Tải bản đầy đủ (.doc) (101 trang)

NGHIÊN cứu lựa CHỌN bài tập PHÁT TRIỂN sức MẠNH tốc độ CHO NAM SINH VIÊN đội TUYỂN BÓNG ném TRƯỜNG đại học sư PHẠM THỂ dục THỂ THAO hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (629.23 KB, 101 trang )

B GIO DC V O TO
TRNG I HC S PHM TH DC TH THAO H NI

TRN èNH PHềNG

NGHIÊN CứU LựA CHọN BàI TậP PHáT TRIểN SứC MạNH TốC Độ
CHO NAM SINH VIÊN ĐộI TUYểN BóNG NéM TRƯờNG ĐạI HọC
SƯ PHạM THể DụC THể THAO Hà NộI
Chuyờn ngnh: Giỏo dc th cht
Mó s: 60140103

LUN VN THC S GIO DC HC

HNG DN KHOA HC: TS. NGUYN VN THI


2
HÀ NỘI – 2016


i
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan, đây là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực
và chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nào.
Tác giả luận văn

Trần Đình Phòng


ii


MỤC LỤC


iii
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
AL
ATP
CG
CM
CLB
CP
CS
ĐC
GĐHL
HCB
HCĐ
HCV
HLV
KHGD
KHKT
KHTDTT
LVĐ
NĐC
NTN
SMTĐ
TDTT
TLCM

: Axít lactic
: Adenosin Tripliosphat

: Chuyên gia
: Chuyên môn
: Câu lạc bộ
: Creatinphôtphat
: Cộng sự
: Đối chứng
: Giai đoạn huấn luyện
: Huy chương bạc
: Huy chương đồng
: Huy chương vàng
: Huấn luyện viên
: Khoa học giáo dục
: Khoa học kỹ thuật
: Khoa học thể dục thể thao
: Lượng vận động
: Nhóm đối chứng
: Nhóm thực nghiệm
: Nhà xuất bản
: Sức mạnh tốc độ
: Thể dục thể thao
: Thể lực chuyên môn

TR
TT
VĐV
XPC

: Trang
: Thứ tự
: Vận động viên

: Xuất phát cao

NXB


iv
DANH MỤC CÁC ĐƠN VỊ ĐO LƯỜNG
cm
h
kg
m
m/s
sl
s

: Centimét
: Giờ
: Kilôgam
: Mét
: Mét trên giây
: Số lần
:Giây


v
DANH MỤC BẢNG


vi
DANH MỤC BIỂU ĐỒ



1
MỞ ĐẦU
1. Đặt vấn đề
Trường Đại học Sư phạm TDTT Hà Nội là trung tâm đào tạo và nghiên
cứu khoa học TDTT của cả nước, có nhiệm vụ đào tạo giáo viên TDTT cho
các trường phổ thông các cấp trên phạm vi toàn quốc, với mục tiêu đặt ra là:
Đào tạo đội ngũ cán bộ, giáo viên TDTT trình độ đại học, cao đẳng, có phẩm
chất chính trị, đạo đức tốt; có khả năng tổ chức quản lý các phong trào hoạt
động TDTT, giảng dạy thể dục tại các trường học, huấn luyện thể thao thành
tích cao; đồng thời có khả năng nghiên cứu khoa học TDTT phục vụ cho yêu
cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Chính vì vậy, đổi mới công tác đào tạo cán bộ TDTT, nâng cao chất
lượng đào tạo có ý nghĩa thực tiễn to lớn. Công việc này phải được tiến hành
thường xuyên và phải thực hiện ngay ở từng môn học trong nhà trường.
Bóng ném là một trong những môn thể thao ra đời rất sớm trên thế giới,
liên đoàn bóng ném quốc tế chính thức được thành lập vào năm 1928 lúc đó lấy
tên là IAHF đây là môn thể thao được đưa vào đại hội Olympic hiện đại đầu
tiên năm vào năm 1972 cho nam và nữ từ năm 1976 của thế kỷ trước. Quá trình
phát triển môn bóng ném gắn liền với sự tiến bộ của xã hội loài người.
Ngày nay cùng với sự phát triển mạnh mẽ của các môn thể thao khác
thì Bóng ném cũng không ngừng phát triển ở tất cả các quốc gia. Được du
nhập vào Việt Nam năm 1945, đến khi đất nước hoàn toàn giải phóng thì
Bóng ném bắt đầu phát triển ở một số thành phố như Hà Nội, Thành phố Hồ
Chí Minh, Bình Định ...
Bóng ném là một trong những chuyên nghành đào tạo cơ bản của
trường Đại học sư phạm Thể dục Thể thao Hà Nội. Tuy là môn thể thao mới
đưa vào chương trình đào tạo nhưng cũng như các môn thể thao khác Bóng
ném luôn nhận được quan tâm nâng cao chất lượng đào tạo, giảng dạy đặc

biệt là về chất lượng các kỹ thuật cơ bản phải đặt lên hàng đầu và là nhiệm vụ
giảng dạy trọng tâm của bộ môn cũng như Nhà trường.


