Tải bản đầy đủ (.doc) (102 trang)

luận văn thạc sĩ - BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG GIA ĐÌNH NÔNG dân TỈNH HƯNG yên HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (991.49 KB, 102 trang )

2
Mở đầu
Nam nữ bình đẳng là một trong những quyền cơ bản, thiêng liêng của
con người. Đấu tranh cho nam nữ bình quyền, giải phóng phụ nữ luôn gắn
liền với các cuộc cách mạng xã hội. Trình độ giải phóng phụ nữ chính là
thước đo trình độ phát triển, tiến bộ của một xã hội dân chủ. Trong các giai
đoạn cách mạng cũng như trong công cuộc đổi mới hiện nay, Đảng ta luôn coi
con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển, việc chăm lo
phát triển nguồn lực con người là nhân tố quyết định thành công của công
cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay. Thực hiện BĐG sẽ góp phần quan trọng giải
phóng lực lượng sản xuất, phát huy nhân tố con người, trong đó có phụ nữ,
nhờ đó người phụ nữ sẽ phát huy mọi trình độ và khả năng góp phần xây
dựng xã hội phát triển và gia đình hạnh phúc.
Nông dân nước ta nói chung và phụ nữ nông dân nói riêng là lực lượng
lao động đông đảo, to lớn, có vai trò quan trọng trong sự nghiệp cách mạng
cũng như phát triển kinh tế - xã hội nông thôn. Tuy nhiên, vấn đề BĐG và
thực hiện BĐG trong các gia đình nông dân nước ta hiện nay đang nổi lên
nhiều vấn đề xã hội bức thiết như: phụ nữ chiếm số đông trong những người
mù chữ, bệnh tật và ít có cơ hội, điều kiện học hành, vui chơi, giải trí... Họ
còn là nạn nhân của nhiều vấn đề nhức nhối như: quấy rối tình dục, ngược
đãi, ức hiếp vợ, lạm dụng tình dục trẻ em, bạo lực gia đình, buôn bán phụ
nữ... Sự hạn chế cơ hội phát triển cũng như những tệ nạn họ phải gánh chịu đã
trực tiếp làm giảm sút phúc lợi gia đình và xã hội, đồng thời là lực cản đối với
việc phát huy nguồn lực con người, đến sự ổn định xã hội và sự nghiệp CNH,
HĐH nông nghiệp, nông thôn ở nước ta hiện nay.
Hưng Yên là một tỉnh trung tâm của đồng bằng Sông Hồng, nơi đây
còn bảo lưu khá đậm nét nền văn hóa nông nghiệp lúa nước, trong các gia
đình nông dân, yếu tố truyền thống và hiện đại luôn đan cài và được phản ánh
rõ nét trong cuộc sống gia đình, đặc biệt trong quan hệ về giới. Trong những



3
năm qua, công cuộc đổi mới phát triển kinh tế - xã hội, CNH, HĐH nông
nghiệp, nông thôn của Tỉnh đã làm thay đổi bộ mặt nông thôn, đời sống của
các gia đình nông dân tỉnh Hưng Yên ngày càng được nâng lên. Đảng bộ và
các cấp chính quyền tỉnh Hưng Yên luôn coi trọng và thực hiện chính sách,
pháp luật về BĐG, tạo điều kiện cho phụ nữ nông thôn, nông dân có điều kiện
học hành, chăm sóc sức khoẻ, phát triển kinh tế hộ gia đình, xoá đói, giảm
nghèo, tham gia các hoạt động xã hội... Tuy nhiên, sự bất bình đẳng về giới
vẫn tồn tại, tư tưởng “trọng nam, khinh nữ”, những vấn đề định kiến giới,
phân biệt đối xử về giới còn biểu hiện khá phổ biến trong các gia đình nông
dân. Một bộ phận không nhỏ phụ nữ trong các gia đình nông dân vẫn phải
chịu những thiệt thòi, bất công và sự phát triển năng lực của họ gặp nhiều trở
ngại ngay ở trong gia đình và ngoài xã hội... Những hạn chế đó, đã và đang
ảnh hưởng không nhỏ tới việc thực hiện chính sách, pháp luật về BĐG và
phát huy nguồn lực lao động nữ ở khu vực nông thôn của Tỉnh.
Bên cạnh đó, sự nghiệp CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn và xây
dựng nông thôn mới của tỉnh Hưng Yên cũng đang đặt ra những yêu cầu mới,
đòi hỏi phải phát huy mọi nguồn lực, đặc biệt là nguồn lực con người, trong
đó có lao động nữ. Thực hiện BĐG trong gia đình nông dân tỉnh Hưng Yên sẽ
trực tiếp phát huy vai trò to lớn của lực lượng lao động nữ đông đảo trong các
gia đình nông dân, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp đổi mới, CNH, HĐH nông
nghiệp, nông thôn tỉnh Hưng Yên hiện nay.
Từ những lý do trên, vấn đề “Bình đẳng giới trong gia đình nông dân
tỉnh Hưng Yên hiện nay” đang đặt ra yêu cầu khách quan, cấp thiết đòi hỏi
phải có sự nghiên cứu một cách có hệ thống cả về lý luận và thực tiễn.
I. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ BÌNH ĐẲNG
GIỚI TRONG GIA ĐÌNH NÔNG DÂN TỈNH HƯNG YÊN HIỆN NAY
1.1. Một số vấn đề lý luận về bình đẳng giới trong gia đình nông
dân tỉnh Hưng Yên



4
1.1.1. Bình đẳng giới và bình đẳng giới trong gia đình nông dân
tỉnh Hưng Yên
* Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và của
Đảng, Nhà nước ta về bình đẳng giới và bình đẳng giới trong gia đình
Lý luận bình đẳng nam nữ (ngày nay gọi là bình đẳng giới) của C.Mác
và Ph.Ăngghen được bắt đầu từ những nghiên cứu về gia đình và chế độ tư hữu
trong chế độ tư bản chủ nghĩa. Các ông không chỉ đánh giá một cách khách
quan và khoa học về những nguyên nhân dẫn đến sự lệ thuộc của người phụ nữ
trong gia đình và ngoài xã hội mà còn chỉ ra những biện pháp để giải phóng
phụ nữ. Ph.Ăngghen cho rằng, sự ra đời của chế độ tư hữu là nguồn gốc dẫn
đến sự thống trị của người đàn ông trong gia đình và người đàn bà ngày càng
mất đi các quyền mà họ có trước đây: “Hôn nhân cá thể là một bước tiến lịch
sử lớn, nhưng đồng thời nó cũng mở ra, bên cạnh chế độ nô lệ và tài sản tư
nhân, một thời đại kéo dài cho đến ngày nay, thời đại trong đó phúc lợi và sự
phát triển của những người này được thực hiện bằng sự đau khổ và bị áp chế
của những người khác” [30, tr.104-105]. Theo Ph.Ăngghen: chính chế độ tư
hữu là nguồn gốc dẫn đến sự phụ thuộc của người phụ nữ vào người chồng,
người cha về mọi mặt, làm cho công việc của người phụ nữ trở thành công
việc phục vụ riêng cho gia đình, người phụ nữ dần bị tách khỏi hoạt động
sản xuất xã hội. Sự chi phối và lệ thuộc của người phụ nữ diễn ra dựa trên
sự kiểm soát các nguồn tư liệu sản xuất và của cải trong gia đình từ phía
người nam giới. Do vậy, để giải phóng phụ nữ, thực hiện nam nữ bình
quyền phải xóa bỏ chế độ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất, xây dựng chế độ
công hữu, thủ tiêu sự lệ thuộc kinh tế của người đàn bà đối với người đàn
ông. Theo Ph.Ăngghen, việc giải phóng phụ nữ, thực hiện nam nữ bình
đẳng sẽ không thể có được, chừng nào người phụ nữ vẫn bị gạt ra ngoài
hoạt động sản xuất xã hội và bị bó hẹp trong công việc của gia đình. Vì
vậy, một mặt, phải tạo điều kiện đưa phụ nữ tham gia vào nền sản xuất xã



