Tải bản đầy đủ (.doc) (65 trang)

TÌNH HÌNH mắc một số BỆNH sản KHOA TRÊN đàn lợn nái NUÔI tại TRẠI CHĂN NUÔI LƯƠNG sơn hòa BÌNH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.05 MB, 65 trang )

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM
--------------------

CHU THỊ PHƯƠNG THẢO
Tên đề tài:
“ TÌNH HÌNH MẮC MỘT SỐ BỆNH SẢN KHOA TRÊN ĐÀN LỢN
NÁI NUÔI TẠI TRẠI CHĂN NUÔI LƯƠNG SƠN - HÒA BÌNH
VÀ BIỆN PHÁP ĐIỀU TRỊ”

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC

Hệ đào tạo: Chính quy
Chuyên ngành: Thú y
Khoa: Chăn nuôi thú y
Khóa học: 2012 - 2017

Thái Nguyên, năm 2015


ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM
--------------------

CHU THỊ PHƯƠNG THẢO
Tên đề tài:
“ TÌNH HÌNH MẮC MỘT SỐ BỆNH SẢN KHOA TRÊN ĐÀN LỢN
NÁI NUÔI TẠI TRẠI CHĂN NUÔI LƯƠNG SƠN - HÒA BÌNH
VÀ BIỆN PHÁP ĐIỀU TRỊ”

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC



Hệ đào tạo: Chính quy
Chuyên ngành: Thú y
Lớp: K44 -TY
Khoa: Chăn nuôi thú y
Khóa học: 2012 – 2017
Giảng viên hướng dẫn: ThS. Đặng Thị Mai Lan

Thái Nguyên, năm 2015


i

LỜI CẢM ƠN
Qua một thời gian học tập rèn luyện tại trường Đại học Nông Lâm Thái
Nguyên và sau 6 tháng thực tập tốt nghiệp tại Trại lợn Ngô Thị Hồng Gấm, nhờ
sự nỗ lực của bản thân, sự giúp đỡ của thầy cô, gia đình và bạn bè em đã hoàn
thành tốt đợt thực tập tốt nghiệp.
Nhân dịp này em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới ban Ban giám hiệu
nhà trường, các phòng ban, các thầy cô giáo trong nhà trường, các thầy cô giáo
trong Khoa Chăn nuôi Thú y đã tận tình giảng dạy và giúp đỡ em trong suốt thời
gian học tập tại trường.
Đặc biệt em xin chân thành cảm ơn sự quan tâm giúp đỡ của cô giáo Th.S.
Đặng Thị Mai Lan người đã tận tình chỉ bảo, hướng dẫn em trong suốt thời gian
thực tập, giúp em hoàn thành khóa luận tốt nghiệp này.
Cũng qua đây cho em gửi lời cảm ơn sâu sắc tới Ban giám đốc, toàn thể
cán bộ và công nhân trong trại lợn Ngô Thị Hồng Gấm - huyện Lương Sơn - tỉnh
Hòa Bình, đã tạo mọi điều kiện thuận lợi cho em hoàn thành báo cáo thực tập tốt
nghiệp và học hỏi nâng cao tay nghề.
Xin cảm ơn gia đình, bạn bè đã luôn động viên giúp đỡ, tạo điều kiện

thuận lợi để em hoàn thành tốt quá trình thực tập tốt nghiệp.
Một lần nữa em xin chân thành cảm ơn!
Thái Nguyên, ngày

tháng

năm 2016

Sinh viên

Chu Thị Phương Thảo


ii

DANH MỤC CÁC BẢNG
Trang

MỤC LỤC........................................................................................................iv
Trang................................................................................................................iv
MỤC LỤC iii ii................................................................................................iv
Trang iii ii.........................................................................................................iv
MỤC LỤC iv....................................................................................................iv
Trang iv............................................................................................................iv


iii

DANH MỤC CÁC CỤM TỪ VIẾT TẮT
ACTH


: Adreno Cortico Tropin Hormone

cm

: Xentimet

Cs

: Cộng sự

˚C

: Độ C

E.coli

: Escherichia Coli

FSH

: Folliculo Stimulin Hormone

g

: Gam

GSH

: Gonado Stimulin Hormone


kg

: Kilogam

LH

: Lutein Stimulin Hormone

PGF2α

: Prostagladin

TT

: Thể trọng

ml

: Mililit

Nxb

: Nhà xuất bàn

STH

: Somato Tropin Hormone

STT


: Số thứ tự

VTM

: Vitamin


iv

MỤC LỤC
Trang
MỤC LỤC iv.....................................................................................................ii

Trang iv.............................................................................................................ii
MỤC LỤC iii ii iv.............................................................................................ii
Trang iii ii iv.....................................................................................................ii
MỤC LỤC iv iv.................................................................................................ii
Trang iv iv.........................................................................................................ii
MỤC LỤC........................................................................................................iv
Trang................................................................................................................iv


1

Phần 1
MỞ ĐẦU
1.1. Đặt vấn đề
Trong những năm gần đây nền kinh tế nước ta đã có những bước phát
triển mạnh mẽ. Song song với sự phát triển đó, ngành chăn nuôi nước ta cũng

tăng nhanh cả về số lượng và chất lượng. Nhiều giống gia súc, gia cầm được lai
tạo, du nhập vào sản xuất đã đem lại nhiều lợi nhuận. Chăn nuôi đã thực sự trở
thành nguồn thu nhập chính cho nhiều hộ gia đình đồng thời đã thúc đẩy sự
phát triển của một số ngành công nghiệp liên quan như chế biến thực phẩm, sản
xuất thức ăn chăn nuôi, thuốc thú y, công nghiệp thuộc da, lông vũ…
Chăn nuôi lợn là một trong những mũi nhọn của ngành chăn nuôi nước
ta, đóng một vị trí quan trọng và đem lại hiệu quả kinh tế cao. Thịt lợn là
nguồn Protein động vật có giá trị phục vụ cho nhu cầu của con người, nó
không chỉ cung cấp thực phẩm có giá trị dinh dưỡng cao, đáp ứng nhu cầu
thực phẩm cho xã hội mà còn là nguồn thu nhập đáng kể cho người chăn nuôi.
Ngoài ra, chăn nuôi lợn còn cung cấp một lượng lớn phân bón cho trồng trọt
và thủy sản. Có thể nói ngành chăn nuôi lợn đã đóng góp một phần đáng kể
vào công tác xóa đói giảm nghèo, ổn định đời sống xã hội và thúc đẩy sự phát
triển kinh tế chung của đất nước.
Trong chăn nuôi lợn thì lợn nái có vai trò quan trọng làm tăng số lượng
cũng như chất lượng của đàn lợn. Tuy nhiên, lợn nái thường mắc một số bệnh
đường sinh sản như: viêm tử cung, viêm vú, đẻ khó, bại liệt sau đẻ… gây thiệt
hại lớn do làm giảm năng suất sinh sản, mất khả năng sinh sản, chết thai, tiêu
thai, tỷ lệ thụ thai thấp và là nguồn kế phát các bệnh truyền nhiễm nguy hiểm
cho đàn lợn ở trại.
Xuất phát từ nhu cầu thực tế của sản xuất, đồng thời để thấy rõ hơn về
tình hình nhiễm, triệu chứng của lợn nái mắc bệnh đường sinh sản góp phần
khống chế bệnh và làm giảm bớt thiệt hại về kinh tế, tôi tiến hành thực hiện
đề tài: “Tình hình mắc một số bệnh sản khoa trên đàn lợn nái nuôi tại trại
chăn nuôi Lương Sơn - Hòa Bình và biện pháp điều trị’’.


