại. Điểm nhìn bên trong xoáy sâu vào nhân vật
"tôi". Những kí ức về tuổi thơ, về năm tháng đã qua ùa về. Với nhân vật tôi, căn
nhà, mảnh vƣờn ấy còn là chốn cƣ ngụ cuối cùng, là quê hƣơng, là tất cả. Đây là nơi
"tôi" tìm về khi muốn quên đi thực tại. Phải bán đi ngôi nhà và mảnh vƣờn là sự lựa
chọn bất đắc dĩ. Chính những dòng suy tƣ của nhân vật tôi là duyên cớ dẫn đến câu
chuyện về cô Thoan. Các sự kiện đƣợc tái hiện qua lời kể trực tiếp của nhân vật
xƣng tôi hiện diện trong tác phẩm. Nhân vật tôi ở đây có mối quan hệ "họ hàng" với
nhân vật chính. Tôi đã chứng kiến quá trình đổi đời của cô Thoan. Tôi kể lại câu
chuyện về cuộc đời cô Thoan, từ lúc cô Thoan còn nghèo khó đến khi cô có cơ số là "lâu
la" trong nhà. Nhân vật tôi gợi mở, quan sát, nhìn nhận, đánh giá về các sự kiện. Ngƣời
kể chuyện đã khéo léo dẫn dắt câu chuyện để làm nổi bật nhân vật chính.
Trong truyện ngắn Lạc đội hình, nhân vật tôi có tham gia vào diễn biến câu
chuyện ở mối quan hệ “đồng hƣơng” với nhân vật chính. Đẩu đƣợc miêu tả tỉ mỉ,
chi tiết về ngoại hình “ngƣời dây”, về tính tình “lƣơng thiện”, về cuộc đời nghèo đói
trớ trêu, về sự lạc đội hình. Tuy vậy, nhân vật tôi chỉ kể lại câu chuyện một cách
khách quan, không đi sâu vào nội tâm nhân vật. Đẩu suy nghĩ thế nào và dự tính ra
sao, nhân vật tôi không tiết lộ. Ngay cả cái nghèo của anh cũng đƣợc trần thuật
khách quan thông qua cuộc trò chuyện. Ngƣời kể chuyện xƣng tôi dẫn dắt mạch
truyện, hƣớng độc giả theo từng sự việc. Nhân vật tôi am hiểu tƣờng tận tính cách

16


lƣơng thiện của “đồng hƣơng”, những lý do khiến Đẩu lạc đội hình. Tôi hoàn toàn
có danh xƣng, có chỗ đứng trong tác phẩm.
Trong Làng có 99 cái ao, cây da 99 cành và ông đại tá về hưu, nhân vật tôi kể
về ông đại tá về hƣu Nguyễn Trung Chiến. Sau khi khái quát về cái làng của mình,
nhân vật tôi đã trình bày rõ nhân vật mà mình sắp kể “Câu chuyện tôi đang kể đây

là kể về ông đại tá về hƣu Nguyễn Trung Chiến. Nó hoàn toàn không phải nhƣ kiểu
chuyện Tướng về hưu của một nhà văn nổi tiếng đã viết, cũng không nhƣ câu ca dao
nào đó bôi bác Đầu đƣờng đại tá bơm xe…” [67, tr. 133]. Ngƣời kể chuyện xƣng tôi
cũng thẳng thắn bày tỏ quan điểm của mình về nhân vật “Ông Chiến về làng đã thay
đổi cả bộ mặt làng tôi. Đúng là một ngƣời có tầm nhìn, có đầu óc, hay nhƣ anh
chàng Quy Ƣớc tác giả vở chèo Nông thôn tươi sáng đã nói: Hơn nhau là ở cái
đầu…”. Nhƣ vậy, nhân vật tôi chỉ đóng vai trò là ngƣời dẫn truyện trong tác phẩm
này, chứ không tham gia vào diễn biến truyện. Ngƣời kể chuyện có thể là một ngƣời
dân trong làng, cũng có thể là một sáng tạo của nhà văn. Tuy nhiên, nhân vật xƣng
tôi chỉ xuất hiện trực tiếp duy nhất ở đoạn mở đầu, sau đó trao lại vai trò trần thuật
cho nhân vật chính. Truyện ngắn trở về ngôi kể thứ ba.
Trong Dị bản một truyện đã in, nhân vật tôi mở đầu bằng việc nhắc lại một
truyện đã đƣợc in thành sách. Từ đó, ngƣời kể chuyện trần thuật các sự việc theo ý
của mình, tạo ra một câu chuyện khác. Nhân vật tôi tiếp tục đóng vai trò của ngƣời
gợi dẫn, không tham gia vào câu chuyện. “Chuyện của họ đã có nhà văn viết thành
sách. Rất cảm động. Tôi còn nhớ đoạn chị vợ là nghệ sĩ vĩ cầm bỗng thấy anh hoạ
sĩ, ngƣời yêu của chị, ngƣời chị đƣợc tin đã hy sinh ở chiến trƣờng trở về” [67 ,
tr.159]. “Tôi” chỉ xuất hiện duy nhất một lần và đứng ở ngoài kể lại câu chuyện tình
giữa ba ngƣời. Bằng tình yêu, họ đã âm thầm sống cho nhau đến cuối cuộc đời, cố
gắng hàn gắn những vết thƣơng do chiến tranh gây ra. Khi kết thúc truyện Một ngày
dài đằng đẵng, ngƣời kể chuyện mới trực tiếp xƣng tôi và cho biết mình đóng vai
trò là ngƣời nghe chuyện. “Câu chuyện trên tôi đƣợc nghe Cƣờng kể khi tôi cùng tù
với anh ở trại P.L năm 1973.” Còn trƣớc đó, ngƣời kể chuyện nhập mình vào nhân
vật Cƣờng kể lại chuyến chuyển trại. Ngƣời kể chuyện xƣng tôi trong truyện ngắn

