LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, các số liệu,
kết quả nêu trong luận văn tốt nghiệp là trung thực xuất phát từ tình hình thực tế
của đơn vị thực tập.
Tác giả của luận văn tốt nghiệp
(ký và ghi rõ họ tên)
1
MỤC LỤC
2
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BĐS: Bất Động Sản
BOT/BTO/BT: Hợp đồng kinh doanh – xây dựng – chuyển giao/ Hợp đồng
xây dựng – chuyển giao – kinh doanh/ Hợp đồng xây dựng – chuyển giao
ĐB: Đồng bằng
ĐTNN: Đầu tư nước ngoài
FDI: Đầu tư trực tiếp nước ngoài ( Foreign Direct Investment)
FII: Đầu tư gián tiếp nước ngoài ( Foreign Indirect Investment)
GDP: Tổng sản phẩm quốc nội ( Gross Domestic Product)
GCNĐT: Giấy chứng nhận đầu tư
GTSXCN: Giá trị sản xuất công nghiệp
IMF: Quỹ tiền tệ quốc tế ( International Monetary Fund)
KCN: Khu công nghiệp
KCNC: Khu công nghệ cao
KKT: Khu kinh tế
KTTĐ: Kinh tế trọng điểm
LĐ: Lao động
MNC: Công ty đa quốc gia ( Multinational Corporation)
NNL: Nguồn nhân lực
PCI: Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (Provincial Competitiveness Index)
SEV: Hội đồng Tương trợ Kinh tế
3
THCS: Trung học cơ sở
THPT: Trung học phổ thông
TNC: Công ty xuyên quốc gia
UBND: Ủy ban nhân dân
VAT: Thuế giá trị gia tăng (Value Added Tax)
VCCCI: Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam
WTO: Tổ chức Thương mại Thế giới ( World Trade Organization)
4
DANH MỤC CÁC BẢNG
Trang
Bảng 2.1
Bảng 2.2
Bảng 2.3
Bảng 2.4
Bảng 2.5
Bảng 2.6
Bảng 3.1
Tổng hợp kết quả chỉ số PCI tỉnh Bắc Ninh giai đoạn
2007 – 2012
Cơ cấu GDP theo giá cố định 1994 giai đoạn 2005 –
2010
FDI tỉnh Bắc Ninh theo hình thức đầu tư giai đoạn
1997 – 2010
FDI tỉnh Bắc Ninh theo ngành kinh tế đến hết tháng
12/2010
FDI công nghiệp Bắc Ninh phân theo chuyên ngành
công nghiệp giai đoạn 2000 – 2010
Cơ cấu GDP theo giá cố định 1994 giai đoạn 2005 –
2010
Dự kiến nhu cầu vốn đầu tư trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh
giai đoạn 2010-2020
5
DANH MỤC CÁC HÌNH
Trang
Hình 1.1
Hình 1.2
Hình 2.1
Hình 2.2
Hình 2.3
Tổng vốn FDI vào Việt Nam từ 1997 đến nay
FDI vào BĐS Việt Nam đến hết năm 2010
Tăng trưởng FDI vào Bắc Ninh qua các thời kỳ 2001 –
2011
Tỷ trọng xuất khẩu của khu vực FDI trong kim ngạch
xuất khẩu toàn tỉnh giai đoạn 2001 – 2011
Tỷ trọng của khu vực FDI đóng góp vào giá trị sản
xuất công nghiệp thời kỳ 2001 – 2011
6
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Trong xu thế hội nhập và toàn cầu hoá hiện nay, mỗi địa phương phải tự
năng động trong việc thúc đẩy sự phát triển nền kinh tế của mình nhằm theo kịp
và chủ động hội nhập với nền kinh tế cả nước và toàn cầu, nâng cao mức sống
của người dân địa phương. Để thực hiện mục tiêu tăng trưởng và phát triển kinh
tế - xã hội, bất kỳ một địa phương nào cũng phải thu hút được vốn đầu tư phù
hợp với định hướng phát triển của địa phương mình.
Kể từ khi tái lập tỉnh năm 1997, hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài
của tỉnh Bắc Ninh đã đạt được nhiều kết quả quan trọng, góp phần tích cực vào
việc thực hiện thắng lợi những mục tiêu phát triển công nghiệp cũng như kinh tế
xã hội của tỉnh.Tuy nhiên, hoạt động thu hút và hiệu quả sử dụng vốn đầu tư trực
tiếp nước ngoài của tỉnh những năm qua vẫn còn bộc lộ những mặt yếu kém, hạn
chế.
Nhằm nâng cao hiệu quả đầu tư, đầy mạnh đầu tư trên địa bàn tỉnh, đóng
góp nhiều hơn vào sự phát triển, phấn đấu đưa Bắc Ninh đến năm 2015 cơ bản
trở thành tỉnh công nghiệp. Được sự góp ý và giúp đỡ của giáo viên hướng dẫn,
cũng như tập thể cán bộ phòng tư vấn đầu tư. Em đã quyết định chọn đề tài:
“Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn FDI trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh trong thời gian
tới” làm đề tài nghiên cứu của mình.
2. Mục đích nghiên cứu của luận văn
Nghiên cứu cơ sở lý luận về vai trò, nội dung, đặc điểm của nguồn vốn
FDI.
7
Phân tích và đánh giá thực trạng huy động và hiệu quả sử dụng vốn FDI
ở Bắc Ninh.
