Tải bản đầy đủ (.docx) (94 trang)

Nhân sinh quan phật giáo và ảnh hưởng của nó đối với đội ngũ trí thức giáo dục đại học ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (546.17 KB, 94 trang )

MỞ ĐẦU
1.

Lí do chọn đề tài
Phật giáo là một trong ba tôn giáo lớn nhất thế giới (Phật giáo, Thiên
chúa giáo, Hồi giáo), ảnh hưởng vào nước ta từ những năm đầu công nguyên.
Phật giáo là tôn giáo bên ngoài ảnh hưởng sớm nhất ở nước ta so với các tôn
giáo khác và phù hợp với truyền thống, văn hóa con người Việt Nam. Phật
giáo hình thành ở Ấn Độ từ thế kí thứ VI TCN, nhưng lại không thể phát triển
trên quê hương của nó, mà khi đến Việt Nam tôn giáo này đã thay đổi để phù
hợp với tính cách con người Việt. Chính vì vậy Phật giáo đã tồn tại ở nước ta
hàng nghìn năm nay, cho nên nó có ảnh hưởng rất sâu sắc đến đời sống tinh
thấn con người. Có thể nói Phật giáo chiếm vị trí không thể thay thế trong đời
sống tâm linh ở nước ta. So với các tôn giáo và hệ tư tưởng khác Phật giáo có
vị trí đặc biệt quan trọng trong lòng người dân Việt Nam mà các tôn giáo
khác không có được. Phật giáo hòa đồng, đồng hành cùng người Việt trong
suốt chiều dài lịch sử dựng nước và giữa nước của cha ông ta. Chính vì vậy,
khi Phật giáo du nhập vào Việt Nam không mang đặc điểm của đất nước Ấn
Độ nữa mà mang dáng dấp của dân tộc Việt.
Nét đẹp trong nhân sinh quan Phật giáo là yếu tố mà người Việt Nam
luôn hướng đến để hoàn thiện nhân cách, lối sống, giáo dục đạo đức …. Bởi
nhân sinh quan Phật giáo luôn chứa đựng tinh thần bác ái, cứu rỗi con người
và hướng con người không chỉ ở nước ta mà trên toàn thế giới, bất kể nơi đâu
mà Phật giáo đi đến để hành thiện tích đức. Đó là một trong những điểm nổi
bật trong tư tưởng của Phật giáo, khiến tôn giáo này gần gũi với cuộc sống
hơn, chan hòa hơn so với các tôn giáo khác. Phật giáo đi vào lòng người chính
là từ những tư tưởng nhân sinh quan này chứ không phải là những giáo lý hay
những bộ kinh đồ sộ của đạo Phật.

1


1


Hiện nay trí thức nói chung và trí thức giáo dục đại học nói riêng đóng
vai trò lớn trong công cuộc xây dựng, phát triển đất nước. Họ không chỉ là
những người vừa lĩnh hội, nghiên cứu, phát minh những tri thức mới của nhân
loại, đồng thời họ còn truyền thụ, định hướng cho các thế hệ sinh viên – tầng
lớp kế cận trong công cuộc phát triển đất nước. Nhưng hiện nay một bộ phận
trí thức trong đó có trí thức giáo dục đại học đang bị ảnh hưởng bởi các yếu tố
tiêu cực trong thời đại toàn cầu hóa, kinh tế thị trường với các mặt trái của nó
có biểu hiện suy thoái nhân cách, từ đó làm ảnh hưởng đến chất lượng đào tạo
cho các thế hệ sinh viên, từ đó ảnh hưởng rất lớn nhân cách các thế hệ trẻ của
đất nước. Cho nên, việc chọn đề tài: “Nhân sinh quan Phật giáo và ảnh
hưởng của nó đối với đội ngũ trí thức giáo dục đại học ở Việt Nam hiện
nay” là mục đích của tác giả muốn góp một phần nhỏ về phương diện lý luận
cho thực tiễn xây dựng và hoàn thiện phẩm chất của đội ngũ trí thức giáo dục
đại học của đất nước hiện nay.
2.

Tình hình nghiên cứu của đề tài
Xung quanh vấn đề ảnh hưởng của Phật giáo nói chung và tư tưởng
nhân sinh quan nói riêng ở nước ta đã có nhiều tác giả trong nước và nước
ngoài nghiên cứu theo những phương diện khác nhau,và đạt những kết quả
đáng trân trọng, có thể chia thành một số nhóm vấn đề sau đây:
Nhóm thứ nhất, đi luận giải nguồn gốc, nội dung của Phật giáo và tư
tưởng Nhân sinh quan, để từ đó thấy được sự ảnh hưởng của Phật giáo ở
nước ta. Một số công trình như: Đại cương triết học Phật giáo của Thích Đại
Quang, Triết học Phật giáo Việt Nam của Nguyễn Duy Hinh; Phật giáo thủa
xưa và Phật giáo ngày nay của Trần Trọng Kim, Phật giáo với lối sống của
người Việt Nam hiện nay của Hoàng Thị Lan đăng trên tạp chí Triết học số 7

năm 2012; Phật giáo Việt Nam của Nguyễn Đăng Thục, Giáo trình Tôn giáo
học của Trần Đăng Sinh, Đào Đức Doãn; Lịch sử Ấn Độ Cổ Đại của Nguyễn
2

2


Thị Toan, Tôn giáo phương Đông của Đỗ Minh Hợp; Tôn giáo và văn hóacủa
Trương Sĩ Hùng; Lịch sử triết học Phương Đông của các tác giả khác nhau:
Nguyễn Hữu Vui, Trần Đăng sinh, Viện Triết học…. Các tác giả đã trình bày,
phân tích những tư tưởng cơ bản của Phật giáo trong quá trình hình thành và
phát triển của nó. Từ đó thấy được vai trò của Phật giáo ở nước ta
Nhóm thứ hai, đi sâu nghiên cứu những nội dung cụ thể của Phật giáo
– mảng nhân sinh đạo đức. Nội dung trên được đăng tải ở các tạp chí chuyên
ngành như: tạp chí Triết học, luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ hay trong các
sách chuyên luận như Tìm hiểu nhân sinh quan Phật giáo của Thích Tâm
Thiện; Đạo làm người trong triết lý nhân sinh Phật giáo và ý nghĩa của nó
đối với xã hội Việt Nam hiện nay của Nguyễn Thị Thọ (Tạp chí triết học số
8/2013), Một số suy nghĩ về ảnh hưởng của Phật giáo đối với tư duy người
Việt của Nguyễn Hùng Hậu (Tạp chí triết học số 5/1996), Khái niệm về Niết
Bàn trong Phật giáo của Nguyễn Thị Toan (Tạp chí triết học số 3/1996),Thử
bàn về nhân sinh quan Phật giáo qua giáo lý Duyên khởi của Lưu Thị Quyết
Thắng trong Tạp chí Phật học số 5 Luận văn thạc sĩ: Ảnh hưởng nhân sinh
quan Phật giáo đến đời sống tinh thần người Hà Nội hiện nay của Đặng Ánh
Tuyết, Nhân bản và nhân bản Phật giáo của Thích Mãn Giác; Đạo làm
người trong nhân sinh quan Phật giáo của Vũ Minh Tuyên trong Kỷ yếu
hội thảo khoa học Đạo làm người trong văn hóa Việt Nam; Giá trị nhân
bản của Phật giáo trong truyền thống và hiện đại của Hoàng Thị Thơ Các tác giả
đã đi luận giải sâu về khía cạnh nhân sinh, đạo đức của Phật giáo từ đó thấy
được vai trò giáo dục đạo đức của Phật giáo đối với con người.