2
Bóng ném là môn thể thao mang tính đối kháng trực tiếp, có tính đồng
đội cao, không chỉ đòi hỏi người tập có tinh thần đồng đội, có tính kỷ luật,
đoàn kết mà cần phải có các tố chất thể lực của VĐV. Đó là yêu cầu về: Sức
nhanh, sức mạnh, sức bền, sự mềm dẻo khéo léo và khả năng phối hợp vận
động cũng như các dạng hỗn hợp của chúng là: Sức bền tốc độ, sức mạnh tốc
độ, sức mạnh bền. Trong đó sức mạnh tốc độ là nền tảng quan trọng trong thể
lực của VĐV Bóng ném.
Khi thi đấu Bóng ném cần sử dụng chủ yếu các yếu tố sức mạnh của
đôi tay và sự phối hợp vận động của các cơ quan vận động để điều khiển bóng
(ném, di chuyển, tranh cướp …). Nó có ảnh hưởng lớn đến hiệu quả thi đấu,
giúp người tập và thi đấu Bóng ném có những pha bóng tấn công cầu môn
nhanh, mạnh để uy hiếp đối thủ, giành điểm hoặc tạo cơ hội cho đồng đội ghi
điểm. Ngoài ra nó còn giúp cho VĐV thực hiện tốt kỹ thuật, tạo sự đột biến
trong trận đấu.
Đối với thi đấu Bóng ném luôn phải sử dụng sức mạnh tốc độ trong
mọi tình huống và liên tục trong thời gian tương đối dài với lượng vận động
lớn nên dẫn đến sự mệt mỏi của cơ bắp cùng với sự căng thẳng của thần kinh
và ức chế tâm lý. Do tầm quan trọng của sức mạnh tốc độ trong Bóng ném
nên việc phát triển sức mạnh tốc độ cho người học nói chung và VĐV Bóng
ném nói riêng là điều cần thiết và vô cùng quan trọng.
Qua quan sát các giờ học Bóng ném chính khóa cũng như các buổi tập
luyện ngoại khóa và thi đấu Bóng ném của nam sinh viên đội tuyển Bóng ném
trường ĐHSP TDTT Hà Nội, chúng tôi nhận thấy sức mạnh tốc độ của các
em còn hạn chế thể hiện ở hiệu quả thi đấu, những đường chuyền phản công,
tấn công nhanh còn yếu và dễ bị cản phá, tốc độ phát lực chậm và yếu…

Hiện nay có nhiều công trình trong và ngoài nước nghiên cứu các vấn
đề liên quan tới Bóng ném như: Phạm Quang Bản (2002) “Nghiên cứu nội
dung huấn luyện và thang điểm dùng để tuyển chọn ban đầu cho vận động
viên bóng ném nam lứa tuổi 11-13” ; Bùi Kim Phượng(1994) “Nghiên cứu


3
bước đầu tuyển chọn vận động viên bóng ném trẻ ở Hà Nội”; Bùi Thị Kim
Phượng (2007) “Nghiên cứu đánh giá trình độ tập luyện về thể lực dưới góc
độ sư phạm của vận động viên bóng ném nam đội tuyển quốc gia”; Lê Thị
Thanh Thuỷ (2007) “Nghiên cứu xây dựng một số tiêu chuẩn đánh giá trình
độ đẳng cấp VĐV cho sinh viên chuyên sâu bóng ném”; Nguyễn Xuân Trãi
(2003) “Nghiên cứu lựa chọn các chỉ tiêu và xây dựng tiêu chuẩn đánh giá
trình độ thể lực chuyên môn cho sinh viên bóng ném Trường Đại học
TDTT1”; Hoàng Thế Khải (2011) “Nghiên cứu lựa chọn bài tập nhằm phát
triển sức mạnh tốc độ cho nam sinh viên chuyên sâu Bóng ném năm thứ nhất
Trường Đại học TDTT Bắc Ninh”
Các công trình nghiên cứu trên đã đề cập tới việc nâng cao hiệu quả kỹ
thuật và phát triển các tố chất thể lực cho sinh viên chuyên sâu bóng ném, còn
vấn đề các công trình nghiên cứu về sức mạnh tốc độ cho đối tượng là sinh viên
đội tuyển Bóng ném hầu như chưa được đề cập nhiều và quan tâm đúng mức.
Xuất phát từ thực tế trên, chúng tôi mạnh dạn nghiên cứu đề tài:
“Nghiên cứu lựa chọn bài tập phát triển sức mạnh tốc độ cho nam
sinh viên đội tuyển Bóng ném trường ĐHSP TDTT Hà Nội”.
2. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của đề tài là lựa chọn được bài tập phát triển sức
mạnh tốc độ cho cho nam sinh viên đội tuyển Bóng ném trường ĐHSP TDTT
Hà Nội và đánh giá được hiệu quả bài tập đó trên đối tượng nghiên cứu. Qua
đó nâng cao được sức mạnh tốc độ nói riêng và chất lượng giáo dục, đào tạo
trong Nhà trường nói chung.

3. Mục tiêu nghiên cứu
Để đạt được mục đích nêu trên, đề tài đã tiến hành giải quyết 2 mục
tiêu nghiên cứu sau:
- Mục tiêu 1: Đánh giá thực trạng sức mạnh tốc độ của nam sinh viên
đội tuyển Bóng ném trường ĐHSP TDTT Hà Nội.
Để giải quyết mục tiêu 1 đề tài dự kiến giải quyết các vấn đề sau:


4
+ Lựa chọn các test đánh giá sức mạnh tốc độ cho nam sinh viên đội
tuyển Bóng ném trường ĐHSP TDTT Hà Nội.
+ Thực trạng sức mạnh tốc độ của nam sinh viên đội tuyển Bóng ném
trường ĐHSP TDTT Hà Nội.
- Mục tiêu 2: Lựa chọn, ứng dụng và đánh giá hiệu quả các bài tập phát
triển sức mạnh tốc độ cho nam sinh viên đội tuyển Bóng ném trường ĐHSP
TDTT Hà Nội.
Để giải quyết mục tiêu 2 đề tài dự kiến gải quyết các vấn đề sau:
+ Lựa chọn bài tập nhằm nâng cao sức mạnh tốc độ cho nam sinh viên
đội tuyển Bóng ném trường ĐHSP TDTT Hà Nội.
+ Ứng dụng và đánh giá hiệu quả của các bài tập nhằm phát triển sức mạnh
tốc độ cho nam sinh viên đội tuyển Bóng ném trường ĐHSP TDTT Hà Nội.
4. Giả thuyết nghiên cứu
Đề tài giả thuyết nếu các bài tập phát triển sức mạnh tốc độ đã được
nghiên cứu lựa chọn được đưa vào sử dụng thì sẽ phát triển được sức mạnh tốc
độ cho nam sinh viên đội tuyển bóng ném trường ĐHSP TDTT Hà Nội, góp
phần nâng cao kết quả huấn luyện, thi đấu và chất lượng đào tạo của Nhà trường.