Đề xuất một số giải pháp khắc phục những tồn tại và nâng cao hiệu quả
huy động và sử dụng FDI nhằm đạt được mục tiêu phát triển kinh tế xã hội của
tỉnh Bắc Ninh trong giai đoạn 2011 – 2020.
3. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu trên cơ sở của chủ nghĩa duy vật biện chứng và một số
phương pháp nghiên cứu như: phương pháp logic, phương pháp phân tích thống
kê, phương pháp so sánh, phương pháp toán kinh tế.
4. Kết cấu của luận văn tốt nghiệp
Chương 1: Tổng quan về đầu tư trực tiếp nước ngoài và hiệu quả sử dụng
vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
Chương 2: Thực trạng thu hút và hiệu quả sử dụng vốn FDI trên địa bàn
tỉnh Bắc Ninh
Chương 3: Giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn FDI trên địa bàn
tỉnh Bắc Ninh giai đoạn từ nay đến năm 2020
8
Trong thời gian thực tập tại Trung tâm Xúc tiến Đầu tư Phía Bắc,
đề tài của em đã được hoàn thành. Em xin chân thành cảm ơn sự giúp
đỡ quý báu của các anh chị trong phòng Tư vấn Đầu tư. Qua bài viết
này, em cũng xin chân thành cảm ơn Ths. Cao Phương Thảo, người đã
tận tình hướng dẫn và giúp đỡ em trong quá trình làm đề tài.
Tuy đã có cố gắng nhưng do hạn chế về kinh nghiệm thực tế và
phương pháp nghiên cứu nên đề tài không tránh khỏi những thiếu sót.
Em rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến để có thể học tập thêm
những kiến thức bổ ích nhằm nâng cao chất lượng của đề tài của mình.
9
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN VỀ ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI VÀ HIỆU QUẢ SỬ
DỤNG VỐN ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI
1.1. Các khái niệm cơ bản
1.1.1. Khái niệm về đầu tư trực tiếp nước ngoài (Foreign Direct Investment – FDI)
- Theo nguồn quốc tế:
Khái niệm của Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) : “FDI là một hoạt động đầu tư
được thực hiện nhằm đạt được những lợi ích lâu dài trong một doanh nghiệp hoạt
động trên lãnh thổ của một nền kinh tế khác nền kinh tế của nước chủ đầu tư,
mục đích của chủ đầu tư là giành quyền quản lý doanh nghiệp”.
Khái niệm của Tổ chức thương mại thế giới (WTO) : “Đầu tư trực tiếp
nước ngoài (FDI) xảy ra khi một nhà đầu tư từ một nước (nước chủ đầu tư) có
được một tài sản ở nước khác (nước thu hút đầu tư) cùng với quyền quản lý tài
sản đó”. Phương diện quản lý là thứ để phân biệt FDI với các công cụ tài chính
khác. Trong phần lớn trường hợp, cả nhà đầu tư lẫn tài sản mà người đó quản lý
ở nước ngoài là các cơ sở kinh doanh. Trong những trường hợp đó, nhà đầu tư
thường hay gọi là “công ty mẹ” và các tài sản được gọi là “công ty con” hay “chi
nhánh công ty”.
- Theo nguồn Việt Nam:
Luật Đầu tư 2005 của Việt Nam đã đưa ra định nghĩa như sau về Đầu tư
trực tiếp nước ngoài(FDI) nhằm phân biệt với Đầu tư gián tiếp (FII): “Đầu tư
trực tiếp FDI là hình thức đầu tư do nhà đầu tư bỏ vốn đầu tư và tham gia quản
lý hoạt động đầu tư”. (Điều 3.2 Luật Đầu tư)
Theo luật Đầu tư trực tiếp nước ngoài: “Đầu tư trực tiếp nước ngoài là
việc tổ chức cá nhân người nước ngoài đưa vốn vào Việt Nam bằng tiền hoặc bất
kỳ tài sản nào được Chính phủ Việt Nam chấp thuận để hợp tác kinh doanh trên
10
cơ sở hợp đồng hóa hoặc thành lập xí nghiệp liên doanh hoặc doanh nghiệp
100% vốn nước ngoài theo quy định của luật này”.
Như vậy có thể tóm lại: Đầu tư quốc tế trực tiếp là việc nhà đầu tư
chuyển tiền, các nguồn nhân lực cần thiết đến các không gian kinh tế khác không
thuộc nền kinh tế của quốc gia nhà đầu tư, trực tiếp tham gia tổ chức, quản lý,
điều hành... việc chuyển hóa chúng thành vốn sản xuất, kinh doanh... nhằm mục
đích tìm kiếm lợi nhuận tối đa.
1.1.2. Phân loại
Đầu tư trực tiếp nước ngoài tồn tại dưới các dạng sau:
- Phân theo hình thức đầu tư:
* Hình thức hợp đồng hợp tác kinh doanh: Đây là một văn bản được ký
kết giữa một chủ đầu tư nước ngoài và một chủ đầu tư trong nước (nước nhận
đầu tư) để tiến hành một hay nhiều hoạt động sản xuất kinh doanh ở nước chủ
nhà trên cơ sở quy định về trách nhiệm và phân phối kết quả kinh doanh mà
không thành lập một công ty, xí nghiệp hay không ra đời một tư cách pháp nhân
mới nào.
Hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài này có đặc điểm:
+ Cả hai bên cùng hợp tác kinh doanh trên cơ sở văn bản hợp đồng đã ký
kết giữa các bên về sự phân định trách nhiệm, quyền lợi và nghĩa vụ.
+ Không thành lập một pháp nhân mới, tức là không cho ra đời một công
ty mới.
+ Thời hạn của hợp đồng hợp tác kinh doanh do hai bên thoả thuận, phù
hợp với tính chất hoạt động kinh doanh và sự cần thiết để hoàn thành mục tiêu
của hợp đồng.
11
Vấn đề vốn kinh doanh không nhất thiết phải được đề cập trong văn bản
hợp đồng hợp tác kinh doanh.
* Hình thức công ty hay xí nghiệp liên doanh: Xí nghiệp hay công ty liên
doanh được thành lập giữa một bên là một thành viên của nước nhận đầy tư và
một bên là các chủ đầu tư ở nước khác tham gia. một xí nghiệp liên doanh có thể
gồm hai hoặc nhiều bên tham gia liên doanh. Đặc điểm của hình thức liên doanh
này là:
+ Cho ra đời một công ty hay một xí nghiệp mới, với tư cách pháp nhân
mới và được thành lập dưới dạng công ty trách nhiệm hữu hạn.
+ Thời gian hoạt động, cơ cấu tổ chức quản lý của công ty, xí nghiệp liên
doanh được quy định tùy thuộc vào luật pháp cụ thể của mỗi nước.
+ Các bên tham gia liên doanh phải có trách nhiệm góp vốn liên doanh,
đồng thời phân chia lợi nhuận và rủi ra theo tỉ lệ góp vốn.
* Hình thức công ty hay xí nghiệp 100%vốn từ nước ngoài: Đây là hình
thức các công ty hay xí nghiệp hoàn toàn thuộc quyền sở hữu của tổ chức cá
nhân nước ngoài và do bên nước ngoài tự thành lập, tự quản lý và hoàn toàn chịu
trách nhiệm về kết quả kinh doanh. Đặc điểm của các công ty này là:
+ Được thành lập dưới hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn và là một
pháp nhân mới ở nước nhận đầu tư.
+ Hoạt động dưới sự chi phối của Luật pháp nước nhận đầu tư.
* Các hình thức khác: Đầu tư vào các khu chế xuất, khu phát triển kinh
tế, thực hiện những hợp đồng xây dựng - vận hành - chuyển giao (B.O.T).
12
Những dự án B.O.T thường được chính phủ các nước đang phát triển tạo mọi
điều kiện thuận lợi để thực hiện việc nâng cấp cơ sở hạ tầng kinh tế.
Phân theo bản chất đầu tư
* Đầu tư phương tiện hoạt động: là hình thức FDI trong đó công ty mẹ
đầu tư mua sắm và thiết lập các phương tiện kinh doanh mới ở nước nhận đầu tư.
Hình thức này làm tăng khối lượng đầu tư vào.
* Mua lại và sáp nhập: là hình thức FDI trong đó hai hay nhiều doanh
nghiệp có vốn FDI đang hoạt động sáp nhập vào nhau hoặc một doanh nghiệp
này (có thể đang hoạt động ở nước nhận đầu tư hay ở nước ngoài) mua lại một
doanh nghiệp có vốn FDI ở nước nhận đầu tư. Hình thức này không nhất thiết
dẫn tới tăng khối lượng đầu tư vào.
Phân theo tính chất dòng vốn
* Vốn chứng khoán: Nhà đầu tư nước ngoài có thể mua cổ phần do một
công ty trong nước phát hành ở một mức đủ lớn để có quyền tham gia vào các
quyết định quản lý của công ty.
* Vốn tái đầu tư:Doanh nghiệp có vốn FDI có thể dùng lợi nhuận thu
được từ hoạt động kinh doanh trong quá khứ để đầu tư thêm.
* Vốn vay nội bộ hay giao dịch nợ nội bộ: Giữa các chi nhánh hay công
ty con trong cùng một công ty đa quốc gia có thể cho nhau vay để đầu tư hay
mua cổ phiếu, trái phiếu doanh nghiệp của nhau.
Phân theo động cơ nhà đầu tư
* Vốn tìm kiếm tài nguyên: Đây là các dòng vốn nhằm khai thác nguồn
tài nguyên thiên nhiên rẻ và dồi dào ở nước tiếp nhận, khai thác nguồn lao động
13
có thể kém về kỹ năng nhưng giá thấp hoặc khai thác nguồn lao động kỹ năng
dồi dào. Nguồn vốn loại này còn nhằm mục đích khai thác các tài sản sẵn có
thương hiệu ở nước tiếp nhận (như các điểm du lịch nổi tiếng). Nó cũng còn
nhằm khai thác các tài sản trí tuệ của nước tiếp nhận. Ngoài ra, hình thức vốn
này còn nhằm tranh giành các nguồn tài nguyên chiến lược để khỏi lọt vào tay
đối thủ cạnh tranh.
* Vốn tìm kiếm hiệu quả: Đây là nguồn vốn nhằm tận dụng giá thành đầu
vào kinh doanh thấp ở nước tiếp nhận như giá nguyên liệu rẻ, giá nhân công rẻ,
giá các yếu tố sản xuất như điện nước, chi phí thông tin liên lạc, giao thông vận
tải, mặt bằng sản xuất kinh doanh rẻ, thuế suất ưu đãi, v.v...
