1
PHÂN HÓA GIÀU NGHÈO Ở KHU VỰC BIÊN GIỚI NƯỚC
TA HIỆN NAY
Công cuộc đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước do Đảng ta
khởi xướng và lãnh đạo hơn 30 năm qua đã đem lại cho đất nước ta những
thành tựu to lớn trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội từ chính trị, kinh
tế đến văn hóa, xã hội…Trong quá trình tiến hành công cuộc đổi mới đất
nước, việc thực hiện nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã
tạo nên những biến đổi kinh tế - xã hội rộng lớn. Sự biến đổi này diễn ra trên
nhiều nội dung tập trung ở những nội dung chủ yếu là biến đổi cơ cấu xã hội;
phân tầng xã hội và biến đổi chuẩn mực xã hội. Những biến đổi xã hội với
những nội dung chủ yếu nêu trên, một mặt phản ánh tính tất yếu của quá trình
phát triển xã hội ở nước ta trong giai đoạn hiện nay một mặt, có những tác
động tích cực tới tiến trình phát triển chung của đất nước nhưng mặt khác, nó
cũng đưa tới nhiều hệ lụy xã hội cần phải nhận diện và khắc phục. Một trong
những hệ lụy xã hội biểu hiện rõ rệt hiện nay chính là sự phân tầng xã hội mà
nội dung cốt lõi là phân tầng về kinh tế, thực chất là phân hóa giàu nghèo.
Qua hơn 30 năm tiến hành công cuộc đổi mới đất nước, từ một nước
nông nghiệp nghèo nàn lạc hậu, phải nhận viện trợ lương thực từ bên ngoài,
nước ta đã có những bước tiến vượt bậc về kinh tế - xã hội với tốc độ tăng
trưởng kinh tế khá cao( tính từ năm 2000 đến 2010 tốc độ tăng trưởng kinh tế
bình quân hàng năm là 7,26%), đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân
ngày càng được cải thiện rõ rệt. Tuy vậy, đi sâu vào bức tranh chung đó, theo
số liêu thống kê và tổng kết của các cơ quan chức năng thì sự chênh lệch giàu
nghèo, phân hóa giàu nghèo ở nước ta cũng đang có xu hướng tăng lên. Phân
hóa giàu nghèo - "mặt tiêu cực" của kinh tế thị trường, đã và đang làm tăng
thêm tính phức tạp xã hội, gây cản trở cho việc huy động và phát huy sức
2
mạnh toàn dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc nói chung cũng
như sự nghiệp xây dựng nền quốc phòng toàn dân nói riêng. Sự phân hóa giàu
nghèo và chênh lệch về mức sống cũng đã và đang tác động trực tiếp tới khu
vực biên giới nước ta, vốn là khu vực có trình độ phát triển kinh tế - xã hội và
mức sống thấp nhất so với các vùng khác trong cả nước. Nó không chỉ làm
nảy sinh các nhân tố gây mất ổn định ở khu vực này mà còn tác động tới tâm
lý, tư tưởng, ảnh hưởng tới quá trình khơi dậy, phát huy nhân tố chính trị tinh
thần của toàn thể nhân dân các dân tộc ở khu vực biên giới, từ đó tác động
trực tiếp đến việc xây dựng "thế trận lòng dân" ảnh hưởng tới sự nghiệp bảo
vệ chủ quyền an ninh biên giới quốc gia. Chính vì vậy, vấn đề "phân hóa giàu
nghèo và tác động của nó tới việc xây dựng "thế trận lòng dân" ở khu vực
biên giới nước ta hiện nay" là vấn đề cần quan tâm nghiên cứu
I. Phân hóa giàu nghèo và sự phân hóa giàu nghèo ở nước ta hiện
nay.
1. Một số nhận thức chung về phân hóa giàu nghèo và quan niệm về
phân hóa giàu nghèo ở nước ta
Phân hóa giàu nghèo là một vấn đề xã hội tất yếu của mọi xã hội loài
người. Bởi lẽ cứ có sự phân công lao động xã hội là có sự phân hóa giàu
nghèo. Phân hóa giàu nghèo xét về thực chất là sự phân tầng xã hội về kinh
tế, nó diễn ra cùng với những biến đổi xã hội, tức là diễn ra cùng với sự thay
đổi về mặt xã hội của một nhóm xã hội, một cộng đồng hoặc toàn bộ xã hội,
sự thay đổi về xã hội so với trước, khác trước, quá trình thay đổi kết cấu xã
hội, tính chất quan hệ xã hội…
Xét về mặt lịch sử, giàu nghèo vốn đã xuất hiện từ rất sớm trong lịch sử
xã hội loài người, ngay từ khi con người có khả năng tạo ra được sản phẩm
3
lao động thặng dư và có người chiếm đoạt lao động thặng dư của người khác
để cuộc sống của mình trở nên khá giả hơn. Chính quá trình phân công lao
động xã hội thúc đã đẩy quá trình phân hóa giàu nghèo trở nên sâu sắc và
mạnh mẽ.
Là một hiện tượng xã hội mang tính lịch sử nên tính chất, mức độ, hình
thức biểu hiện của phân hóa giàu nghèo tùy thuộc vào điều kiện kinh tế, chính
trị, văn hóa, xã hội của từng quốc gia, từng cộng đồng người trong từng thời
điểm cụ thể. Phân hóa giàu ngèo là một hiện tượng xã hội ánh quá trình phân
chia xã hội thành các nhóm xã hội có điều kiện kinh tế khác biệt nhau, thể
hiện trong xã hội có nhóm giàu, nhóm đủ ăn và nhóm nghèo đói. Phân hóa
giàu nghèo không chỉ là vấn đề kinh tế mà còn là vấn đề chính trị, văn hóa,
xã hội của thế giới và từng quốc gia dân tộc trong tiến trình phát triển. Nó ẩn
chứa những mầm mống của xung đột xã hội, sự đối lập giàu nghèo trong xã
hội như là căn nguyên trực tiếp, hiển hiện của các cuộc bạo động xã hội.
Trên cơ sở những nhận thức chung về phân hóa giàu nghèo, kế thừa
những thành quả nghiên cứu về phân hóa giàu nghèo của nhân loại, trong
nghiên cứu phân hóa giàu nghèo ở nước ta hiện nay để có được cái nhìn
khách quan, khoa học và toàn diện phải đứng vững trên lập trường thế giới
quan, phương pháp luận duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, lý luận hình thái
- kinh tế xã hội, quan điểm giai cấp của học thuyết Mác-Lênin; thấm nhuần tư
tưởng Hồ Chí Minh và đường lối quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam.
Nói cách khác, nghiên cứu phân hóa giàu nghèo phải xuất phát từ sản xuất vật
chất của xã hội, nắm vững lý luận về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội nói
chung cũng như đặc điểm của thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước
ta nói riêng; nghiên cứu phân hóa giàu nghèo phải đặt trong nghiên cứu về
phân tầng xã hội, đặt trong nghiên cứu biến đổi cơ cấu xã hội - giai cấp ở
nước ta hiên nay…
4
Mặc dù sự phân tầng xã hội, phân hóa giàu nghèo là không tránh khỏi
nhưng ở Việt Nam việc nghiên cứu khoa học về phân hóa giàu nghèo và sự
phân tầng xã hội mới thực sự bắt đầu sau khi Đảng và Nhà nước ta chính thức
tiến hành công cuộc đổi mới toàn diện đời sống kinh tế - xã hội của đất nước
vào năm 1986.