5
Chương 1

TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Xu thế phát triển bóng ném và đặc điểm huấn luyện môn bóng ném
1.1.1. Xu thế phát triển môn bóng ném
Bóng ném là môn thể thao được phát triển mạnh mẽ và rộng khắp trên
thế giới. Ngày nay, đã có đến 120 quốc gia trên thế giới tham gia tập luyện và
thi đấu bóng ném. Ở Châu Á và Châu Âu, môn thể thao này đặc biệt được
quan tâm phát triển. Ở Việt Nam bóng ném được du nhập vào từ những năm
54 của thế kỷ XX [48 ], nhưng nó đã nhanh chóng trở thành môn thể thao mũi
nhọn và hiện nay là môn thể thao có thế mạnh ở khu vực, được xếp nhất, nhì
Đông Nam Á. Sự đua tranh quyết liệt trên đấu trường trong nước cũng như
quốc tế đã tạo nên một xu hướng phát triển mới cho môn bóng ném. Nhận
thức được vấn đề này, trong huấn luyện bóng ném những năm gần đây, các
nhà chuyên môn đã bắt đầu quan tâm đến một số vấn đề như:
- Sử dụng lượng vận động lớn; xu hướng này thể hiện sự khai thác tối
đa khả năng của VĐV trong quá trình tập luyện.
* Về kỹ thuật:
- Về kỹ thuật tấn công: Các VĐV thường sử dụng kỹ thuật dẫn bóng,
chuyền bóng, ném bóng, nhảy ném bóng, di chuyển vị trí, yểm hộ…
- Về kỹ thuật phòng thủ: Di chuyển, tỳ người, hoán đổi vị trí…
* Về chiến thuật:
- Chiến thuật cá nhân: Động tác giả, đột phá cá nhân, chặn, di chuyển
vị trí...
- Chiến thuật nhóm và đồng đội: Trong thi đấu bóng ném HLV, VĐV
thường sử dụng các dạng cơ bản sau: Di chuyển tự do ở trong cùng vị trí tấn
công(viết tắt theo ký hiệu là FEP). Di chuyển qua vị trí tấn công khác (FAP).
Chuyển đổi vị trí (PW). Chặn yểm hộ (S). Miếng đánh liên hoàn (liên tiếp).
Miếng đánh xoay vòng....


6

* Về thể lực: Chủ yếu huấn luyện theo hướng sức mạnh bền và sức
mạnh tốc độ để phù hợp với xu thế phát triển bóng ném hiện đại và luật hiện
hành là thời gian thi đấu một trận là 60 phút được chia làm 2 hiệp, nghỉ giữa 2
hiệp 10 phút (với VĐV 16 tuổi trở lên); 2 hiệp x 25 phút (với VĐV trẻ tuổi
12-16) và 2 hiệp x 20 phút (với VĐV trẻ tuổi từ 8-12) [21 ],[28].
1.1.2. Đặc điểm tập luyện và thi đấu môn bóng ném
Bóng ném là môn thể thao đồng đội thi đấu đối kháng trực tiếp, tiếp
xúc thể chất mạnh trong thời gian tương đối dài cho nên nó đòi hỏi rất cao về
các tố chất thể lực của vận động viên như là sức nhanh, sức mạnh, sức bền, sự
mềm dẻo khéo léo và khả năng phối hợp vận động. Chính do đặc điểm của
hoạt động thi đấu mà các hoạt động về kỹ thuật, chiến thuật, thể lực và tâm lý
diễn ra hết sức đa dạng và phức tạp [21 ],[27 ],[29].
* Đặc điểm hoạt động kỹ thuật: Do quy định của luật thi đấu cho nên
bóng ném có hệ thống kỹ thuật phong phú hơn rất nhiều so với các môn bóng
và môn thể thao khác. Cũng như các môn bóng , bóng ném có đầy đủ các kỹ
thuật tấn công, phòng thủ ở các tư thế và tình huống khác nhau. Nhưng phong
phú và đa dạng hơn là bóng ném được sử dụng rất linh hoạt các bộ phận của
cơ thể vào thực hiện kỹ thuật trong quá trình thi đấu (không được sử dụng
chân từ đầu gối trở xuống- trừ thủ môn khi còn đang ở trong vùng cấm
địa[12],[ 21 ],[ 26 ],[29 ].
* Đặc điểm hoạt động chiến thuật: Do đặc điểm của kỹ thuật mà chiến
thuật cũng hết sức đa dạng, bao gồm cả chiến thuật tấn công, phòng thủ và
phản công ở các khu vực, vị trí khác nhau của sân bóng ném, sao cho phù hợp
với diễn biến của trận đấu. Mục đích chính là để giành thắng lợi cuối cùng
trong từng trận đấu và trong cả cuộc thi [12],[ 21 ],[ 25 ],[29 ].
* Đặc điểm hoạt động thể lực: Trong tập luyện và thi đấu bóng ném,
các đấu thủ phải có tốc độ cần thiết để tạo nên yếu tố bất ngờ cho đối phương,
có sức mạnh tốt để khắc phục trọng lượng và sự kháng cự lại của đối phương.
Song để duy trì tố chất sức mạnh và tốc độ trong thời gian kéo dài thì cần phải