Nhóm thứ ba, nghiên cứu về trí thức và trí thức giáo dục đại học được
thể hiện trong một số tác phẩm như: Trí thức Việt Nam xưa và nay của Hội
khoa học Lịch sử Việt Nam; Lịch sử Việt Nam sinh hoạt trí thức kỉ nguyên
của Đàm Văn Trí, Trí thức giáo dục đại học Việt Nam thời kì đẩy mạnh công
3

3


nghiệp hóa, hiện đại hóa của Nguyễn Văn Sơn; Lịch sử và văn hóa Việt Nam,
những gương mặt trí thức của Đàm Văn Trí; Định hướng phát triển đội ngũ
trí thức Việt Nam trong công nghiệp hoá, hiện đại hoá của Phạm Tất Dong;
Tôn trọng trí thức tôn trọng nhân tài kế trăm năm chấn hưng đất nước của
Thẩm Vinh Hoa – Ngô Quốc Diệu; Việt Nam tinh hoa đạo đức của Bùi Ngọc
Sơn; Trí thức Việt Nam xưa và nay theo Trung tâm UNESCO phổ biến kiến
thức văn hóa cộng đồng, Hội khoa học Lịch sử Việt Nam Nguyễn Thanh
Tuấn với tác phẩm: Một số vấn đề về trí thức Việt Nam, Vai trò của trí thức
giáo dục đại học trong đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao ở Việt Nam
hiện nay của Nguyễn Thanh Hà (Tạp chí giáo dục số 343/2014) và nhiều công
trình luận văn, luận án khác....
Tóm lại, các công trình thuộc ba nhóm cơ bản trên đã nêu những nét
khái quát nội dung của Phật giáo, và tập trung giải quyết những phương diện
lý luận mà các tác giả đặt ra cho mình. Trên thực tế, đã có nhiều nghiên cứu
về tư tưởng nhân sinh quan của Phật giáo và trí thức giáo dục đại học như
luận văn Thạc sĩ, luận án Tiến sĩ. Tuy nhiên, cho đến nay chưa có một công
trình nào về nghiên cứu một cách hệ thống về tư tưởng nhân sinh quan, ảnh
hưởng của nó đến trí thức giáo dục đại học. Do đó, đề tài tiếp tục hệ thống
hoá, khái quát hóa những kết quả nghiên cứu của những người đi trước để vận
dụng vào việc nghiên cứu đội ngũ trí thức giáo dục đại học trước sự ảnh
hưởng của tư tưởng nhân sinh quan hiện nay ở nước ta.

3.

Mục đích nghiên cứu
Phân tích bản chất nhân sinh quan Phật giáo và đánh giá thực trạng ảnh
hưởng của nhân sinh quan Phật giáo đối với đội ngũ trí thức giáo dục đại học
ở Việt Nam hiện nay, trên cơ sở đó đưa ra một số phương hướng và giải pháp
chủ yếu nhằm xây dựng đạo đức mới cho người trí thức giáo dục đại học ở
nước ta hiện nay
4

4


4.
4.1.

4.2.

5.

Khách thể và đối tượng nghiên cứu
Khách thể nghiên cứu
Hệ thống giáo lý của Phật giáo, đội ngũ trí thức và những người
Việt Nam bị ảnh hưởng bởi Phật giáo
Đối tượng nghiên cứu
Nhân sinh quan Phật giáo và ảnh hưởng của tư tưởng nhân sinh
quan Phật giáo đối với đội ngũ trí thức giáo dục đại học hiện ở Việt Nam
Giả thuyết khoa học
- Phật giáo xuất hiện vào thế kỷ thứ VI TCN trong xã hội Ấn Độ cổ
đại, được Thái tử Tất Đạt Đa sáng lập.

- Phật giáo vào Việt Nam từ những năm đầu công nguyên bằng con
đường hòa bình và dung hòa với truyền thống, văn hóa, phong tục conn người
Việt, trở thành tôn giáo của người Việt Nam.
- Nhân sinh quan Phật giáo là một trong những tư tưởng cơ bản của
Phật giáo. Nó có ảnh hưởng sâu sắc đến tinh thần người Việt, trong đó có trí
thức giáo dục đại học – bộ phận tinh hoa của đất nước.
- Nhân sinh quan Phật giáo có ảnh hưởng tích cực, tiêu cực đến đội
ngũ trí thức giáo dục đại học ở nước ta hiện nay.
6. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm rõ sự ra đời của Phật giáo và vai trò của Thái tử Tất Đạ Đa
- Hệ thống lại tư tưởng nhân sinh quan Phật giáo, tính hai mặt của tư
tưởng này.
- Nêu rõ về trí thức, trí thức giáo dục đại học
- phân tích, bước đầu đánh giá ảnh hưởng tích cực, tiêu cực của nhân
sinh quan Phật giáo đến đội ngũ trí thức giáo dục đại học hiện nay.
7. Giới hạn và phạm vi nghiên cứu
Đề tài chỉ nghiên cứu một số nội dung cơ bản của tư tưởng Nhân sinh
quan, sự ảnh hưởng của nó đối với đội ngũ trí thức giáo dục đại học ở một số
trường tại Hà Nội, từ năm 1986 đến nay.
8. Phương pháp nghiên cứu
5

5


Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa
duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, bên cạnh đó còn sử dụng
một số phương pháp nghiên cứu cụ thể như: lịch sử - lôgíc, phân tích - tổng
hợp, qui nạp - diễn dịch, đối chiếu, so sánh…
9. Cấu trúc luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, đề tài được
bố cục 2 chương, 7 tiết
10. Tóm tắt những luận điểm cơ bản và đóng góp mới của tác giả
10.1. Luận điểm cơ bản
- Về lí luận: nhân sinh quan Phật giáo chứa đựng nhiều giá trị khoa học,
nhân văn, nhân đạo, nên nó rất cần thiết cho giáo dục nhân cách con người
Việt Nam hiện nay.
- về thực tiễn: phân tích và làm sáng tỏ ảnh hướng của nhân sinh quan
Phật giáo đối với trí thức Việt Nam, góp phần quan trọng vào việc nâng cao
chất lượng đào tạo đại học ở nước ta hiện nay
10.2. Những đóng góp mới về khoa học của đề tài
- Về lí luận: phân tích một cách hệ thống những vấn đề lý luận về nhân
sinh quan Phật giáo.
- Về thực tiễn: phân tích và làm sáng tỏ những ảnh hưởng tích cực và
tiêu cực của tư tưởng nhân sinh quan Phật giáo đối với đội ngũ trí thức giáo
dục đại học ở nước ta hiện nay.
+ Đề xuất một số phương hướng và giải pháp nhằm phát huy mặt
tích cực và hạn chế mặt tiêu cực của ảnh hưởng tư tưởng nhân sinh quan Phật
giáo trong việc xây dựng đạo đức người trí thức giáo dục đại học ở Việt Nam
hiện nay.

6

6


Chương 1: CƠ SỞ KHOA HỌC CHO SỰ RA ĐỜI NHÂN SINH
QUAN PHẬT GIÁO
1.1. Cơ sở lý luận của sự ra đời Nhân sinh quan Phật giáo
1.1.1.