Thực tiễn, song song với tiến trình đổi mới đất nước, việc phát triển
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã khơi dậy và phát huy
được tính năng động xã hội, phát huy tính năng động, sáng tạo của người lao
động trong tìm kiếm việc làm, tăng thu nhập nhưng đồng thời nó cũng tạo
nên khoảng cách thu nhập giữa các nhóm xã hội, tạo nên xu thế phân hóa giàu
nghèo. Cùng với quá trình biến đổi của cơ cấu xã hội - giai cấp theo tiến trình
đổi mới, quá trình phân hóa giàu nghèo ở nước ta hiện nay đã và đang xâm
nhập, chia nhỏ các giai tầng xã hội thành nhóm giàu, nhóm nghèo. Đến nay
trong tất cả các giai tầng xã hội đã có sự phân hóa giàu nghèo với hình thức
và tính chất khác nhau.
Cụ thể, về hình thức: sự phân hoá giàu nghèo và phân tầng xã hội có
biểu hiện dưới nhiều hình thức: đơn giản nhất và dễ nhìn thấy nhất là những
người giàu, nhà giàu sống trong trung tâm thành phố và những người nghèo,
nhà nghèo sống ở ngoại ô thành phố, thậm chí trong những khu nhà tạm bợ
“ổ chuột”. Dưới hình thức phức tạp, tinh vi là sự phân chia thành các giai cấp
như giai cấp công nhân và nông dân; các giai tầng như tầng lớp trí thức, tầng
lớp thương nhân, tầng lớp doanh nhân; các nhóm nghề nghiệp như bác sỹ, kỹ
sư, giáo viên, thợ thủ công, những người làm công ăn lương trong cơ quan
nhà nước, những người làm việc; và cả sự phân tầng xã hội thành những giai
tầng lãnh đạo, quản lý và những giai tầng bị lãnh đạo, quản lý. Về tính chất,
sự phân hóa giàu nghèo có xu hướng diễn ra ngày càng sâu sắc ngay trong nội
bộ từng giai tầng và giữa cả giữa các giai tầng trong toàn xã hội
5
Điều quan trọng nhất là sự phân hoá giàu nghèo vừa là kết quả vừa là
tác nhân của sự sự phân tầng xã hội. Những người giàu có điều kiện đầu tư
cho việc học tập và nâng cao sức khoẻ, nhờ vậy họ sẽ có năng lực để tiếp cận
thị trường và kiếm được việc làm có thu nhập cao. Trong khi đó, người nghèo
không có điều kiện học tập và sức khoẻ yếu nên khó tìm được việc làm có thu
nhập cao mà thường phải làm những công việc ít tiền với vị thế xã hội không
cao. Như thế có nghĩa là sự chênh lệch giàu nghèo là nguyên nhân của sự
phân tầng xã hội và ngược lại.
Sự phân tầng xã hội đã xảy ra trong thời kỳ quản lý kinh tế theo cơ chế
tập trung quan liêu bao cấp. Trong kinh tế thị trường kể cả khi được sự định
hướng và điều chỉnh của nhà nước, sự phân tầng xã hội, phân hóa giàu nghèo
vẫn xảy ra một cách tất yếu với các hình thức biểu hiện rất khác nhau mà hệ
lụy xã hội của nó đã và đang trực tiếp tác động tới mọi mặt của đời sống xã
hội. Phân hóa giàu nghèo trong cơ chế thị trường có mặt tích cực là tạo nên
sự đua tranh về kinh tế, động lực thúc đẩy khai thác mọi nguồn lực xã hội để
phát triển sản xuất, nâng cao đời sống; giúp nhau xóa đói giảm nghèo tạo nên
một phong trào xã hội mang dậm tính nhân văn, tính dân tộc. Tuy nhiên, phân
hóa giàu nghèo cũng chính là cơ sở kinh tế cho bất bình đẳng xã hội phát
triển; Nó làm tăng thêm tính phức tạp xã hội, góp phần làm gia tăng các tệ
nạn xã hội như đặc quyền, đặc lợi, tham ô, tham nhũng, buôn lậu, trốn thuế,
bệnh thành tích, không công khai, mất dân chủ… Phân hóa giàu nghèo còn
ảnh hưởng tiêu cực đến việc hình thành chuẩn mực xã hội mới, nó tạo ra xu
hướng sống đề cao, sùng bái các giá trị vật chật, coi nhẹ giá trị nhân văn, đẩy
nhanh quá trình hình thành và phát triển lề thói thực dụng, hình thành tâm lý
"sài lang" trong sinh hoạt hàng ngày. Phân hóa giàu nghèo đã đưa tới việc
hình thành tâm trạng xã hội không thuận lợi cho việc huy động sức mạnh toàn
dân phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Nó hướng sự chú ý của
6
dư luận xã hội vào vấn đề "giàu nghèo" dẫn đến giảm bớt và lãng quên vấn đề
giai cấp, biến đổi giai cấp xã hội và đấu tranh giai cấp, nó góp phần hình
thành nên cơ sở kinh tế, xã hội của trạng thái thờ ơ chính trị - xã hội trong xã
hội…
Rõ ràng, nghiên cứu để hiểu rõ các đặc điểm, tính chất của sự phân hóa
giàu nghèo, các nguyên nhân và hậu quả của chúng là rất cần thiết. Điều đó sẽ
giúp đề xuất được những giải pháp để có thể xoá đói, giảm nghèo và giảm
mức độ chênh lệch giàu nghèo, đồng thời điều chỉnh được sự phân tầng xã
hội theo hướng phát triển bền vững và công bằng xã hội. Đặc biệt nếu xác
định được xu hướng biến đổi mô hình phân tầng xã hội thì có thể chủ động và
tích cực thúc đẩy sự phân tầng xã hội theo hướng có lợi cho sự phát triển tự
do của mỗi người, mỗi thành viên trong cơ cấu xã hội, qua đó phát huy tính
năng động, sáng tạo của mỗi người và của toàn xã hội tham gia hiệu quả vào
sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
2. Tình hình phân hóa giàu nghèo ở nước ta hiện nay và quan điểm
của Đảng ta về xóa đói, giảm nghèo
Sau hơn 25 năm đổi mới, nền kinh tế nước ta đã đạt được những thành
tựu rất to lớn. Chỉ tính riêng từ năm 2001 đến năm 2010, "Kinh tế tăng trưởng
nhanh đạt tốc độ bình quân 7,26%/năm… Tổng sản phẩm trong nước (GDP)
năm 2010 theo giá thực tế gấp 3,26 lần so với năm 2000; thu ngân sách, kim
ngạch xuất khẩu tăng 5 lần so với năm 2000; GDP bình quân đầu người năm
2010 đạt 1.168 USD"1. Mức thu nhập bình quân đầu người cũng liên tục tăng
trong phạm vi cả nước. Cụ thể: thu nhập bình quân đầu người của Việt nam
tăng từ 295 nghìn đồng/người lên đến 995.500đ/người năm 2008; theo đó thu
nhập bình quân đầu người của cả nông thôn và thành thị cũng lần lượt tăng
1
ĐCSVN: Văn kiện Đại hội ĐBTQ lần thứ XI, Nxb CTQG, H, 2011, tr.20
7
lên (xem bảng 1). Bên cạnh đó chúng ta đã giảm được tỷ lệ hộ nghèo từ
58,1% năm 1993 xuống 12,3% năm 2009.
Bảng 1. Thu nhập bình quân đầu người từ 1999-2008 (nghìn đồng)2
TT
Tỷ lệ hộ nghèo
1999
2002
2004
2006
2008
1
Cả nước
295
356
484
636
995
2
Thành thị
517
622
815
1058
1605
3
Nông thôn
225
275
378
506
762
Nguồn: Niên giám thống kê 2009, Nxb Thống kê, 2010
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đã đạt được thì chênh lệch về
mức sống giữa nhóm giàu với nhóm nghèo có xu hướng dãn ra ngày càng sâu
sắc. Theo báo cáo của Tổng cục thống kê, chênh lệch giữa 20% nhóm thu
nhập cao nhất với 20% nhóm thu nhập thấp nhất đã tăng từ 7,0 lần năm 1995
lên 8,9 lần năm 2009 (xem bảng 2). Ở thành thị và nông thôn, khoảng cách
này lần lượt là 8,2 lần lên 8,3 lần và từ 6,5 lần đến 6,9 lần trong cùng giai
đoạn. Trừ Tây Nguyên, mọi khu vực kinh tế khác đều có mức chênh lệch giàu
nghèo gia tăng.