5
hội, mặt khác, phải giúp phụ nữ giảm nhẹ gánh nặng công việc gia đình.
Ph.Ăngghen chỉ rõ: “Muốn thực hiện giải phóng phụ nữ thì trước hết phải
làm cho người phụ nữ có thể tham gia sản xuất trên quy mô rộng lớn và chỉ
phải làm việc nhà ít thôi” [30, tr.241]. Quá trình đó, phải bắt đầu từ việc
xây dựng quan hệ hôn nhân và quan hệ gia đình tiến bộ, trên cơ sở tình
yêu, trách nhiệm, bổn phận của cả nam và nữ... Đây là những cơ sở quan
trọng để thực hiện BĐG trong gia đình.
Kế thừa và phát triển các quan điểm của C.Mác - Ph.Ăngghen về
giải phóng phụ nữ, thực hiện nam nữ bình quyền, trên cơ sở thực tiễn xây
dựng CNXH ở nước Nga Xô Viết, V.I.Lênin đã kiên quyết đấu tranh chống
lại luận điệu xuyên tạc chủ nghĩa Mác về vấn đề tình yêu, hôn nhân và gia
đình của giai cấp tư sản, đồng thời vạch trần bộ mặt thật của chế độ tư bản
và Hiến pháp tư sản. Trên báo Sự thật ngày 6/11/1919, V.I.Lênin viết:
“Trên lời nói, chế độ dân chủ tư sản hứa hẹn bình đẳng và tự do. Trong
thực tế, không một nước cộng hòa tư sản nào, dù là nước tiên tiến nhất, đã
để cho một nửa loài người là nữ giới được hoàn toàn bình đẳng với nam
giới trước pháp luật và giải phóng phụ nữ khỏi sự bảo trợ và sự áp bức của
nam giới” [26, tr.325].
Sau khi cách mạng tháng Mười Nga thành công, V.I.Lênin đã đề ra ba
nhóm giải quan trọng đối với phụ nữ Nga là: 1. Luật pháp hóa quyền bình
đẳng nam nữ. Cùng với thủ tiêu pháp luật tư sản là việc ban hành pháp luật
mới. 2. Phụ nữ Xô Viết phải thực sự được bình đẳng, có quyền tham gia
quyết định vận mệnh của đất nước và trực tiếp tham gia quản lý Nhà nước,
xây dựng củng cố chính quyền. 3. Không chỉ giải phóng phụ nữ ở ngoài xã
hội mà phải giải phóng họ ngay trong gia đình. V.I.Lênin còn cho rằng, bình
đẳng nam nữ không đồng nghĩa với sự ngang bằng theo kiểu phụ nữ tham gia
lao động với năng suất, khối lượng, thời gian và điều kiện lao động như nam

giới, bởi “Ngay trong điều kiện hoàn toàn bình đẳng, thì sự thật phụ nữ vẫn bị


6
trói buộc vì toàn bộ công việc gia đình đều trút lên vai phụ nữ” [26, tr.321].
V.I.Lênin quan niệm: Phụ nữ phải được bình đẳng với nam giới về mọi
phương diện luật pháp, kinh tế, xã hội... trong gia đình cũng như ngoài xã hội.
Người đặc biệt quan tâm tới gia đình, nơi phát sinh, duy trì sự bất bình đẳng
nam nữ hàng ngàn năm, cho nên cần có một chính sách thật cụ thể, thiết thực
giúp phụ nữ vươn lên bình đẳng cùng nam giới.
Như vậy, chủ nghĩa Mác - Lênin đã phát triển những tư tưởng tiến bộ của
nhân loại về giải phóng phụ nữ, chỉ ra nguồn gốc của sự bất bình đẳng giữa nam
và nữ là do phụ nữ bị gạt ra khỏi quá trình sản xuất xã hội; chỉ ra vai trò và khả
năng to lớn của phụ nữ đối với quá trình cách mạng vì tiến bộ xã hội; chỉ ra điều
kiện để đi đến giải phóng phụ nữ là đưa phụ nữ trở lại tham gia lao động sản
xuất xã hội và chuyển công việc nội trợ của gia đình thành công việc lớn của xã
hội; gắn sự nghiệp giải phóng phụ nữ với cuộc cách mạng XHCN, giải phóng
phụ nữ vừa là mục tiêu, vừa là động lực của cách mạng vô sản.
Chủ tịch Hồ Chí Minh là nhà tư tưởng đầu tiên trong lịch sử Việt Nam
đặt vị thế, vai trò của phụ nữ ngang với nam giới và cũng là một trong những
nhà tư tưởng, lãnh tụ tiêu biểu của thế giới đề cao sự nghiệp giải phóng phụ
nữ. Người đã tiếp thu và vận dụng những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa
Mác - Lênin về giải phóng phụ nữ, thực hiện nam nữ bình đẳng vào hoàn
cảnh cụ thể của Việt Nam, một nước thuộc địa nửa phong kiến. Hồ Chí Minh
đã tìm ra nguyên nhân nỗi thống khổ, áp bức của người phụ nữ dưới chế độ
thực dân, phong kiến, từ đó Người đã chỉ ra mục tiêu, biện pháp để giải phóng
phụ nữ, thực hiện nam nữ bình quyền.
Trong tác phẩm nổi tiếng “Bản án chế độ thực Pháp” xuất bản tại Pari
năm 1925, Nguyễn Ái Quốc đã dành cả một chương với chủ đề: “Nỗi khổ nhục
của người đàn bà bản xứ” để trình bày cho toàn thế giới biết về thân phận

người phụ nữ. Nguyễn Ái Quốc đã vạch trần bộ mặt của bọn thực dân - nhân
danh kẻ đi khai hóa văn minh nhưng đã hành động một cách dã man, bỉ ổi đối


7
với nhân dân các nước thuộc địa, đặc biệt đối với phụ nữ. Người viết: “Không
một chỗ nào người phụ nữ thoát khỏi những hành động bạo ngược. Ngoài phố,
trong nhà, giữa chợ hay ở thôn quê, đâu đâu họ cũng vấp phải những hành
động tàn nhẫn của bọn cai trị, sỹ quan, cảnh binh, nhân viên nhà đoan, nhà ga
[31, tr.105]. Khi đến thăm tượng nữ thần tự do ở Mỹ, Người đã nhận xét: trong
khi người ta tượng trưng tự do và công lý bằng tượng một người đàn bà thì trong
thực tế, họ lại hành hạ những người đàn bà bằng xương, bằng thịt.
Không dừng ở việc tố cáo bọn thực dân xâm lược, Nguyễn Ái Quốc đã
nhìn thấy ở những người phụ nữ bị áp bức, đọa đầy này một sức mạnh to lớn,
sức mạnh mà tất cả các cuộc cách mạng trong lịch sử nhân loại không thể thiếu.
Người khẳng định: “Xem trong lịch sử cách mệnh chẳng có lần nào là không có
đàn bà con gái tham gia” [31, tr.228]. Xuất phát từ lịch sử dựng nước và giữ
nước của dân tộc, Người viết: “Từ đầu thế kỷ thứ nhất, Hai Bà Trưng phất cờ
khởi nghĩa, đánh giặc, cứu dân cho đến nay mỗi khi nước nhà gặp nguy nan, thì
phụ nữ ta đều hăng hái đứng lên, góp phần xứng đáng của mình vào sự nghiệp
giải phóng dân tộc” [35, tr.148].
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, giải phóng phụ nữ là mục tiêu, nhiệm vụ của
cách mạng xã hội chủ nghĩa. Người cho rằng, đây là một việc không đơn giản, không
phải đánh đổ được thực dân phong kiến, giành độc lập dân tộc là nam nữ bình đẳng,
càng không phải là chia đều công việc giữa nam và nữ, Người viết:
“Nhiều người lầm tưởng đó là một việc dễ chỉ: hôm nay anh nấu cơm,
rửa bát, quét nhà, hôm sau em quét nhà, nấu cơm, rửa bát, thế là bình đẳng,
bình quyền. Lầm to!
Đó là một cuộc cách mạng to và khó.
Vì trọng trai khinh gái là một thói quen mấy nghìn năm để lại. Vì nó ăn

sâu trong đầu óc của mọi người, mọi gia đình, mọi tầng lớp xã hội.
Vì không thể dùng vũ lực mà tranh đấu” [33, tr.433].