17


Trung sĩ lại dẫn dắt câu chuyện thông qua cuộc gặp gỡ với bạn xế Hiếu. Thông qua
cuộc trò chuyện, những đổi thay của nhân vật trung sĩ đƣợc bộc lộ. Sự nuối tiếc

phần tốt đẹp đã mất đi trong con ngƣời hiện đại đƣợc nhà văn trăn trở.
Chọn lựa cách trần thuật theo ngôi thứ nhất với cái tôi giữ vai trò dẫn chuyện,
chứng nhân, Bùi Ngọc Tấn thể hiện dụng ý riêng. Câu chuyện trở nên khách quan
hơn, chân thực hơn, giàu sức thuyết phục hơn. Hơn nữa, trong vai trò ngƣời dẫn
chuyện xƣng tôi, ngƣời kể chuyện dễ dàng dẫn dắt độc giả vào câu chuyện, vào thế
giới nhân vật của mình. Ngƣời kể chuyện đƣa ra những quan điểm riêng, đánh giá,
nhận xét. Từ đó thuyết phục ngƣời đọc theo quan điểm của mình. Các sự kiện trở
nên đa dạng, sinh động hơn và đƣợc soi chiếu trên nhiều góc độ.
1.2.2 Người kể chuyện cái tôi – nhân vật chính
Trong 8 truyện ngắn xuất hiện ngƣời kể chuyện xƣng tôi, chỉ có duy nhất 1
truyện ngắn ngƣời kể chuyện xƣng tôi đóng vai trò nhân vật chính. Tôi vừa là ngƣời
dẫn truyện, vừa tham gia trực tiếp vào diễn biến truyện. Đó là truyện Ngưu tất, hồng
hoa, nga truật.
Truyện có dung lƣợng ngắn gọn (gần 4 trang), xoay quanh câu chuyện giữa
tôi, Bình và anh hộ tịch. Nhân vật tôi là một trong ba nhân vật chính trong chuyện.
Các sự việc diễn ra theo sự trần thuật của nhân vật tôi. Đứng từ góc nhìn của tôi,
chắc chắn giữa Bình và anh hộ tịch có điều gì đó quan trọng. Và tôi mặc sức suy
diễn, thậm chí nghĩ rằng ngƣời bạn thân của mình là chỉ điểm. Diễn biến cốt truyện
theo điểm nhìn của nhân vật tôi, gia tăng tình tiết truyện. Nhân vật tôi suy xét, đánh
giá tình hình qua từng bƣớc. Cốt truyện lên đến đỉnh điểm khi ngƣời dẫn truyện
"nhân vật tôi" với những dòng nội tâm sâu sắc "Trời ơi. Chẳng lẽ Bình lại làm chỉ
điểm. Đó mới thực sự là điều kinh khủng nhất. Không. Không thể. Sao lại không
thể. Chuyện gì kia ? Chuyện gì ngay trƣớc mắt kia ???" [67, tr. 54]. Chỉ đến khi nút
thắt đƣợc mở, nhân vật tôi mới thở phào. Hoá ra, đó chỉ là một sự hiểu lầm.
Khi ngƣời kể chuyện xƣng tôi đóng vai trò nhân vật chính, điểm nhìn bị thu
hẹp lại. Thế giới nội tâm của nhân vật chính đƣợc soi chiếu từng ngõ ngách. Ngƣời
kể chuyện để độc giả biết nhân vật đang suy nghĩ gì, quá khứ, hiện tại, dự tính