* Vốn tìm kiếm thị trường: Đây là hình thức đầu tư nhằm mở rộng thị
trường hoặc giữ thị trường khỏi bị đối thủ cạnh tranh giành mất. Ngoài ra, hình
thức đầu tư này còn nhằm tận dụng các hiệp định hợp tác kinh tế giữa nước tiếp
nhận với các nước và khu vực khác, lấy nước tiếp nhận làm bàn đạp để thâm
nhập vào các thị trường khu vực và toàn cầu.
1.1.3. Đặc điểm của nguồn vốn FDI
Tìm kiếm lợi nhuận, FDI chủ yếu là đầu tư tư nhân với mục đích hàng
đầu là tìm kiếm lợi nhuận. Các nước nhận đầu tư đặc biệt là các nước đang phát
triển cần lưu ý điều này khi tiến hành thu hút FDI, phải xây dựng cho mình một
hành lang pháp lý đủ mạnh và các chính sách thu hút FDI hợp lý để hướng FDI
vào phục vụ các mục tiêu phát triển kinh tế xã hội của nước mình, tránh tình
trạng FDI chỉ phục vụ cho mục đích tìm kiếm lợi nhuận của các chủ đầu tư.
Các chủ đầu tư nước ngoài phải đóng góp một tỉ lệ vốn tối thiểu trong
vốn pháp định hoặc vốn điều lệ tùy theo quy đinh của luật pháp từng nước để
14
giành quyền kiểm soát hoặc tham gia kiểm soát doanh nghiệp nhận đầu tư. Luật
các nước thường không quy định giống nhau về vấn đề này.
Tỷ lệ đóng góp của các bên trong vốn điều lệ hoặc vốn pháp định sẽ quy
định quyền và nghĩa vụ của mỗi bên, đồng thời lợi nhuận và rủi ro cũng được
phân chia theo tỷ lệ này.
Thu nhập mà chủ đầu tư thu được phụ thuộc vào kết quả kinh doanh của
doanh nghiệp mà họ bỏ vốn đầu tư, nó mang tính chất thu nhập kinh doanh chứ
không phải lợi tức.
Chủ đầu tư tự quyết định đầu tư, quyết định sản xuất kinh doanh và tự
chịu trách nhiệm về lỗ lãi. Nhà đầu tư được quyền chọn lĩnh vực đầu tư, hình
thức đầu tư, thị trường đầu tư, quy mô đầu tư cững như công nghệ cho mình, do
đó sẽ tự đưa ra quyết định có lợi nhất cho họ.
FDI thường kèm theo chuyển giao công nghệ cho các nước tiếp nhận đầu
tư thông qua hoạt động FDI, nước chủ nhà có thể tiếp nhận được công nghệ, kỹ
thuật tiên tiến, học hỏi kinh nghiệm quản lý.
1.1.4. Vai trò của FDI với nền kinh tế của các nước nhận đầu tư
- Bổ sung nguồn vốn trong nước
Trong các lý luận về tăng trưởng kinh tế, nhân tố vốn luôn được đề cập.
Khi một nền kinh tế muốn tăng trưởng nhanh hơn, nó cần nhiều vốn hơn nữa.
Nếu vốn trong nước không đủ, nền kinh tế này sẽ muốn có vốn từ nước ngoài,
trong đó có vốn FDI. FDI mở rộng các nguồn thu thuế ở nước chủ nhà và đóng
góp cho nguồn thu của chính phủ. Thậm chí nếu các nhà đầu tư nước ngoài được
miễn thuế thông qua các chính sách ưu đãi đầu tư thì chính phủ vẫn có được
15
nguồn thu gia tăng từ việc trả thuế thu nhập cá nhân bởi FDI tạo ra các việc làm
mới, tạo khoản thu ngoại tệ.
FDI không chỉ bổ sung nguồn vốn đầu tư phát triển mà còn là một luồng
vốn ổn định hơn so với các luồng vốn đầu tư quốc tế khác bởi FDI dựa trên quan
điểm dài hạn về thị trường, về triển vọng tăng trưởng mà không tạo ra nợ cho
chính phủ nước tiếp nhận đầu tư, do vậy ít có khuynh hướng thay đổi khi có tình
huống bất lợi. Vì thế FDI là một trong những nguồn quan trọng để bù đắp thiếu
hụt về vốn, ngoại tệ của nước nhận đầu tư đặc biệt là đối với các nước đang phát
triển.
- Tiếp thu công nghệ và bí quyết quản lý
Có thể nói công nghệ là yếu tố quyết định tốc độ tăng trưởng và sự phát
triển của mọi quốc gia, đối với các nước đang phát triển thì vai trò này càng
được khẳng định rõ. Bởi vậy, tăng cường khả năng công nghệ luôn là một trong
những mục tiêu ưu tiên phát triển hàng đầu của mọi quốc gia. Tuy nhiên, để thực
hiện mục tiêu này đòi hỏi các quốc gia không chỉ cần nhiều vốn mà còn phải có
một trình độ phát triển nhất định của khoa học kỹ thuật.
Trong một số trường hợp, vốn cho tăng trưởng dù thiếu vẫn có thể huy
động được phần nào bằng “chính sách thắt lưng buộc bụng”. Tuy nhiên, công
nghệ và bí quyết quản lý thì không thể có được bằng chính sách đó. FDI được
coi là nguồn quan trọng để phát triển khả năng công nghệ của nước chủ nhà, vai
trò này được thể hiện qua khía cạnh là chuyển giao công nghệ sẵn có từ bên
ngoài vào và sự phát triển khả năng công nghệ của các cơ sở nghiên cứu, ứng
dụng của nước nhà. Đây là mục tiêu quan trọng được nước chủ nhà mong đợi từ
các đầu tư nước ngoài.