Bảng 3. Thu nhập bình quân đầu người/tháng chia theo 5 nhóm thu nhập ở
Việt Nam3
Đơn vị tính: 1000 VNĐ
Năm
Chung
Nhóm 1
Nhóm 2
Nhóm 3
Nhóm 4
Nhóm 5
Chênh lệch 5/1
2002
356,1
107,7
178,3
178,3
251,0
370,5
8,1
2004
448,4
141,8
240,7
240,7
347,0
514,2
8,3
2
3
Nguồn niên giám thống kê 2009, Nxb Thống kê, 2010
Nguồn: Tổng cục thống kê. Kết quả điều tra mức sống hộ gia đình năm 2008. Hà Nội. 2010
8
2006
636,5
184,3
318,9
318,9
458,9
678,6
8,4
2008
995,2
275,0
477,2
477,2
699,9
1067,4
8,9
Nguồn: Tổng cục thống kê. Kết quả điều tra mức sống hộ gia đình năm 2008
Như vậy, với việc tỷ lệ hộ nghèo ngày càng giảm và so với mức sống
còn thấp ở Việt Nam thì mức chênh lệch giàu nghèo gần 9 lần như vậy là rất
cao và đang là mối quan tâm của toàn xã hội bởi vì phân hoá giàu nghèo gắn
liền với phân tầng xã hội và bất bình đẳng xã hội. Sự phân hóa giàu nghèo ở
nước ta còn thể hiện ở chỗ "trong khi thu nhập bình quân của người VN đạt
1,387 triệu đồng/người/tháng, thì nhóm nghèo nhất mỗi tháng một người chỉ
thu nhập 369.000 đồng, còn thu nhập trung bình của nhóm giàu nhất lên tới
trên 3,4 triệu đồng. Khoảng cách này đang dãn ra ngày càng rộng."4
Không chỉ giữa đô thị và nông thôn, mà ngay trong các vùng quê, chênh
lệch giàu nghèo ngày càng lớn. Kết quả điều tra hộ gia đình nông thôn năm
2010 tại 12 tỉnh trên cả nước của Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung
ương, vừa công bố ngày 6/7/2011, cũng cho thấy ngay trong những gia đình
nông thôn, giãn cách giàu nghèo ngày càng rộng. Đặc biệt chênh lệch giàu
nghèo giữa đồng bằng và miền núi, giữa địa bàn miền xuôi và địa bàn khu
vực biên giới, hải đảo cũng ngày một xa hơn. Theo số liệu điều tra năm năm
2009, thu nhập bình quân đầu người của Việt Nam đạt 1.100 USD và điều đó
cũng đồng nghĩa nước ta đã dần ra khỏi danh sách các nước nghèo, chậm phát
triển. Nhưng thực tế vẫn còn một bộ phận không nhỏ (trên 10 triệu người)
sống dưới ngưỡng nghèo trong đó tập trung chủ yếu ở vùng miền núi và
người dân tộc thiểu số. Nếu như "tỷ lệ nghèo chung của cả nước năm 2009 là
hơn 12 % thì tỷ lệ nghèo ở các xã đặc biệt khó khăn (ĐBKK) thuộc Chương
trình 135 giai đoạn II là 32,1%".5 Hiện nay, theo công bố mới nhất của Tổng
4
5
Tiền phong Online: chênh lệch giàu nghèo tại Việt Nam số ngày 8/7/2011
Tầm nhìn.Net: Rút ngắn khoảng cách giữa miền núi và đồng bằng, số ngày 3/6/2010
9
cục thống kê, về kết quả khảo sát mức sống hộ dân cư thì sự chênh lệch giàu
nghèo trong phạm vi cả nước ta đã lên tới 9,2 lần.
Xét trên các chỉ số đánh giá về chênh lệch giàu nghèo, cũng thấy rõ quá
trình phân hóa giàu nghèo ở Việt nam. Theo hệ số GINI của Việt Nam (hệ số
phản ánh sự bất bình đẳng trong phân phối thu nhập) thì năm 1994 hệ số này
là 0,35; năm 1995 là 0,357, năm 1996 là 0,362, năm 1999 là 0,390, năm 2002
là 0,420, năm 2004 là 0,423 và đến năm 2009 đã tăng lên đến 0,46. Theo tính
toán Hệ số GINI (G) có trị số nằm trong khoảng từ 0 đến 1; nếu G = 0 là
trường hợp bình đẳng hoàn hảo, trong khi đó G = 1 là bất bình đẳng hoàn
hảo. Như vậy căn cứ theo hệ số GINI nêu trên, có thể thấy sự bình đẳng đang
giảm dần và kéo theo đó sự bất bình đẳng đang tăng lên. Một chỉ số khác về
khoảng cách giàu nghèo trong xã hội là tỷ trọng tổng thu nhập của 40% số hộ
có thu nhập thấp nhất (nhóm 1 và nhóm 2) trong tổng thu nhập (của cả 5
nhóm). Theo quy ước mà Bộ Tài chính sử dụng, nếu tỷ trọng này nhỏ hơn hay
bằng 12% thì bất bình đẳng là cao; nằm trong khoảng 12 - 17%, là bất bình
đẳng vừa; nếu lớn hơn hay bằng 17% là tương đối bình đẳng. Số liệu thống
kê cho kết quả tỷ trọng này của Việt Nam năm 1995 là 21,1%; năm 1996 là
21%; năm 1999 là 18,7%; năm 2002 là 18%, năm 2004 là 17,4%. Trong 9
năm, sự chênh lệch về thu nhập giữa các nhóm hộ từ tương đối bình
đẳng đang tiến dần về bất bình đẳng vừa.
Mặt khác, hệ số chênh lệch thu nhập giữa các nhóm hộ có thu nhập cao
nhất và thấp nhất trong cả nước và tại một số vùng, theo kết quả điều tra của
Tổng cục Thống kê, trong các năm 1996 và 1999 như sau:
10
(Trong mười năm trở lại đây, không tìm thấy số liệu điều tra)
Rõ ràng, các số liệu, tính toán theo các phương pháp khác nhau đã nói
lên khá rõ về khoảng cách giàu nghèo trong xã hội và động thái của nó trong
thời gian qua ở nước ta. Khoảng cách giàu nghèo không phải chỉ là một chỉ
tiêu kinh tế, nó còn phản ánh sự gắn kết xã hội và là một thể hiện của sự bình
đẳng trong xã hội. Nói cách khác, nó là một chỉ số vừa của môi trường kinh tế
vừa của môi trường xã hội. Xã hội cần có đông lực để phát triển. Khoảng cách
giàu nghèo ắt sẽ nảy sinh. Nhưng sự bền vững của phát triển ở tất cả các
nước, và hơn thế nữa định hướng xã hội chủ nghĩa, không chấp nhận khoảng
cách giàu - nghèo đi vào phân cực quá một ngưỡng cho phép.
Nhận thức rõ thực trạng phân hóa giàu nghèo ở nước ta, cũng như
những hệ lụy xã hội mà nó mang lại đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc nên trong những năm vừa qua, Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều chủ
trương, biện pháp đúng đắn về xóa đói, giảm nghèo nhằm cải thiện, nâng cao
đời sống nhân dân, qua đó tạo cơ sở để thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội.