8
Không chỉ khẳng định vai trò to lớn của người phụ nữ, Hồ Chí Minh còn
chỉ ra nhiều biện pháp nhằm thực hiện quyền bình đẳng thực sự cho phụ nữ.
Theo Người, giải phóng phụ nữ là sự kết hợp của hai yếu tố: một là, bản thân
người phụ nữ phải tự phấn đấu vươn lên; hai là, sự quan tâm của Đảng, Nhà
nước, đoàn thể, gia đình và xã hội. Theo Hồ Chí Minh, muốn xây dựng gia
đình bình đẳng, hạnh phúc phải trên cơ sở luật hôn nhân gia đình mới. Đây là
tiền đề quan trọng để giải phóng phụ nữ và thực hiện nam nữ bình quyền.
Quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về giải phóng
phụ nữ và thực hiện nam nữ bình quyền trong gia đình là những tư tưởng nhân
văn cao cả, đồng thời là nền tảng tư tưởng của Đảng ta trong suốt giai đoạn
cách mạng, đấu tranh giải phóng phụ nữ, vì sự tiến bộ của phụ nữ Việt Nam.
“Thực hiện nam nữ bình quyền” lần đầu tiên được Đảng ta đưa vào
Luận cương Chính trị năm 1930. Có thể coi đây là bản “tuyên ngôn” đầu
tiên về BĐG của Việt Nam, trong đó nam, nữ được công nhận ngang hàng
nhau về mặt chính trị.
Nghị quyết số 11-NQ/TW ngày 27 tháng 4 năm 2007 của Bộ Chính trị
về công tác phụ nữ thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước đã xác định rõ mục
tiêu: “Phấn đấu đến năm 2020, phụ nữ được nâng cao trình độ về mọi mặt, có
trình độ học vấn, chuyên môn, nghiệp vụ đáp ứng yêu cầu công nghệp hoá,
hiện đại hoá và hội nhập kinh tế quốc tế; có việc làm, được cải thiện rõ rệt về
đời sống vật chất, văn hoá, tinh thần; tham gia ngày càng nhiều hơn công việc
xã hội, bình đẳng trên mọi lĩnh vực, đóng góp ngày càng lớn hơn cho xã hội và
gia đình, phấn đấu để nước ta là một trong các quốc gia có thành tựu bình đẳng
giới tiến bộ nhất của khu vực” [10, tr.6].
Trong các kỳ Đại hội Đảng, vấn đề thực hiện BĐG luôn được bổ sung,

hoàn thiện và phát triển. Đại hội IX khẳng định: “Đối với phụ nữ, thực hiện tốt
luật pháp và chính sách bình đẳng giới” [14, tr.126]. Nghị quyết Đại hội Đại
biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng chỉ rõ: “Đối với phụ nữ, nâng cao trình độ


9
mọi mặt và đời sống vật chất, tinh thần, thực hiện bình đẳng giới. Tạo điều
kiện để phụ nữ thực hiện tốt vai trò người công dân, người lao động, người
mẹ, người thầy đầu tiên của con người. Bồi dưỡng, đào tạo để phụ nữ tham
gia ngày càng nhiều vào các hoạt động xã hội, các cơ quan lãnh đạo và quản
lý ở các cấp...” [15, tr.120]. Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI
của Đảng cũng khẳng định: “Xây dựng và triển khai chiến lược quốc gia về
bình đẳng giới và tiến bộ của phụ nữ, tập trung ở những vùng và khu vực có
sự bất bình đẳng và nguy cơ bất bình đẳng cao; ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng
buôn bán phụ nữ và bạo lực trong gia đình” [16, tr.231].
Bình đẳng giới luôn là nguyên tắc Hiến định trong pháp luật nước ta:
Điều 63 Hiến pháp 1992 qui định “Công dân nữ và nam có quyền ngang nhau về
mọi mặt chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và gia đình. Nghiêm cấm mọi hành vi
phân biệt đối xử với phụ nữ, xúc phạm nhân phẩm phụ nữ…”. Trên trường quốc
tế, Việt Nam đã ký “Công ước về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ
nữ” (gọi tắt là công ước CEDAW) vào ngày 29/7/1980. Trung thành với các
điều khoản đã ghi trong công ước, Chính phủ Việt Nam đã cụ thể hóa và sửa
đổi các điều khoản pháp luật của mình để tạo ra môi trường pháp lý cần thiết
thúc đẩy quá trình bình đẳng nam nữ.
Ngày 29/11/2006, Luật Bình đẳng giới đã được Quốc hội thông qua và
có hiệu lực thi hành từ ngày 1/7/2007. Luật gồm VI chương, 44 điều, quy định
đầy đủ các vấn đề và điều khoản nhằm thực hiện BĐG ở nước ta, trong đó xác
định: “Mục tiêu bình đẳng giới là xoá bỏ phân biệt đối xử về giới, tạo cơ hội
như nhau cho nam và nữ trong phát triển kinh tế - xã hội và phát triển nguồn
nhân lực, tiến tới bình đẳng giới thực chất giữa nam, nữ và thiết lập, củng cố quan hệ

hợp tác, hỗ trợ giữa nam, nữ trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội và gia đình” [10,
tr.14]. Luật Bình đẳng giới cũng xác định BĐG trên các lĩnh vực xã hội và gia đình,
điều 18 xác định rõ các nội dung cơ bản của BĐG trong lĩnh vực gia đình.


10
Ngày 21/11/2007, Luật phòng, chống bạo lực gia đình được Quốc hội
thông qua. Luật gồm VI chương, 46 điều, xác định rõ các hành vi bạo lực gia
đình cũng như các biện pháp bảo vệ, hỗ trợ nạn nhân bạo lực gia đình. Các
điều khoản của luật hướng tới mục tiêu tạo sự bình đẳng giữa nam và nữ
trong gia đình, tiến tới xây dựng gia đình bình đẳng, tiến bộ, ấm no, hạnh
phúc, vì sự tiến bộ của phụ nữ.
Tiếp theo đó, Chính phủ cũng đã ban hành Chỉ thị số 10/2007/CT- TTg
ngày 3/5/2007 về việc triển khai thi hành Luật Bình đẳng giới; Nghị định số:
70/2008/NĐ-CP ngày 4/6/2008 quy định chi tiết thi hành một số điều của
Luật Bình đẳng giới; Nghị định số: 48/NĐ-CP ngày 19/5/2009 quy định về
các biện pháp bảo đảm bình đẳng giới. Quyết định số 2351/QĐ-TTg ngày 24
tháng 12 năm 2011 của Thủ tướng Chính phủ, Phê duyệt Chiến lược quốc gia
về bình đẳng giới giai đoạn 2011 - 2020.
Những quy định pháp luật về BĐG là cơ sở pháp lý quan trọng đảm
bảo quyền bình đẳng cho phụ nữ Việt Nam, đồng thời thể hiện bản chất ưu
việt của chế độ XHCN ở nước ta.
* Quan niệm về bình đẳng giới và bình đẳng giới trong gia đình nông dân
Quan niệm về bình đẳng giới
Theo từ điển Tiếng Việt: Bình đẳng là ngang nhau về địa vị và quyền
lợi, theo đó bình đẳng là khái niệm hàm chứa ý nghĩa xã hội to lớn, là quyền cơ
bản của con người. Bình đẳng xã hội bao gồm các nội dung: bình đẳng giữa các
giai cấp, dân tộc, tôn giáo, các tầng lớp dân cư, các nhóm tuổi… các quốc gia.
“Giới” là khái niệm chỉ sự khác biệt giữa nam và nữ về mặt xã hội, thể
hiện qua các mối quan hệ và tương quan về địa vị xã hội giữa phụ nữ và nam

giới trong bối cảnh xã hội cụ thể. Sự khác biệt xã hội giữa nam và nữ đã đưa
tới sự bất bình đẳng giữa nam và nữ trong xã hội. Xóa bỏ sự bất BĐG là cần
thiết và nhằm thay đổi tương quan địa vị xã hội giữa nam và nữ.