Mặt khác trong quá trình sử dụng của công nghệ nước ngoài (nhất là ở
các doanh nghiêp liên doanh) các doanh nghiệp trong nước học được cách thiết
kế, chế tạo nguồn, sau đó cải biến cho phù hợp với điều kiện sử dụng của mình.
16
Đây là một trong những tác động tích cực quan trọng của FDI đối với việc phát
triển cong nghệ ở những nước đang phát triển.
- Tăng số lượng việc làm và chất lượng đào tạo công nhân
Vì một trong những mục đích của FDI là khai thác các điều kiện để đạt
được chi phí sản xuất thấp, nên xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài sẽ thuê
mướn nhiều lao động địa phương. Thu nhập của một bộ phận dân cư địa phương
được cải thiện sẽ đóng góp tích cực vào tăng trưởng kinh tế của địa phương.
Trong quá trình thuê mướn đó, đào tạo các kỹ năng nghề nghiệp, mà trong nhiều
trường hợp là mới mẻ và tiến bộ ở các nước đang phát triển thu hút FDI, sẽ được
xí nghiệp cung cấp. Điều này tạo ra một đội ngũ lao động có kỹ năng cho nước
thu hút FDI.
FDI cũng có tác động tích cực trọng việc phát triển nguồn lực của nước
chủ nhà thông qua các dự án đầu tư vào lĩnh vực giáo dục đào tạo. Các cá nhân
làm việc cho các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài có cơ hội học hỏi nâng
cao trình độ bản thân khi tiếp cận với công nghệ và kỹ năng quản lý tiên tiến.
Các doanh nghiệp FDI cũng có thể tác động tích cực đến việc cải thiện nguồn
nhân lực ở các công ty khác mà họ có quan hệ, đặc biệt là các công ty bạn hàng.
Những cải thiện về nguồn lực ở các nước tiếp nhận đầu tư còn có thể đạt hiệu
quả lớn hơn khi những người làm việc trong các doanh nghiệp FDI chuyển sang
làm việc trong các doanh nghiệp trong nước hoặc tự mình thành lập doanh
nghiệp mới.
- Thúc đẩy mở rộng thị trường và xuất khẩu, tham gia vào mạng lưới sản xuất toàn
cầu
Xuất khẩu là yếu tố quan trọng của tăng trưởng. Nhờ có đẩy mạnh xuất
khẩu, những lợi thế so sánh của yếu tố sản xuất ở nước chủ nhà được khai thác
có hiệu quả hơn trong phân công lao động quốc tế. Các nước đang phát triển tuy
có khả năng sản xuất với mức chi phí có thể cạnh tranh được nhưng vẫn rất khó
17
khăn trong việc thâm nhập thị trường quốc tế. Bởi thế, khuyến khích đầu tư nước
ngoài hướng vào xuất khẩu luôn là chính sách đặc biệt trong chính sách thu hút
FDI của các nước này. Thông qua FDI các nước tiếp nhận đầu tư có thể tiếp cận
với thị trường thế giới.
Khi thu hút FDI từ các công ty đa quốc gia, không chỉ xí nghiệp có vốn
đầu tư của công ty đa quốc gia, mà ngay cả các xí nghiệp khác trong nước có
quan hệ làm ăn với xí nghiệp đó cũng sẽ tham gia quá trình phân công lao động
khu vực. Chính vì vậy, nước thu hút đầu tư sẽ có cơ hội tham gia mạng lưới sản
xuất toàn cầu thuận lợi cho đẩy mạnh xuất khẩu.
- Thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế
Yêu cầu chuyển dịch cơ cấu kinh tế không chỉ là đòi hỏi của bản thân sự
phát triển nội tại nền kinh tế mà còn là đòi hỏi của xu hướng quốc tế hóa kinh tế
đang diễn ra mạnh mẽ hiện nay. FDI là một bộ phận quan trọng của hoạt động
kinh tế đối ngoại, thông qua đó các quốc gia sẽ tham gia càng nhiều vào quá
trình liên kết giữa các nước trên thế giới, đòi hỏi mỗi quốc gia phải thay đổi cơ
cấu kinh tế trong nước cho phù hợp với sự phân công lao động quốc tế. Sự
chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong mỗi quốc gia phù hợp với trình độ phát triển
chung trên thế giới sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động FDI. Ngược lại,
chính FDI cũng góp phần thúc đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở
nước chủ nhà vì nó làm xuất hiện những lĩnh vực và ngành nghề kinh tế mới và
góp phần nâng cao nhanh chóng trình độ kỹ thuật và công nghệ ở nhiều ngành
kinh tế.
- Tác động văn hóa, xã hội
FDI tác động tích cực đến nền văn hóa của các nước nhận đầu tư: đổi
mới tư duy, thái độ, đạo đức, nghề nghiệp, lối sống, tập quán, giao tiếp ứng xử,
bình đẳng giới và các vấn đề xã hội.