18



tƣơng lai ra sao? Ngay cả những suy nghĩ về việc đời, về những nhân vật khác cũng
đƣợc bộc lộ. Nhìn chung, độc giả sẽ thấu hiểu tƣờng tận mọi sự việc có liên quan
đến nhân vật chính. Tuy vậy, nhân vật tôi sẽ không thể biết hay đoán biết đƣợc các
nhân vật khác nghĩ gì. Điểm nhìn bị giới hạn. Ngƣời kể chuyện xƣng tôi trong
truyện ngắn với những đoạn độc thoại nội tâm dày đặc nhƣng không thể biết điều gì
đang diễn ra giữa Bình và anh hộ tịch. Vì vậy dẫn đến chuyện nhân vật tôi hiểu lầm.
Hiểu lầm đến mức trầm trọng. Nhân vật tôi suy xét từng lời nói, hành động của anh
hộ tịch, tạo nên một cuộc chiến ngầm trong nội tâm.
Với những ƣu điểm và hạn chế của dạng thức kể chuyện này, Bùi Ngọc Tấn
chỉ chọn lựa sử dụng trên một truyện ngắn trong số các tác phẩm của mình. Có thể
thấy rõ thái độ của tác giả về mối thân tình với Bình. Bình là ngƣời bạn tri âm tri kỉ.
Bên cạnh đó, nhà văn cũng đề cập đến hiện trạng xã hội bấy giờ, thời bao cấp với
những khó khăn liên miên. Câu chuyện về sổ gạo và các loại tem phiếu. Truyện phá
thai đƣợc diễn tả bằng một cái nhìn hài hƣớc.
Nhìn chung, việc trần thuật từ ngôi thứ nhất, ngƣời kể chuyện xƣng tôi đứng
từ điểm nhìn bên trong hoặc bên ngoài kể lại câu chuyện. “Tôi” lúc đóng vai trònhân vật chính, lúc đóng vai trò-nhân vật phụ, chứng nhân. Ngƣời trần thuật ít lộ
diện, có chuyện chỉ đóng vai trò viện dẫn.
1.2.3 Người kể chuyện cái tôi - nghe chuyện
Không chỉ đóng vai trò dẫn chuyện, vai trò nhân vật chính, cái tôi trong truyện
ngắn Bùi Ngọc Tấn còn có một dạng thức đặc biệt khác, ngƣời kể chuyện nhƣng lại
đóng vai trò là ngƣời nghe chuyện. Truyện Trung sĩ, nhân vật tôi đóng một vai trò
nhƣ vậy. “Tôi” kể lại câu chuyện gặp gỡ một bạn “xế” tên Hiếu và “tôi” nghe Hiếu
kể về việc gặp lại một ngƣời bạn của cả hai ngƣời khi xƣa. Nhờ Hiếu, tôi nhớ đƣợc
ngƣời đó là ai. Ngƣời kể chuyện xen lẫn một vài đoạn suy tƣ về cuộc đời. Xã hội
hiện tại đã khiến nhiều điều đổi thay. Những con ngƣời quen biết trƣớc kia giờ đây
gặp lại nhau trong thân phận khác, mối quan hệ khác. Ngƣời kể chuyện không hề
lên án, mà chỉ cảm thấy “đau lòng” về sự đổi thay ấy. Câu chuyện về nhân vật có
biệt danh “trung sĩ” đƣợc kể lại qua lời kể của Hiếu. “Tôi” lúc này đóng vai trò ngồi