Quan điểm, chính sách của Đảng và Nhà nước ta về xóa đói, giảm nghèo dựa
trên những cơ sở chủ yếu là:
Thứ nhất, Đảng ta coi cơ sở phương pháp luận quan trọng và cơ bản
nhất để phân tích vấn đề đói nghèo và xóa đói giảm nghèo là giải phóng con
người khỏi mọi áp bức, bất công, thực hiện công bằng xã hội. Chủ nghĩa xã
hội là quá trình kiến tạo hạnh phúc và cũng là quá trình đấu tranh vì sự công
bằng, đấu tranh để thủ tiêu nguồn gốc bất công xã hội.
11
Thứ hai, Đảng và Nhà nước ta xác định rõ công bằng xã hội vừa là mục
tiêu vừa là động lực để phát triển. Công bằng xã hội không bó hẹp trong lĩnh
vực kinh tế mà liên quan tới tất cả các lĩnh vực kinh tế - chính trị - pháp luật văn hóa - xã hội. Công bằng xã hội phải được giải quyết và chỉ có thể được
giải quyết gắn liền với sự phát triển sản xuất, xây dựng xã hội thực sự dân
chủ, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, xây dựng nền văn hóa
tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc Việt Nam. Công bằng xã hội đòi hỏi phải huy
động mọi nguồn lực trong nhân dân, xã hội hóa nhiệm vụ đền ơn đáp nghĩa,
xây dựng và thực hiện tốt kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội trên cơ sở vừa
tăng nhanh tốc độ phát triển, vừa giảm dần sự mất cân đối giữa các vùng;
giảm dần khoảng cách về thu nhập, mức sống, hưởng thụ giáo dục, văn hóa,
bảo vệ sức khỏe của các tầng lớp dân cư ở các vùng khác nhau. Đặc biệt, công
bằng xã hội đòi hỏi phải thực hiện tốt chương trình xóa đói giảm nghèo, an
sinh xã hội.
Trong các văn kiện quan trọng của Đảng, vấn đề xóa đói giảm nghèo
được nhiều lần đề cập tới. Để bảo đảm và hướng tới công bằng xã hội, Đảng
ta khẳng định: khuyến khích làm giàu hợp pháp, chống làm giàu phi pháp đi
đôi với chăm lo xóa đói, giảm nghèo, thu hẹp dần khoảng cách về trình độ
phát triển, về mức sống giữa các vùng căn cứ cách mạng và kháng chiến cũ,
các gia đình thuộc diện chính sách, làm cho mọi người, mọi nhà đều tiến tới
cuộc sống ấm no, hạnh phúc, ai cũng có việc làm, có cơm ăn, áo mặc, ai cũng
được học hành và chữa bệnh, từng bước thực hiện điều Chủ tịch Hồ Chí Minh
hằng mong ước.
Trong quá lãnh đạo công cuộc đổi mới, phát triển nền kinh tế thị trường
theo định hướng xã hội chủ nghĩa, trên cơ sở nắm bắt những mặt mạnh và mặt
yếu của cơ chế thị trường, Đảng ta đã đưa ra những quan điểm chỉ đạo: “Để
phát triển sức sản xuất, cần phát huy khả năng của mọi thành phần kinh tế,
12
thừa nhận trên thực tế còn có bóc lột và sự phân hóa giàu nghèo nhất định
trong xã hội, nhưng phải luôn quan tâm, bảo vệ lợi ích của người lao động,
vừa khuyến khích làm giàu hợp pháp, chống làm giàu phi pháp, vừa coi trọng
xóa đói, giảm nghèo, từng bước thực hiện công bằng xã hội, tiến tới làm cho
mọi người, mọi nhà đều khá giả”.
Đảng ta cũng đã đưa ra chương trình rộng lớn để tập trung giải quyết là
“Chương trình về xóa đói, giảm nghèo”. Trên cơ sở đó, Nhà nước cũng đã có
hàng chục chương trình cấp quốc gia và dự án đang được thực thi có nội dung
gắn với xóa đói, giảm nghèo. Trong những năm vừa qua công tác xóa đói,
giảm nghèo tiếp tục được Đảng và Nhà nước ta đẩy mạnh thực hiện trên thực
tế với những quan điểm hết sức rõ ràng là: Xóa đói giảm nghèo vừa là nhiệm
vụ cơ bản lâu dài, vừa là nhiệm vụ trọng tâm trước mắt; Tăng trưởng kinh tế
là điều kiện giúp cho việc xóa đói giảm nghèo, nhưng đây là hai nhiệm vụ có
tính độc lập tương đối và không phải là một; Xóa đói giảm nghèo và thực
hiện công bằng xã hội không có nghĩa là kìm hãm sự phát triển kinh tế, không
có nghĩa là cào bằng; Xóa đói giảm nghèo là công việc của toàn xã hội.
Tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng, năm 2011, bên
cạnh việc khẳng định những kết quả đã đạt được trong công tác xóa đói giảm
nghèo thời gian qua, Đảng cũng đã thẳng thắn chỉ ra những mặt còn hạn chế
trong việc xóa đói, giảm nghèo của đất nước, cụ thể: "Đời sống của một bộ
phận dân cư nhất là ở miền núi, vùng sâu, vùng xa còn nhiều khó khăn. Xóa
đói, giảm nghèo chưa bền vững, tình trạng tái nghèo cao. Khoảng cách chênh
lệch giàu nghèo còn khá lớn và ngày càng doãng ra. Chất lượng công tác bảo
vệ, chăm sóc sức khỏe còn thấp, hệ thống y tế và chất lượng dịch vụ y tế chưa
đáp ứng được yêu cầu khám, chữa bệnh của nhân dân, nhất là đối với người
nghèo, đồng bào vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu số…" 6. Trên cơ sở
6
ĐCSVN: Văn kiện Đại hội ĐBTQ lần thứ XI, Nxb CTQG, H, 2011, tr.168,169
13
nhìn nhận đúng đắn những mặt đã làm được và những hạn chế nêu trên, Đảng
cũng đã vạch ra những phương hướng để nâng cao hiệu quả thực hiện công
tác xóa đói giảm nghèo. Đặc biệt để từng bước khắc phục sự chênh lệch giàu
nghèo đang có xu hướng gia tăng giữa các vùng trong cả nước, Đảng chỉ rõ:
Phát triển kinh tế - xã hội phải "phát huy tiềm năng, thế mạnh của từng vùng
với tầm nhìn dài hạn…; tăng cường sự liên kết phối hợp giữa các vùng để các
vùng đều phát triển, từng bước giảm bớt chênh lệch về trình độ phát triển và
mức sống dân cư giữa các vùng. Tiếp tục đẩy mạnh phát triển các vùng kinh
tế, lãnh thổ trọng điểm tạo động lực cho nền kinh tế. Tăng cường chính sách
hỗ trợ phát triển các vùng còn nhiều khó khăn, nhất là vùng sâu, vùng xa,
vùng đồng bào dân tộc thiểu số"7
Quán triệt sâu sắc những quan điểm nêu trên của Đảng, các cấp, các
ngành và toàn dân ta đã và đang tích cực tham gia vào công tác xóa đói giảm
nghèo của đất nước bằng nhiều nội dung phong phú và dưới nhiều hình thức
khác nhau. Trong năm 2011, Thủ tướng Chính phủ cũng đã ban hành nghị
quyết 80/NQ-CP về định hướng giảm nghèo bền vững từ năm 2011 đến năm
2020. Những quan điểm, chính sách đúng đắn trên của Đảng và Nhà nước ta
sẽ tạo cơ sở để đất nước ta ngày càng thực hiện có hiệu quả hơn công tác xóa
đói, giảm nghèo, từng bước khắc phục sự chênh lệch giàu nghèo giữa các
vùng miền, tạo điều kiện cho sự phát triển ổn định, bền vững của đất nước,
qua đó hạn chế và khắc phục dần những hệ lụy xã hội do sự phân hóa giàu
nghèo gây ra đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
II. Tác động của phân hóa giàu nghèo tới việc xây dựng "thế trận
lòng dân" ở khu vực biên giới nước ta hiện nay
7
ĐCSVN: Văn kiện Đại hội ĐBTQ lần thứ XI, Nxb CTQG, H, 2011, tr.201,202
14
1. Vấn đề xây dựng "thế trận lòng dân" ở khu vực biên giới và
những tác động của phân hóa giàu nghèo tới việc xây dựng "thế trận lòng
dân" ở khu vực này
"Thế trận lòng dân" ở khu vực biên giới là một bộ phận của thế trận
biên phòng nói chung. Trong tổng thể thế trận biên phòng ở khu vực biên giới
bao gồm thế trận quân sự, an ninh, đối ngoại và “thế trận lòng dân” thì xây
dựng “thế trận lòng dân” giữ vai trò nền tảng, mấu chốt nhằm phát huy sức
mạnh đại đoàn kết dân tộc bảo vệ vững chắc chủ quyền an ninh biên giới.