Khái niệm nhân sinh quan
Loài người từ khi xuất hiện trên trái đất đã có nhận thức và tuy duy,
ban đầu là những nhận thức cảm tính đơn giản, chính là nhưng bản năng
sinh tồn chống trọi với thiên nhiên, hoang thú. Trải qua cuộc sống ăn lông ở
lỗ đó con người đã dần hoàn thiện được cả hình dạng đến nhận thức. Con
người tồn tại trong vũ trụ đã chinh phục dần được giới tự nhiên, cải biến tự
nhiên để phục vụ mục đích sống của mình. Từ cuộc sống đã hình thành
nhân sinh quan cùng với thế giới quan.
Nếu hiểu theo lỗi chiết tự về nhân sinh quan:
Nhân sinh: là con người, cuộc sống của con người
Quan: là quan điểm, tư tưởng của con người về vấn đề nào đó
Như vậy theo lối chiết tự thì nhân sinh quan là những quan điểm của
con người về cuộc sống của mình.
Trong Từ điển tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ học có định nghĩa nhân
sinh là: quan niệm thành hệ thống về cuộc đời, về ý nghĩa và mục đích sống
của con người [52, 1113].
Từ những định nghĩa khác nhau về nhân sinh quan có thể rút ra khái
niệm về nhân sinh quan chính là hệ thống các quan niệm, quan điểm về con
người và cuộc sống con người. Nếu thế giới quan trình bày suy nghĩ tư
tưởng của con người về thế giới, vũ trụ, thì nhân sinh quan nói về cuộc sống
con người một cách nhân vân. Nhân sinh quan luôn thay đổi theo các thời
kỳ lịch sử khác nhau tương ứng với mỗi giai đoạn thì có nhân sinh quan
khác nhau.
7

7


Thời nguyên thủy, loài người mới hình thành nên nhân sinh quan

đơn giản mơ hồ chỉ là những nhu cầu tất yếu của cuộc sống săn bắt, rồi săn
bắn hái lượm.
Khi nhà nước cổ đại hình thành những người tầng lớp thấp kém nhất
trong xã hội trở thành nô lệ phục vụ cho những gia đình quý tộc, chủ nô.
Thời kỳ này có người cho rằng nô lệ chỉ như công cụ biết nói, là công cụ lao
động suốt đời của chủ nô. Bản thân họ cũng mặc nhiên thừa nhận, chấp
thuận cuộc sống như vậy.
Sang đến thời phong kiến đã giải thoát hàng triệu người nô lệ khỏi
tư tưởng "công cụ sống", đa số họ đã trở thành người nông dân có ruộng
đất. Nhưng thời kỳ nay quan niệm sống của họ thay đổi vua trở thành "con
trời", phục tùng vua vô điều kiện, trong thành với vua. Hình tượng người
"quân tử" trong xã hội phương Đông, và "hiệp sĩ" trong xã hội phương Tây
trở thành mẫu hình để con người hướng đến và phấn đấu vì lí tưởng trị
quốc.
Cuộc sống hiện đại khiến tư duy, nhận thức của con người thay đổi,
con người có ý thức tự chủ hơn, cá nhân hơn là lệ thuộc. Các giai tầng
trong xã hội bình đẳng, sự phân biệt đẳng cấp cũng mất dần.
Nhân sinh quan rất rộng và phong phú bởi nó nghiên cứu về con
người với tất cả khía cạnh. Mà con người là chủ thể tạo ra những quy phạm
về triết học, pháp quyền, nhà nước, tôn giáo, … những thượng tầng kiến
trúc, và toàn bộ cơ sở hạ tầng tương ứng.
1.1.2.

Nhân sinh quan Phật giáo

Về bản chất, tôn giáo không chỉ là hình thái ý thức xã hội mà còn là

một thực thể xã hội. Với tư cách là hình thái ý thức xã hội, tôn giáo phản
ánh một cách hoang đường, hư ảo hiện thực khách quan, là sự ru ngủ con
người bởi các quan điểm, hiện thực siêu nhiên. Điều này được Ph.Ăngghen

8

8


nêu: Tất cả mọi tôn giáo chẳng qua chỉ là sự phản ánh hư ảo – vào trong
đầu óc của con người của những lực lượng ở bên ngoài chi phối cuộc sống
hàng ngày của họ; chỉ là sự phản ánh trong đó những lực lượng ở trần thế
đã mang hình thức những lực lượng siêu nhiên. Điều này, Phoiobac cũng đã
khẳng định (trong tác phẩm Hệ tư tưởng Đức của Ph.Ăngghen) con người
sáng tạo ra tôn giáo chứ không phải tôn giáo sáng tạo ra con người. Song
tôn giáo lại ảnh hưởng rất lớn đến đời sống của con người trên nhiều lĩnh
vực khác nhau. Phật giáo – một trong ba tôn giáo lớn trên thế giới, ra đời
hơn 2500 năm nay và được truyền bá tới nhiều nước trên thế giới như:
Xrilanca, Xiry, Ai Cập, Mianma, Thái Lan, Trung Quốc, Việt Nam, một phần
Anh, Pháp, Đức…và nhanh chóng trở thành tôn giáo mang tính thế giới.
Trong quá trình du nhập trải qua các thời kỳ lịch sử, Phật giáo lại
phụ thuộc vào tình hình kinh tế, xã hội của mỗi quốc gia mà biến đổi ít
nhiều. Có thể nói sự ảnh hưởng của Phật giáo vào xã hội loài người đã diễn
ra rất sớm và nhanh chóng. Ngày nay, Phật giáo đang chiếm vị trí sâu rộng
trong đời sống tinh thần của con người ở nhiều quốc gia trên thế giới trong
đó có Việt Nam. Dù đã trải qua lịch sử thăng trầm hơn 2500 năm, với nhiều
cách nhìn nhận và đánh giá khác nhau, nhưng bản chất cốt lõi của Phật
giáo là tính nhân văn, nhân đạo giàu lòng vị tha, thương người, gần gũi với
con người. Từ khi ra đời qua các giai đoạn phát triển khác nhau, đến các
quốc gia lãnh thổ khác nhau, Phật giáo đã biến đổi để phù hợp nói tôn giáo
này đến, nhưng vẫn giữ được giá trị cốt lõi là tính nhân sinh cao kỉ, vì con
người.

Cũng giống như các tôn giáo khác, từ khi ra đời Phật giáo luôn giải


quyết vấn đề thế giới quan, nhân sinh quan. Nhưng ở Phật giáo nhân sinh
quan được đề cập chủ yếu. Giáo lý Phật giáo bao gồm hệ thống quan niệm
về nhận thức luận, thế giới quan, nhân sinh quan với một kết cấu chặt chẽ.
9

9


Nhân sinh quan Phật giáo được bắt nguồn từ thế giới quan. Tuy nhiên mục
đích chủ yếu của Phật giáo là cứu khổ cứu nạn, giải phóng con người cho
nên nó mang giá trị nhân văn, nhân đạo sâu sắc. Nếu như triết học phương
Tây chú trọng nghiên cứu thế giới, tìm hiểu giới tự nhiên, xây dựng nên các
học thuyết, các cặp phạm trù, v.v… thì triết học phương Đông (Trong đó có
triết học Phật giáo) lại nghiêng về việc nghiên cứu, tìm hiểu những vấn đề
chính trị, xã hội, đạo đức, tôn giáo, đặc biệt là vấn đề con người hơn là việc
tìm hiểu giới tự nhiên. Triết học phương Đông nghiên cứu thế giới để làm
sáng tỏ con người. Mục đích nhận thức thế giới của triết học đều nhằm
phục vụ cho đời sống của con người và xã hội.
Cũng như nhiều trào lưu tư tưởng triết học phương Đông, Phật giáo
đề cao và nhấn mạnh nhất vấn đề nhân sinh. Điều này góp phần lý giải vì
sao mặt vũ trụ quan, thế giới quan của Phật giáo, nhất là Phật giáo nguyên
thủy hơi mờ nhạt trong khi nội dung nhân sinh quan lại khá rõ ràng và
mang tính nổi trội. Mục đích cuối cùng của Phật giáo là giải thoát con
người khỏi nỗi khổ trần thế thông qua con đường tu tập, buông xả những
thứ tạm thời của cuộc sống. Do đó, Phật giáo chú trọng nguyên lý, nguyên
nhân hay căn nguyên (triết lý nhân quả) mà không có chủ trương giải
quyết những vấn đề có tính chất siêu hình hoặc chung chung nào đó. Khi
các đệ tử hỏi Đức Phật về vấn đề siêu hình trừu tượng như vũ trụ có vĩnh
hằng không? Nó vô hạn hay hữu hạn? Linh hồn và thể xác là một hay khác

nhau? Ngài sau khi chết có tồn tại hay không?...thì Người im lặng vì mục
đích chủ yếu là cứu khổ cho con người. Điều đó không có nghĩa rằng Đức
Phật không biết những điều trên đây mà thực ra Đức Phật chỉ chú tâm
thuyết giảng những điều để chúng sinh biết được con đường đi đến giải
thoát theo căn cơ của chúng sinh thời bấy giờ. Như vậy, đối tượng nghiên
cứu chủ yếu của Phật giáo là con người, là giá trị nhân sinh. Đó là một
10