2

1.2. Mục tiêu và yêu cầu của đề tài

1.2.1. Mục tiêu của đề tài
- Nắm được tình trạng mắc một số bệnh sản khoa ở đàn lợn nái nuôi tại
trại chăn nuôi Lương Sơn - Hòa Bình.
- Tìm ra biện pháp tốt nhất để phòng và điều trị một số bệnh sản khoa ở
đàn lợn nái nuôi tại trại chăn nuôi Lương Sơn - Hòa Bình.
- Hoàn thiện thêm kỹ năng, tay nghề trong thời gian thực tập.
1.2.2. Yêu cầu của đề tài
- Nắm được tình hình và tỷ lệ mắc một số bệnh sản khoa trên đàn lợn
nái nuôi tại trại chăn nuôi Lương Sơn - Hòa Bình.
- Xây dựng được phác đồ điều trị một số bệnh sản khoa trên đàn lợn
hiệu quả nhất.
1.3. Ý nghĩa của đề tài
1.3.1. Ý nghĩa khoa học
- Từ tình hình mắc bệnh và tỷ lệ mắc một số bệnh sản khoa cũng như
kết quả điều trị bệnh trên lợn là cơ sở khoa học cho những biện pháp phòng
và trị bệnh có hiệu quả.
1.3.2. Ý nghĩa thực tiễn
- Xác định hiệu lực của một số loại thuốc trong điều trị một số bệnh
sản khoa trên lợn từ đó đưa ra những liệu trình điều trị hiệu quả, kinh tế để áp
dụng rộng rãi trên thực tiễn chăn nuôi.
- Nâng cao kiến thức thực tiễn, tăng khả năng tiếp xúc với thực tế chăn
nuôi, điều trị bệnh cho lợn từ đó nâng cao và củng cố kiến thức của bản thân.
- Đưa ra những khuyến cáo từ kết quả của đề tài giúp cho người chăn
nuôi hạn chế được những thiệt hại do bệnh gây ra.


3

Phần 2
TỔNG QUAN TÀI LIỆU

2.1. Điều kiện cơ sở nơi thực tập
2.1.1. Quá trình thành lập và phát triển của trang trại
2.1.1.1. Quá trình thành lập
Trại lợn Ngô Thị Hồng Gấm nằm trên địa phận thôn Dẻ Cau - xã Hợp
Thanh - huyện Lương Sơn - tỉnh Hòa Bình. Là trại lợn gia công của Công ty
Chăn nuôi CP Việt Nam, hoạt động theo phương thức chủ trại xây dựng cơ sở
vật chất, thuê công nhân, công ty đưa tới giống lợn, thức ăn, thuốc thú y, cán
bộ kỹ thuật. Hiện nay, trang trại do bà Ngô Thị Hồng Gấm làm chủ, cán bộ kỹ
thuật của Công ty Chăn nuôi CP Việt Nam chịu trách nhiệm giám sát mọi
hoạt động của trang trại.
2.1.1.2. Cơ cấu tổ chức của trang trại
Cơ cấu tổ chức: gồm 3 nhóm
+ Nhóm quản lý: 1 chủ trại, 1 bảo vệ chịu trách nhiệm bảo vệ tài sản
chung của trại.
+ Nhóm kỹ thuật: 2 kỹ sư, 1 kỹ thuật điện, 1 kế toán.
+ Nhóm công nhân: 10 công nhân, 6 sinh viên thực tập.
Với đội ngũ công nhân trên, trại phân ra làm các tổ khác nhau
như tổ chuồng đẻ, tổ chuồng bầu. Có bảng chấm công riêng cho từng công
nhân trong tổ, ngoài ra các tổ trưởng có nhiệm vụ đôn đốc quản lý chung các
thành viên trong tổ nhằm nâng cao tinh thần trách nhiệm, thúc đẩy sự phát
triển của trang trại.
2.1.1.3. Cơ sở vật chất của trang trại
Trang trại nằm trên địa bàn xã chủ yếu là núi đá vôi nhưng đường giao
thông đã được nâng cấp, thuận tiện cho việc đi lại, vận chuyển.
Để đảm bảo công tác chăn nuôi và sinh hoạt của công nhân trại được
trang bị đầy đủ cơ sở vật chất kỹ thuật gồm:


4


Khu nhà điều hành, khu nhà ở cho công nhân, bếp ăn, các công trình
phục vụ cho công nhân và các hoạt động khác của trại.
Khu chăn nuôi xung quanh có hàng rào bao bọc và có cổng vào riêng.
Chuồng trại được quy hoạch bố trí xây dựng phù hợp với hướng chăn nuôi
công nghiệp, hệ thống chuồng nuôi lồng, nền sàn bê tông cho lợn nái, lợn
đực, sàn nhựa cho lợn con cùng với hệ thống vòi nước tự động và máng ăn.
Chuồng nuôi được xây dựng đảm bảo đủ cho 1200 nái cơ bản bao gồm:
+ 3 chuồng nái đẻ: Mỗi chuồng chia làm 2 khu A và khu B, mỗi khu có
2 dãy, mỗi dãy có 29 ô chuồng được thiết kế sàn nhựa cho lợn con và sàn bê
tông cho lợn mẹ.
+ 2 chuồng nái chửa: Chuồng 1 và chuồng 2, mỗi chuồng gồm 8 dãy
mỗi dãy có 75 ô để nuôi và chăm sóc lợn nái trong thời gian mang thai được
sắp xếp theo các kỳ mang thai khác nhau. Riêng chuồng 1 dãy 1 được thiết kế
để cho lợn nái chờ phối, có khu thử lợn, ép lợn và dãy 2 có khu để làm nơi thụ
tinh nhân tạo cho lợn nái.
+ 1 chuồng đực giống: Bao gồm 24 ô để nuôi lợn đực và 1 ô để khai
thác tinh.
+ 2 chuồng cách ly: Dùng để nuôi lợn hậu bị được nhập từ các trại gia
công lợn hậu bị của Công ty cổ phần chăn nuôi CP Việt Nam, trong thời gian
3 tháng sau khi đã làm vaccine đầy đủ và trước khi được đưa lên giống mỗi
chuồng có thể nuôi được từ 30 - 40 lợn hậu bị.
Hệ thống chuồng xây dựng khép kín hoàn toàn. Phía đầu chuồng là hệ
thống giàn mát, cuối chuồng được thiết kế quạt hút gió, có hệ thống điện
chiếu sáng và bóng đèn hồng ngoại để sưởi ấm, úm lợn con, đảm bảo thoáng
mát về mùa Hè ấm áp vào mùa Đông bằng cách điều chỉnh quạt, giàn mát và
bóng đèn sưởi ấm trong chuồng. Mỗi chuồng được lắp đặt máy bơm nước để
tắm cho lợn và vệ sinh chuồng trại hằng ngày, cuối chuồng mỗi ô đều có hệ
thống thoát phân và nước thải. Bên cạnh chuồng đực có xây dựng phòng làm
tinh lợn, với đầy đủ tiện nghi như: kính hiển vi, nhiệt kế, đèn cồn, máy ép ống
tinh, tủ lạnh bảo quản tinh, nồi hấp, panh, kéo… Trong khu chăn nuôi, đường