Chính vì vậy, Nghị quyết Đại hội X của Đảng khẳng định: “Giữ vững an ninh
nội địa; giải quyết kịp thời các mâu thuẫn trong nhân dân; xây dựng “ thế trận
lòng dân” làm nền tảng phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, trong
đó Quân đội nhân dân và công an nhân dân làm nòng cốt”8
Xây dựng “ thế trận lòng dân” ở khu vực biên giới là quá trình khơi
dậy, phát huy nhân tố chính trị tinh thần của toàn thể nhân dân các dân tộc
trong một thế trận biên phòng toàn dân, tạo nên nên sức mạnh tổng hợp đáp
ứng yêu cầu sự nghiệp bảo vệ chủ quyền an ninh biên giới. Lịch sử xưa và
nay đã khẳng định: “dân là chỗ dựa cơ bản”, “dân là tai mắt”, là lực lượng tại
chỗ cùng với các lực lượng đứng chân trên địa bàn tạo ra thế bố trí chiến lược
phù hợp vừa xây dựng biên giới vững mạnh vừa bảo vệ vững chắc biên cương
của Tổ quốc. Có thể khẳng định, nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền an ninh biên giới
sẽ không thể hoàn thành nếu không dựa vào sức mạnh của “thế trận lòng dân”
mà trực tiếp là dựa vào sức mạnh của “triệu tai, triệu mắt, triệu chân tay” của
đồng bào các dân tộc đang định cư ở khu vực biên giới. Trong lịch sử dựng
nước và giữ nước, ông cha ta rất coi trọng và có nhiều biện pháp nhằm phát
huy vai trò của nhân dân các dân tộc trong bảo vệ biên giới. Đồng bào các
dân tộc ở khu vực biên giới tuy có ngôn ngữ và bản sắc văn hoá riêng nhưng
8
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội ĐBTQ lần thứ X, Nxb CTQG,H, 2006, tr. 109
15
rất gắn bó với nhau, luôn đoàn kết, kiên cường, bất khuất trong lao động và
sản xuất cũng như trong chiến đấu chống ngoại xâm bảo vệ từng tấc đất
thiêng liêng của Tổ quốc. Đây là một truyền thống quý báu của các dân tộc
Việt Nam có ngay từ thời Hùng Vương, nó trở thành ý thức thường trực, là
khuynh hướng chủ đạo tạo nên sức mạnh lòng dân giữ vững chủ quyền an
ninh biên giới Quốc gia trong mọi thời kỳ.
Từ khi có Đảng lãnh đạo cách mạng Việt Nam, cùng với sự nỗ lực phát
triển kinh tế, xoá đói giảm nghèo, nhân dân các dân tộc ở khu vực biên giới
đã tích cực tham gia bảo vệ chủ quyền an ninh biên giới, đấu tranh chính trị
vạch trần mọi âm mưu, thủ đoạn “ diễn biến hoà bình “ của các thế lực thù
địch. Hàng trăm nghìn nguồn tin có giá trị do nhân dân cung cấp đã phục vụ
cho cuộc đấu tranh, ngăn chặn các hoạt động vi phạm chủ quyền lãnh thổ, phá
hoại an ninh trật tự ở khu vực biên giới; đấu tranh chống buôn lậu, gian lận
thương mại; buôn bán chất ma tuý, vũ khí, chất nổ trái phép, buôn bán phụ nữ
qua biên giới. Đặc biệt, quần chúng đã phối hợp với lực lượng vũ trang phát
hiện đấu tranh kịp thời với các nhóm phản động lưu vong xâm nhập vào nước
ta; các tổ chức cơ quan đặc biệt nước ngoài móc lối vào nội biên; các đường
dây đưa đón người xuất, nhập cảnh trái phép đi các nước thứ ba; xác lập
chuyên án, bắt gọn các đối tượng hoạt động tình báo gián điệp. Ý thức cảnh
giác và khí thế quần chúng ngày càng được nâng cao, mọi luận điểm chia rẽ,
kích động phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc đều bị nhân dân vạch mặt và đập
tan. Vì vậy, công tác quốc phòng - an ninh nơi biên giới luôn được đảm bảo.
Những đóng góp to lớn trong sự nghiệp bảo vệ biên giới của nhân dân
các dân tộc trong suốt chiều dài lịch sử dựng nước và giữ nước, nhất là từ khi
có Đảng lãnh đạo cách mạng là thể hiện hình ảnh của biên giới lòng dân, của
chiến tranh nhân dân. Biên giới dù sau này có được trang bị công nghệ hiện
16
đại thế nào cũng không thể quản lý nổi nếu không dựa vào thế bố trí chiến
lược, thế trận nhân dân ở địa bàn quan trọng đặc biệt này.
Nhận thức sâu sắc vai trò quan trọng của nhân dân các dân tộc trong sự
sự nghiệp bảo vệ biên giới nên trong công cuộc đổi mới đất nước, Đảng, Nhà
nước và quân đội luôn đặc biệt quan tâm đến việc xây dựng "thế trận lòng
dân" ở khu vực này. Tuy vậy do nhiều do nhiều nguyên nhân, cả khách quan
và chủ quan, nhất là trong xu thế hội nhập ngày càng sâu, rộng của đất nước,
trước những tác động tiêu cực của phân hóa giàu nghèo… việc xây dựng “thế
trận lòng dân” ở khu vực biên giới đang đứng trước nhiều khó khăn, thách
thức. Điều này được biểu hiện rất rõ trước hết là ở thực trạng kinh tế - xã hội
ở khu vực biên giới và sự chênh lệch giàu nghèo giữa khu vực này so với các
vùng khác trong cả nước.
Mặc dù là khu vực có vị trí quan trọng về kinh tế, có ý nghĩa đặc biệt về
quốc phòng - an ninh và đối ngoại, được ví là "phên dậu của quốc gia" nhưng
khu vực biên giới lại là nơi có trình độ phát triển kinh - tế xã hội và đời sống
thấp nhất so với các vùng khác trong cả nước. Trong "tổng số 1029 xã,
phường ở khu vực biên giới nơi đồn biên phòng công tác có tới 338 xã đặc
biệt khó khăn được hưởng chương trình 135; tỷ lệ đói nghèo còn trên 30%
(nhiều nơi 70%- 80%); gần 200.000 hộ chưa được dùng nước sạch; 104.557
hộ không có đất sản xuất; rất nhiều thôn bản xa xôi, hẻo lánh, giao thông đi
lại khó khăn, y tế, giáo dục vừa thiếu vừa yếu"9
Mặt khác, do chủ yếu nằm trên địa bàn vùng sâu, vùng xa, địa hình
hiểm trở, giao thông đi lại khó khăn, trình độ dân trí lại thấp nên trong những
năm vừa qua mặc dù Đảng, và Nhà nước ta đã có nhiều chủ trương, chương
trình đầu tư đúng đắn nhưng nhìn chung trình độ phát triển kinh tế xã hội và
mức sống của đồng bào các dân tộc ở khu vực biên giới vẫn còn rất thấp kém.