10


trong nhưng nét nổi bật nhất của tôn giáo này.''Về nhân sinh quan: Phật
giáo đặt vấn đề tìm kiếm mục tiêu nhân sinh ở sự ''giải thoát '' (Moksa),
khỏi vòng luân hồi, ''nghiệp báo '' để đặt tới trạng thái tồn tại Niết bàn
(Nirvana)'' [6,30]. Phật giáo ra đời là tiếng nói phủ nhận uy thế của kinh
Vêđa và đạo Bà la môn, tố cáo chế độ phân biệt đẳng cấp khắt khe của xã
hội Ấn Độ, đòi tự do tư tưởng và bình đẳng xã hội, xóa bỏ nỗi khổ trong đời
sống của người dân Ấn Độ. Trong Phật giáo không có phân biệt đẳng cấp,
trên dưới; không có người làm vua không có kẻ nô tỳ, không có người giàu,
người nghèo mà tất cả ''chúng sinh'' trong Phật giáo có vị trí như nhau.
Qua đó thể hiện mặt tích cực của nhân sinh quan Phật giáo trong lĩnh vực
xã hội. Như vậy Nhân sinh quan Phật giáo là: toàn bộ quan niệm, quan
điểm của Phật giáo về con người và cuộc sống của mình, con đường giải
thoát khổ đau, hướng thiện cho con người và xã hội loài người.
1.1.3.
1.1.3.1.

Trí thức và trí thức giáo dục đại học

Khái niệm trí thức và trí thức giáo dục đại học

Trí thức là một thuật ngữ đã được sử dụng rộng rãi như một ngữ
thông dụng hiện nay. Trí thức có nguồn gốc từ tiếng Latinh: Intelligentia
(Intelligens là thông minh, có trí tuệ, có nhận thức, hiểu biết có suy nghĩ)
dùng để chỉ những người có học thức cao, học vấn sâu rộng.
Trên thế giới và ở nước ta hiện nay đang có nhiều cách tiếp cận, cách
hiểu khác nhau về trí thức (có trên 60 khái niệm, định nghĩa về trí thức).
Điển hình như Từ điển Triết học: trí thức là ‘tập đoàn xã hội gồm những
người làm nghề lao động trí óc. Giới trí thức bao gồm kĩ sư, kĩ thuật viên,
thầy thuốc, luật sư, nghệ sĩ, thầy giáo và những người làm công tác khoa
học, một bộ phận lớn viên chức’ [53, 598]. Định nghĩa này chưa khái quát
được hết đặc trưng của người trí thức và mang tính liệt kê nhiều hơn. Theo
tác giả Nguyễn Văn Sơn định nghĩa về trí thức trong cuốn ‘Trí thức giáo dục
11

11


đại học Việt Nam thời kì đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa’: ‘trí thức
là một tầng lớp xã hội, gồm những người có trình độ học vấn, trình độ
chuyên môn cao, bằng lao động trí tuệ sáng tạo của mình để phát kiến,
truyền bá và ứng dụng những tri thức khoa học mới, tiến bộ và hữu ích vào
đời sống xã hội. Đây là lực lượng xã hội đang trở thành nguồn lực quan
trọng cho sự phát triển của mỗi quốc gia cũng như phát triển chung của
nhân loại’ [33, 11], định nghĩa của tác giả Nguyễn Văn Sơn đã khái quát
được những đặc điểm cơ bản của trí thức nhưng vẫn chưa nêu được sự độc
lập trong nhận thức, sáng tạo mà không phụ thuộc của người trí thức.
Dựa vào những điều trên, có thể thấy có ba cách hiểu chung nhất về
trí thức với những đặc trưng cơ bản sau:
Thứ nhất: trí thức là người lao động trí óc, có hiểu biết sâu, rộng, thông
thường có trình độ đại học và tương đương trở lên, có năng lực sáng tạo, có trình

độ phát triển về trí tuệ, nhạy bén với cái mới và quan tâm đến đổi mới để phát
triển.
Thứ hai: trí thức có trình độ chuyên môn sâu, rộng trong một lĩnh vực
nhất định, được hình thành qua đào tạo, bồi dưỡng và phát triển không
ngừng bằng con đường đào tạo, lao động và hoạt động sáng tạo cảu mỗi cá
nhân.
Thứ ba: trí thức có nhu cầu cao về đời sống tinh thần và hướng tới các
giá trị chân – thiện – mỹ; có lòng tự trọng, khát vọng tự do, dân chủ. công
bằng.
Dựa vào những đặc trưng cơ bản của trí thức, thực tiễn đất nước
hiện nay và nhằm phục vụ cho việc xác định mục tiêu, quan điểm chỉ đạo,
nhiệm vụ, giải pháp xây dựng đội ngũ trí thức trong thời kì đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa, Trong văn kiện Hội nghị 7 Ban Chấp hành Trung
ương Đảng khóa X đã đưa ra khái niệm trí thức như sau:
12
12


Trí thức là những người lao động trí óc, có trình độ học vấn cao về
lĩnh vực chuyên môn nhất định, có năng lực tư duy độc lập, sáng tạo, truyền
bá và làm giàu tri thức, tạo ra những sản phẩm tinh thần và vật chất có giá
trị đối với xã hội [12,8].
Trí thức giáo dục đại học là một bộ phận của trí thức, đó là những
người nghiên cứu và dạy học trong hệ thống giáo dục từ bậc đại học đến sau
đại học. Về định nghĩa trí thức giáo dục đại học, tác giả đồng ý với định nghĩa
của tác giả Trần Thị Lan: đó là một lực lượng xã hội hay một nhóm xã hội nghề nghiệp đặc thù, tiêu biểu của trí thức; là chủ thể của lĩnh vực giáo dục
đại hoc, có nhiệm vụ giảng dạy; nghiên cứu khoa học, ứng dụng, chuyển giao
công nghệ; tổ chức, quản lý hoạt động sư phạm nhằm cao dân trí, đào tạo
nguồn nhân lực có trình độ cao và phát triển nhân tài cho đất nước [27,2728].
Đội ngũ trí thức trong đó có trí thức giáo dục đại học là một tầng lớp

xã hội đặc biệt và đặc thù chứ không phải là một giai cấp vì trí thức giáo dục
đại học không thuộc về một giai cấp nào duy nhất, nó hình thành như một
nhóm xã hội lớn theo cách nhìn của xã hội học, có đặc điểm lao động và
phương thức (cách thức) sản xuất riêng để sản xuất và truyền bá tri thức. Do
không có hệ tư tưởng độc lập của mình nên trí thức không phải là một giai
cấp. trí thức giáo dục đại học là một tầng lớp xã hội gắn liền với một chính
thể và các thể chế do giai cấp cầm quyền tạo ra và chi phối. Trong lịch sử,
giai cấp nào cầm quyền đều dùng ý thức hệ giai cấp của mình chi phối xã hội,
biểu hiện thành ý thức hệ của xã hội. Sự chi phối tư tưởng này ảnh hưởng
trực tiếp tới thế giới quan, nhân sinh quan, tới hoạt động nghề nghiệp, thái
độ và lối sống của trí thức. V.I Lênin đã từng chỉ ra, giai cấp công nhân khi
giành được chính quyền và trở thành giai cấp lãnh đạo phải chú trọng sử
dụng trí thức, đào tạo một lực lượng chuyên gia thực sự là của mình, và bất
13
13