19


nghe câu chuyện cùng độc giả. Ngƣời kể chuyện Hiếu dặn dò ngƣời kể chuyện,
nghe chuyện “tôi” có trách nhiệm kể lại cho độc giả biết câu chuyện này.
Truyện ngắn Một ngày dài đằng đẵng đƣợc trần thuật theo ngôi thứ ba. Phải
đến khi kết thúc truyện, nhân vật tôi mới xuất hiện và lý giải nguồn gốc câu chuyện.
Tôi đóng vai trò là ngƣời nghe chuyện, kể lại câu chuyện mình đƣợc nghe cho độc giả.
Lúc này, mặc dù ngƣời kể chuyện xƣng tôi nhƣng thực ra nó là cái tôi nghe chuyện.
Đây là điểm độc đáo của truyện ngắn Bùi Ngọc Tấn. Việc hoán đổi vị trí nhƣ
vậy tạo nên sự bất ngờ riêng cho câu chuyện. Các sự kiện hiện lên khách quan hơn.
Đồng thời, độc giả có thêm sự tin tƣởng vì ngƣời nghe chuyện đóng vai trò chỉ kể
lại câu chuyện mà mình đã đƣợc nghe nhƣ một nhiệm vụ cần thực hiện. Họ đƣợc
nhân vật chính trao phó sứ mệnh “Sếp hãy viết về Trung sĩ của tôi. Và phải viết
đúng nhƣ thế.” [67, tr. 222]. Bên cạnh nghĩa vụ kể lại câu chuyện đƣợc nghe theo
lời dặn dò, ngƣời kể chuyện đóng vai trò ngƣời nghe chuyện còn lồng vào những
suy nghĩ riêng của mình. Nhờ đó, bộc lộ thái độ của nhà văn với sự việc. Trong hai
truyện ngắn, nhà văn có hai thái độ khác nhau. Ở truyện thứ nhất, nhà văn thấy nuối
tiếc những điều tốt đẹp trong con ngƣời đã mất mát theo sự đổi thay của thời cuộc
và ƣớc gì điều mình nghe không phải là sự thật. Ở truyện thứ hai, lồng vào một câu
chuyện vui trên đƣờng chuyển trại là những lo lắng có thật của ngƣời tù về số phận,
về tƣơng lai của mình. Đó còn là nỗi ám ảnh về thời gian của những ngƣời tù. Đây
cũng là ám ảnh của chính tác giả về những ngày tháng khủng khiếp đó. Ở một nơi
mà mọi thứ đều ngƣng lại, duy chỉ có suy nghĩ con ngƣời. Nó không chết đi mà vón
cục lại, mòn ra, gỉ đi. Tâm hồn con ngƣời chai cứng dần. Có những vết thƣơng có
thể chữa lành theo thời gian nhƣng cũng có những vết thƣơng không thể nào nguôi
ngoai trong lòng ngƣời.
1.3 Ngƣời kể chuyện hàm ẩn
1.3.1 Người kể chuyện với điểm nhìn toàn tri
Ngƣời kể chuyện hàm ẩn có mặt ở khắp nơi, ở mọi thời điểm, thông tƣờng

tất cả mọi chuyện. Họ tách mình ra khỏi nhân vật, giữ khoảng cách với nhân vật,
đứng cao hơn nhân vật. Ngƣời kể chuyện hàm ẩn không chỉ dẫn dắt câu chuyện, kể

20


lại câu chuyện mà còn định hƣớng ngƣời đọc theo quan điểm của mình. Chính
ngƣời kể chuyện hàm ẩn thay thế tác giả đƣa ra những nhận định, bình luận riêng
của mình. Họ thông suốt tất cả.
Nhà nhân đạo chủ nghĩa lớn, nhà hiện thực xuất sắc Nam Cao sử dụng lối
trần thuật này trong nhiều truyện ngắn. Ngƣời kể chuyện hàm ẩn kể chuyện Một
bữa no, câu chuyện về một bà cụ vì đói đã phải đến chỗ đứa cháu đi ở để xin một
bữa cơm. Câu chuyện xót xa ấy đƣợc kể lại bằng một giọng khách quan dửng dƣng
nhƣng đằng sau đó lại chất chứa yêu thƣơng. Ngƣời kể chuyện đứng cao hơn nhân
vật, thông suốt diễn biến câu chuyện, không hề bình luận hay chen ngang. Quá khứ
của bà lão, hiện tại của bà lão và bi kịch cái đói hành hạ bà. Bà đã phải đi xin ăn rồi
nhịn đói đến mấy hôm. Không còn cách nào khác, bà nhớ ra mình còn đứa cháu
đang đi ở, bà sẽ đến đó xin cơm. Một bữa cơm no đã hành hạ bà hơn nửa tháng trời,
bà chết. Đáng buồn hơn, bọn nhà giàu lại lấy câu chuyện làm bài học răn đe đầy tớ.
Ngƣời kể chuyện hoàn toàn đứng ngoài câu chuyện, không tham gia vào diễn biến
truyện. Các sự việc hiện ra chân thực, giàu sức tố cáo. Cái đói, cái nghèo trở thành
nỗi ám ảnh thƣờng trực con ngƣời trong xã hội cũ.
Trở lại truyện ngắn Bùi Ngọc Tấn, ngƣời kể chuyện hàm ẩn với điểm nhìn
toàn tri xuất hiện 3 lần. Đó là các truyện: Một cuộc thi hoa hậu, Một tối vui, Một cái
hôn dài.
Một cuộc thi hoa hậu đƣợc kể từ điểm nhìn toàn tri bởi ngƣời kể chuyện hàm
ẩn. Mọi sự việc đƣợc trần thuật khách quan. Ngƣời kể chuyện thông suốt mọi việc,
quan sát và dẫn dắt cuộc thi hoa hậu. Tác giả tƣờng tận mọi giai đoạn của cuộc thi,
biết rõ các công việc của từng thành viên. Từ chuyện mấy đứa lớn nhịn ăn sáng để
lấy tiền mua phần thƣởng đến mọi công tác chuẩn bị. Thỉnh thoảng, ngƣời kể