18
Đầu tư nước ngoài còn có vai trò đáng kể đối với tăng cường sức khỏe và
dinh dưỡng cho người được nước chủ nhà thông qua các dự án đầu tư vào ngành
y tế, dược phẩm, công nghệ sinh hoạt và chế biến thực phẩm.
1.1.5. Vai trò của FDI đối với nước đi đầu tư
Đối với nước đi đầu tư thì đầu tư trực tiếp nước ngoài tạo điều kiện thu
hút nguồn nhu cầu mới. Tìm kiếm thị trường mới (nước ngoài ) mới có những
nhu cầu tiềm ẩn cho các sản phẩm của công ty khi mà thị trường trong nước đã
bảo hòa.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài giúp thâm nhập vào những thị trường nơi có
thể đạt được lợi nhuận cao. Các công ty đa quốc gia có thể thâm nhập vào những
thị trường khác, nơi họ có thể đạt được lợi nhuận cao.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài nhằm tăng năng suất. Một công ty có nỗ lực
muốn bán sản phẩm ban đầu của mình tại các thị trường mới có thể làm tăng
mức thu nhập cổ phần của mình do tăng năng suất. Điều này làm giảm chi phí
bình quân từng đơn vị sản phẩm. Công ty càng sử dụng nhiều máy móc thiết bị
thì khả năng này càng có điều kiện thuận lợi để thực hiện.
Sử dụng yếu tố nuớc ngoài trong sản xuất. Các chi phí sử dụng đất đai và
lao động có thể khác biệt nhau rất xa giữa các quốc gia. Các công ty đa quốc gia
thường cố gắng thiết lập việc sản xuất tại địa điểm có giá lao động và đất đai rẻ.
Họ thực hiện việc nghiên cứu thị trường để xác định xem họ có thể thu được lợi
nhuận không từ các chi phí rẻ hơn khi sản xuất ở những thị trường đó.
Sử dụng nguyên liệu nước ngoài. Do các chi phí vận chuyển, một số
công ty cố gắng tránh nhập khẩu nguyên vật liệu từ một đất nước khác, đặt biệt
là khi công ty dự tính sẽ bán thành phẩm ngược lại cho người tiêu dùng nước đó,
19
một giải pháp khả thi hơn là phát triển việc sản xuất sản phẩm tại một nước mà
nguyên vật liệu có sẵn.
Sử dụng công nghệ nước ngoài. Các công ty đa quốc gia thiết lập ngày
càng nhiều các nhà máy ở nước ngoài hay mua lại các nhà máy hiện hữu của
nước ngoài để học hỏi thêm về công nghệ của các quốc gia khác. Công nghệ này
sau đó được sử dụng để cải tiến quy trình sản xuất tại các nhà máy của các công
ty con trên khắp thế giới.
Khai thác các thuận lợi về độc quyền. Các công ty có thể trở nên quốc tế
hóa nếu như họ sở hữu các tiềm lực hay kỹ năng mà các đối thủ cạnh tranh
không bao giờ có. Trong một chùng mực nào đó, công ty sẽ có được thuận lợi
hơn các đối thủ và có thể thu được lợi nhuận từ việc trở nên quốc tế hóa.
Đa dạng hóa ở tầm cỡ quốc tế. Một trong những lý do tại sao các công ty
tiến hành kinh doanh ở tầm cỡ quốc tế là sự đa dạng hóa quá trình sản xuất.
Nhu cầu cho tất cả các loại sản phẩm được sản xuất trong cùng một nước
có phần nào chịu ảnh hưởng của nền kinh tế nước đó. Công ty có thể giảm bớt
rủi ro bằng cách chào hàng bán các nguyên liệu và sản phẩm giữa các quốc gia
khác nhau. Với việc đa dạng hóa kinh doanh và cả trong sản xuất ở tầm cỡ quốc
tế, công ty có thể giữ cho nguồn tiền mặt thực củ mình ít bị chao đảo. Mức độ
của sự đa dạng hóa quốc tế có thể làm ổn định nguồn tiền mặt của các công ty đa
quốc gia lại tùy thuộc vào tiềm năng của thị trường nước ngoài.
Phản ứng với giá trị thay đối của ngoại tệ. Khi một công ty cho rằng
ngoại tệ của một quốc gia nào đó bị giảm giá, công ty đó cỏ thể tính đến khả
năng đầu tư trực tiếp vào đất nước đó. Do sự giảm giá ngoại tệ, mức phí tổn ban
đầu có khả năng thấp. Nếu đồng ngoại tệ đó mạnh lên theo thời gian, thu nhập
20
được chuyển về công ty mẹ sẽ tăng lên. Một nguyên khác dẫn đến việc đầu tư
trực tiếp là nhằm bù đắp nhu cầu đang thay đổi cho việc xuất khẩu của công ty
do những dao động về tỷ giá hối đoái.
Phản ứng với các kiềm hãm thương mại. Trong một số trường hợp, một
công ty đa quốc gia sử dụng việc đầu tư trực tiếp như là một chiến lược phòng
ngự hơn là tấn công.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài mang lại những thuận lợi về mặt chính trị.
Một số công ty đa quốc gia đóng tại những nước có nền chính trị không ổn định
đang cố gắng phát triển sang những nước ổn định hơn. Mặt khác khi hoạt động
của một công ty đa quốc gia ngày càng mở rộng và đạt được những thành tựu
nhất định về kinh tế đó là cơ sở để có được những thuận lợi về mặt chính trị.