đi lại giữa các ô chuồng, các khu khác đều được đổ bê tông và có các chậu


5

nước sát trùng. Nhìn chung khu vực chuồng nuôi được xây dựng khá hợp lý,
thuận lợi cho việc chăm sóc, đi lại, đuổi lợn cho các dãy chuồng.
Ngay tại cổng vào khu chăn nuôi trại có xây dựng 5 phòng tắm sát
trùng cho công nhân trước khi ra, vào chuồng chăm sóc lợn, 1 kho thuốc, 1
kho cám, 1 phòng ăn và 2 phòng nghỉ trưa cho công nhân.
Một số thiết bị khác cũng được trang bị đầy đủ: Tủ lạnh bảo quản
vaccine, tủ thuốc để bảo quản và dự trữ thuốc cho trại, xe chở cám từ nhà kho
xuống chuồng, máy nén khí phun sát trùng di động khu vực trong và ngoài
chuồng nuôi.
2.1.1.4. Tình hình sản xuất của trang trại
* Công tác chăn nuôi
Nhiệm vụ chính của trang trại là sản xuất con giống và chuyển giao tiến
bộ khoa học kỹ thuật. Hiện nay, trung bình lợn nái của trại sản xuất được 2,45
- 2,47 lứa/năm. Số con sơ sinh là 11,23 con/đàn, số con cai sữa là 10,7
con/đàn, lợn con theo mẹ được nuôi đến 21 ngày tuổi, chậm nhất là 26 ngày
thì tiến hành cai sữa và chuyển sang các Trại chăn nuôi lợn giống của Công
ty. Theo đánh giá của Công ty Chăn nuôi CP Việt Nam thì Trại hoạt động vào
mức khá.
Trong trại có 24 con lợn đực giống được chuyển về cùng một đợt, các
lợn đực giống này được nuôi nhằm mục đích kích thích động dục cho lợn nái
và khai thác tinh để thụ tinh nhân tạo. Tinh lợn được khai thác từ 2 giống lợn
Pietrain và Duroc. Lợn nái được phối 3 lần và được luân chuyển giống cũng
như con đực.
Thức ăn cho lợn nái là thức ăn hỗn hợp hoàn chỉnh có chất lượng cao,
được Công ty Chăn nuôi CP Việt Nam cấp cho từng đối tượng lợn của trại.

* Công tác vệ sinh thú y của trại
Vệ sinh phòng bệnh là công tác rất quan trọng. Nó có tác dụng tăng sức
đề kháng cho vật nuôi, giảm nguy cơ xảy ra dịch bệnh, hạn chế những những
bệnh có tính chất lây lan từ đó phát huy tốt tiềm năng của giống.
- Công tác vệ sinh: Chuồng trại được xây dựng thoáng mát về mùa Hè,
mùa Đông được che chắn cẩn thận, xung quanh các chuồng nuôi đều trồng


6

các cây xanh tạo cho các chuồng nuôi có độ thông thoáng và mát tự nhiên.
Trước cửa vào các khu có rắc vôi bột từ đó hạn chế được rất nhiều tác động
của mầm bệnh bên ngoài đối với lợn nuôi trong chuồng. Hàng ngày luôn có
công nhân quét dọn vệ sinh chuồng trại, thu gom phân, nước tiểu, khơi thông
cống rãnh, đường đi trong trại được quét dọn, phun thuốc sát trùng, hành lang
đi lại được quét dọn và rắc vôi theo quy định. Công nhân, kỹ sư, khách tham
quan trước khi vào khu chăn nuôi đều phải sát trùng tắm rửa sạch sẽ, thay
quần áo bảo hộ lao động.
- Công tác phòng bệnh: Trong khu vực chăn nuôi hạn chế đi lại giữa
các chuồng, hành lang giữa các chuồng và bên ngoài chuồng đều được rắc vôi
bột, các phương tiện vào trại được sát trùng một cách nghiêm ngặt ngay tại
cổng vào. Quy trình phòng bệnh bằng vaccine luôn được trang trại thực hiện
nghiêm túc, đầy đủ và đúng kỹ thuật. Đối với từng loại lợn có quy trình tiêm
riêng, từ lợn nái, lợn hậu bị, lợn đực, lợn con. Lợn được tiêm vaccine ở trạng
thái khỏe mạnh, được chăm sóc nuôi dưỡng tốt, không mắc các bệnh truyền
nhiễm và các bệnh mãn tính khác để tạo được trạng thái miễn dịch tốt nhất
cho đàn lợn. Tỷ lệ tiêm phòng vaccine cho đàn lợn luôn đạt 100%.
- Công tác trị bệnh: Cán bộ kỹ thuật có nhiệm vụ theo dõi, kiểm tra
đàn lợn thường xuyên, các bệnh xảy ra ở lợn nuôi tại trại luôn được kỹ thuật
viên phát hiện sớm, cách ly, điều trị ở ngay giai đoạn đầu, nên điều trị đạt

hiệu quả từ 80 - 90% trong một thời gian ngắn. Vì vậy, không gây thiệt hại
lớn về số lượng đàn gia súc.
2.1.2. Đánh giá chung
2.1.2.1. Thuận lợi
Được sự quan tâm tạo điều kiện và có các chính sách hỗ trợ đúng đắn
của các ngành, các cấp có liên quan như UBND xã Hợp Thanh, Trạm thú y
huyện Lương Sơn tạo điều kiện cho sự phát triển của trại.
Được Công ty cổ phần chăn nuôi CP Việt Nam cung cấp về con giống,
thức ăn, thuốc thú y có chất lượng tốt.
Chuồng trại được trang thiết bị hiện đại, điện lưới và hệ thống nước
sạch luôn cung cấp đầy đủ cho sinh hoạt và chăn nuôi.