11
Tại Điểm 3, Điều 5, Luật Bình đẳng giới nước ta năm 2006 đã khẳng định:
“Bình đẳng giới là việc nam, nữ có vị trí, vai trò ngang nhau, được tạo điều kiện
và cơ hội phát huy năng lực của mình cho sự phát triển của cộng đồng, của gia
đình và thụ hưởng như nhau về thành quả của sự phát triển đó” [10, tr.14].
Từ những phân tích trên, có thể hiểu: Bình đẳng giới là sự đối xử như
nhau giữa nam và nữ trên mọi phương diện, không phân biệt, hạn chế, loại
trừ quyền của bất cứ nam hay nữ; phụ nữ và nam giới có vị trí như nhau, có
cơ hội như nhau để phát triển đầy đủ tiềm năng của mình, sử dụng nó cho sự
phát triển của xã hội và được hưởng lợi từ kết quả của sự phát triển đó.
Bình đẳng giới là một trong những nội dung của bình đẳng xã hội, đó là
việc thực hiện ngang nhau giữa nam và nữ về đóng góp cũng như hưởng thụ.
Tuy nhiên, khi thực hiện BĐG cần lưu ý hai vấn đề:
Thứ nhất, BĐG không có nghĩa là thực hiện ở sự ngang nhau theo nghĩa
tuyệt đối nhau giữa nam giới và nữ giới theo kiểu: nam giới làm gì thì nữ giới
cũng phải làm và ngược lại.
Thứ hai, BĐG phải là sự khắc phục tình trạng bất BĐG nhưng không
đẫn đến sự triệt tiêu những khác biệt tự nhiên giữa hai giới, hơn nữa còn phải
tôn trọng những sự khác biệt đó.
Quan niệm về bình đẳng giới trong gia đình nông dân
Gia đình nông dân là một kiểu loại gia đình chiếm phần đông trong xã hội,
đặc biệt là ở khu vực nông thôn. Đặc trưng nổi bật của các gia đình nông dân là:
Về quy mô gia đình: gia đình nông dân có trung bình 4 - 5 thành viên,
phần lớn các gia đình nông dân có nhiều thế hệ cùng chung sống. Hiện nay,
quy mô gia đình nông dân có xu hướng ngày càng giảm, do chịu tác động của

sự thay đổi mô hình chung sống giữa các thế hệ, do tác động của công nghiệp
hóa và đô thị hóa đã làm thay đổi chỗ ở, nơi làm việc và nghề nghiệp, tạo nên
tính cơ động xã hội - nghề nghiệp cao của người nông dân. Quy mô gia đình
nông dân giảm còn do tuổi kết hôn của thanh niên ngày càng được nâng cao,


12
mức sinh ngày càng giảm. Quy mô gia đình nông dân ngày càng được thu
nhỏ đã tạo ra sự thúc đẩy mạnh mẽ quá trình dân chủ hóa đời sống gia đình.
Về quan hệ hôn nhân: hôn nhân trong các gia đình nông dân chủ yếu là
do nam, nữ tự do tìm hiểu và quyết định. Tuy nhiên một bộ phận không nhỏ
là tác động từ gia đình và dòng họ, sự kiểm soát hôn nhân của gia đình, dòng
họ vẫn còn khá mạnh. Trong hôn nhân, có sự chênh lệch khá rõ về tuổi tác,
tuổi chồng thường hơn tuổi vợ. Mặc dù cũng có nhiều vấn đề mâu thuẫn nảy
sinh trong hôn nhân nhưng tỉ lệ ly hôn trong các gia đình nông dân thường
thấp hơn các loại hình gia đình khác, nguyên nhân là do người vợ thường
cam chịu và chủ động làm lành, mặt khác là do sự chi phối, tác động của gia
đình, dòng họ buộc họ không được ly hôn.
Về quan hệ vợ - chồng: nhờ tác động của cuộc vận động và phong trào
xây dựng gia đình nông dân no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc, các dự án
xóa đói giảm nghèo, xây dựng làng văn hóa và gia đình văn hóa ở các địa
phương, đời sống vật chất và tinh thần của các hộ gia đình được nâng cao, địa
vị người phụ nữ và sự bình đẳng nam nữ trong đời sống gia đình nông dân
ngày càng được cải thiện đáng kể. Phụ nữ nông dân ngày càng tích cực tham
gia vào các quá trình sản xuất và hoạt động xã hội, mức sinh của phụ nữ giảm
đi, trình độ học vấn và nghề nghiệp tăng lên là những chuyển biến tích cực có
lợi cho cải thiện quan hệ vợ chồng theo hướng bình đẳng. Quan hệ vợ - chồng
trong gia đình nông dân đang có sự xung đột ngày càng rõ giữa những chuẩn
mực của gia đình nông dân truyền thống luôn đề cao vai trò của người đàn
ông, đề cao sự phục tùng của người đàn bà với những chuẩn mực mới về bình

đẳng vợ chồng. Mâu thuẫn vợ chồng và bạo lực giới dưới các hình thức như:
bạo lực thể chất, bạo lực tinh thần, bạo lực kinh tế, bạo lực tình dục… còn khá
phổ biến và đang gây ra những hậu quả nghiêm trọng đối với sự phát triển của
từng cá nhân, gia đình, cộng đồng và xã hội.


13
Về lối sống và văn hoá: các gia đình nông dân có lối sống gần gũi, giản
dị, luôn có sự đoàn kết, yêu thương, đùm bọc, giúp đỡ nhau những lúc khó
khăn, hoạn nạn. Ở họ, tính cộng đồng rất cao, vai trò của dòng tộc và dư luận
xóm làng chi phối, tác động đến lối sống trong các gia đình. Truyền thống tôn
sư trọng đạo, kính trên, nhường dưới trong gia đình và dòng họ luôn được đề
cao, vì vậy những người cao tuổi và đứng đầu dòng họ rất có uy tín, tiếng nói
của họ có thể chi phối và định hướng cho con cháu. Người nông dân luôn duy
trì và tổ chức các lễ hội, trò chơi dân gian, đây là hoạt động thu hút nhiều
người tham gia, làm phong phú đời sống tinh thần của người nông dân. Tuy
nhiên các tập tục, lệ làng chi phối khá sâu sắc đời sống gia đình của người nông
dân, nhiều khi lại mang tính tiêu cực. Mặt khác, do ảnh hưởng của mặt trái cơ
chế thị trường nhiều vấn đề tiêu cực đã xâm nhập và đe doạ phá vỡ nét văn
hoá và lối sống truyền thống của người nông dân. Các tệ nạn xã hội đã xâm
nhập vào gia đình và kéo theo tình trạng phạm tội như ma túy, mại dâm, cờ
bạc, số đề, nghiện rượu, buôn bán phụ nữ và trẻ em…
Về đặc điểm tâm lý: tâm lý “chuộng con trai” vẫn còn khá phổ biến
trong các gia đình nông dân, đây đang là một gánh nặng tâm lý đối với các
cặp vợ chồng, tỷ lệ phụ nữ sinh con thứ ba có xu hướng bùng phát trở lại.
Tuy nhiên các cặp vợ chồng trẻ, có trình độ học vấn càng cao thì tâm lý nhất
thiết phải có con trai cũng dần được giải tỏa. Nếu đời sống của người già
được bảo đảm cả về vật chất và tinh thần thì vai trò truyền thống của con trai
cũng sẽ thay đổi. Đối với người phụ nữ nông dân, họ thường có tâm lý tự ti,
mặc cảm, sống khép mình, cam chịu, hy sinh vì chồng vì con. Trong khi đó

người đàn ông có tâm lý làm chủ gia đình, quyết định các việc lớn trong gia
đình, điều này lại được sự ủng hộ của dòng họ và dư luận xóm làng. Vì vậy mà
tư tưởng “trọng nam, khinh nữ” và lề thói gia trưởng vẫn còn khá phổ biến.