chuyện lại chen vào những lời bình luận “Chứ chẳng một hoa hậu, á hậu toàn quốc
nào hơn đƣợc chúng. Có đôi mắt hoa hậu nào long lanh trong trẻo hơn mắt chúng?
Có làn da hoa hậu nào mịn màng mơn mởn nhƣ làn da chúng? Có vẻ mặt hoa hậu
nào sáng tƣơi nhƣ gƣơng mặt chúng? Và cho dù có những cái răng cửa gẫy chƣa kịp
mọc lại hay chỉ mới nhi nhí thật đấy, nhƣng vẫn cứ đẹp” [67, tr. 78] Dù không để lộ

21


danh tính nhƣng ngƣời kể chuyện cho thấy cái nhìn của một ngƣời lớn tuổi dành
cho các em. Đó là một cái nhìn hồn hậu bao dung của ngƣời từng trải. Không chỉ
thông tƣờng mọi việc ở hiện tại, ngƣời kể chuyện hàm ẩn còn đƣa ra nhận định
tƣơng lai “Bé ơi. Đừng khóc. Đời các con chỉ mới bắt đầu.”. Đây chỉ là cú vấp đầu
đời của các em, sau này các em còn phải trải qua nhiều thử thách. Trên cƣơng vị của
một ngƣời đi trƣớc, một ngƣời lớn tuổi hơn, ngƣời kể chuyện coi đó là điều tất yếu
trong cuộc đời và thầm dặn dò, an ủi các em.
Một tối vui là câu chuyện hài hƣớc đƣợc trần thuật lại bởi ngƣời kể chuyện
hàm ẩn. Ngƣời kể chuyện không tiết lộ mình nhƣng ngƣời đọc có thể cảm nhận
ngƣời kể chuyện là một nhân vật đang chứng kiến toàn bộ câu chuyện, thậm chí
tham gia vào phiên toà xét xử chuột ấy. Từng chi tiết, từng lời nói đƣợc quan sát
một cách kỹ lƣỡng. Ngƣời kể chuyện hàm ẩn am tƣờng mọi chuyện, kể lại một cách
khách quan sự việc trong buồng giam. Thái độ của ngƣời kể chuyện đầy chân thành,
cảm thông, có chút xót xa “Đêm nay ngƣời ta chìm vào giấc ngủ với những điều
buồn cƣời và thích thú đến thế. Sau này mỗi khi ôn lại cái đêm thiên tải nhất thì –
nghìn năm có một ấy, Quảng lại khẳng định chất giọng Thịnh cốc lúc đó là chất
giọng tê no, cũng nhƣ giọng của Quảng khi tuyên án đúng là mi mi nơ trầm hùng
[67, tr. 127]. Buổi tối ấy đã trở thành một kỉ niệm đẹp đối với ngƣời tù. Ngƣời kể
chuyện hàm ẩn là ngƣời có trải nghiệm, am hiểu từng suy nghĩ của ngƣời tù, am
hiểu mọi sự việc diễn ra trong tù.
Trong Một cái hôn dài ngƣời kể chuyện hàm ẩn trần thuật câu chuyện về tiến

sĩ K và cô Hạnh. Dù không tên, không tuổi, không đƣợc giới thiệu, ngƣời kể chuyện
hàm ẩn đứng cao hơn câu chuyện, thông suốt mọi sự việc. Có lúc, ngƣời kể chuyện
nhập vào nhân vật, hay nói đúng hơn là tựa vào điểm nhìn nhân vật để kể song có
lúc lại xuất hiện gián tiếp qua lời bình luận, nhận xét. Qua lời kể của ngƣời kể
chuyện hàm ẩn, nhân vật tiến sĩ K và cô Hạnh hiện lên là những nhà khoa học tận
hiến. Chính tình yêu với khoa học đã đƣa họ đến gần nhau hơn. Họ cảm mến nhau
rồi tình yêu nảy nở. Không chỉ am tƣờng về suy nghĩ của từng nhân vật, ngƣời kể
chuyện hàm ẩn còn thấu suốt diễn biến tâm lý tình yêu. Đặc biệt là nhân vật Hạnh.

22


×