7

Chủ trại có năng lực, năng động, nắm bắt được tình hình xã hội, luôn
quan tâm đến đời sống vật chất, tinh thần của cán bộ kỹ thuật và công nhân.
Kèm theo đó là đội ngũ kỹ thuật với chuyên môn vững vàng, công nhân
nhiệt tình, năng động và có tinh thần trách nhiệm cao trong công việc. Do đó
đã mang lại hiệu quả chăn nuôi cao cho trang trại.
2.1.2.2. Khó khăn
Đội ngũ công nhân trong trại còn thiếu, do đó ảnh hưởng đến tiến độ
công việc.
Trang thiết bị vật tư, hệ thống chăn nuôi còn thiếu chưa đáp ứng được
nhu cầu sản xuất.
Trong những năm gần đây, thời tiết diễn biến phức tạp kèm theo dịch
bệnh xảy ra khó kiểm soát gây khó khăn cho chăn nuôi. Do đó đòi hỏi công
tác phòng chống dịch bệnh và nâng cao sức đề kháng cho đàn lợn tại Trại cần
phải được đẩy mạnh.
2.2. Cơ sở khoa học của đề tài

2.2.1. Đặc điểm về sinh lý, sinh dục và sinh sản của lợn nái
2.2.1.1. Cấu tạo cơ quan sinh dục lợn cái
Cơ quan sinh dục lợn cái cấu tạo gồm các bộ phận sau: Buồng trứng,
ống dẫn trứng, tử cung, âm đạo (bộ phận sinh dục bên trong) âm môn, âm vật,
tiền đình (bộ phận sinh dục bên ngoài)
* Bộ phận sinh dục bên trong
- Buồng trứng (Ovarium)
Buồng trứng của lợn gồm một cặp treo ở cạnh trước dây chằng rộng,
nằm trong xoang chậu. Hình dạng của buồng trứng rất đa dạng nhưng phần
lớn có hình bầu dục hoặc hình ovan dẹt, không có lõm rụng trứng. Kích thước
dài 1,5 - 2,5 cm; khối lượng khoảng 3 - 5 gram (Đặng Quang Nam và cs,
2002) [15].
Buồng trứng có hai chức năng: Nội tiết (tiết ra hormone sinh sinh dục
cái Estrogen) và ngoại tiết (bài noãn). Các hormone sinh dục cái: Estrogen,
Progesteron , Oxytocine, Relaxin và Inhibin tham gia vào việc điều khiển chu


8

kỳ sinh sản của lợn cái. Estrogen cần thiết cho sự phát triển của tử cung và hệ
thống dẫn của tuyến vú. Progesteron do thể vàng tiết ra kích thích sự phân tiết
của tử cung để nuôi dưỡng thai, ức chế sự co thắt của tử cung và phát triền
nang tạo sữa của tuyến vú.
Oxytocin được tiết ra chủ yếu bởi phần sau của tuyến yên và cũng được
tiết bởi thể vàng của buồng trứng khi con vật gần sinh, nó làm co thắt cơ tử
cung trong lúc sinh đẻ và cũng làm co thắt cơ trơn tuyến vú để thải sữa.
Relaxin do thể vàng tiết ra gây dãn nở xương chậu, làm dãn và mềm cổ tử
cung, do đó mở rộng đường sinh dục khi lợn sắp sinh. Inhinbin có tác dụng ức
chế sự phân tiết kích tố noãn (FSH) từ tuyến yên, do đó ức chế sự phát triển
noãn nang theo chu kì (Trần Thị Dân, 2004) [3].

Trong buồng trứng chia làm hai miền. Miền tủy: nằm ở giữa gồm nhiều
mạch máu, dây thần kinh, mạch bạch huyết và tổ chức liên kết dày đặc đảm
bảo nhiệm vụ nuôi dưỡng và bảo vệ trứng. Miền vỏ: đặc biệt quan trọng với
chức năng sinh dục, đảm bảo quá trình phát triển của trứng cho đến khi trứng
chín và rụng. Trên buồng trứng có từ 70.000 - 100.000 noãn bào ở các giai
đoạn khác nhau, tầng ngoài cùng là những noãn bào sơ cấp phân bố tương đối
đều, tầng trong là những noãn bào thứ cấp đang sinh trường, khi noãn bao
chín sẽ nổi lên bề mặt buồng trứng (Khuất Văn Dũng, 2005) [7].
- Ống dẫn trứng (Oviductus)
Còn gọi là vòi Fallop, được treo bởi màng treo ống dẫn trứng, đó là
một nếp gấp màng bụng bắt nguồn từ lớp bên của dây chằng rộng. Căn cứ vào
chức năng có thể chia ống dẫn trứng thành 4 đoạn:
+ Tua diềm: Có hình răng cưa giống như tua diềm ôm xung quanh
cuống buồng trứng.
+ Phễu: Có hình phễu, miệng phễu nằm gần buồng trứng.
+ Phồng ống dẫn trứng: là phần tiếp nối sau phần phễu. Phần này còn
được gọi là đoạn ống giãn rộng xa tâm.
+ Eo: Là doạn ống hẹp gần tâm, nối ống dẫn trứng với sừng tử cung.
Chức năng của ống dẫn trứng: là nơi để tế bào sinh dục đực (tinh trùng)
và tế bào sinh dục cái (trứng) gặp nhau, ống dẫn trứng có khả năng co bóp


9

dưới ảnh hưởng của hormon Oxytocin nhằm giúp cho tinh trùng thuận lợi hơn
trong việc thụ tinh (Đặng Quang Nam, 2002) [14].
- Tử cung (Uterus)
Tử cung nằm trong xoang chậu, dưới trực tràng, trên bàng quang và
niệu đạo, hai sừng tử cung ở phía trước xoang chậu. Tử cung được giữ lại tại
chỗ nhờ sự bám của âm đạo vào cổ tử cung và được giữ bởi các dây chằng.

Tử cung gồm các phần: sừng, thân và cổ tử cung.
Tử cung lợn thuộc loại sừng tử cung kép, gồm hai sừng thông với một
thân và cổ tử cung. Sừng tử cung dài 50 - 100cm, hình ruột non thông với ống
dẫn trứng. Thân tử cung dài 3 - 5cm. Cổ tử cung dài 10 - 18cm, có thành dày,
hình trụ, có các cột thịt xếp theo chiều cài răng lược, thông với âm đạo. Vách
tử cung gồm ba lớp được cấu tạo từ ngoài vào trong: lớp tương mạc, lớp cơ
trơn và lớp nội mạc.
Theo Trần Thị Dân (2004) [3], trương lực cơ càng cao (tử cung trở nên
cứng) khi có nhiều Estrogen trong máu và trương lực cơ giảm (tử cung mềm)
khi có nhiều Progesterone trong máu. Vai trò của cơ tử cung là góp phần cho
sự di chuyển của tinh trùng và chất nhày trong tử cung, đồng thời đẩy thai ra
ngoài khi sinh đẻ. Khi mang thai, sự co thắt của cơ tử cung giảm đi dưới tác
dụng Progesterone, nhờ vậy phôi thai có thể bám chắc vào tử cung.
Lớp nội mạc tử cung có nhiệm vụ tiết ra các chất vào lòng tử cung để
giúp phôi thai phát triển và duy trì sự sống của tinh trùng trong thời gian di
chuyển đến ống dẫn trứng. Dưới ảnh hưởng của Estrogen, các tuyến tử cung
phát triển từ lớp màng nhày, xâm nhập vào lớp dưới màng nhày và cuộn lại.
Tuy nhiên, các tuyến chỉ đạt được khả năng phân tiết tối đa khi có tác dụng
của Progesterone. Sự phân tiết của tuyến tử cung thay đổi tùy theo giai đoạn
của chu kỳ động dục.
- Âm đạo (Vigina)
Theo Đặng Quang Nam (2002) [14], âm đạo là ống đi từ cổ tử cung đến
âm hộ. Đầu trước âm đạo dính vào cổ tử cung, đầu sau thông ra tiền đình, có
màng trinh đậy ở lỗ âm đạo.