14
Về đặc điểm kinh tế và mức sống: Gia đình nông dân thường gắn bó
với hoạt động sản xuất nông - lâm - ngư nghiệp. Sản xuất quy mô nhỏ, ít thuê
mướn nhân công, sản xuất theo hướng chuyên canh hàng hoá còn ít, chủ yếu
mang tính tự cung, tự cấp. Do trình độ học vấn còn thấp so với mặt bằng
chung của xã hội, khả năng chuyển giao khoa học, công nghệ và áp dụng khoa
học, kỹ thuật vào sản xuất còn hạn chế, chậm thích ứng với cơ chế thị trường.
Quá trình sản xuất còn bấp bênh phụ thuộc nhiều vào điều kiện tự nhiên. Trong
những năm gần đây, nhờ sự quan tâm, đầu tư của Đảng và Nhà nước vào khu
vực nông nghiệp, nông thôn, nhiều gia đình nông dân đã có những hướng mới
phát triển kinh tế hộ gia đình theo hướng sản xuất hàng hoá, các làng nghề
truyền thống được khôi phục, mô hình kinh tế trang trại, ngày càng phát triển và
đem lại hiệu quả. Nhờ đó mức sống của người nông dân ngày một nâng cao, tuy
nhiên nhìn chung mức sống của họ vẫn còn thấp so với mặt bằng chung của xã
hội, tỷ lệ hộ nghèo chủ yếu ở nước ta là các gia đình nông dân.
Đặc điểm gia đình nông dân vừa có những thuận lợi vừa có những khó
khăn, thách thức tác động đến BĐG trong gia đình nông dân nước ta nói chung,
đồng bằng Bắc Bộ trong đó có gia đình nông dân tỉnh Hưng Yên nói riêng.
Từ việc phân tích quan niệm về BĐG, đặc điểm gia đình nông dân
nước ta, có thể hiểu BĐG trong gia đình nông dân như sau:
Bình đẳng giới trong gia đình nông dân là nội dung quan trọng của
bình đẳng giới ở nước ta, biểu hiện ở quyền và lợi ích, nghĩa vụ của các
thành viên trong gia đình, trực tiếp là trong các mối quan hệ giữa vợ và
chồng, cha mẹ và con cái, nam và nữ, được quy định trong các văn bản pháp
luật của Nhà nước nhằm xây dựng gia đình nông dân ấm no, bình đẳng, tiến

bộ và hạnh phúc, góp phần xây dựng nông thôn mới ở nước ta trong thời ky
quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Quan niệm trên cho thấy, BĐG trong gia đình nông dân ở nước ta
là một vấn đề lớn, phức tạp và lâu dài. Thực hiện BĐG trong gia đình


15
nông dân là trách nhiệm của toàn bộ hệ thống chính trị và nhân dân,
trong đó trực tiếp là các tổ chức Đảng và chính quyền, các tổ chức
chính trị - xã hội ở cơ sở và của mỗi thành viên trong gia đình.
Theo Điều 18, Luật Bình đẳng giới (2006), nội dung BĐG trong
gia đình nói chung và gia đình nông dân nói riêng bao gồm: 1. Vợ,
chồng bình đẳng với nhau trong quan hệ dân sự và các quan hệ khác
liên quan đến hôn nhân và gia đình. 2. Vợ, chồng có quyền, nghĩa vụ
ngang nhau trong sở hữu tài sản chung, bình đẳng trong sử dụng nguồn
thu nhập chung của vợ chồng và quyết định các nguồn lực trong gia
đình. 3. Vợ, chồng bình đẳng với nhau trong việc bàn bạc, quyết định
lựa chọn và sử dụng biện pháp kế hoạch hoá gia đình phù hợp; sử
dụng thời gian nghỉ chăm sóc con ốm theo quy định của pháp luật. 4.
Con trai, con gái được gia đình chăm sóc, giáo dục và tạo điều kiện
như nhau để học tập, lao động, vui chơi, giải trí và phát triển. 5. Các
thành viên nam, nữ trong gia đình có trách nhiệm chia sẻ công việc gia
đình” [10, tr.19].
Thực chất của BĐG trong gia đình nông dân là thực hiện bình
đẳng về quyền, lợi ích và nghĩa vụ của công dân, quyền con người của
các thành viên trong gia đình, trong đó trọng tâm và chủ yếu là quyền
bình đẳng của người phụ nữ so với nam giới trong gia đình, cũng như
trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Bình đẳng giới trong gia
đình nói chung và gia đình nông dân nói riêng là một vấn đề chính trị xã hội gắn liền với trình độ phát triển kinh tế - xã hội, đặc điểm tâm lý
truyền thống nông thôn, đồng thời là một trong những mục tiêu chiến

lược phát triển thiên niên kỷ của cả cộng đồng thế giới và của nước ta .
* Quan niệm về bình đẳng giới trong gia đình nông dân tỉnh Hưng Yên
Một số nét cơ bản về đặc điểm địa lí, kinh tế - xã hội, văn hoá tỉnh Hưng Yên


16
Đặc điểm tự nhiên: Hưng Yên là tỉnh nằm trong vùng kinh tế trọng
điểm phía bắc (Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh), là tỉnh đồng bằng không
có rừng, núi và biển, khí hậu nhiệt đới gió mùa, chia làm 4 mùa rõ rệt. Mùa
mưa kéo dài từ cuối tháng 4 đến tháng 10 hàng năm, lượng mưa trong mùa mưa
chiếm tới 70% tổng lượng mưa cả năm, lượng mưa trung bình hàng năm: 1.450 1.650 mm. Nhiệt độ trung bình: 23,2 °C, số giờ nắng trong năm: 1519 giờ. Độ
ẩm trung bình: 85 - 87%. Những đặc điểm về tự nhiên trên tạo điều kiện khá
thuận lợi để Hưng Yên phát triển kinh tế nông nghiệp, đặc biệt là trồng lúa
nước, các loại rau, cây ăn quả, cây công nghiệp ngắn ngày, chăn nuôi gia súc,
gia cầm. Đời sống người nông dân ngày một nâng cao, kết cấu gia đình, dòng
họ, làng xóm khá chặt chẽ, luôn đề cao tinh thần đoàn kết, yêu thương, giúp
đỡ, đùm bọc nhau. Đây là điều kiện thuận lợi để xây dựng gia đình ấm no,
bình đẳng, tiến bộ và hạnh phúc. Tuy nhiên, kinh tế nông nghiệp của người
nông dân còn bấp bênh, phụ thuộc nhiều vào thời tiết, khí hậu, sản xuất mang
tính thuần nông, quy mô nhỏ.
Đặc điểm kinh tế: Trong những năm gần đây, quá trình công nghiệp
hoá, hiện đại hoá diễn ra mạnh mẽ ở Tỉnh, Hưng Yên được ví như Bình
Dương của miền Bắc. Năm 2011, tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của tỉnh
Hưng Yên tăng 11,58%. GDP bình quân đầu người là 24,4 triệu đồng. Cơ cấu
kinh tế chuyển dịch theo hướng tích cực, nông nghiệp là 24%, công nghiệp là
45%, và dịch vụ là 31%. Toàn Tỉnh hiện nay có 86 làng nghề (14 làng nghề
truyền thống), với khoảng 15.000 hộ sản xuất tiểu thủ công nghiệp ở nông
thôn. Các làng nghề với nhiều loại sản phẩm đa dạng đã tạo việc làm cho trên
45.000 lao động, góp phần chuyển dịch cơ cấu lao động từ nông nghiệp sang
phi nông nghiệp. Kinh tế trang trại phát triển tương đối nhanh, hiện có khoảng

4.000 trang trại, gia trại. Kinh tế hộ nông dân ở Hưng Yên đang ngày một phát
triển đã phát huy tính năng động sáng tạo của lao động nam và nữ, khai thác


17
mọi tiềm lực của hộ gia đình, đồng thời nó cũng tạo ra các điều kiện vật chất
căn bản để nâng cao đời sống cho gia đình, cải thiện mối quan hệ giữa nam và
nữ trong mỗi gia đình. Đây là điều kiện tiên quyết để thực hiện BĐG nói chung
và trong các gia đình nông dân nói riêng.
Đặc điểm văn hoá - xã hội: Nông dân tỉnh Hưng Yên sống quần tụ thành
từng làng, với nhiều mối quan hệ đan xen như quan hệ huyết thống, quan hệ
nghề nghiệp, quan hệ cố kết để sản xuất. Trong mỗi làng, tính cộng đồng và
tính tự trị thể hiện rất rõ, hương ước được coi như luật làng. Trong quan hệ gia
đình với gia tộc thì vai trò của gia tộc thường rất lớn, chi phối gia đình và chi
phối cả cuộc sống cá nhân trong một cơ cấu đẳng cấp, phận vị. Trong trật tự
phân vị trên dưới, trai, gái, nội, ngoại, không thể nói đến bình đẳng giữa các
thành viên, càng không có bình đẳng nam nữ.
Công cuộc đổi mới và chiến lược xây dựng nông thôn mới của Tỉnh đã
làm thay đổi địa vị của người phụ nữ nông dân, họ đã từng bước làm chủ cuộc
sống của mình và tích cực tham gia các hoạt động xã hội, đồng thời tác động dữ
dội vào lề thói gia trưởng áp đặt trong quan hệ gia đình. Trước tác động của cơ
chế thị trường, yêu cầu về dân chủ, công bằng, bình đẳng trong xã hội mới đang
công phá trật tự đẳng cấp, phân vị, lay động dữ dội lề thói ứng xử trong gia đình
và làng xóm. Lối ứng xử trong gia đình nông dân tỉnh Hưng Yên đang có sự
biến đổi, dù âm thầm, lặng lẽ, hay đụng độ gay gắt, trong mỗi gia đình nông dân
không tránh khỏi những đấu tranh giữa cái cũ và cái mới, cái tích cực và cái lạc
hậu, điều này tác động mạnh mẽ đến quan hệ về giới trong gia đình.
Quan niệm về bình đẳng giới trong gia đình nông dân tỉnh Hưng Yên
Là một bộ phận trong kiểu loại gia đình nông dân nước ta, gia đình nông
dân tỉnh Hưng Yên mang đầy đủ những đặc trưng gia đình nông dân truyền