9
Số liệu tổng hợp của Phòng VĐQC- Cục chính trị / BĐBP năm 2009
17
Đặc biệt, trong công cuộc đổi mới đất nước, cùng với sự phát triển mạnh mẽ
của các vùng miền trong cả nước thì xu hướng chênh lệch giàu, nghèo cũng
có nguy cơ ngày càng doãng ra giữa vùng biên giới với các vùng khác trong
cả nước, bởi khu vực biên giới ít có cơ hội thuận lợi hơn để vươn lên trong
điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế. Theo báo cáo thẩm tra của Uỷ ban kinh tế
Quốc hội tại kỳ họp thứ 2, Quốc hội khoá XII, năm 2007, cho thấy: Tỉ lệ
nghèo bình quân cả nước là 14,7%, thì ở các tỉnh miền núi nói chung là rất
cao khoảng 30-40%; thậm chí ở các xã đặc biệt khó khăn ở vùng sâu, vùng
xa, vùng biên giới, tỉ lệ hộ nghèo tới 70, 80%. Mặt khác, tỉ lệ hộ cận nghèo lại
quá cao, tỉ lệ phát sinh nghèo mới và tái nghèo khoảng trên dưới 20%.10 .
Hiện nay trên toàn tuyến biên giới đất liền, có khoảng 75% số xã thuộc khu
vực 3 ( khu vực chậm phát triển nhất ), nền kinh tế vẫn nặng về tự nhiên, tự
cung, tự cấp, đời sống vật chất, tinh thần của đồng bào còn nhiều khó khăn
cho nên tình trạng du canh, du cư, di cư tự do của đồng bào chậm được khắc
phục, thậm chí có nơi xu hướng gia tăng. Ở nhiều đoạn biên giới đang thiếu
hụt lớn lực lượng dân cư, có nơi chỉ 10-15 người/1km 2; thậm chí có những
đoạn biên giới và ở một số đảo không có dân sinh sống.
Đối với vùng thuận lợi như thị trấn, thị xã, vùng kinh tế cửa khẩu đang
phải đương đầu với tác động của mặt trái kinh tế thị trường, nảy sinh những
vấn đề đáng lo ngại về an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội, như truyền
đạo trái phép, tham nhũng, buôn lậu, gian lận thương mại, buôn bán, vận
chuyển ma tuý, buôn bán phụ nữ qua biên giới vẫn diễn biến rất phức tạp.
Biên giới “mở cửa” đã thực sự trở thành thương trường. Vì mục đích làm giàu
với bất cứ giá nào, một số người, thậm chí có cả cán bộ, đảng viên đã bị sa
ngã trong cơ chế thị trường, thoái hoá biến chất. Đồng bào các dân tộc đang
định cư ở đây, nhìn chung đại bộ phận có nhận thức và trách nhiệm tốt đối với
10
Không để vùng dân tộc, miền núi tụt hậu quá xa so với cả nước, Báo Biên phòng, Số 45, ngày 5-11-2007,
tr.5.
18
nhiệm vụ quốc phòng-an ninh, tuy nhiên cũng đã xuất hiện những tư tưởng
thờ ơ, né tránh, hoặc đòi hỏi quyền lợi khi tham gia bảo vệ biên giới ở một số
người. Thậm chí một bộ phận bị kẻ xấu lợi dụng, lôi kéo vào những hoạt động
có hại cho an ninh quốc gia. Số người buôn bán trái phép qua biên giới hoặc
tiếp tay cho bọn buôn lậu còn nhiều. Tình trạng di dân tự do, tái trồng cây
thuốc phiện chưa khắc phục triệt để, tình hình nghiện hút, cờ bạc, mua bán
dâm có chiều hướng gia tăng. Việc đưa dân trở lại biên giới vẫn còn nhiều trở
ngại. Lợi dụng xu thế mở cửa hội nhập và tình hình đời sống đồng bào dân
tộc còn khó khăn, trình độ dân trí thấp, chủ nghiã đế quốc và các thế lực thù
địch được hỗ trợ đắc lực, trực tiếp về mọi mặt từ bên ngoài tăng cường hoạt
động chống phá, nhất là trên lĩnh vực chính trị tư tưởng và kinh tế kích động,
gây mất lòng tin của đồng bào đối với Đảng, chế độ, chia rẽ khối đại đoàn kết
các dân tộc. Đây là vấn đề rất bức xúc, nếu không sớm khắc phục sẽ làm yếu
đi nhân tố chính trị tinh thần, làm giảm "thế trận lòng dân” trong việc bảo vệ
biên cương Tổ quốc.
Như vậy, xét một cách biện chứng, sự phân hóa giàu nghèo trên địa bàn
biên giới và xu hướng doãng ra về sự chênh lệch giàu nghèo giữa khu vực
biên giới và các vùng khác trong cả nước vừa có mặt tích cực đồng thời cũng
đưa tới cả những tiêu cực. Một mặt, nó tạo ra sự đua tranh về kinh tế, tạo
động lực để phát triển sản xuất, nâng cao đời sống của đồng bào các dân tộc
đồng thời nó hướng sự quan tâm, chia sẻ của cả nước tới địa bàn biên giới,
góp phần nâng cao hiệu quả công tác xóa đói giảm nghèo ở khu vực này. Măt
khác, tác động của phân hóa giàu nghèo cũng đã và đang làm tăng tính phức
tạp xã hội ở khu vực biên giới. Nó không chỉ góp thêm vào nguy cơ gây mất
ổn định và hạn chế tốc độ phát triển kinh tế - xã hội ở khu vực này mà còn
góp phần gia tăng các tệ nạn xã hội trên địa bàn biên giới như buôn lậu, trốn
thuế, vận chuyển hàng cấm, buôn bán ma túy, buôn bán phụ nữ và trẻ em qua
19
biên giới… Nó cũng gây ra những tác động tiêu cực tới tâm lý, tư tưởng của
đồng bào các dân tộc khu vực này, ảnh hưởng tới những phong tục, tập quán
tốt đẹp và quá trình hình thành những chuẩn mực xã hội mới của đồng bào.
Phân hóa giàu nghèo và tình hình kinh tế, xã hội thấp kém ở khu vực biên giới
đã và đang đưa tới những ảnh hưởng không thuận lợi cho việc huy động sức
mạnh toàn dân trong sự nghiệp bảo vệ chủ quyền an ninh biên giới quốc gia,
là cái cớ để chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch công kích quan điểm,
chính sách của Đảng và Nhà nước ta đối với khu vực biên giới, tuyên truyền
xuyên tạc để chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc Việt Nam... Rõ ràng nhận
diện đúng những hệ lụy xã hội của phân hóa giàu nghèo nói chung cũng như
sự chênh lệch giàu nghèo giữa khu vực biên giới nói riêng sẽ giúp chúng ta có
được sự chủ động để tìm ra phương hướng, biện pháp khắc phục những mặt
tiêu cực nêu trên, đồng thời nó còn là cơ sở để xác định đúng các giải pháp
nhằm "xây dựng thế trận lòng dân" ở khu vực biên giới góp phần bảo vệ vững
chắc chủ quyền an ninh biên giới quốc gia.
2. Một số giải pháp để khắc phục ảnh hưởng của phân hóa giàu
nghèo tới việc xây dựng "thế trận lòng dân" ở khu vực biên giới nước ta
hiện nay.