10

Âm đạo là một ống tròn chứa cơ quan sinh dục đực khi giao phối, âm
đạo của lợn dài 10 - 12 cm (Trần Tiến Dũng và cs. 2002) [4].

Ngoài ra, âm đạo còn là bộ phận thải thai ra bên ngoài khi sinh đẻ và là
ống thải các chất dịch từ trong tử cung.
* Bộ phận sinh dục bên ngoài
- Tiền đình (Vestibulum vaginae sinusinogentalis)
Là giới hạn giữa âm đạo và âm hộ. Tiền đình bao gồm:
+ Màng trinh: là một nếp gấp gồm hai lá, phía trước thông với âm đạo,
phía sau thông với âm hộ. Màng trinh gồm các sợi cơ đàn hồi ở giữa và do hai
lá niêm mạc gấp lại thành một nếp.
+ Lỗ niệu đạo: ở sau và dưới màng trinh.
+ Hành tiền đình: là hai tạng cương ở hai bên lỗ niệu đạo. Cấu tạo
giống thể hổng ở bao dương vật của con đực.
Tiền đình có một số tuyến, các tuyến này xếp theo hàng chéo, hướng
quay về âm vật.
- Âm vật (Clitoris)
Âm vật nằm ở góc phía dưới mép của âm môn, có cấu tạo giống như
dương vật con đực nhưng thu nhỏ lại. Âm vật cũng có các thể hổng như
dương vật con đực, phần trên âm vật có nếp da tạo ra mu âm vật (Praepatium
clitoridis), giữ âm vật bẻ gấp xuống dưới.
Âm vật được phủ bởi một lớp niêm mạc có chứa các đầu mút thần kinh
cảm giác, do đó trong thực tế sau khi dẫn tinh cho gia súc cái, các dẫn tinh
viên thường xoa bóp nhẹ vào âm vật kích thích con cái hưng phấn để cổ tử
cung co thắt và con vật trở lại trạng thái bình thường.
- Âm môn (Vulva)
Âm môn hay còn gọi là âm hộ, nằm dưới hậu môn và ngăn cách với nó
bởi vùng hồi âm. Bên ngoài có hai môi (Labia pudendi), hai môi được nối với
nhau bởi hai mép (Rima vulva).
Trên hai môi của âm môn có sắc tố màu đen và có nhiều tuyến tiết chất
nhờn và tuyến mồ hôi.



11

* Đặc điểm cấu tạo tuyến vú
Theo Đặng Quang Nam và cs. (2002) [14], tuyến vú có hình chùm nho
phức tạp và có nguồn gốc từ ngoại bì. Ở động vật, con đực con cái đều có
tuyến vú. Vị trí, số lượng của tuyến vú ở mỗi loài động vật khác nhau là khác
nhau: có loài tuyến vú ở ngực, có loài lại ở vùng bẹn, có loài có nhiều hoặc có
loài lại chỉ có 1 - 2 đôi vú. Tuyến vú phát triển mạnh ở con cái khi đến tuổi
thành thục về tính, và nó phát triển to nhất ở thời kì chửa và đẻ.
Gia súc còn non thì tuyến vú của con đực và con cái đều giống nhau.
Theo Trần Thị Dân (2004) [2] khi có chửa: Hệ thống ống dẫn tiếp tục phát
triển nhanh, gia tăng số lượng ống dẫn, bao tuyến bắt đầu hình thành và phát
triển mô tuyến thay dần mô liên kết, mô mỡ chiếm ưu thế. Hoạt động tiết sữa
xuất hiện vào cuối thời kỳ có chửa, sữa được hình thành gọi là sữa non. Sự
phát dục của tuyến vú hoàn tất khi kết thúc giai đoạn chửa, ngay sau khi đẻ
gia súc bắt đầu tiết sữa để nuôi con non.
2.2.1.2. Đặc điểm sinh lý, sinh dục của lợn cái
Đặc điểm sinh lý sinh dục của gia súc nói chung và loài lợn nói riêng
đặc trưng cho loài, có tính ổn định với từng giống vật nuôi. Nó được duy trì
qua các thế hệ và luôn củng cố, hoàn thiện qua quá trình chọn lọc. Ngoài ra
còn chịu ảnh hưởng của một số yếu tố như: ngoại cảnh, điều kiện nuôi dưỡng,
chăm sóc, sử dụng… Để đánh giá đặc điểm sinh lý sinh dục của lợn nái người
ta thường tập trung nghiên cứu, theo dõi các chỉ tiêu sau đây:
* Tuổi động dục lần đầu
Tính từ lúc sơ sinh cho đến lợn nái hậu bị lần đầu tiên động dục. Các
giống lợn khác nhau có tuổi động dục lần đầu khác nhau.
Theo Phạm Hữu Doanh và cs. (2003) [5]: Tuổi động dục đầu tiên ở lợn
nội (Ỉ, Móng Cái) rất sớm từ 4 - 5 tháng, khi khối lượng đạt từ 20 - 25 kg; ở
lợn nái lai F1 lúc 6 tháng tuổi, đạt 50 - 55 kg. Lợn ngoại động dục muộn hơn
(6 - 7 tháng) khi đạt 65 - 80 kg.

Trần Văn Phùng và cs. (2004) [18] cho biết: Tuỳ theo giống, điều kiện
chăm sóc nuôi dưỡng và quản lý mà có tuổi động dục lần đầu khác nhau. Lợn Ỉ,
Móng Cái có tuổi động dục lần đầu vào 4 - 5 tháng tuổi (121 - 158 ngày tuổi),
các giống lợn ngoại (Yorkshire, Landrace) muộn hơn từ 7 - 8 tháng tuổi.


12

Theo Nguyễn Văn Trí (2008) [29]: Tuổi động dục đầu tiên ở lợn nái
ngoại Yorkshire, Landrace là 6 - 7 tháng tuổi tương ứng với trọng lượng 65
-70kg và lợn nái lai F1 là 6 tháng tuổi tương ứng với trọng lượng 50 - 55 kg.
Tuổi động dục lần đầu phụ thuộc vào mùa vụ. Lợn nái hậu bị được sinh vào
mùa Thu sẽ động dục sớm hơn so với sinh vào mùa Xuân.
* Tuổi phối giống lần đầu
Tuổi thành thục về tính thường sớm hơn tuổi thành thục về thể vóc,
nghĩa là sau khi con vật đã thành thục về tính thì vẫn tiếp tục sinh trưởng lớn
lên. Đây là đặc điểm cần chú ý trong chăn nuôi.
Theo Phạm Hữu Doanh và cs. (2003) [3] thì không nên cho phối giống
ở lần động dục đầu tiên vì ở thời kỳ này cơ thể lợn chưa phát triển đầy đủ,
chưa tích tụ được chất dinh dưỡng nuôi thai, trứng chưa chín một cách hoàn
chỉnh. Để đạt được hiệu quả sinh sản tốt và duy trì con cái lâu bền cần bỏ qua
1 - 2 chu kỳ động dục lần đầu rồi mới cho phối giống.
Đối với lợn nội (Ỉ, Móng Cái) thường phối giống lần đầu lúc 7 tháng
tuổi, khi lợn đạt khối lượng 45 - 50kg. Lợn lai phối giống lúc 8 tháng tuổi với
khối lượng 65 - 70kg, nái ngoại cho phối giống lúc 9 tháng tuổi, khối lượng
cơ thể đạt 80 - 90kg.
Thường cho phối giống vào lần động dục thứ 2 - 3 trở đi. Nếu phối
giống quá sớm sẽ ảnh hưởng đến tầm vóc và sức khỏe của lợn mẹ. Nhưng nếu
phối giống quá muộn sẽ lãng phí về kinh tế, ảnh hưởng đến sinh sản của lợn.
* Tuổi đẻ lứa đầu