thống với cả những thuận lợi và khó khăn, thách thức tác động đến BĐG trong
gia đình nông dân tỉnh Hưng Yên. Từ sự phân tích trên có thể hiểu:


18
Bình đẳng giới trong gia đình nông dân tỉnh Hưng Yên hiện nay là nội
dung của bình đẳng giới ở nước ta, thể hiện ở sự bình đẳng về quyền và lợi
ích, nghĩa vụ trong các mối quan hệ giữa các thành viên trên các lĩnh vực
của đời sống gia đình và xã hội theo đúng quy định của pháp luật, chuẩn
mực đạo đức và giá trị văn hoá tốt đẹp của dân tộc, nhằm xây dựng gia đình
no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc, góp phần xây dựng nông thôn mới,
thực hiện thắng lợi chiến lược công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp,
nông thôn của Tỉnh trong thời ky mới.
Thực hiện BĐG trong gia đình nông dân tỉnh Hưng Yên hiện nay là trách
nhiệm của toàn bộ hệ thống chính trị và nhân dân trong Tỉnh, trước hết là của cấp
ủy, chính quyền địa phương cơ sở và trực tiếp quyết định nhất là thái độ, trách
nhiệm, hành vi ứng xử của vợ, chồng và các thành viên trong mỗi gia đình. Trong
phạm vi nghiên cứu của đề tài, BĐG trong gia đình nông dân tỉnh Hưng Yên hiện
nay thể hiện qua một số nội dung chủ yếu sau:
Thứ nhất, bình đẳng giữa vợ và chồng trong cống hiến cho sự phát
triển của gia đình.
Sự phát triển của gia đình là nội dung cơ bản, chủ yếu trong xây dựng
cuộc sống gia đình, nó đòi hỏi sự đóng góp bình đẳng giữa các thành viên trong
gia đình nhất là giữa vợ và chồng. Để gia đình phát triển cả vợ và chồng đều phải
có những hoạt động đóng góp như: hoạt động sản xuất (bao gồm các hoạt động
tạo ra thu nhập bằng hiện vật, để dùng hoặc trao đổi, hay thu nhập bằng tiền);
hoạt động sinh sản; hoạt động chăm sóc, nuôi dưỡng con cái và các thành viên
khác của gia đình; công việc nội trợ (bao gồm tất cả các việc như chợ búa, cơm
nước, giặt giũ, may vá, thu dọn nhà cửa...). Đây là những hoạt động chủ yếu mà
cả vợ và chồng, con cái đều phải có trách nhiệm, bổn phận. Bình đẳng giới trong

gia đình nông dân không đồng nghĩa với việc chia đều công việc gia đình giữa
nam và nữ, cũng không phải bắt phụ nữ từ bỏ việc chăm sóc gia đình - công việc


19
vốn được người phụ nữ rất quan tâm. Song khi gánh nặng công việc do vai trò
kép của phụ nữ trong gia đình quá lớn sẽ cản trở tới sự phát triển của họ. Vì vậy,
sự cảm thông, chia sẻ của người chồng là cần thiết, nó càng làm cho tình cảm vợ
chồng thêm gắn bó.
Thứ hai, bình đẳng giới trong đời sống tâm - sinh lý vợ chồng.
Bình đẳng trong đời sống tâm - sinh lý vợ chồng là vấn đề vô cùng
quan trọng với mỗi người, biểu hiện ý nghĩa đích thực của hôn nhân, nó là
yếu tố không thể thiếu để duy trì sự bền vững của hạnh phúc gia đình. Trong
quá trình chung sống giữa vợ và chồng không thể không đề cập đến quan hệ
sinh lý vợ chồng. Bình đẳng giới trong đời sống tâm - sinh lý vợ chồng biểu
hiện ở sự thích nghi, hòa hợp của hai con người, hai lối sống, sự tôn trọng,
cảm thông, chia sẻ, hợp tác, điều chỉnh, điều hoà nhu cầu của cả nam và
nữ. Những biểu hiện gia trưởng, áp đặt, bắt buộc, quá đòi hỏi và bạo lực
tình dục của người chồng đối với người vợ và ngược lại là biểu hiện bất
BĐG trong đời sống tâm - sinh lý vợ chồng.
Thứ ba, bình đẳng giới trong gia đình nông dân gắn liền với vấn đề
phòng, chống hành vi bạo lực đối với phụ nữ.
Bạo lực trên cơ sở giới là vi phạm nguyên tắc bình đẳng nam nữ, được
coi là mặt đối lập với bình đẳng giới. Trong quá trình tồn tại và phát triển của
gia đình, các mâu thuẫn, xung đột trong cuộc sống vợ chồng là một điều tất
yếu, tuy nhiên gia đình muốn tồn tại, phát triển bền vững phải là một thực thể
hài hòa, biết chấp nhận và giải quyết mâu thuẫn, xung đột hợp lý, tránh đẩy
tới bạo lực. Bạo lực trong gia đình là một nguy cơ lớn nhất đe dọa sự bền
vững của gia đình. Vì vậy, BĐG trong gia đình là phải loại trừ, đấu tranh
phòng chống hành vi bạo lực đối với phụ nữ.

Thứ tư, bình đẳng giữa vợ và chồng về quyền quyết định trong gia đình và
tham gia các hoạt động xã hội.


20
Quyền quyết định thuộc về vợ hay chồng là một chỉ báo có ý nghĩa
quan trọng để đánh giá BĐG trong gia đình nông dân. Quyền quyết định đó
được thể hiện trên ba lĩnh vực cơ bản của đời sống gia đình, đó là: lĩnh vực
sản xuất, lĩnh vực sinh sản nuôi dưỡng và một số quyết định quan trọng
khác của gia đình. Trong gia đình nông dân Hưng Yên hiện nay, còn phổ
biến tình trạng người chồng muốn khẳng định địa vị của mình thông qua
việc nắm quyền quyết định, chi phối hoạt động gia đình. Điều này thường
dẫn đến mâu thuẫn với các thành viên khác, vì họ luôn có nhu cầu tự kiểm
soát hoạt động của mình. Nếu không giải quyết tốt mối quan hệ này sẽ ảnh
hưởng đến sự phát triển của gia đình nói chung, hạn chế khả năng chủ
động, sáng tạo của mỗi thành viên nói riêng, khi đó sẽ không thể có bình
đẳng giới. Bình đẳng giới trong các quyết định gia đình nghĩa là, mọi vấn
đề trong gia đình đều có sự bàn bạc, thống nhất giữa vợ và chồng, không
thể có sự tồn tại của thói gia trưởng, độc đoán.
Hoạt động xã hội được tiến hành bên ngoài phạm vi gia đình nhưng
lại liên quan chặt chẽ tới cuộc sống gia đình, đặc biệt nó phản ánh mối
tương quan vị thế của nam và nữ. Một lôgíc tất yếu là, vị thế của mỗi người
trong gia đình sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới vị thế của họ ngoài xã hội. Vì vậy,
để đảm bảo BĐG trong gia đình thì phải thực hiện BĐG trong tham gia các
hoạt động cộng đồng, hoạt động chính trị - xã hội. Các hoạt động này bao
gồm: công việc lao động trực tiếp đóng góp xây dựng cộng đồng, lãnh đạo
quản lý cộng đồng, các hoạt động tham gia đời sống chính trị - xã hội.
Phân tích, làm rõ các nội dung BĐG trong gia đình nông dân tỉnh Hưng
Yên hiện nay là cơ sở quan trọng để khảo sát, đánh giá thực trạng BĐG trong
gia đình nông dân tỉnh Hưng Yên.