luận thế nào cũng không được thua kém các chuyên gia tư sản. Rõ ràng, thái
độ đối với trí thức và việc sử dụng đội ngũ trí thức nhất là trí thức giáo dục
đại học luôn bị chi phối bởi quan điểm chính trị, lợi ích của giai cấp thống trị.
Do không phải là một giai cấp độc lập, không có hệ tư tưởng riêng, nên trí
thức giáo dục đại học luôn chịu ảnh hưởng trực tiếp từ những yêu cầu lịch
sử của thời đại mà họ đang sống, trí thức phục vụ cho chế độ và cho giai cấp
cầm quyền. Tuy nhiên, trí thức giáo dục đại học không chỉ do giai cấp thống
trị cầm quyền chi phối. Tầng lớp trí thức giáo dục đại học hình thành và tồn
tại trong lòng dân tộc, trong khuôn khổ từng quốc gia – dân tộc và trong
cộng đồng xã hội (nhân dân). Do đó, tầng lớp trí thức có mối liên hệ mật
thiết với dân tộc và nhân dân.
1.1.3.2.


Phân loại trí thức giáo dục đại học
Giáo dục đại học ở Việt Nam có hai cấp học là đại học và sau đại học.
Cấp đại học đào tạo trình độ đại học và cao đẳng, cấp sau đại học đào tạo
trình độ thạc sĩ và tiến sĩ. Cơ sở giáo dục đại học gồm các trường đại học và
cao đẳng, ngoài ra còn có thể thực hiện ở các học viện hay viện nghiên cứu
khoa học thành viên thuộc các lĩnh vực chuyên môn khác nhau. Theo đó, trí
thức giáo dục đại học Việt Namlà một lực lượng xã hội, bao gồm ba bộ phận:
giảng viên (chiếm số đông), cán bộ lãnh đạo, quản lý; một số chuyên viên,
nhân viên của các phòng, ban tham gia trực tiếp vào quá trình giáo dục ở bậc
đại học.

1.1.3.3.

Đặc điểm của đội ngũ trí thức giáo dục đại học Việt Nam hiện nay
Đội ngũ trí thức giáo dục đại học nước ta hiện nay khá đông đảo.
Nhân loại đang đi lên với nền kinh tế tri thức, khoa học công nghệ có những
bước đột phá, xu hướng toàn cầu hóa diễn ra mạnh trên toàn thế giới…. trí
thức giáo dục đại học Việt Nam phải tự trang bị kiến thức để tự hoàn thiện
mình. Vì vậy trí thức giáo dục đại học nước ta đã mang một sắc diện mới
14
14


phù hợp với thời đại. Họ tuy có nhiều biến đổi theo hướng tích cực nhưng
vẫn mang những đặc điểm chính sau:
Thứ nhất, tinh thần dân tộc, yêu nước sâu sắc, trung thành với sự
lãnh đạo của Đảng, nhà nước.
Tinh thần yêu nước thương nòi là một phẩm chất nội sinh từ truyền
thống dân tộc của mọi người Việt Nam. Với trí thức và trí thức giáo dục đại
học, yêu nước còn là một động lực sáng tạo, tìm tòi cái mới để xây dựng đất

nước. Họ cũng là người biết kế thừa những giá trị tốt đẹp của cha ông và
thế giới, biết phê phán những gì cản trở sự phát triển của dân tộc. Từ
những tấm gương của trí thức trong cách mạng tháng Tám và kháng chiến
có thể nhận rõ rằng, tiềm năng trí tuệ với lòng yêu nước của trí thức và trí
thức giáo dục đại học là tài sản quý giá của dân tộc, sẽ phát huy sức sống
của nó trong môi trường tiến bộ.
Thứ hai, trí thức giáo dục đại học nước ta có nguồn gốc xuất thân từ
các giai tầng khác, chủ yếu là từ giai cấp công nhân, nông dân.
Đây là một đặc điểm khác so với các nước. Chính vì vậy mà tầng lớp
trí thức giáo dục đại học có mối quan hệ mật thiết với công nhân, nông dân,
nên họ phần nào hiểu được cuộc sống, tâm tư, nguyện vọng của họ. Cũng
chính vì đa số xuất thân từ các tầng lớp thấp, cho nên họ có sự nỗ lực vươn
lên trong công việc, trong cuộc sống.
Thứ ba, trí thức giáo dục đại học là người trực tiếp tham gia vào quá
trình đào tạo ở bậc cao nhất trong hệ thống giáo dục quốc dân.
Thông quan hai cấp đào tạo đại học (trình độ cao đẳng, đại học) và
sau đại học (trình độ Thạc sĩ, Tiến sĩ), đội ngũ trí thức giáo dục đại học trực
tiếp tham gia vào chuẩn bị nguồn nhân lực trình độ cao, xây dựng đội ngũ
chuyên gia, những nhà khoa học, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao về chất
lượng lao động của nền kinh tế - xã hội và yêu cầu của nền công nghiệp
15
15


hóa, hiện đại hóa đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Sự phát triển
của cuộc các mạng khoa học công nghệ hiện đại đã chứng minh con người
là tài nguyên quý giá, đồng thời cũng làm tăng tính chất quyết liệt của sự
cạnh tranh trên thị trường. Kinh tế ngày càng phát triển tạo khiến trình độ
nhận thức của con người ngày càng cao. Giáo dục cần phải đi trước một
bước, cần được đầu tư nhiều hơn nữa để sánh bước, tiếp thu những tinh

hoa của nhân loại. Người trí thức giáo dục đại học cần được đề cao và bồi
dưỡng để phát triển ngành sản xuất đặc biệt – tạo ra nguồn lao động chất
lượng cao, chuyên sâu.
Thứ tư, đa số trí thức giáo dục đại học còn ảnh hưởng của văn hóa,
tâm lý tiểu nông
Từ một nước nông nghiệp lạc hậu, chuyển sang kinh tế thị trường,
đến nay gần 70% dân số nước ta còn là nông dân. Vì vậy, trí thức giáo dục
đại học nước ta hầu hết đều xuất thân và hoạt động trong môi trường ấy,
nên chịu tác động về văn hóa, tâm lý, lối sống tiểu nông là nhỏ lẻ, manh
mún, đề cao kinh nghiệm. Tâm lý tiểu nông thường kỳ thị với người hiểu
biết hơn mình. Trong trường hợp có quyền lực, tâm lý đó có thể chuyển
thành thái độ ngại sử dụng người giỏi, thậm chí có thái độ tả khuynh cực
đoan. Tâm lý đó cũng biểu hiện ở không ít cán bộ trong đối xử với đồng
nghiệp.
Hai nhân tố (tâm lý tiểu nông của trí thức và tác động của thái độ
chính trị, chính sách không đúng) đã thúc đẩy mặt hạn chế của trí thức:
một số sa vào con đường hám danh lợi; một số chỉ biết lợi ích riêng, không
có thái độ hợp tác chân thành với người khác; một số chịu ảnh hưởng sâu
sắc của chủ nghĩa giáo điều sách vở nên không có năng lực tư duy biện
chứng trước thực tiễn biến đổi nhanh; từ đó ảnh hưởng rất lớn đến đội ngũ
sinh viên, học viên, những tầng lớp kế cận, tinh hoa mới của xã hội.
16
16