Trên cơ sở nhận diện đúng tình hình phân hóa giàu nghèo ở khu vực
biên giới, xu hướng chênh lệch giàu - nghèo ngày càng doãng ra giữa khu vực
biên giới và các vùng khác trong cả nước và tác động của nó tới việc xây
dựng "thế trận lòng dân" ở khu vực biên giới nước ta hiện nay, để tiếp tục
củng cố, xây dựng “thế trận lòng dân” vững chắc ở khu vực biên giới trong
tình hình mới, trong thời gian tới thiết nghĩ cần thực hiện tốt một số giải pháp
cơ bản sau:
20
Một là, kết hợp chặt chẽ chính sách kinh tế và chính sách xã hội hợp
lòng dân tạo môi trường thuận lợi, ổn định dân cư lâu dài ở khu vực biên
giới.
Phát triển kinh tế gắn với việc giải quyết các vấn đề xã hội là bản chất ưu
việt của chế độ xã hội chủ nghĩa, là định hướng quan trọng trong đường lối
của Đảng và Nhà nước ta. Trong những năm qua Đảng ta rất coi trọng tới sự
kết hợp này, nhất là đối với những địa bàn khó khăn như vùng biên giới nhờ
vậy đã phát huy hiệu quả nguồn lực con người tại chỗ trong bảo vệ chủ quyền
an ninh biên giới. Tuy nhiên trên thực tế cũng đã bộc lộ những khuynh hướng
khác nhau: Có khuynh hướng quá coi trọng phát triển kinh tế, chưa thực sự
coi trọng các vấn đề xã hội dẫn đến những nơi thuận lợi thì có cơ hội phát
triển nhanh, còn những nơi khó khăn ở vùng biên giới ngày càng có nguy cơ
tụt hậu xa hơn các vùng khác đã tạo nên sự bất bình đẳng ngay chính trong
nội bộ khu vực biên giới; Có khuynh hướng thì quá chú trọng tới các vấn đề
xã hội, chưa chú trọng nhiều đến phát triển kinh tế nên tạo ra sự trông chờ, ỷ
lại trong đồng bào các dân tộc làm cho nội lực của khu vực biên giới không
được phát huy hiệu quả cao nhất.
Vấn đề đặt ra phải xác định mối quan hệ hợp lý giữa chính sách kinh tế
và chính sách xã hội bảo đảm cho những vùng khó khăn như ở vùng biên giới
vừa có tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh đồng thời vừa bảo đảm sự tiến bộ và
công bằng xã hội. Sự kết hợp này phải được thể hiện ngay từ trong chiến lược
phát triển toàn diện kinh tế, xã hội, trong từng kế hoạch dài hạn và hàng năm,
trong các chương trình, dự án cụ thể đối với vùng này. Mọi chính sách kinh tế
đều phải tính đến hiệu quả xã hội. Mọi chính sách xã hội phải gắn chặt với
phát triển kinh tế...Sự kết hợp trên phải được quán triệt tới tất cả các cấp các
ngành, đến mọi cán bộ và người dân để tránh mọi khuynh hướng lệch lạc có
thể xảy ra.
21
Với ý nghĩa đó, trong những năm tới cần tiếp tục đầu tư thoả đáng
nhằm chấn hưng kinh tế vùng biên cương tạo môi trường thuận lợi ổn định
dân cư tại chỗ và thu hút dân từ nơi khác đến với biên giới. Coi trọng đầu tư
xây dựng cơ sở hạ tầng, các dự án định canh, định cư, xoá đói giảm nghèo
đảm bảo về đất đai, nhà cửa, lương thực, thực phẩm, các phương tiện phục vụ
cho việc học hành, chữa bệnh và sản xuất, đồng thời tạo điều kiện về giống,
vốn, kỹ thuật và có chính sách tiêu thụ sản phẩm do đồng bào làm ra, dù trước
mắt lãi ít, hoặc chưa có lãi thậm chí bị lỗ cũng nên làm. Đồng thời với chính
sách phát triển kinh tế, cần có kế hoạch tập trung giải quyết tốt các vấn đề xã
hội ở khu vực biên giới. Cấp thiết hiện nay là tổ chức dạy chữ, xoá mù và
chống tái mù, đẩy mạnh phổ cập giáo dục tiểu học. Tổ chức xây dựng đời
sống văn hoá mới cho đồng bào trên cơ sở kế thừa, khai thác, phát huy vốn
văn hoá truyền thống của dân tộc. Động viên sức mạnh cộng đồng các dân tộc
sinh sống, biển, đảo ổn định cuộc sống, định canh, định cư lâu dài ở khu vực
biên giới, tích cực sản xuất phát triển kinh tế, xoá đói, giảm nghèo và phối
hợp chặt chẽ với bộ đội Biên phòng bảo vệ vững chắc chủ quyền an ninh biên
giới.
Hai là, tăng cường giáo dục nâng cao nhận thức về nhiệm vụ quốc phòng,
an ninh cho toàn dân, trước hết là đội ngũ cán bộ đảng viên, các tổ chức đoàn thể
và nhân dân các dân tộc trên địa bàn biên giới.
Hiệu quả của mọi công việc bao giờ cũng bắt đầu từ việc nâng cao trình độ
nhận thức cho những lực lượng thực hiện công việc đó, nhất là trong sự nghiệp
đổi mới hiện nay đang đặt ra nhiều vấn đề mới về quản lý kinh tế, xã hội và quốc
phòng - an ninh.
Để củng cố quốc phòng - an ninh ở khu vực biên giới phải tăng cường công
tác tuyên truyền giáo dục cho nhân dân các dân tộc về truyền thống hào hùng của
dân tộc, địa phương và từng dân tộc trong quốc gia dân tộc thống nhất, đoàn kết
22
trong xây dựng và trong bảo vệ biên cương tổ quốc nhằm tạo nên lòng tự hào, tự
tôn dân tộc. Đồng thời tuyên truyền hiệu quả cho mọi người dân nắm vững
đường lối chủ trương chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước và các nghị
quyết của địa phương, nhất là tư duy mới của Đảng ta về củng cố quốc phòng - an
ninh, xây dựng lực lượng vũ trang; xây dựng "thế trận lòng dân" trong tình hình
mới; hiểu biết đầy đủ về xu thế hội nhập và âm mưu, thủ đoạn chống phá của chủ
nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch nhằm tạo nên sự đồng thuận “ý Đảng lòng
dân”. Trên cơ sở đó, mỗi người dân nhận thức đúng quyền lợi, nghĩa vụ và trách
nhiệm đối với nhiệm vụ quốc phòng-an ninh ở địa phương, nâng cao cảnh giác
cách mạng, tỉnh táo đề phòng các thủ đoạn chống phá cách mạng của kẻ xấu, tạo
sự phối hợp đồng bộ, thường xuyên, chặt chẽ giữa các cấp, các ngành các lực
lượng trong việc tham gia xây dựng "thế trân lòng dân" vững chắc thực hiện hiệu
quả nhiệm vụ bảo vệ biên giới quốc gia.
Ba là, vạch rõ các quan điểm sai lầm, luận điệu phản động của các thế
lực thù địch; khắc phục hiệu quả sự tác động tiêu cực mặt trái kinh tế thị
trường trong xu thế hội nhập.
Hiện nay, nước ta đang đẩy mạnh phát triển kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa trong xu thế hội nhập quốc tế ngày càng sâu, rộng.