Theo Lê Hồng Mận và cs (2004) [16] thig Lợn Ỉ, Móng Cái cho đẻ lứa
đầu vào 11 - 12 tháng tuổi, lợn nái lai, ngoại cho đẻ vào lúc 12 tháng tuổi,
không nên để quá 14 tháng tuổi.
* Chu kỳ động dục của lợn nái và động dục trở lại sau khi đẻ
Chu kỳ tính dục của lợn nái thường khoảng 19 - 21 ngày. Thời gian động
dục thường kéo dài 3 - 4 ngày (lợn nội) hoặc 4 - 5 ngày (lợn lai, lợn ngoại).
Lê Hồng Mận (2004) [14] cho biết: thường sau khi cai sữa lợn con 3 - 5
ngày, lợn mẹ sẽ động dục trở lại.


13

* Chu kỳ sinh dục và thời điểm phối giống thích hợp
- Chu kỳ tính
Sau khi thành thục về tính, những biểu hiện tính dục của lợn được diễn
ra liên tục và có tính chu kỳ. Các noãn bào trên buồng trứng phát triển, lớn
dần, chín và nổi cộm trên bề mặt buồng trứng. Khi vỡ, trứng rụng gọi là sự
rụng trứng. Mỗi lần trứng rụng con cái có những biểu hiện ra bên ngoài gọi là
động dục. Do trứng rụng có tính chu kỳ nên động dục cũng theo chu kỳ
(Khuất Văn Dũng, 2005) [7].
Theo Hoàng Toàn Thắng và Cao Văn (2006) [28]: Chu kỳ động dục
của gia súc chia làm 4 giai đoạn:
+ Giai đoạn trước động dục: Đây là giai đoạn đầu của chu kỳ sinh dục
lúc này buồng trứng to hơn bình thường. Các tế bào của vách ống dẫn trứng
tăng cường sinh trưởng, số lượng lông nhung tăng lên. Đường sinh dục xung
huyết, nhu động sừng tử cung tăng lên, dịch nhầy ở âm đạo tăng nhiều. Giai
đoạn này tính hưng phấn chưa cao. Khi noãn bào chín, tế bào trứng được tách
ra, sừng tử cung co bóp mạnh, cổ tử cung mở hoàn toàn. Niêm dịch ở đường
sinh dục chảy ra nhiều lúc này con vật bắt đầu xuất hiện tính dục.
+ Giai đoạn động dục: Lúc này cơ thể gia súc cái và cơ quan sinh dục

có biểu hiện hàng loạt những biến đổi sinh lý. Bên ngoài âm hộ phù thũng,
niêm mạc xung huyết. Niêm dịch trong suốt từ trong chảy ra nhiều con vật
biểu hiện tính hưng phấn cao độ, gia súc không yên tĩnh, ăn uống giảm, kêu
giống, phá chuồng, nhảy lên lưng con khác, thích gần con đực. Giai đoạn này
tế bào trứng ra khỏi buồng trứng gặp tinh trùng sẽ được thụ thai thì chu kỳ sẽ
dừng lại. Gia súc cái trong giai đoạn có thai đến khi đẻ xong thì chu kỳ tính
không xuất hiện.
+ Giai đoạn sau động dục: Giai đoạn này cơ thể gia súc và cơ quan sinh
dục dần dần trở lại bình thường. Các phản xạ động dục, tính hưng phấn dần
mất hẳn, con vật chuyển sang thời kỳ yên tĩnh hoàn toàn.
+ Giai đoạn nghỉ ngơi: Đây là giai đoạn dài nhất, các biểu hiện về tính
của gia súc ở thời kỳ này yên tĩnh hoàn toàn. Thời kỳ này cơ quan sinh dục
không có biểu hiện hoạt động, trong buồng trứng thể vàng teo đi, noãn trong


14

buồng trứng bắt đầu phát dục và lớn lên, các cơ quan sinh dục đều ở trạng thái
sinh lý.
Trong chăn nuôi lợn nái sinh sản, nắm được chu kỳ và các giai đoạn
của quá trình động dục sẽ giúp cho người chăn nuôi có chế độ nuôi dưỡng,
chăm sóc cho phù hợp và phối giống kịp thời, đúng thời điểm, từ đó góp phần
nâng cao năng suất sinh sản của lợn nái.
- Thời điểm phối giống thích hợp
Đối với lợn nái ngoại và lợn nái lai cho phối vào chiều ngày thứ 3
và sáng ngày thứ 4, tính từ lúc bắt đầu động dục. Đối với lợn nái nội, sớm
hơn một ngày vào cuối ngày thứ 2 và sáng ngày thứ 3.
Nguyễn Hữu Ninh và cs. (2002) [18] cho biết: Thời điểm phối giống ảnh
hưởng đến tỷ lệ đậu thai và sai con. Phối sớm hoặc phối muộn đều cho kết
quả kém, nên cho nhảy kép hoặc thụ tinh nhân tạo kép vào thời điểm tối ưu.

* Sinh lý mang thai và đẻ
- Quá trình mang thai
Thời gian mang thai của lợn trung bình là 114 ngày (113 - 116 ngày),
khi mang thai thì thể vàng tồn tại và tiết ra kích tố Progesteron ức chế sự phát
triển của noãn bao. Do đó con vật có chửa sẽ không động dục và không rụng
trứng. Nguyễn Văn Trí (2008) [26] cho rẳng: thời gian chửa của lợn nái được
chia làm hai thời kì:
+ Chửa kỳ I: là thời gian lợn có chửa từ ngày thứ 1 đến ngày thứ 84
+ Chửa kỳ II: là thời gian lợn chửa từ ngày 85 đến khi đẻ.
- Quá trình đẻ
Theo Trần Tiến Dũng và cs. (2002) [6] thì gia súc cái mang thai trong
một thời gian nhất định tùy theo loài gia súc, khi nào bào thai phát triển đầy
đủ dưới tác động của thần kinh - thể dịch, con mẹ sẽ xuất hiện những cơn rặn
đẻ để đẩy bào thai, nhau thai và các sản phẩm trung gian ra ngoài, quá trình
này gọi là quá trình sinh đẻ.
Khi gần đẻ con cái sẽ có những biểu hiện: trước khi đẻ 1 - 2 tuần nút
niêm dịch cổ tử cung, đường sinh dục lỏng, sánh và dính chảy ra ngoài. Trước
khi đẻ 1 - 2 ngày, cơ quan sinh dục bên ngoài bắt đầu có những thay đổi: âm


15

môn phù to, nhão ra và xung huyết nhẹ, đầu núm vú to, bầu vú căng to, sữa
bắt đầu tiết.
Ở lợn, sữa đầu là một trong những chỉ tiêu quan trọng để xác định thời
gian gia súc đẻ:
+ Trước khi đẻ 3 ngày, hàng vú giữa vắt ra nước trong.
+ Trước khi đẻ 1 ngày, hàng vú giữa vắt ra sữa đầu.
+ Trước khi đẻ 12 giờ, hàng vú trước vắt ra sữa đầu.
+ Trước khi đẻ 2 – 3 giờ, hàng vú sau vắt ra sữa đầu.