Thứ năm, năng lực ngoại ngữ của trí thức giáo dục đạo học còn yếu
Đây là thực tế hiện nay, đa số trí thức giáo dục đạo học có năng lực
ngoại ngữ chưa tốt bởi lí do trí thức giáo dục đại học thường chỉ tập chung
vào chuyên môn, chưa chú ý đến ngoại ngữ; thậm chí chỉ hoàn thiện năng
lực ngoại ngữ bằng chứng chỉ một cách hình thức. Điều này làm giảm khả

năng tiếp thu tinh hoa nhân loại, và khả năng tìm tòi tri thức mới của các
nước khác trên thế giới. Hiện nay, chúng ta đang sống trong một thế phẳng,
không có rào cản ngăn cấm giao lưu kinh tế, tri thức, mà chỉ có rào cản về
ngôn ngữ. Cho nên hạn chế về ngoại ngữ là một thách thức không nhỏ đối
với trí thức giáo dục đại học nói chung, và đội ngũ trí thức nói chung. Chỉ có
một bộ phận nhỏ trí thức giáo dục đại học nghiên cứu giảng dạy về ngoại
ngữ mới có trình độ ngoại ngữ tốt.
Thứ sáu, tính cơ hội, thực dụng và vụ lợi trong hành xử; tâm lí chạy
theo thành tích và chấp nhận sự giả dối một cách dễ dàng, dẫn đến hiện
tượng một số “tiến sĩ giấy”, “tiến si rởm” mà xã hội đang lên án
Nguyên nhân của những hạn chế, khuyết điểm trên là do yếu kém của
hầu hết cấp uỷ đảng, chính quyền trong lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện công
tác đào tạo đội ngũ thạc sĩ, tiến sĩ dẫn đến việc đào tạo một cách ồ ạt, thiếu
minh bạch. Hiện tượng sính bằng cấp, bằng cấp hóa trong giáo dục dựa vào
bằng cấp để đánh giá năng lực khiến chất lượng đào tạo những trí thức
giáo dục đại học giỏi chuyên môn còn hạn chế. Hiện tượng sính bằng cấp đã
ăn sâu vào suy nghĩ của mỗi con người nhất là trí thức giáo dục đại học, bởi
bằng cao thì giá trị càng lớn. Ở nước ta hiện nay khi đi xin việc vào các
trường nhất là bậc đại học thì bằng cấp vô cùng quan trọng, chính là căn
cứ đánh giá năng lực của người dạy, điều này có lẽ chưa thật sự thỏa đáng.
Loài người từ khi sinh ra đã muốn chinh phục và chinh phục tự
nhiên. Quá trình tồn tại ấy đã hình thành lên quan điểm của con người về
17
17


chính mình và cuộc sống của mình – nhân sinh quan. Nhân sinh quan Phật
giáo là sự nhìn nhận về cuộc sống của con người dưới giác độ nhà Phật.
Nhân sinh quan Phật giáo là giá trị cốt lõi của hệ thống triết học Phật giáo.
Nó có ảnh hưởng lớn đến đội ngũ trí thức nói chung và trí thức giáo dục đại

học nói riêng ở khía cạnh nhân sinh.
1.2.
1.2.1.

Cơ sở thực tiễn của sự ra đời nhân sinh quan Phật giáo
Hoàn cảnh ra đời của Phật giáo
1.2.1.1.Điều kiện kinh tế, chính trị - xã hội
Phật giáo xuất hiện ở miền Bắc Ấn Độ cổ đại (nay thuộc Nêpan) vào
cuối thế kỷ VI trước Công nguyên.
Về địa lý, phía Bắc của Ấn Độ là dãy Himalaya cao lớn và dài tạo nên
một hàng rào cô lập các vùng bình nguyên của xứ này với các vùng còn lại.
Để liên lạc với bên ngoài thì chỉ có con đường núi xuyên qua Afghanistan.
Đây là một đất nước phức tạp về địa hình, khí hậu, bị cô lập bên ngoài
nhưng lại chia cắt bên trong. “Lãnh thổ Ấn Độ (tương đương với diện tích
Châu Âu) bị chi cắt bởi dãy núi Vindhya. Nửa phía Bắc là hai đồng bằng
rộng lớn do sông Ganga (sông Hằng)……… Nửa phía Nam là dãy núi
Vindlya kéo dài thành cao nguyên Dekkan. Thiên nhiên Ấn Độ đa dạng và
phức tạp với miền bắc lắm sông ngòi đồng ruộng, miền Nam lắm rừng
nhiều núi. Núi cao, biển rộng, sông dài đã tạo thành tính đa dạng, phức tạp
của văn hóa Ấn đồng thời in dấu ấn khá đậm nét trong nền văn hóa, đặc
biệt là tôn giáo – triết học Ấn Độ” [42,16]. Với điều kiện tự nhiên vô cùng
khắc nhiệt đã khiến tôn giáo – triết học phát triển rất mạnh của Ấn Độ, và
cùng với Ai Cập trở thành một trong những cái nôi của nền văn minh nhân
loại: Ấn Độ, Ai Cập, Hy – La, Trung Quốc.
Về mặt kinh tế, xã hội cổ đại này điển hình cho phương thức sản xuất
Châu Á (Mác gọi), với sự tồn tại dai dẳng của chế độ công xã nông thôn và
chế độ quốc hữu hóa ruộng đất. Ấn Độ cổ đại có nền sản xuất nông nghiệp
18
18



khép kín tự cung tự cấp, phát triển rất chậm. Đặc biệt vấn đề giao thương
với thế giới bên ngoài hầu như không có bởi địa hình hiểm trở khó khăn
cho việc đi lại. Nền nông nghiệp nghèo nàn, lạc hậu ấy chiếm vai trò chủ
đạo trong đời sống đất nước cổ đại này, thủ công nghiệp cũng đóng với trò
quan trong, kết hợp với nông nghiệp tạo nên nền kinh tế điển hình của sản
xuất phương Đông. “Hình ảnh bánh xe – công cụ lao động và công cụ chiến
tranh chủ yếu của người Ấn Độ cổ đại đã trở thành tư tưởng chính về kiếp
luân hồi và lí tưởng “chuyển pháp luân” trong Phật giáo”[42,18].
Nền kinh tế nghèo nàn lạc hậu như vậy khiến xã hội Ấn Độ cổ đại
xuất hiện nhiều đẳng cấp, trong đó có 4 đẳng cấp chính, sự phân biệt đẳng
cấp rất khắt khe, nghiệt ngã đã trói buộc con người vào hệ tầng xã hội,
không thúc đẩy con người đi lên mà chôn vùi con người từ thế hệ này sang
thế hệ khác, cha truyền con lối trong đẳng cấp đó. Người đẳng cấp thấp
phải phục tùng và không bao giờ trở thành đẳng cấp trên. Và đẳng cấp trên
nếu vi phạm luật lệ sẽ bị đuổi khỏi đẳng cấp của mình. Bốn đẳng cấp đó là:
Bà la môn (Brahmanas): là đẳng cấp có địa vị cao nhất, bao gồm
những người hoạt động tôn giáo chuyên nghiệp.
Sát đế lị (Ksastryas): là đẳng cấp của vua quan và tầng lớp võ sĩ.
Vệ xá (Vaisyas): là đẳng cấp của những người bình dân làm các nghề
như chăn nuôi, làm ruộng, buôn bán, thợ thủ công,…
Thủ đà la (Soudras): là đẳng cấp thấp nhất, chiếm đa số, là con cháu của
những bộ lạc bại trận, những người bị phá sản, không có tư liệu sản xuất…
Sự phân biệt đẳng cấp diễn ra vô cùng khắc nhiệt khiến cho tầng lớp
đa số trong xã hội căm ghét chế độ đẳng cấp: như những người khác đẳng
cấp không được kết hôn với nhau, không ăn cùng người đẳng cấp dưới,
không hoạt động cùng người khác đẳng cấp, nếu cầm tay hoặc tóc người
đẳng cấp trên sẽ bị chặt tay.... Ngoài ra trong xã hội còn nhiều đằng cấp
19
19



nhỏ khác, nhưng có điểm chung là những người khổ nhất, bị đối xử thậm tệ
nhất là những người đẳng cấp thấp, những người Thủ đà la cũng giống
như nô lệ, chỉ là công cụ biết nói, phục tùng vô điều kiện tầng lớp trên. Cho
nên xuất hiện nhiều trào lưu tư tưởng chống lại đạo Bà la môn và chế độ
phân biệt đẳng cấp, trong đó có Phật giáo.
1.2.1.2.