7
có sức bền. Vì vậy, tố chất đặc thù của môn bóng ném được cấu thành bởi 3
tố chất là sức mạnh - tốc độ - bền, và chúng được phát triển một cách cân đối
trong mỗi VĐV. Ngoài ra 2 tố chất mềm dẻo và khéo léo cũng rất quan trọng
trong môn bóng ném nhưng so với 3 tố chất sức mạnh - tốc độ - bền, chúng
chỉ là thứ yếu [ 12],[ 17],[ 20 ][25].
* Đặc điểm hoạt động tâm lý: Trong tập luyện bóng ném, hoạt động thể
lực gây nên những căng thẳng chức năng rất lớn cho VĐV. Ngoài yếu tố về
thể lực, trong hoạt động tập luyện và thi đấu VĐV bóng ném còn chịu sự tác
động tâm lý từ nhiều phía như: sự tác động của đối phương, HLV, trọng tài,
khán giả…những yếu tố đó thường tạo nên trạng thái tâm lý vững vàng, tinh
thần vượt khó, ý chí quyết tâm và tính độc lập cao trong quá trình tập luyện
và thi đấu [19],[ 20],[ 26],[ 27],[ 32].
1.2. Đặc điểm và vai trò thể lực trong bóng ném
1.2.1. Đặc điểm chung
Bóng ném là môn thể thao đồng đội. Đội hình chính của một đội bóng
gồm 7 người. Tất cả đều được liên kết với mục tiêu chung: Làm thế nào để
đưa bóng vào cầu môn đối phương nhiều nhất và không để bóng vào khung
thành của mình. Chính vì vậy mà các tình huống thi đấu hầu như được diễn
biến mang tính chất luân phiên ở cả hai phía cầu môn của mỗi đội.
Bóng ném thuộc nhóm môn thể thao hoạt động đối kháng. Đội bóng
này phấn đấu chiếm ưu thế trước một đội bóng khác bằng cách che giấu các ý
đồ của mình và đồng thời cố gắng phá vỡ các phương án của đối phương. Vì
vậy, khi xem xét tính chất thi đấu thể thao của các đội nhất thiết phải xuất
phát từ vị trí đối kháng của các đội. Quá trình thi đấu được xác định bằng kỹ
thuật, chiến thuật, chiến lược và thể lực.
Việc sử dụng khéo léo đôi bàn tay để bắt, chuyền, dẫn bóng và ném
bóng vào gôn đối phương tạo nên sự sinh động, đa dạng của các kỹ thuật và
làm tăng được tính hấp dẫn của môn thi đấu này.

Bóng ném hiện đại. Đó là môn thi đấu thể lực, có những yêu cầu rất cao


8
về khả năng chức năng. Trong mộ trận đấu, VĐV đẳng cấp cao phải di chuyển
trung bình từ 4000m - 6500m. Tổng số đợt bứt phá trong tấn công và từ tấn
công về phòng thủ lên đến 50 lần, khi đó VĐV vượt qua đến 25% khoảng cách
trong trận đấu. Di chuyển với tốc độ cao kết hợp với việc thực hiện các kỹ
thuật bắt bóng, chuyền bóng và ném bóng tấn công vào khung thành.
Bóng ném là một môn thể thao với những hoạt động không theo chu kỳ
và là môn bóng của những hoạt động sức mạnh động lực với cường độ luôn
thay đổi. Điều đó tạo thành các tình huống trên sân trong từng thời điểm thi
đấu. Sự phối hợp tuần tự giữa các thời kỳ chủ động và thụ động trong hoạt
động vận động của VĐV bóng ném diễn ra từ 3 đến 20 giây.
Tổng số mạch đập trong cả trận đấu 60 phút lên đến 9800-10800 lần.
Trong một trận thi đấu đòi hỏi sự tiêu hao năng lượng nhất định, một VĐV
mất từ 2-4kg trọng lượng.
Hoạt động của thủ môn khác biệt rõ rệt với hoạt động của VĐV trên
sân. Các thành phần chủ yếu trong lối chơi của thủ môn bao gồm các kỹ thuật:
Bật nhảy, chạy lao, bước xoạc, lăng tay và chân, chuyền bóng. Tổng số tần số
mạnh trong những trận đấu căng thẳng của thủ môn là 8000-9600 nhịp đập.
1.2.2.Vai trò thể lực trong bóng ném
Thể lực của VĐV bóng ném phải được xem xét gắn liền với năng lực
thi đấu tổng thể. Thể lực là một phần của năng lực thi đấu. Các khái niệm
dưới đây sẽ làm rõ ranh giới giữa thể lực chung và thể lực.
Theo nghĩa hẹp, thể lực là trình độ hoàn thiện yếu tố thành tích (yếu tố
thể chất) như sức mạnh, sức nhanh và sức bền.Theo nghĩa rộng hơn, nó còn
bao gồm cả sự mềm dẻo (linh hoạt). Tuy vậy 5 tố chất chủ yếu này chỉ bao hàm
vấn đề giáo dục thể chất nói chung. Các tố chất sức mạnh, sức nhanh, sức bền,
sự mềm dẻo và khả năng phối hợp là những nền tảng để đạt được tích. Chúng

còn phải được bổ sung thêm bởi các năng lực kỹ thuật và chiến thuật.
Huấn luyện thể lực là việc hướng tới củng cố và nâng cao khả năng làm
việc của các cơ quan chức phận, các tố chất vận động phù hợp với đòi hỏi của
môn thể thao lựa chọn.