2.2.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến sự nhiễm bệnh của lợn nái
2.2.2.1. Thiếu sót về dinh dưỡng
Khẩu phần thiếu hay thừa protein trước, trong thời kỳ mang thai có ảnh
hưởng đến viêm tử cung.
Lợn nái sử dụng quá nhiều tinh bột, gây đẻ khó, gây viêm tử cung
ngược lại thiếu dinh dưỡng lợn nái sẽ ốm yếu, sức đề kháng giảm không
chống lại vi trùng xâm nhập cũng gây viêm tử cung.
Khoáng chất, vitamin ảnh hưởng đến viêm tử cung. Thiếu vitamin A sẽ
gây sừng hóa niêm mạc, sót nhau.
Theo Nguyễn Quang Tính (2004) [28], sức đề kháng của cơ thể phụ
thuộc trước hết vào chế độ dinh dưỡng. Dinh dưỡng cần đảm bảo đủ cả về
lượng và về chất.
2.2.2.2. Chăm sóc quản lý
- Thường xuyên vệ sinh chuồng trại, tắm rửa giữ sạch sẽ thân thể lợn
nái, thụt rửa tử cung khi sinh, sử dụng nước sạch làm giảm tỷ lệ viêm tử cung.
- Viêm tử cung: Vi khuẩn từ môi trường xâm nhập vào cơ quan sinh
dục của lợn nái trong quá trình sinh đẻ (nhất là khi thời gian đẻ của lợn nái
kéo dài trên 4 giờ), hoặc do người dùng can thiệp trong quá trình đỡ đẻ gây
trầy xước bên trong đường sinh dục của lợn nái. Hiện tượng sót nhau hay sót
con nếu không can thiệp kịp thời cũng sẽ gây bệnh viêm tử cung gia súc.
- Viêm vú: Trong điều kiện chuồng trại, vệ sinh môi trường khu vực
chăn nuôi kém, vi khuẩn có thể xâm nhập trực tiếp qua ống dẫn sữa ở bầu vú,


16

hoặc theo đường máu từ các vết trầy, vết thương bị nhiễm trùng khác trên cơ
thể gia súc để gây viêm.
2.2.2.3. Tiểu khí hậu chuồng nuôi
- Nhiệt độ và độ ẩm môi trường chuồng nuôi có ảnh hưởng rất lớn đến

khả năng sinh sản của gia súc, liên quan trực tiếp đến sức khỏe, khả năng rụng
trứng của lợn nái. Do đó, việc tạo bầu tiểu khí hậu thích hợp trong chuồng
nuôi là yêu cầu cần thiết.
- Thời tiết khí hậu quá nóng hay quá lạnh trong thời gian đẻ dễ đưa đến
viêm tử cung.
Ngoài ra còn do các yếu tố khác như: Tuổi, lứa đẻ, tình trạng sức khỏe;
nhiễm trùng sau khi sinh; đường xâm nhiễm; kích dục tố.
2.2.3. Một số bệnh sản khoa thường gặp ở lợn nái sinh sản
2.2.3.1. Bệnh viêm tử cung (Metritis)
* Đặc điểm: Bệnh viêm tử cung xảy ra trên các giống lợn nội, ngoại
khác nhau. Lợn nái đẻ ít lứa, nhiều lứa hay đang nuôi con đều có thể mắc
bệnh song tỷ lệ mắc bệnh phụ thuộc vào yếu tốt vệ sinh, chăm sóc nuôi
dưỡng, các khu động thực vật ở mỗi vùng là khác nhau, đặc biệt là công tác
vệ sinh thú y.
* Nguyên nhân: Bệnh viêm tử cung ở lợn thường xảy ra sau khi đẻ, có
thể xảy ra ở những lợn nái sau khi phối giống, xảy ra cả với những lợn nái
hậu bị. Bệnh do những nguyên nhân chính sau:
+ Trong quá trình chửa, lợn nái ăn khẩu phần nhiều chất dinh dưỡng, ít
vận động hoặc nhiễm một số bệnh truyền nhiễm như: Leptospirosis (lợn
nghệ), Brucellosis (sảy thai truyền nhiễm), Pavrovirus và một số bệnh nhiễm
khuẩn khác… làm cho cơ thể lợn nái yếu dẫn đến việc đẻ khó, hay sảy thai,
thai chết lưu gây viêm tử cung. Trong quá trình đẻ, điều kiện vệ sinh kém, sự
can thiệp đỡ đẻ không đúng kỹ thuật, nhau thai bị sót lại là nguyên nhân dẫn
đến lợn nái bị viêm dạ con (Nguyễn Đức Lưu và cs., 2004) [13].
+ Trương Lăng (2000) [8] cho biết: Streptococcus và Colibacillus
nhiễm qua cuống rốn, đẻ khó, sảy thai, sót nhau hay qua dụng cụ thụ tinh
nhân tạo cũng gây xây sát, tạo các ổ viêm nhiễm trong âm đạo và tử cung.