1.1.2. Vai trò thực hiện bình đẳng giới trong gia đình nông dân
tỉnh Hưng Yên


21
Thứ nhất, thực hiện bình đẳng giới trong gia đình nông dân tỉnh Hưng Yên
là nhân tố quan trọng để xây dựng và phát huy nguồn lực con người trong sự
nghiệp CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn và xây dựng nông thôn mới của Tỉnh.
Xây dựng và phát huy nguồn lực con người là nhân tố quan trọng hàng
đầu trong sự nghiệp đổi mới ở nước ta. Nguồn lực con người bao gồm cả lao
động nam và lao động nữ, khi có sự BĐG sẽ phát huy được cả hai lực lượng
lao động này. Ở nông thôn tỉnh Hưng Yên hiện nay, lao động nữ chiếm hơn
một nửa lực lượng lao động của cả Tỉnh, đây là nguồn lực lao động quan
trọng trong phát triển kinh tế - xã hội nông thôn. Nguồn lực lao động này chỉ
được phát huy khi BĐG trong các gia đình nông dân được thực hiện. Khi
người phụ nữ thoát khỏi gánh nặng của các công việc gia đình, họ sẽ có thời
gian và điều kiện để tham gia vào hoạt động lao động, sản xuất xã hội, qua đó
phát huy mọi khả năng, trí tuệ trong xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội
nông thôn. Phụ nữ nông dân không chỉ là lực lượng lao động trực tiếp ở nông
thôn mà họ còn có vai trò là người trực tiếp sinh thành và nuôi dưỡng thế hệ
trẻ, nguồn lực tương lai của đất nước. Hay nói cách khác, phụ nữ là người
trực tiếp quyết định chất lượng ban đầu của ngồn lực tương lai. Bình đẳng
giới trong gia đình nông dân tỉnh Hưng Yên sẽ tạo điều kiện và cơ hội để phụ
nữ nông dân tích cực học tập nâng cao trình độ học vấn, năng lực lao động,
lao động sáng tạo, nuôi con khoẻ, dạy con ngoan, xây dựng gia đình hạnh
phúc. Phụ nữ nông dân là những người góp phần quan trọng để thực hiện
thắng lợi những mục tiêu đã đề ra nhằm xây dựng nông thôn mới, phát triển
sản xuất nông nghiệp theo hướng công nghiệp hiện đại ở Hưng Yên hiện nay.
Như vậy, thực hiện BĐG trong gia đình nông dân tỉnh Hưng Yên hiện
nay sẽ trực tiếp phát huy nguồn nhân lực ở nông thôn nói chung và nguồn lực

lao động nữ nói riêng trong sự nghiệp CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn và
xây dựng nông thôn mới của tỉnh.


22
Thứ hai, thực hiện bình đẳng giới trong gia đình nông dân sẽ trực tiếp
xây dựng mô hình gia đình xã hội chủ nghĩa ở nông thôn tỉnh Hưng Yên.
Gia đình là tổ ấm thân yêu đem lại hạnh phúc cho mỗi con người.
Trong gia đình, cá nhân được đùm bọc mọi mặt vật chất và tinh thần; trẻ thơ
có điều kiện được an toàn và khôn lớn, người già có nơi nương tựa, người lao
động được phục hồi sức khoẻ và thoải mái tinh thần... Ở đó, hàng ngày diễn
ra các quan hệ thiêng liêng, sâu đậm giữa vợ - chồng, cha - con, anh - em,
những người đồng tâm, đồng cảm, nâng đỡ nhau suốt cả cuộc đời. Có nhiều
vấn đề trong cuộc sống mà ngoài môi trường gia đình, không ở đâu có thể đáp
ứng và giải quyết có hiệu quả. Gia đình là tế bào của xã hội, gia đình yên
ấm ,xã hội mới ổn định, cá nhân mới thực sự yên tâm lao động và làm việc
sáng tạo. Một trong những bất hạnh nhất đối với con người là lâm vào hoàn
cảnh “vô gia cư”, gia đình lục đục, tan nát, bất bình đẳng... Vì vậy, việc xây dựng
gia đình mới là một trong những vấn đề quan trọng của sự nghiệp xây dựng
CNXH. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: “Rất quan tâm đến gia đình là đúng, vì
nhiều gia đình cộng lại mới thành xã hội, xã hội tốt thì gia đình càng tốt, gia đình
tốt thì xã hội mới tốt. Hạt nhân của xã hội là gia đình. Chính vì muốn xây dựng
chủ nghĩa xã hội mà phải chú ý đến hạt nhân cho tốt” [34, tr.523].
Gia đình XHCN là gia đình ấm no, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc,
thật sự là tổ ấm của mỗi người, là tế bào lành mạnh của xã hội. Thực hiện
BĐG trong gia đình nông dân là nhằm xây dựng các mối quan hệ bình
đẳng, thương yêu và có trách nhiệm với nhau, cùng chia sẻ, gánh vác công
việc gia đình của các thành viên trong gia đình. Đây chính là phương
hướng lớn để xây dựng mô hình gia đình xã hội chủ nghĩa. Trong các mối
quan hệ đó thì quan hệ vợ - chồng có ý nghĩa tác động lớn đến các quan hệ

khác trong gia đình. Có nhiều nội dung để duy trì và vun đắp tình cảm tốt
đẹp giữa vợ với chồng, trong đó cần chú ý khắc phục những gì tiêu cực trong
quan hệ vợ - chồng, nhất là sự bất bình đẳng và bạo lực gia đình. Vì vậy, bình


23
đẳng và tôn trọng nhau là nét đặc trưng của quan hệ vợ - chồng trong gia đình
mới. Vợ chồng có quyền lợi và nghĩa vụ ngang nhau về mọi mặt trong đời sống
gia đình. Vợ chồng được tự do lựa chọn những vấn đề riêng, chính đáng và
thống nhất giải quyết những vấn đề chung trên cơ sở cùng nhau bàn bạc về
quyền lợi, hạnh phúc của cả gia đình. Trong gia đình XHCN, vợ chồng thương
yêu, chăm no, giúp đỡ nhau cùng tiến bộ, điều đó chỉ có được khi thực hiện
BĐG ngay trong gia đình.
Khu vực nông thôn tỉnh Hưng Yên là nơi có nguy cơ và tập trung
xảy ra những vấn đề bất BĐG, định kiến và phân biệt giới. Nhiều tàn dư
phong kiến vẫn tồn tại ở nông thôn, nhất là trong các gia đình nông dân như:
thói gia trưởng, “trọng nam khinh nữ”, bạo lực gia đình... Vì vậy, để xây dựng
mô hình gia đình XHCN góp phần xây dựng lối sống mới ở nông thôn Hưng
Yên hiện nay, vấn đề tất yếu là phải thực hiện BĐG trong gia các đình nông
dân. Có vậy mới dần xoá bỏ những biểu hiện bất BĐG và đạt được những
chuẩn mực của mô hình gia đình XHCN ngay tại khu vực nông thôn.
Thứ ba, thực hiện bình đẳng giới trong gia đình nông dân tỉnh Hưng Yên
tạo ra những động lực và điều kiện để phát triển kinh tế hộ gia đình.
Phát triển kinh tế là chức năng quan trọng của gia đình. Thực hiện
BĐG trong gia đình nông dân chính là khơi dậy tiềm năng sẵn có trong mỗi
thành viên để tạo điều kiện tốt nhất cho việc phát triển kinh tế hộ gia đình của
phụ nữ nông dân Hưng Yên. Sự nhận thức đúng đắn trong mối quan hệ các
thành viên trong gia đình nông dân là tiền đề để các thành viên có thể nhận
thức được quyền của mình trong việc bàn bạc, quyết định mọi việc chăm lo
phát triển kinh tế gia đình. Trên cơ sở đó, người phụ nữ nông dân được nhận

từ gia đình những quyền lợi về vật chất và tinh thần mà gia đình tạo dựng nhờ
sự góp sức nỗ lực của mọi thành viên.
Dưới chế độ phong kiến, phụ nữ chỉ được xem là cái bóng của chồng
trong gia đình, không có dân chủ giữa vợ và chồng. Phụ nữ thường chỉ ở nhà