Tiền đề văn hóa tư tưởng
Phật giáo là một trong ba tôn giáo của hệ thống không chính thống
(Phật giáo, Jaina, Lokayata) sinh ra để chống lại tư tưởng của kinh Vêda và
đạo Bàlamon. Nhưng tiền đề tư tưởng của Phật giáo cũng như cả chín
trường phái chính, không chính thống đều là kinh Vêda và Bàlamôn.
Kinh Vêda là bộ kinh cổ nhất của Ấn Độ và là một trong những bộ
kinh cổ nhất trên thế giới. Nó được soạn thảo vào khoảng thế kỷ XII trước
công nguyên đến khoảng thế kỷ V trước công nguyên, trong quá trình
người Aryan xâm nhập Ấn Độ. Về nguồn gốc thần thoại tôn giáo của kinh
Vêda, người ta cho rằng: nội dung của kinh Vêda là những chân lý do
thượng đế ban cho loài người ở đầu mỗi chu kỳ vũ trụ (chu kỳ vũ trụ là
Kalpa bằng 4.320.000.000 năm). Những chân lý ấy tồn tại tự nó, tuyệt đối
và có tính tiên thiên, siêu thời gian. Người ta chỉ nhận thức được chân lý ấy
bằng trực giác, và người thấu thị (rishi) những chân lý ấy phải trải qua quá
trình tu luyện, chiêm nghiệm nội tâm lâu dài bằng phương pháp tu luyện
hành động (karma-yoga) và tu luyện tri thức (jâna-yoga).
Về nguồn gốc lịch sử, Vêda không phải do một nhân vật nào sáng tác.
Nó là một bộ sách chứa đựng tất cả những câu ca dao, vịnh phú, những tư
tưởng quan niệm, tập tục lễ nghi của nhiều bộ lạc người Aryan ở nhiều địa
phương, dọc theo sông Hindus, Gange và chân núi Himalaya. Một thời gian
dài các bộ kinh ấy đã được truyền khẩu từ thế hệ này qua thế hệ kia.

Khoảng từ những năm 1.000 trước công nguyên đến năm 800 trước công
nguyên, mới được sưu tập, biên chép lại bằng một thứ tiếng Phạn cổ, gọi là
20
20


thánh kinh Vêda. “Vêda là gì ? Vêda nghĩa là hiểu biết. Đối với phái chính
thống Vêda nghĩa là những tri thức cao cả thiêng liêng” [53,115].
Kinh Vêda gồm 4 bộ: Rig Vêda, Sama Vêda, Yajur Vêda, Atharva Vêda.
Mỗi bộ kinh lại gồm 4 phần: Mantra, Brahmas, Aranyaka.
Theo các nhà nghiên cứu, kinh Vêda là những sách trình bày, giải
thích ý nghĩa các lễ nghi Vêdavà những kinh Upanishad, được biên soạn về
sau này: là những sách bình chú tôn giáo triết học, giải thích ý nghĩa triết lý
sâu xa của tư tưởng thần thoại, tôn giáo Vêda, trong đó nêu lên hàng đầu
lập luận khái quát về đấng sáng tạo tối cao, về “Tinh thần thế giới vô ngã”
tuyệt đối Brahman và linh hồn cá nhân (Atman) của con người.Linh hồn cá
nhân không tồn tại vĩnh viễn mà chỉ cư ngụ trong cơ thể con người trong 1
thời gian nhất định, chỉ có Brahman tồn tại vĩnh hằng; giải thích thế giới,
nhân quả…Bộ Thánh kinh Vêda, qua 3.000 năm nay vẫn được coi là thánh
điển căn bản của Bà-la-môn giáo, chia thành 4 phần, ứng dụng vào bốn
phương, diện hành lễ cao, thấp, và kinh nghĩa khác nhau.
1.2.1.3. Vai trò của Thái tử Tất Đạt Đa
Về gia thế của Thái tử Tất Đạt Đa, có rất nhiều truyền thuyết và lược sử
nói về cuộc đời của Đức Phật, tuy nhiên có thể nhận thấy được điểm chung
như sau: ngài sinh khoảng năm 624 trước Công nguyên và nhập Niết-bàn khi
đã sống được 80 tuổi (năm 543 TCN), trong một gia đình hoàng tộc thuộc
dòng Thích-catại Kapilavastu (Ca-tì-la-vệ) thuộc Nepal ngày nay. Cha của ông
là vua Tịnh Phạn, mẹ là hoàng hậu Maya, sinh ra ông trong khu vực vườn
Lumbini (Lâm-Tỳ-Ni)một thị trấn thuộc Ấn Độ, với đủ 32 tướng tốt để sau này
trở thành bậc vĩ nhân. Đây là khu vực nằm giữa dãy Himalaya và sông Hằng.

Ngay từ nhỏ Thái tử Tất Đạt Đa đã được sống trong nhung lụa,
không tiếp xúc với xã hội bên ngoài, không thấy được cuộc sống cùng cực
với đói khát, bệnh tật, dịch bệnh, già yếu, kẻ có tầng lớp trên chèn ép, hành
21

21


hạ tầng lớp thấp…. Năm 17 tuổi, Thái tử cưới vợ là công chúa Da-Giu-ĐàLa (Yosodnara) sinh một con trai là La-Hầu-La. Từ đó Ngài mới thấy được
cuộc sống hiện thực khốn khổ. Sau những lần gặp gơ bất ngờ với những
đau khổ từ cuộc sống đã tác động mạnh đến tâm hồn nhạy cảm của Ngài.
Năm 29 tuổi Ngài quyết định rời bỏ ngôi báu, rời bỏ cuộc sống xa hoa
nhung lụa để dấn thân vào con đường tu khổ hạnh cung với các nhà tu tập
khác, mong tìm được con đường giải thoát cho chúng sinh. Ông quyết tâm
tìm cách diệt khổ và tìm mọi đạo sư với các giáo pháp khác nhau. Theo
truyền thống Ấn Độ bấy giờ chỉ có con đường khổ hạnh mới đưa đến đạt
đạo. Các vị đạo sư khổ hạnh danh tiếng thời đó là A-La-La Ca-Lam và ƯuĐà-la La-Ma Tử. Sau 6 năm tu khổ hạnh ở núi Tuyết Sơn mà không đạt
được sự yên tĩnh trong tâm hồn, không nhận thức được chân lý; Ngài
nghiệm ra cuộc sống chứa nhiều cám dỗ, dục vọng dù có khổ hạnh cũng
không thể tìm được con đường giải thoát mà chỉ có con đường tu đạo, giác
ngộ chân lý, mới thông tuệ.
Sau 49 ngày thiền định dưới gốc cây Bồ đề (Bodhi) tại làng Uruvela,
chìm đắm trong tư duy sâu thẳm,(mặc dù bị Ma vương quấy nhiễu) Tất Đạt
Đa đạt giác ngộ hoàn toàn ở tuổi 35 (có tài liệu nói là 30 tuổi). Ngài tuyên
bố đã đến được chân lý, hiểu được bản chất của tồn tại, nguồn gốc của khổ
đau và con đường cứu vớt. Ngài nói: khi tâm ta được an tịnh, thanh lọc,
không bị dục vọng cấu uế, nhạy bén, chắc chắn, bất động, ta hướng nó về
những kí ức và nhận thức về các kiếp trước. Ta nhớ lại nhiều tiền kiếp, một,
hai, ba, bốn, năm,... trăm ngàn kiếp trước, nhớ những chu kì của thế giới.
Nơi đó ta đã sống, tên của ta đã như thế, gia đình của ta là như thế, nghề

nghiệp của ta, giai cấp xã hội của ta... Ta đã chết như vầy.... Sự hiểu biết đầu
tiên này ta đã đạt được trong canh đầu. Ngài tự xưng là Buddha có nghĩa
22