17


Trong tinh dịch bị nhiễm khuẩn và dụng cụ thụ tinh không vô trùng đã đưa
các vi khuẩn gây viêm nhiễm vào bộ phận sinh dục của lợn nái, do lợn đực
nhảy trực tiếp mà niệu quản và dương vật bị viêm cũng là nguyên nhân dẫn
đến viêm tử cung của lợn nái.
+ Theo Lê Hồng Mận (2006) [12] thì khi lợn đẻ, cổ tử cung, mép âm hộ
bị rách, bị nhiễm trùng kế phát gây viêm. Chuồng đẻ nền bẩn, dây rốn lợn con
và nhau thai nhiễm trùng rồi co thụt vào gây viêm tử cung.
+ Đoàn Thị Kim Dung và cs. (2002) [4] còn cho biết: nguyên nhân gây
viêm tử cung chủ yếu do tụ cầu vàng (Staphylococcus aureus), liên cầu dung
huyết (Staphylococcus hemolitica) và các loại Proteus vulgais, Klebsiella,
E.coli dung huyết, trùng roi (Trichomonas) và do nấm Candida albicans.
+ Còn Nguyễn Văn Thanh (2007) [20] khẳng định rằng việc dùng tay
móc thai khi lợn đang đẻ nhằm rút ngắn thời gian xổ thai của lợn mẹ là
nguyên nhân chính gây ra bệnh viêm tử cung ở đàn nái nuôi theo mô hình
trang trại hiện nay.
* Triệu chứng: Bệnh xảy ra ở tất cả các giống lợn và ở các giai đoạn
khác nhau nhưng thường xảy ra ở giai đoạn sau khi sinh từ 1 - 10 ngày.
Theo Nguyễn Văn Thanh (2007) [16], khi lợn nái bị viêm các chỉ tiêu
lâm sàng như thân nhiệt, tần số hô hấp đều tăng so với lợn nái bình thường.
Lợn bị sốt theo quy luật lên xuống. Sáng sốt nhẹ 39 - 39,5°C, chiều 40 - 41°C.
Con vật ăn kém, sản lượng sữa giảm, có khi con vật cong lưng rặn như rặn
đái, từ cơ quan sinh dục chảy ra niêm dịch lẫn nhiều lợn cợn, mùi hôi tanh, có
máu trắng đục, hồng hay nâu đỏ. Khi nằm lượng niêm dịch chảy ra nhiều hơn.
Trong trường hợp thai chết lưu, âm đạo sưng tấy, đỏ, có chứa dịch tiết màu
vàng sẫm, nâu và có mùi hôi thối. Xung quanh âm hộ và mép đuôi dính bết
niêm dịch, có khi niêm dịch khô đóng thành vẩy trắng, lợn nái mệt mỏi, đi lại
khó khăn.
Triệu chứng viêm tử cung thể hiện qua 3 thể: Viêm nội mạc tử cung
(thể nhẹ), viêm cơ tử cung (thể trung bình), viêm tương mạc tử cung (thể

nặng) với các biểu hiện cụ thể được trình bày trong bảng 2.1.


18

Bảng 2.1: Biểu hiện lâm sàng của bệnh viêm tử cung
Các chỉ tiêu

Viêm nội mạc

Viêm cơ

Viêm tương
mạc

Sốt nhẹ

Sốt cao

Sốt rất cao

Màu

Trắng xám,
trắng sữa

Hồng, nâu đỏ

Nâu rỉ sắt


Mùi

Tanh

Tanh thối

Thối khắm

Phản ứng đau

Đau nhẹ

Đau rõ hơn

Rất đau

Phản ứng

Phản ứng

Phản ứng

Phản ứng

co cơ tử cung

co giảm

co rất yếu


co mất hẳn

Bỏ ăn

Bỏ ăn

Bỏ ăn một phần
hoặc hoàn toàn

Bỏ ăn hoàn toàn

phân biệt
Sốt
Dịch
viêm

(Theo Trần Tiến Dũng và cs (2002) [7] )
* Hậu quả của bệnh viêm tử cung
Bệnh viêm tử cung ở lợn nái là một trong những tổn thương đường sinh
dục của lợn nái sau khi sinh, ảnh hưởng rất lớn đến khả năng sinh sản, làm
mất sữa, lợn con không có sữa sẽ còi cọc, suy dinh dưỡng, chậm phát triển.
Lê Thị Tài và cs (2002) [27] cho rằng: đây là một bệnh khá phổ biến ở gia súc
cái. Nếu không được chữa trị kịp thời thì sẽ ảnh hưởng đến khả năng thụ thai
và sinh sản của gia súc cái.
Viêm tử cung là một trong những yếu tố gây vô sinh, rối loạn chức
năng cơ quan sinh dục vì các quá trình viêm ở trong dạ con cản trở sự di
chuyển của tinh trùng tạo độc tố có hại cho tinh trùng như: Spermiolisin (độc
tố làm tiêu tinh trùng). Các độc tố của vi khuẩn, vi trùng và các đại thực bào
tích tụ gây bất lợi với tinh trùng, ngoài ra nếu có thụ thai được thì phôi ở
trong môi trường dại con bất lợi cũng dễ bị chết non.

Quá trình viêm xảy ra trong giai đoạn có chửa là do biến đổi bệnh lý
trong cấu trúc của niêm mạc (teo niêm mạc, sẹo trên niêm mạc, thoái hóa niê
mạc…) dẫn đến phá vỡ hàng rào bảo vệ giữa bào thai và dạ con nên qua các


19

chỗ tổn thương, vi khuẩn cũng như các độc tố do chúng tiết ra làm cho bào
thai phát triển không bình thường.
Theo Trần Thị Dân (2004) [3], Trần Tiến Dũng và cs. (2002) [6], khi
lợn nái bị viêm tử cung sẽ dẫn tới những hậu quả chính như: Sẩy thai, bào thai
phát triển kém hoặc thai chết lưu, giảm sức đề kháng và khả năng sinh trưởng
của lợn con theo mẹ, ảnh hưởng đến khả năng động dục trở lại.
* Chẩn đoán viêm tử cung
Theo Nguyễn Đức Lưu và cs. (2004) [10]: Dựa vào những triệu chứng
lâm sàng để chẩn đoán bệnh, ngoài ra ta thấy lợn nái có những biểu hiện mất
sữa, âm đạo có những dịch tiết không bình thường, ở âm đạo sẽ thấy những
miếng nhau thai sót hoặc thai chết lưu, ở tử cung mùi hôi thối đặc biệt khi
kiểm tra qua trực tràng có thể cảm thấy một hoặc hai sừng tử cung sưng to,
thành tử cung dày, khi sờ vào phản ứng co lại của sừng tử cung yếu. Nếu
trong tử cung có tích nước thẩm xuất thì sờ vào thấy có vỗ sóng.
Mỗi thể viêm khác nhau biểu hiện triệu chứng khác nhau và có mức độ
ảnh hưởng khác nhau tới khả năng sinh sản của lợn nái. Để hạn chế tối đa hậu
quả do viêm tử cung gây ra cần phải chẩn đoán chính xác mỗi thể viêm, từ đó
đưa ra phác đồ điều trị tối ưu nhất, thời gian điều trị ngắn, chi phí điều trị thấp
nhất nhằm đạt được hiệu quả điều trị cao nhất.
* Phòng và điều trị bệnh viêm tử cung
- Phòng bệnh viêm tử cung
Theo Trần Văn Phùng và cs. (2004) [24] thì công tác phòng bệnh cần
phải tiến hành: Vệ sinh chuồng nái đẻ sạch sẽ 1 tuần trước khi đẻ. Tắm cho

lợn nái trước khi đẻ, vệ sinh sạch sẽ bộ phận sinh dục và bầu vú.
Trong khi đỡ đẻ bằng tay phải sát trùng kĩ bằng cồn hoặc rượu và được
bôi trơn bằng Vazơlin hoặc dầu lạc. Trong trường hợp đẻ khó phải can thiệp
bằng dụng cụ trợ sản thì dụng cụ phải sạch sẽ và phải được vô trùng.
Can thiệp đẻ khó, thao tác phải nhẹ nhàng và đúng kỹ thuật. Khi lợn đẻ
xong nên dùng dung dịch nước muối sinh lý 0.5% để rửa sạch bộ phận sinh
dục của lợn. Sau đó bơm hoặc đặt thuốc kháng sinh như: Penicillin 2 - 3 triệu
UI, Tetramycine hay Sulfanilamid 2 - 5g vào tử cung để chống viêm.


×