9
Thể lực được hình thành và phát triển trên cơ sở của sự phát triển thể
lực chung. Theo I.A Kốp lép, trong công trình nghiên cứu của mình (1955) đã
chỉ rằng: "Sức bền chuyên môn của VĐV sẽ cao hơn trên cơ sở nâng cao sức
bền chung cho VĐV". Như vậy có thể nói rằng huấn luyện thể lực chung là
nền tảng, cơ sở hình thành nên các tố chất thể lực sau này.
Theo Ozlin "Việc hình thành thể lực của môn thể thao không có chu
kỳ" là tương đối khó khăn, theo ông ở đây có hai cách lựa chọn:
- Cách thứ nhất: Bằng cách lặp lại nhiều lần các hoạt động chính đặc
trưng của môn thể thao lựa chọn.
- Cách thứ hai: Sự lặp lại nguyên vẹn các bài tập thi đấu của môn thể
thao nào đó.
Như vậy việc lựa chọn đúng các bài tập có ý nghĩa lớn đối với các môn
thể thao của nhóm này, khi lựa chọn và thực hiện không đúng các bài tập hình
thành và phát triển thể lực sẽ dẫn đến sai lầm chuyên môn trong các cơ quan
chức phận, điều này làm ảnh hưởng đến việc phát triển thành tích thể thao sau
này của VĐV.
Chính vì vậy các bài tập được lựa chọn làm phương tiện giáo dục thể
lực còn phải được thực hiện với cường độ nhỏ, mặt khác khối lượng thực hiện
các bài tập đó cũng phải được tăng một cách từ từ trong những điều kiện từ dễ
đến khó. Nói một cách khác chúng ta có thể hiểu rằng việc lựa chọn các bài
tập trong quá trình huấn luyện các tố chất thể lực phải là sự kết hợp giữa các
tố chất trên.
Các tố chất thể lực của con người bao gồm: sức nhanh, sức mạnh, sức

bền, khả năng mềm dẻo khéo léo, đó là năng lực thể chất quan trọng của
VĐV, là những tiền đề quan trọng của VĐV, là những tiền đề quan trọng nhất
để họ giành được thành tích cao trong thi đấu và thực hiện được những nhu
cầu ngày càng cao và phức tạp trong quá trình luyện tập. Đối với môn Bóng
ném người những tố chất thể lực trên còn hoàn thiện về kỹ thuật - chiến thuật,
khả năng phối hợp vận động, các tố chất thể lực có thể phát triển trong quá


10
trình học tập kỹ - chiến thuật, song nếu chỉ bằng con đường này thì các tố chất
phát triển rất chậm và không đáp ứng được nhu cầu mà kỹ thuật đòi hỏi. Vì
vậy để hình thành và hoàn thiện kỹ thuật - chiến thuật, VĐV phải không
ngừng nâng cao trình độ thể lực của mình.
Giáo dục các tố chất thể lực là một bộ phận quan trọng trong quá trình
đào tạo VĐV bao gồm giáo dục các tố chất như: Sức nhanh, sức mạnh, sức
bền, khéo léo và khả năng phối hợp vận động. Tuy nhiên mỗi tố chất thể lực
đều phải tuân thủ theo những quy định riêng đối với những phương pháp và
biện pháp giáo dục riêng. Tùy thuộc vào từng môn thể thao lại cần phải phát
triển các tố chất đặc thù riêng (thể lực), phù hợp vói môn thể thao lựa chọn và
nó phụ thuộc vào đặc điểm tâm sinh lý lứa tuổi khác nhau. Chính vì vậy thể
lực được coi là nền tảng của VĐV nhằm phát huy hết khả năng về kỹ thuật,
chiến thuật và đạt hiệu quả cao nhất trong tập luyện và thi đấu.
1.3. Huấn luyện sức mạnh cho VĐV bóng ném
1.3.1. Cơ sở lý thuyết của huấn luyện sức mạnh
Sức mạnh là khả năng con người khắc phục lực cản bên ngoài hoặc
chống lại lực cản đó nhờ sự nỗ lực của cơ bắp [ 12],[ 17],[ 20 ][25].Trong các
môn thể thao nói chung và trong môn bóng ném nói riêng, sức mạnh là yếu tố
không thể thiếu được trong huấn luyện. Hiệu quả huấn luyện thường được
kiểm soát bằng trọng lượng, số lần lặp lại, số tổ luyện tập và nhịp độ bài tập.
1.3.1.1. Phân loại sức mạnh, khuynh hướng và nhiệm vụ huấn luyện

sức mạnh
* Phân loại sức mạnh: Có nhiều cách phân loại sức mạnh, nếu căn cứ
vào chế độ hoạt động của cơ thì sức mạnh chia làm hai loại: Sức mạnh động
lực và sức mạnh tĩnh lực (đẳng trương và đẳng trường). Sức mạnh động lực
lại được chia thành sức mạnh tối đa, sức mạnh tốc độ và sức mạnh bền [25].
Trong các loại sức mạnh trên, do tính chất vận động khác nhau nên có
thể xem cách phân chia đó là cách phân loại cơ bản của các năng lực sức
mạnh.


11
- Năng lực sức mạnh tĩnh lực: Là sức mạnh mà VĐV thực hiện được
trong các động tác tĩnh hoặc dùng sức tối đa. Trong môn bóng ném thể hiện ở
các động tác kỹ thuật xuất phát, dừng đột ngột, nhảy ném bóng, chuyền bóng,
đột phá,…
- Năng lực sức mạnh tối đa: Là sức mạnh động lực lớn nhất mà VĐV
thực hiện được khi co cơ tối đa, và nó được thể hiện rõ nét ở kỹ thuật bật cao
ném bóng trên tay chắn và tốc độ lực đi của quả ném.
- Năng lực sức mạnh tốc độ: Là khả năng khắc phục lực cản với tốc độ
cơ cao của VĐV, thể hiện rõ ở hầu hết các kỹ thuật bóng ném như: Di chuyển
tốc độ, dẫn bóng tốc độ, ném bóng, pha phản công)…
- Năng lực sức mạnh bền: Là khả năng chống lại mệt mỏi của VĐV khi
hoạt động sức mạnh kéo dài, thể hiện ở việc duy trì hiệu quả sử dụng kỹ thuật
đến cuối trận đấu [25].
Ngoài ra còn có sức mạnh bột phát: Là năng lực biểu hiện trị số sức
mạnh lớn nhất trong khoảng thời gian ngắn nhất. Đây là một dạng quan trọng
của sức mạnh, thể hiện ở các pha bật nhảy của các kỹ thuật nhảy ném bóng
[17],[25].
Trong môn bóng ném các năng lực sức mạnh này đều rất quan trọng.
Trong đó sức mạnh tối đa, sức mạnh tốc độ và sức mạnh bền được chú trọng