24
chăm lo công việc nội trợ như: cơm nước, giặt giũ, chợ búa, đồng áng, ít được
giao tiếp ngoài xã hội. Kinh tế gia đình đều do người chồng quyết định, hay
nói cách khác kinh tế gia đình do nam giới nắm giữ, phụ nữ chỉ là người phụ
trong gia đình. Hiện nay, trong cơ chế mới đã có sự thay đổi rõ rệt, phụ nữ đã
tham gia vào hoạt động kinh tế và các công tác xã hội. Thực tế cho thấy, ở hầu
hết các lĩnh vực trong đời sống xã hội đều có phụ nữ tham gia, kể cả những
lĩnh vực khó khăn mà trước đây chỉ có nam giới mới đảm nhận được.
Phụ nữ nông dân Hưng Yên ngày nay, không những đảm nhận công
việc nội trợ trong gia đình mà còn tham gia phát triển kinh tế cho gia đình,
ngay một lúc phụ nữ nông dân đảm nhận cả hai vai trò: vừa chăm lo cho gia
đình, vừa phải làm kinh tế và tham gia công tác xã hội. Muốn làm được việc
này, đòi hỏi phải có sự chia sẻ, góp sức của người chồng và các thành viên
trong gia đình. Trong mỗi gia đình nông dân Hưng Yên, người chồng phải có
sự chia sẻ công việc gia đình với vợ con, có sự bàn bạc đi đến quyết định
những vấn đề quan trọng như công ăn việc làm, phát triển kinh tế gia đình,
nuôi dạy con cái. Phụ nữ nông dân rất khéo léo trong việc phân công lao động
các thành viên trong gia đình dựa trên khả năng, thể lực của mỗi thành viên.
Nhờ có sự phân công hợp lý nên sự đóng góp kinh tế của các thành viên ngày
càng tăng, cuộc sống gia đình ổn định, hạnh phúc, vai trò của phụ nữ nông
dân Hưng Yên ngày càng được khẳng định trong gia đình cũng như xã hội,
góp phần phát triển kinh tế gia đình ngày càng tốt hơn.
Thứ tư, thực hiện bình đẳng giới trong gia đình nông dân tỉnh Hưng
Yên góp phần ổn định xã hội, đấu tranh ngăn chặn và loại trừ các tệ nạn xã

hội ở nông thôn của Tỉnh.
Thực hiện BĐG trong gia đình nông dân Hưng Yên sẽ tạo dựng mối
quan hệ tốt đẹp giữa các thành viên trong gia đình. Sự tiến bộ, hạnh phúc của
mỗi gia đình nông dân Hưng Yên đã góp phần quan trọng để xây dựng các gia
đình văn hoá, làng văn hoá và thực hiện tốt phong trào “Toàn dân đoàn kết xây


25
dựng đời sống văn hoá”, qua đó tạo lên sự ổn định, phát triển ở nông thôn.
Thực hiện BĐG là nhân tố quan trọng hàng đầu để xây dựng các gia
đình nông dân Hưng Yên tiến bộ, hạnh phúc, làm cho các gia đình thực sự là
tổ ấm, là chiếc nôi nuôi dưỡng con người, hình thành và phát triển nhân cách
tốt đẹp. Thông qua chức năng giáo dục của gia đình, con cái được yêu
thương, nuôi dưỡng, giáo dục, chăm lo việc học tập và phát triển lành
mạnh cả về thể chất lẫn tinh thần. Sự giáo dục của gia đình sẽ tạo lập và
phát triển nhân cách của con cái, như: đạo đức, lối sống, ứng xử, tri thức
lao động và khoa học. Khi gia đình bình đẳng, hạnh phúc, vai trò giáo dục
của gia đình ngày một phát huy nhằm đào tạo thế hệ trẻ, duy trì và phát
triển đạo đức, văn hoá dân tộc. Bình đẳng giới trong gia đình nông dân tạo
sự hiểu biết về tâm - sinh lý, sở thích... của các thành viên trong gia đình, từ
đó có cách ứng xử phù hợp, chân thành tế nhị, tạo bầu không khí ổn định
trong gia đình, làm cho các thành viên có điều kiện sống lạc quan và tích cực.
Thực hiện BĐG trong gia đình nông dân Hưng Yên không chỉ góp phần
xây dựng gia đình hạnh phúc, tiến bộ mà nó còn tạo nên sức đề kháng đối với các
tệ nạn xã hội và dần đi đến giảm trừ, đẩy lùi tệ nạn xã hội cả trong gia đình và
ngoài xã hội. Trong mỗi gia đình nông dân Hưng Yên, khi thực hiện BĐG sẽ
không còn tồn tại tình trạng bạo lực gia đình, không có những người đàn ông
đánh đập, hành hạ vợ con dã man, không có những vụ án hình sự thương tâm
xuất phát từ những mâu thuẫn, sự thiếu thuỷ chung và bạo lực gia đình.
Dưới góc độ xã hội, BĐG trong gia đình nông dân sẽ tạo dựng môi

trường thuận lợi để giáo dục con cái trở thành những con người tốt, có ích cho
xã hội, không vi phạm pháp luật cũng như các tệ nạn xã hội. Trong thực tế ở
Hưng yên hiện nay, khi gia đình nông dân nào còn có biểu hiện bất BĐG thì
dễ xảy ra tình trạng bạo lực gia đình, vợ chồng bất đồng, thậm chí dẫn đến án
hình sự. Và như vậy gia đình sẽ tan nát, không có hạnh phúc, đương nhiên
chức năng giáo dục của gia đình sẽ không thể phát huy, con cái chán nản, dễ


26
tiêm nhiễm các tệ nạn xã hội, vi phạm pháp luật.
1.2. Thực trạng bình đẳng giới trong gia đình nông dân tỉnh Hưng
Yên hiện nay
1.2.1. Những thành tựu bình đẳng giới trong gia đình nông dân tỉnh
Hưng Yên hiện nay và nguyên nhân của thành tựu đó
* Những thành tựu
Một là, nhận thức, trách nhiệm của các cấp ủy đảng, chính quyền cũng
như người dân, xã hội với công tác bình đẳng giới và bình đẳng giới trong gia
đình nông dân ngày càng nâng cao.
Các cấp ủy đảng, chính quyền địa phương trong Tỉnh đã có sự quan tâm,
đầu tư cho công tác BĐG, nhiều địa phương trong Tỉnh đã thực hiện tốt việc
lồng ghép các mục tiêu, chỉ tiêu BĐG vào trong kế hoạch, chương trình phát
triển kinh tế - xã hội của địa phương, nhất là ở nông thôn.
Công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục chính sách, pháp luật về BĐG
được đẩy mạnh, qua đó nâng cao nhận thức về BĐG cho cán bộ, đảng viên và
nhân dân trong toàn Tỉnh. Các hoạt động phối hợp giữa Sở Lao động - Thương
binh và Xã hội với Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy đã hình thành với những hình thức
phong phú như: thông qua báo chí, truyền hình, tờ rơi, tài liệu về BĐG cho
10/10 huyện, thành phố trên địa bàn Tỉnh. Ban Vì sự tiến bộ của Phụ nữ Tỉnh
đã chủ động tổ chức và phối hợp với Hội Phụ nữ các cấp tổ chức được gần
200 lớp tập huấn giới và phòng chống bạo lực gia đình, Luật BĐG, Nghị quyết

11-NQ/BCT, kỹ năng lồng ghép giới trong hoạch định chính sách, Công ước
CEDAW, chăm sóc sức khoẻ sinh sản phụ nữ... Đây là hoạt động mang lại hiệu
quả thiết thực nhằm nâng cao nhận thức, trách nhiệm đối với lãnh đạo các cấp đến
công tác BĐG trong gia đình nông dân. Theo Báo cáo của Sở Lao động - Thương
binh và Xã hội tỉnh Hưng Yên, đến nay: 100% Ban Vì sự tiến bộ của Phụ nữ các
cấp, các ngành được bồi dưỡng về kỹ năng hoạt động; tỷ lệ lãnh đạo các ngành,


×