Lợi dụng tình hình hình đó, các thế lực thù địch đang ra sức chống phá ta,
nhất là thực hiện “diễn biến hoà bình” kết hợp với bạo loạn lật đổ với nhiều
thủ đoạn rất thâm độc, trong đó ở khu vực biên giới là một trong những địa
bàn trọng điểm mà các thế lực thù địch lợi dụng. Trên thực tế, một bộ phận
nhân dân, trong đó có cả đội ngũ cán bộ, đảng viên có những nhận thức lệch
lạc, không phân biệt được đúng- sai, trắng-đen, thật-giả, tốt-xấu trong xu thế
hội nhập dẫn đến mơ hồ, mất cảnh giác về kẻ thù, nhiễm luồng tư tưởng độc
hại, cổ vũ cho chủ nghĩa tư bản, tô hồng lối sống tự do tư sản, nói xấu chế độ
và bị kẻ xấu lợi dụng chống phá chế độ; bộ phận khác bị đối tượng xấu móc
23
nối tiếp tay cho buôn lậu, vi phạm pháp luật; cùng với đó là các tệ nạn xã hội
nảy sinh đã ảnh hưởng trực tiếp đến công tác bảo vệ biên giới. Do vậy đòi hỏi
cấp thiết hiện nay là đề cao cảnh giác, thường xuyên nắm chắc tình hình địa
bàn, nhân dân, địch, đối tượng, nhất là những diễn biến mới về âm mưu, thủ
đoạn hoạt động của các thế lực thù địch và những tác động tiêu cực mặt trái
của kinh tế thị trường. Đồng thời nắm vững tư tưởng, tâm lý nguyện vọng của
nhân dân và chất lượng hoạt động của hệ thống chính trị cơ sở... để phân tích,
tổng hợp đề ra các biện pháp phù hợp nhằm giáo dục vận động nhân dân nhận
thức rõ tình hình, đánh giá đúng bản chất, âm mưu của các thế lực thù địch,
củng cố niềm tin, biết đấu tranh phê phán những tư tưởng lệch lạc, lối sống lai
căng thiếu lành mạnh, lối sống thực dụng "tất cả vì đồng tiền", từ đó có quan
điểm lập trường đúng đắn, có chính kiến đúng-sai rõ ràng, hiểu rõ bạn - thù,
đối tượng - đối tác. Kiên quyết khắc phục những tác động không thuận lợi của
xu thế hội nhập quốc tế. Đấu tranh mạnh mẽ lối sống quan liêu, quân phiệt, cơ
hội lãng phí, tham nhũng, bê tha, biến chất, thiếu văn hoá trong xã hội và nhất
định không để cho những tác động xấu đó ngấm vào địa bàn mà không kiểm
soát nổi.
Bốn là, đổi mới công tác dân vận của Quân đội nói chung và công tác
vận động quần chúng của Bộ đội Biên phòng(BĐBP) nói riêng nhằm tăng
cường đoàn kết quân dân khu vực biên giới trong tình hình mới.
Bài học về tình đoàn kết quân dân bền chặt góp phần tạo nên sức mạnh
thần kỳ của Quân đội và củng cố vững chắc trận địa lòng dân trong nhiều thập
kỷ qua càng khẳng định việc xây dựng mối quan hệ đoàn kết quân dân là
nhiệm vụ chính trị quan trọng đặc biệt trong giai đoạn hiện nay. Để củng cố,
tăng cường quan hệ “cá, nước” giữa Quân đội và nhân dân, nhất là ở những
địa bàn chiến lược như vùng biên giới, một trong những biện pháp quan trọng
là phải đổi mới nâng cao hiệu quả công tác dân vận của Quân đội nói chung
24
và công tác vận động quần chúng của BĐBP nói riêng phù hợp với tình hình
và nhiệm vụ trong giai đoạn mới. Quân đội ta phải ra sức phấn đấu làm tròn
vai trò nòng cốt trong xây dựng nền quốc phòng toàn dân; đồng thời có nhiều
hình thức, phương pháp tiến hành công tác xây dựng khối đoàn kết quân dân
thực hiện hiệu quả chức năng của đội quân công tác, đội quân lao động sản
xuất. Trước mắt cần tập trung vào nhiệm vụ tham gia xây dựng cơ sở chính
trị, phát triển kinh tế-xã hội đất nước, nhất là việc tuyên truyền, vận động,
giáo dục hướng dẫn và giúp đỡ nhân dân, đặc biệt là ở vùng sâu, vùng xa,
vùng biên giới, hải đảo, vùng đồng bào dân tộc thiểu số thực hiện tốt đường
lối chính sách của Đảng, Nhà nước, thực hiện tốt phong trào xoá đói giảm
nghèo, phòng chống thiên tai và các tệ nạn xã hội. Trong quá trình thực hiện
nhiệm vụ, mỗi cán bộ chiến sỹ làm công tác dân vận ở vùng biên giới phải
thực hiện tốt phương châm: thận trọng, kiên nhẫn, kiên quyết hiểu phong tục
tập quán, tín ngưỡng, tôn giáo, lễ hội của địa phương để nghe được dân nói,
nói cho dân hiểu. Coi trọng “lời nói đi đôi với việc làm” “làm trước, nói sau”,
làm đến đâu, chắc đến đó, lấy hiệu quả công tác làm tiêu chí đánh giá hoàn
thành nhiệm vụ của bộ đội trên từng cương vị được giao. Đồng thời bộ đội
phải luôn có thái độ và ý thức chấp hành nghiêm túc mười hai điều kỷ luật
trong quan hệ quân, dân; rèn luyện ý thức tự giác, tính độc lập tự chủ, nhất là
trong điều kiện công tác xa đơn vị; tôn trọng, lắng nghe ý kiến đóng góp của
địa phương, nhân dân; xây dựng đạo đức lối sống giản dị, khiêm tốn, thương
yêu hết lòng đối với đồng bào, tâm huyết trách nhiệm, nhiệt tình trong công
việc tạo nên tình đoàn kết quân dân bền chặt qua đó góp phần xâu dựng "thế
trận lòng dân" vũng chắc ở địa bàn biên giới, bảo vệ vững chắc chủ quyền an
ninh biên giới quốc gia.
25
KẾT LUẬN
Nhờ những bước tiến vững chắc của công cuộc đổi mới, công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước dưới sự lãnh đạo của Đảng, đời sống vật chất và
tinh thần cũng như niềm tin của nhân dân ta vào con đường đi lên chủ nghĩa
xã hội ở Việt Nam đang ngày càng được củng cố vững chắc và không ngừng
phát triển. Trong thời kỳ mới, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa đã và đang tạo nên những biến đổi kinh tế - xã hội rộng lớn cho đất
nước với cả những mặt tích cực và tiêu cực. Bên cạnh những mặt tích cực là
chủ yếu, việc thực hiện nền kinh tế thị trường cũng đã và đang làm nảy sinh
nhiều "mặt trái" mà một trong những "mặt trái" biểu hiện rõ rệt hiện nay
chính là sự phân hóa giàu nghèo, phân tầng xã hội. Phân hóa giàu nghèo, phân
tầng xã hội ở nước ta hiện nay đang có xu hướng diễn biến phức tạp trên
phạm vi cả nước, diễn ra ở mọi thành phần, mọi vùng miền và xâm nhập đến
cả khu vực biên giới, vùng sâu, vùng xa của đất nước. Với tư cách là "mặt
tiêu cực" của cơ chế thị trường, phân hóa giàu nghèo đang đưa tới nhiều hệ
lụy xã hội nguy hiểm đòi hỏi chúng ta cần phải nhận diện để tìm ra biện pháp
khắc phục, qua đó góp phần làm tăng tính đồng thuận trong xã hội tạo điều
kiện thuận lợi cho việc huy động và phát huy sức mạnh toàn dân trong sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc nói chung cũng như sự nghiệp xây dựng
nền quốc phòng toàn dân nói riêng.
Đối với khu vực biên giới - khu vực có trình độ phát triển kinh tế - xã
hội và mức sống thấp nhất so với các vùng khác trong cả nước nhưng lại là
địa bàn có vị trí quan trọng về kinh tế, có ý nghĩa đặc biệt về quốc phòng - an
ninh và đối ngoại, là "phên dậu của quốc gia" thì việc nhận thức đúng những
hệ lụy xã hội của phân hóa giàu nghèo lại càng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng.
Đó chính là cơ sở để Đảng, Nhà nước, các cấp, các ngành và nhân dân ta xác
định đúng chủ trương, thực hiện có hiệu quả các chương trình, giải pháp xóa