hơn và chúng cần được phát triển cân đối ở mỗi VĐV.
* Các khuynh hướng huấn luyện sức mạnh: Trên cơ sở phân loại sức
mạnh có các khuynh hướng huấn luyện sau:
- Sử dụng trọng lượng tối đa và gần tối đa.
- Khắc phục trọng lượng chưa tới giới hạn với số lần lặp lại cực hạn.
- Sử dụng trọng lượng chưa tới mức tối đa với tốc độ cực đại.
Ngoài ra người ta còn sử dụng các bài tập tĩnh trong huấn luyện sức
mạnh. Ba khuynh hướng cơ bản nêu trên là cơ sở khoa học cần thiết cho các
HLV trong huấn luyện sức mạnh cho VĐV bóng ném.
* Nhiệm vụ huấn luyện sức mạnh: Nhiệm vụ chung trong quá trình giáo


12
dục nhiều năm của tố chất sức mạnh là phát triển toàn diện sức mạnh và tạo
khả năng phát huy cao sức mạnh trong các hình thức vận động khác nhau
(trong thể thao, lao động...).
Trong huấn luyện sức mạnh phải tạo được sự căng cơ tối đa để huy
động số lượng sợi cơ tham gia hoạt động một cách tối đa.
Nhiệm vụ cụ thể là:
Tiếp thu và hoàn thiện năng lực thực hiện các hình thức gắng sức cơ
bản: Tĩnh lực và động lực (sức mạnh tối đa, sức mạnh bền và sức mạnh tốc
độ, khắc phục và nhượng bộ.
Phát triển cân đối sức mạnh ở tất cả các nhóm cơ của hệ vận động.
Phát triển năng lực sử dụng hợp lý sức mạnh trong các điều kiện khác
nhau [12],[17],[25].
1.3.1.2 Cơ sở sinh hoá của huấn luyện sức mạnh.
Chiều cao cơ thể có ảnh hưởng tốt tới thành tích của môn bóng ném,
VĐV có chiều cao tốt có khả năng thế năng, nhu cầu ôxy có tỷ lệ với diện tích
bề mặt cơ thể [10],[12].
Lực co cơ tối đa có tương quan tuyến tính với độ dài của ô cơ, hoặc là

chiều dài của sợi myozin, có nghĩa là với mức độ polyme hoá myozin và tổng
hàm lượng protit co của actin ở trong cơ. Như đã nói, sự gắng sức thể hiện
trong quá trình tác động qua lại giữa sợi actin và myozin ở tơ cơ tỷ lệ thuận
với số lượng cầu nối được hình thành. Diện tích đan xen các sợi actin mỏng
và các sợi myozin dày ở giới hạn một ô cơ càng lớn thì lực co cơ tối đa càng
cao. Diện tích tiếp xúc của các tơ cơ tối đa được xác định bằng độ dài của sợi
myozin dày hoặc là độ dài của từng ô cơ. Trong cơ xương người chiều dài
trung bình của ô cơ là 1,8µ , còn chiều dài của sợi myozin khoảng 1µ .Lực co
cơ tối đa của người ở vị trí trung gian giữa cơ của nhuyễn thể và cơ biên của
côn trùng.
Chiều dài ô cơ, hay là mức độ polyme hoá myozin ở tơ cơ dày của sợi
cơ - yếu tố mang tính di truyền, sẽ không đổi trong quá trình phát triển cá thể


13
và dưới ảnh hưởng của tập luyện. Chỉ số đó khác biệt rõ ở những sợi cơ có
dạng khác nhau và chức năng khác nhau.
Hàm lượng actin ở cơ có sự tương quan tuyến tính với tổng số lượng
creatin. Cả hai chỉ số - hàm lượng actin và nồng độ creatin ở trong cơ có thể
được sử dụng để kiểm tra sự phát triển sức mạnh cơ.
Phương pháp cơ bản để phát triển tố chất sức mạnh là phương pháp gắng
sức tối đa (trọng lượng tối đa và tốc độ tối đa) và phương pháp lặp lại tối đa,
nhằm làm tăng hoạt tính ATP- aza của myozin và tăng tổ hợp protit co cơ [22].
Đặc điểm sinh hoá nổi bật của môn bóng ném là năng lực dự trữ
photphagen lớn, khai thác tối đa năng lượng creatinphotphat, CP cạn kiệt sau
vận động, lượng AL trong máu thấp [10],[12].
1.3.1.3 Các nguyên tắc cần tuân thủ khi huấn luyện sức mạnh cho VĐV
bóng ném
Nghiên cứu các tài liệu chuyên môn có liên quan đến công tác huấn
luyện sức mạnh cho VĐV bóng ném chúng tôi nhận thấy cân thiết phải tuân

thủ các nguyên tắc sau:
- Nguyên tắc vượt phụ tải: Tăng dần phụ tải và cố gắng thực hiện cho
tới khi vượt qua phụ tải để đạt được “hồi phục vượt mức”.
- Nguyên tắc tăng dần lực cản: Tiến hành theo quy luật tăng trưởng tố
chất sức mạnh, thường người mới tập ban đầu dùng trọng lượng trên 40% phụ
tải tối đa, sau đó tăng dần số lần tập và số tổ, tăng trọng lượng… Tuần tự tăng
dần. Như vậy, mỗi tuần tập 3 buổi, liên tục trong 6 tuần sẽ thấy hiệu quả.
- Nguyên tắc tính hệ thống: Trước tiên tập cho các nhóm cơ lớn, sau đó
tập các nhóm cơ nhỏ. Nên tập luyện thay phiên nhau với các nhóm cơ khác
nhau trên toàn thân. Thông thường tuần tự tiến hành bắt đầu từ mông, sau đó
là ngực, cánh tay, lưng, đùi, cẳng chân và khu mắt cá chân (cổ chân), vai, tiếp
theo là phía sau cánh tay, bụng, cẳng tay, ngón tay, ngón chân... Dựa vào tuần
tự như vậy mà tập luyện vượt phụ tải, không chỉ nhanh chóng thu được hiệu
quả mà còn phát triển nhịp nhàng đồng đều các nhóm cơ trên toàn cơ thể.