1.1.6. Hạn chế của nguồn vốn FDI đối với nước nhận đầu tư
Tuy thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài sẽ an toàn và tốt hơn việc trực
tiếp vay nợ thương mại thương mại, tránh cho nước tiếp nhận đầu tư những khó
khăn, lúng túng ban đầu về thị trường, kinh nghiệm quản lý- kinh doanh quốc tế;
Nhưng, dù vậy vẫn tồn tại những tác động mặt trái của lĩnh vực tưởng chừng như
rất tích cực này:
- Gây cạnh tranh khốc liệt:
Sự xuất hiện của doanh nghiệp có vốn FDI có thể gây cạnh tranh khốc
liệt với các doanh nghiệp trong nước mà phần thua thiệt thường là doanh nghiệp
trong nước. Các doanh nghiệp trong nước bị mất thị trường, bị mất lao động có
kỹ năng và vì vậy có thể dẫn tới phá sản. Ngoài ra vốn FDI có thể làm cho đầu tư
trong nước bị thu hẹp do nhiều doanh nghiệp bị mất cơ hội đầu tư hoặc đầu tư
không hiệu quả do trình độ công nghệ thấp kém, vốn ít. Điều này xảy ra khi xuất
hiện tác động lấn át đầu tư của doanh nghiệp FDI.
- Tăng khả năng lạm phát:
21
Thực tiễn thế giới cho thấy, dòng vốn đầu tư này chỉ thực sự tích cực và
góp phần làm dịu lạm phát khi chúng làm tăng cung những hàng khan hiếm, tăng
nhập khẩu phụ tùng thiết bị sản xuất và công nghệ tiên tiến, từ đó làm tăng tiềm
lực xuất khẩu, khả năng cạnh tranh, cải thiện cán cân thanh toán, tăng thu ngân
sách cho nước chủ nhà và giúp hạn chế sức ép tăng tỷ giá tiền tệ thực tế. Ngược
lại, nếu thiên về khuynh hướng kích thích nền kinh tế bong bóng, kích thích và
thỏa mãn những tiêu dùng cao cấp vượt quá khả năng kinh tế và sự tích lũy cần
thiết của nước tiếp nhận đầu tư, thì về lâu dài, chúng sẽ có hại cho các nguồn lực
tăng trưởng kinh tế, tăng nhập siêu và làm mất cân đối tài khoản vãng lai, do đó
làm tăng các xung lực lạm phát tương lai của đất nước.
- Hiệu quả chuyển giao công nghệ chưa cao:
Việc chuyển giao công nghệ nếu không được thực hiện đầy đủ, hoặc chỉ
chuyển giao những công nghệ lạc hậu, thì hiển nhiên “những lợi thế tương đối
của nước bắt đầu muộn” sẽ không còn tồn tại. Mặc khác, khi đó nước tiếp nhận
không chỉ không cải thiện được tình trạng công nghệ, khả năng xuất khẩu, mà
còn phải chịu thêm gánh nặng nuôi dưỡng và dỡ bỏ những công nghệ lạc hậu
này . Ngoài ra, còn phải kể thêm tình trạng phụ thuộc một chiều vào đối tác nước
ngoài về kinh tế - kỹ thuật của nước tiếp nhận dòng đầu tư kiểu ấy gây ra. Do đó,
hiệu quả tiếp nhận vốn đầu tư sẽ không như mong đợi, hoặc không tương xứng
với chi phí của nước chủ nhà bỏ ra, cả về chi phí tài chính, nhân lực và môi
trường.
- Tác động tiêu cực đến môi trường:
Nước tiếp nhận đầu tư cần tính đến tác động kinh tế - xã hội và môi
trường tổng hợp của các dự án FDI, nhất là các dự án dùng nhiều đất nông
nghiệp, tạo áp lực thất nghiệp và là nguồn phát thải, gây ô nhiễm môi trường lớn
trong tương lai.
- Tăng khoảng cách giàu nghèo:
22
Đầu tư trực tiếp FDI là một trong những nguyên nhân làm khoảng cách
giàu nghèo ngày càng được nới rộng. Các vùng nhận được FDI có cơ hội phát
triển hơn so với các vùng khác từ đó làm gia tăng khoảng cách giàu nghèo giữa
1.2.
các vùng, các cá nhân.
Một số chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn FDI
Xét trên quan điểm toàn bộ nền kinh tế, hiệu quả kinh tế phản ánh hiệu
quả (lợi ích) chung của toàn xã hội. Đối với các nhà ĐTNN thì hiệu quả mà họ
mong muốn là hoạt động đầu tư của họ đem lại lợi nhuận cao với một mức độ rủi
ro thấp. Đối với nước chủ nhà thì họ muốn thông qua hoạt động đầu tư của các
nhà ĐTNN sẽ đem lại cho đất nước không chỉ hiệu quả kinh tế mà còn cả hiệu
quả xã hội.
1.2.1. Đóng góp vào tăng trưởng kinh tế
Mục tiêu hàng đầu của mỗi quốc gia là giá trị gia tăng tổng sản phẩm
quốc dân. Do đó, đánh giá hiệu quả đóng góp của FDI vào tăng trưởng kinh tế là
một nhiệm vụ quan trọng. Đóng góp của GDP được căn cứ vào chỉ số quy mô
đóng góp và tỷ lệ đóng góp. Tỷ lệ đóng góp vào GDP được tính bằng tỷ lệ giữa
tổng giá trị gia tăng do khu vực FDI sản xuất ra và giá trị gia tăng tổng sản
phẩm quốc dân. Thông qua chỉ số này, ta xác định được vai trò của nguồn vốn
FDI với tăng trưởng kinh tế thông qua quy mô đóng góp vào GDP.