22


là giác ngộ (phiên âm theo tiếng Hán là Phật). Người đời còn gọi Ngài là
Thích Ca Mâu Ni (bậc thánh của dòng họ Thích Ca).
Vai trò rất lớn nhất của Thái tử Tất Đạt Đa sau này là Phật đó chính
là hình thành Phật giáo và xây dựng hệ thống tư tưởng về giải thoát, nhân
sinh, thể giới với cách nhìn nhân văn cao cả là giải thoát con người khỏi
mọi đau khổ. Trước đó đã có rất nhiều người tìm đến cách giải thoát đó là
những đạo sư uyên thâm, hiểu rộng nhưng đều thất bại, đến lượt ngài, ngài
cũng thất bại với phương pháp tu khổ hạnh. Nhưng với sự kiên trì và một
lòng cứu chúng sinh ngài đã tìm được con đường giải thoát cho chúng sinh.
Sau khi giác ngộ Đức Phật Thích ca đã đi thuyết pháp khắp mọi nơi,
nơi nào có đâu khổ nơi đó ngài đến và tìm cách thoát khổ. Ngài đã cứu
được hàng nghìn chúng sinh khỏi đau khổ để được giải thoát. Không chỉ
dừng ở đó, tư tưởng của ngài nhất là tư tưởng nhân sinh có tác động mạnh
mẽ đến con người thế hệ sau hành thiện tích đức. Ban đầu Ngài chỉ truyền
miệng, sau đó được viết thành sách, thể hiện trong một khối lượng kinh điển
khá đồ sộ. Các kinh sách của Phật được ghi lại bởi hai văn tự căn bản là Bắc
phạn và Nam phạn, được tổ chức thành Tam tạng gồm Tạng Kinh (ghi những
lời Phật dạy), Tạng Luật (ghi những giới luật của Phật giáo) và Tạng Luận
(gồm các bài kinh, các tác phẩm luận giải, bình chú về giáo pháp của các cao
tăng, học giả về sau này)
1.2.2.
1.2.1.1.


Sự du nhập và đặc điểm của Phật giáo ở nước ta
Sự du nhập
Việt Nam là quốc gia nằm trên bán đảo Đông Dương, khu vực nối liền
hai nước lớn có nền văn hóa lâu đời với nhiều thành tựu rực rỡ là Trung Hoa
ở phía Bắc và Ấn Độ ở phía Tây. Do đó, việc Việt Nam chịu sự ảnh hưởng
của hai nền văn hóa này là không thể tránh khỏi. Những giá trị của các nền
văn hóa đó được kết tinh trong những triết học - tôn giáo lớn là Phật giáo ở
23
23


Ấn Độ, Nho giáo, Đạo giáo ở Trung Hoa lần lượt được du nhập vào Việt Nam
bằng những con đường, cách thức khác nhau. Lịch sử thế giới đã chứng minh
rằng: Hầu hết các tôn giáo, tư tưởng được truyền bá đi bằng con đường chính
trị, được áp đặt bằng vũ lực, bằng chiến tranh hoặc làm công cụ cho các thế
lực xâm lược. Thế nhưng, trên bước đường truyền bá khắp thế giới, Phật giáo
chưa bao giờ để lại một vết máu. Điều đó xuất phát từ bản chất từ bi vô ngã,
vị tha của đạo Phật, bởi vì đạo Phật ra đời vì cuộc đời chứ không phải vì bản
ngã của đạo Phật. Có thể khẳng định Phật giáo du nhập vào nước ta bằng con
đường hòa bình nên thâm nhập nhanh vào đời nhân dân.
Đạo Phật được truyền vào nước ta khoảng từ trước Công nguyên. Và
trước khi Phật giáo du nhập vào nước ta đã có một hệ thống tín ngưỡng,
phong tục vô cùng phong phú. Với quan niệm ông Trời, Thần Sấm, thần Sét,
Sơn Tinh, Thủy Tinh, thần núi Tản Viên, thần cây đa, ông Táo, ông Địa
vv. . .. Rồi linh hồn con người không hẳn là bất diệt, nhưng sau khi mất nó có
thể tồn tại một thời gian khá lâu quanh quẩn bên xác người chết và có thể ở
chung với người thân thích còn sống trong một thời gian để che chở, bảo hộ.
Phật giáo truyền đến Việt Nam vào khoảng những năm đầu công
nguyên, lúc bấy giờ nước ta đang nội thuộc Trung Quốc. Dựa vào các sử liệu,
hiện nay hầu hết các Sử gia đều đồng ý với một điểm mấu chốt như sau :

- Đạo Phật đã đến Việt Nam bằng con đường của các thương gia người
Ấn Độ trước, là đường biển (con đường hồ tiêu – các doanh nhân Ấn Độ
thường buôn bán hồ tiêu sang Việt Nam, Trung Quốc), theo bước chân của
các doanh nhân và Tăng sĩ Ấn Độ: xuất phát từ các hải cảng vùng Nam Ấn rồi
qua ngã Srilanka, Indonesia, Việt Nam...lợi dụng được luồng gió thổi định kỳ
24

24


vào hai lần một năm phù hợp với hai mùa mưa nắng ở khu vực Đông Nam Á,
những thương nhân Ấn đã tới các vùng này để buôn bán bằng những con
thuyền buồm. Trong các chuyến đi viễn dương này, các thương nhân thường
cung thỉnh một hay hai vị tăng để cầu nguyện cho thủy thủ đoàn và các vị
tăng này nhờ đó mà đến truyền bá Đạo Phật vào các dân tộc ở Đông Nam Á.
Giao Châu tiêu biểu bấy giờ là trung tâm Luy Lâu, là nơi tụ điểm nghỉ chân
giao lưu của các thương thuyền.
- Điểm mấu chốt thứ hai là đạo Phật được truyền đến Việt Nam trước
khi đến Trung Hoa, cũng như trong giai đoạn khai sinh, Phật giáo Việt Nam
cũng đã hưng thịnh hơn Phật giáo Trung Hoa cùng thời.
- Điểm thứ ba là đến thế kỷ thứ II đã có một nền Phật giáo và Phật học
hưng thịnh tại Việt Nam, nghĩa là đạo Phật đã truyền bá trước đó khá lâu, ít
nhất cũng phải hàng trăm năm trước, nghĩa là ít nhất cũng vào khoảng thế kỷ
thứ nhất hay sớm hơn nữa.
Trên lãnh thổ của Việt Nam và Trung Quốc (lúc này nước ta là quận
Giao Chỉ thuộc Nhà Hán), đã tồn tại ba trung tâm Phật giáo là Luy Lâu, Lạc
Dương và Bành Thành. Sử liệu cổ cũng không ghi nhận được rõ ràng sự hình
thành của hai trung tâm Lạc Dương và Bành Thành, chỉ có Luy Lâu thuộc Giao
Chỉ là được xác định rõ ràng và sớm nhất, và còn là bàn đạp cho việc hình
thành hai trung tâm kia. Đạo Phật đã đến và đã hưng thịnh ở Việt Nam trước

khi du nhập và phát triển tại Trung Quốc. Sau này, sang thế kỷ IV –V, lại có
thêm luồng Phật giáo Đại thừa Bắc tông từ Trung Hoa tràn vào mang tính
giao lưu văn hóa. Từ “Buddha” và tiếng Hán được phiên âm thành Phật Đà
vào tiếng Việt rút gọn lại còn Phật. Từ đây, Phật dần dần thay thế cho từ Bụt.

25

25


×