14
- Nguyên tắc tính chuyên môn: Kết hợp chặt chẽ với kỹ thuật chuyên
môn, đạt được vừa tăng trưởng sức mạnh vừa nắm vững được kỹ thuật. Trong
một buổi huấn luyện, có thể cùng lúc tiến hành huấn luyện sức mạnh tối đa,
sức mạnh tốc độ, sức mạnh bền. Thông thường lấy hai loại sức mạnh là thích
hợp. Tuần tự tập luyện là: Sức mạnh tối đa → sức mạnh tốc độ → sức mạnh
bền, hoặc là sức mạnh tốc độ → sức mạnh tối đa → sức mạnh bền.
Trong giảng dạy và huấn luyện, mỗi buổi lên lớp cần chuẩn bị kế hoạch
chi tiết và dự kiến sử dụng các bài tập cụ thể, đem vận động chia thành các tổ
nhỏ, mỗi một tổ nhỏ sắp xếp 1 loại bài tập. Sau khi thực hiện xong một bài tập
thì đổi bài tập khác có quan hệ tương hỗ, cho đến khi mỗi một tổ nhỏ được
hoàn thành cũng là hoàn thành một vòng tuần hoàn. Mỗi một giờ lên lớp cần
căn cứ vào kế hoạch để tiến hành sắp xếp các bài tập. Để tránh được các tác
dụng phụ thì phương án huấn luyện phát triển sức mạnh nên phù hợp với tiềm

lực và năng lực cá nhân của VĐV [4],[6],[12],[25].
1.3.1.4. Đặc điểm và khuynh hướng huấn luyện sức mạnh tốc độ
* Đặc điểm huấn luyện sức mạnh tốc độ.
Khi nghiên cứu về sức mạnh tốc độ có rất nhiều nhà khoa học TDTT
cho rằng: Sức mạnh là khả năng của con người sinh ra lực cơ học bằng sự nỗ
lực của cơ bắp. Nguyễn Toán (1999) cho rằng sức mạnh tốc độ là khả năng
sinh lực và khắc phục một trọng lượng nào đó với tốc độ nhanh nhất hay sức
mạnh tốc độ là khả năng sinh lực trong động tác nhanh và thời gian ngắn.
Theo quan điểm của Zaxiorski: Sức mạnh tốc độ là loại sức mạnh được
quyết định bởi gia tốc và khối lượng cố định vì lực cơ học là F=m.a
Rõ ràng sức mạnh tốc độ được cấu thành bởi tốc độ thực hiện động tác
(gia tốc) và trọng lượng của vật chịu tác động (có khối lượng m).
Theo quan điểm lý luận thì sức mạnh tốc độ là khả năng khắc phục lực
cản với tốc co cơ cao của VĐV. Sức mạnh tốc độ có thể xác định thành tích
trong các môn thể thao hoạt động không chu kỳ như: Trong các động tác (đá,
đấm) của các môn thể thao thi đấu đối kháng hoặc trong các môn bóng như:


15
Bóng ném, Bóng ném. Đối với các môn hoạt động có chu kỳ, khi thực hiện
tăng tốc của VĐV chạy cự ly ngắn, đua xe đạp…
Trong thể thao vai trò của sức mạnh tốc độ chiếm vị trí rất quan trọng,
sức mạnh tốc độ là hai yếu tố quyết định đến thành tích thi đấu của VĐV. Nó
được thể hiện rõ trong các môn thể thao như: chạy, nhảy, các môn ném đẩy.
Môn Bóng ném là môn thể thao mà hoạt động về kỹ chiến thuật khá cao nó
đòi hỏi sự phụ thuộc khi phối hợp thực hiện phải đảm bảo hai yếu tố nhanh và
mạnh, có như vậy mới tạo được kẽ hở và sự kết hợp trong tấn công đảm bảo
mang lại hiệu quả tốt trong thi đấu.
Thông thường để phát huy tốc độ cao nhất con người phải khắc phục
lực cản bên ngoài khá lớn. Trong trường hợp đó để phát huy tốc độ thì phụ

thuộc vào cơ bắp.
Sự phát triển sức mạnh tốc độ không ngừng nâng cao tốc độ co cơ mà
còn nâng cao sức mạnh tối đa của VĐV. Tốc độ vận động cao thì phải phù
hợp với huấn luyện sức mạnh tối đa và sức mạnh nhanh với nhau, đó là một
phương pháp huấn luyện rất quan trọng. Việc huấn luyện này phải đảm bảo
một cách tố nhất về năng lực sức mạnh tối đa thành năng lực sức mạnh tốc độ.
Vì vậy mà huấn luyện sức mạnh tốc độ yêu cầu phải chính xác về tất cả kỹ
thuật động tác, đó là điều kiện quan trọng nhất cho việc sử dụng sức mạnh tốc
độ có hiệu quả hợp lý và tránh sự tiêu phí năng lượng cho các hoạt động thừa
không hợp lý.
Trong Bóng ném các động tác như: Bật nhảy, ném bóng, phòng thủ.
Phản công nhanh, đột phá đều sử dụng đến sức mạnh tốc độ, sức mạnh tối đa
vào các tình huống và thời điểm để tạo thuận lợi cho chiến thắng. Trên thực tế
để có hiệu quả trong thi đấu thì VĐV cần phải tạo ra những lực nhanh, mạnh
và bất ngờ để tạo ra một tổng hợp lực cực kỳ lớn với tốc độ nhanh. Nhưng
cũng phải tính đến một khả năng là đơn vị sợi cơ và các nhóm cơ tham gia
vào hoạt động đó, khả năng tạo nên những hưng phấn, kích thích cao và hợp
lý là một yếu tố có lợi cho VĐV đi thi đấu.