1.2.2. Đóng góp vào ngân sách nhà nước
Lợi nhuận của doanh nghiệp FDI một phần được để lại cho nước sở tại
thông qua những đóng góp vào cho ngân sách nhà nước. Nó được đánh giá qua
số lượng thuế mà các doanh nghiệp phải nộp vào ngân sách nhà nước, và tỷ
trọng trong tổng lượng thuế mà các doanh nghiệp hoạt động trên địa bàn. Từ các
23
chỉ số này và số liệu về khối lượng vốn đầu tư trong địa bàn ta thấy được giá trị
của nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tới việc cải thiện cán cân ngân sách
nhà nước.
1.2.3. Các chỉ số phản ánh đóng góp cua FDI vào năng lực sản xuất công nghiệp
và xuất khẩu
Như ta đã biết, nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài chủ yếu được chảy
vào khu vực kinh tế công nghiệp. Thông qua các chỉ số như tỷ trọng đóng góp
của FDI trên tổng giá trị sản xuất công nghiệp địa phương, tốc độ tăng của giá trị
sản xuất công nghiệp tại khu vực có vốn đầu tư nước ngoài. Khi đó ta sẽ thấy
được năng lực sản xuất của khu vực kinh tế FDI so với các khu vực khác trong
nền kinh tế. FDI còn có tác động tới cán cân thanh toán quốc tế. Mức độ tác
động được đánh giá thông qua các chỉ số: Tỷ trọng giá trị của khu vực kinh tế
FDI trong tổng kim ngạch xuất khẩu và tổng kim ngạch nhập khẩu, giá trị xuất
khẩu ròng của khu vực kinh tế FDI.
1.2.4. Đóng góp của FDI vào việc làm và nguồn nhân lực
Trong quá trình sản xuất kinh doanh của mình, các doanh nghiệp FDI chủ
yếu sử dụng lợi thế chi phí lao động thấp. Tạo ra nhiều công ăn việc làm cho lao
động địa phương. Những giá trị này được xác định bằng số lượng việc làm được
tạo ra từ khu vực kinh tế FDI. Và con số tỷ trọng trong tổng số lao động tại địa
phương.
1.2.5. Đóng góp của FDI vào nâng cao cơ sở hạ tầng kỹ thuật tại địa phương
Chỉ tiêu này được đánh giá một cách tương đối qua số lượng cơ sở hạ
tầng mà các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài xây dựng được trên địa bàn.
Như số lượng nhà máy, cơ sở hạ tầng khu công nghiệp… mà các doanh nghiệp
24
có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài như các doanh nghiệp kinh doanh bất động
sản xây dựng được. Các tiêu chí này được đưa ra trên cơ sở các tiêu chí của thế
giới và quan điểm của nước tiếp nhận dầu tư. Hoạt động FDI chỉ diễn ra ở nơi có
lợi nhuận cao, khai thác triệt để lợi thế so sánh của nước chủ nhà. Trong từng
giai đoạn phát triển, mỗi quốc gia chỉ nên đặt ra một số mục tiêu chủ đạo trên cơ
sở nội lực vốn có của đất nước, đây sẽ là đòn bẩy thúc đẩy hoạt động kinh tế - xã
hội phát triển. Các mục tiêu chủ đạo có thể được điều chỉnh cho phù hợp với lợi
thế của đất nước khi có sự thay đổi tương ứng với mỗi giai đoạn của sự phát
triển. Không một quốc gia nào có thể đạt được tất cả các mục tiêu trong cùng
một giai đoạncủa sự phát triển. Do vậy, cần phải biết xác định đâu là mục tiêu
trọng tâm của công tác thu hút FDI trong từng giai đoạn, đồng thời có biện pháp
sử dụng nguồn vốn này một cách hữu hiệu.
Giá trị tuyệt đối của FDI trong tổng vốn đầu tư thể hiện lượng vốn FDI
thu hút được và vai trò to lớn của nó đối với nhu cầu về vốn cho sự phát triển
kinh tế. Còn các chỉ tiêu về ngân sách, kim ngạch xuất nhập khẩu và cán cân
thanh toán - đây là những tiêu chí thể hiện hiệu quả của việc sử dụng FDI trong
đầu tư. Hoạt động FDI tạo thêm nguồn thu cho ngân sách của nhà nước, cải thiện
cán cân thương mại và cán cân thanh toán quốc tế, tăng nguồn thu ngoại tệ cho
quốc gia. Chính vì vậy, đánh giá sự phát triển của một quốc gia không chỉ xét về
mặt kinh tế mà còn phải chú ý về mặt xã hội. Hai mặt này có mối quan hệ hữu
cơ, chặt chẽ với nhau. Hiệu quả kinh tế cao góp phần tăng tỷ lệ tích luỹ, nâng cao
trình độ khoa học - kỹ thuật, trình độ văn hoá, tạo công ăn việc làm, chăm sóc
sức khoẻ, bảo vệ môi trường sinh thái...và còn tạo điều kiện giải quyết các vấn
đề xã hội khác. Do vậy, kinh tế và xã hội luôn gắn bó chặt chẽ tác động qua lại
25