16
Động tác nhanh và mạnh tức là đòi hỏi hiệu suất của động tác phải tối
ưu, ở đây nhân tố và tốc độ tạo được công suất lớn nhất và không có yếu tố
nào có giới hạn cản trở.
Trong thi đấu Bóng ném còn phải kể đến một loại sức mạnh tốc độ nữa
đó là sức mạnh bột phát: Sức mạnh bột phát là sức mạnh mà khả năng con
người phát huy một lực lớn trong khoảng thời gian ngắn nhất.
Trong Bóng ném sức mạnh bột phát xuất hiện thường xuyên ở VĐV
khi VĐV nhảy ném, trong các động tác cố gắng hết mình, những tình huống
tưởng như thất bại mà lại thành công, đó là sự co rút rất nhanh và phụ thuộc

vào sự phối hợp của 2 yếu tố là sức mạnh và tốc độ.
Thực tế cho thấy đặc trưng của sức mạnh tốc độ được thể hiện ở:
- Cường độ hoạt động cao.
- Thời gian hoạt động cho mỗi lần thực hiện khoảng phần của giây tổng
thời gian thực hiện ngắn.
- Khối lượng nhỏ, số lần lặp lại ít.
- Quãng nghỉ ngẵn.
Dựa trên cơ sở lý luận và học thuyết chuyên ngành huấn luyện cho thấy
sức mạnh là khả năng khắc phục lực đối khánh bên ngoài nhờ sự nỗ lực của
cơ bắp.
Cơ chế sinh lý điều hoà sức mạnh và sự phát sức mạnh tốc độ cơ sở
khoa học. Lực tối đa mà con người sản sinh ra một mặt phụ thuộc vào đặc
tính sinh cơ của động tác khả năng thu hút các nhóm cơ lớn nhất tham gia
hoạt động của từng nhóm cơ lớn nhất tham gia hoạt động của từng nhóm cơ
riêng biệt và sự phối hợp giữa chúng. Mức độ hoạt động của cơ được quy
định bởi 2 nhân tố:
- Xung động từ các nơron thần kinh vận động trong vùng trước của tuỷ
sống đến cơ.
- Phản ứng của cơ tức là do nó sinh ra để đáp ứng lại sung động thần
kinh. Nếu lực cơ phát huy khoảng 20 - 80% khả năng tối đa của nó thì cơ chế


17
điều hoà số lượng sợi cơ có ý nghĩa cơ bản điều đó có ý nghĩa nội lực kích
thích nhỏ thì chỉ có số ít sợi cơ hoạt động tích cực trong trường hợp do lực co
cơ phát huy tối đa có thể xảy ra 1 cách điều hoà thứ ba đồng bộ hoá hoạt
động, các sợi cơ ở những người hoạt động không quá 20% xung động là đồng
bộ hoá với nhau. Cùng với sự phát triển trình độ tập luyện khả năng điều hoà
đồng bộ cũng tăng lên rất nhiều.
Như vậy phát triển sức mạnh tốc độ là yếu tố không thể thiếu được đối

với quá trình huấn luyện cho VĐV. Vấn đề này đã có nhiều tác giả quan tâm
nghiên cứu công trình này đã khẳng định mối tương quan chặt chẽ giữa thành
tích bóng ném với kết quả chuẩn bị sức mạnh tốc độ của VĐV tỷ trọng các
bài tập phát triển sức mạnh tốc độ chiếm tỷ lệ rất lớn.
Tóm lại, từ những vấn đề nêu trên chúng ta có thể nói rằng để phát triển
sức mạnh tốc độ đối với VĐV môn bóng ném có thể sử dụng đa dạng các bài tập
khác nhau. Các bài tập có chu kỳ như chạy, bơi đều có thể sử dụng để phát triển
sức mạnh tốc độ song phải thực hiện với tốc độ giới hạn trên các đoạn ngắn.
* Đặc điểm sinh lý khi sử dụng các bài tập sức mạnh tốc độ.
Nguồn năng lượng dự trữ cho cơ thể hoạt động là axit adrenalin
triphốtphát (ATP). Sự phân huỷ ra ATP là không giới hạn cho phép tạo ra
năng lượng nhất định. Dự trữ ATP trong tế bào cơ không lớn để tiếp tục làm
việc phải thường xuyên tái tổng hợp trong tế bào cơ không lớn để tiếp tục làm
việc phải thường xuyên tái tổng hợp ATP trong quá trình hoạt động, nó tồn tại
theo 3 con đường khác nhau về tốc độ, thời gian cho năng lượng, công suất và
dụng dịch.
Ở các bài tập với công suất tối đa, sự co cơ tạo ra một lực lớn kết hợp
với tần số tác động rất cao. Hoạt động này làm số lượng hồng cầu và
Hêmôglôbin trong máu hơi tăng. Glucô trong máu cũng tăng lên đến 180 200mmHg hoặc không thay đổi thể tích tâm thu và thể tích lưu lượng phút
tăng lên rất nhiều. Khả năng hấp thụ O2 của cơ thể trong điều kiện bình
thường khaỏng 250 - 300ml/phút khi hoạt động khả năng hấp thụ oxy tăng
dần cùng với công suất hoạt động và có thể đạt tới trị số tối đa VO2max


×