Tải bản đầy đủ (.docx) (45 trang)

Pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hóa Thực tiễn thực hiện tại Công ty cổ phần Thương mại Lạng Sơn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (292.07 KB, 45 trang )

TÓM LƯỢC
Trong giai đoạn hội nhập kinh tế mạnh mẽ như hiện nay thì việc tìm hiểu,
nghiên cứu pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hóa giúp cho các thương nhân có thể
chủ động hơn khi tham gia đàm phán, ký kết các hợp đồng mua bán hàng hóa . Không
chỉ vậy, việc đi sâu tìm hiểu về các quy định pháp luật hiện hành về hợp đồng mua bán
hàng hóa cùng thực tiễn áp dụng tại một đơn vị cụ thể cũng để chỉ ra những điều
khoản còn chưa phù hợp với thực tế. Từ những bất cập, mâu thuẫn và chưa phù hợp
này bài khóa luận đưa ra những đề xuất nhằm sửa đổi, bổ sung góp phần hoàn thiện
những quy định của pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hóa. Vì những lý do cấp
thiết trên, tác giả chọn đề tài “Pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hóa - Thực tiễn
thực hiện tại Công ty cổ phần Thương mại Lạng Sơn” là đề tài nghiên cứu.
Trước hết, bài khóa luận này tập trung vào những vấn đề lý luận cơ bản như:
Những quy định của pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hóa, cơ sở ban hành, nội
dung, nguyên tắc của pháp luật hợp đồng mua bán hàng hóa.
Qua đó, khóa luận phân tích thực trạng pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hóa tại
Việt Nam, thực tiễn áp dụng những quy định của pháp luật tại Công ty cổ phần
Thương mại Lạng Sơn và đưa ra quan điểm hoàn thiện các quy định của pháp luật từ
phía nhà nước và doanh nghiệp.
Mong rằng nội dung của bài khóa luận sẽ mang lại một cái nhìn khái quát hơn
về pháp luật hợp đồng mua bán hàng hóa và thực tiễn mà các thương nhân Việt Nam
đã trải qua khi áp dụng pháp luật và sử dụng loại hợp đồng này, nhất là trong giai đoạn
hiện nay khi hội nhập, giao lưu kinh tế quốc tế đang trở thành xu thế tất yếu của nền
kinh tế hiện đại.

1


LỜI CẢM ƠN
Để hiểu rõ hơn về vấn đề nghiên cứu, tác giả đã có cơ hội thực tập tại Công ty cổ phần
Thương mại Lạng Sơn. Tác giả xin gửi lời cảm ơn tới ban giám đốc, nhân viên trong
công ty đã tạo điều kiện để tác giả thực tập, hoàn thành tốt nhất có thể khóa luận tốt


nghiệp của mình.
Đồng thời, tác giả xin gửi lời cám ơn tới các Thầy, Cô giáo Khoa Kinh tế - Luật và
Nhà trường đã tạo điều kiện để tác giả có cơ hội thực tập, nghiên cứu chuyên sâu. Đặc
biệt, tác giả xin gửi lời cám ơn tới Cô giáo Trần Thị Thu Phương đã định hướng, giúp
đỡ, hỗ trợ tác giả rất tận tình trong suốt quá trình thực hiện và cho đến khi hoàn thành
khóa luận tốt nghiệp.
Tuy nhiên, do thời gian có hạn cũng như kinh nghiệm, kiến thức còn hạn chế nên khóa
luận tốt nghiệp của tác giả không thể tránh khỏi những thiếu sót. Chính vì vậy, tác giả
rất mong nhận được sự chỉ bảo, đóng góp ý kiến của các Thầy, Cô giáo để tác giả có
cơ hội bổ sung, hoàn thiện kiến thức của mình nhằm phục vụ tốt hơn cho công việc
thực tế.
Tác giả xin chân thành cảm ơn!

Sinh viên
Hoàng Thị Thanh Tâm

2


Mục lục

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
LTM:

Luật Thương mại

BLDS
:

Bộ luật dân sự


3


LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài khóa luận
Trong đời sống xã hội ngày càng phát triển, pháp luật đóng vai trò ngày càng quan
trọng hơn. Nó là phương tiện không thể thiếu bảo đảm cho sự tồn tại, vận hành bình
thường của xã hội. Đặc biệt với một nước có nền kinh tế non trẻ, đang trên đà phát triển
như Việt Nam. Để đáp ứng được với những yêu cầu mới đặt ra, pháp luật nói chung và
pháp luật về thương mại nói riêng cần phải được điều chỉnh cho phù hợp với điều kiện
hoàn cảnh mới. Hiện nay có nhiều dịch vụ thương mại mới ra đời, kéo theo nó là các mối
quan hệ thương mại hết sức phức tạp. Do vậy, hệ thống qui phạm pháp luật về thương mại
cần điều chỉnh một các linh hoạt các mối quan hệ thương mại phát sinh.
Mua bán hàng hóa là hoạt động đặc trưng cơ bản của kinh doanh thương mại. Hợp đồng
mua bán hàng hóa chính là cách thức để hoạt động này được diễn ra, nó thể hiện sự thống
nhất ý chí của các bên chủ thể trong quan hệ mua bán. Hợp đồng được đảm bảo thực hiện
nhờ vào nhiều yếu tố như sự chấp hành của các bên đối với các điều khoản đã thỏa thuận
hay hợp đồng đó có vi phạm lợi ích của người khác, lợi ích chung của xã hội hay không.
Pháp luật với vai trò là khung định ra những nguyên tắc cơ bản cho mọi hoạt động trong
xã hội, cũng điều chỉnh những vấn đề liên quan đến hoạt động thiết yếu này. Môi trường
pháp luật có thể tạo điều kiện cho doanh nghiệp phát triển mạnh mẽ nếu doanh nghiệp
tuân thủ đúng và đầy đủ các quy định có liên quan mà nhà nước ban hành. Hệ thống pháp
luật đã mở ra một sân chơi chung cho các doanh nghiệp lớn – nhỏ, trong và ngoài nước.
Trong môi trường cạnh tranh đầy khốc liệt, doanh nghiệp cần nắm vững và tuân thủ pháp
luật. Điều này một mặt giúp cho doanh nghiệp tự tin phát triển bản thân doanh nghiệp
mình vừa giúp tránh khỏi được những rắc rối mà đối thủ cạnh tranh gây phiền nhiễu và
bảo vệ quyền lợi của chính mình.Tồn tại song song với sự phát triển mạnh mẽ về kinh tế
thì các quy định về hoạt động của doanh nghiệp cũng ngày càng được hoàn thiện nhằm
mục đích tạo môi trường sản xuất kinh doanh lành mạnh, giúp các doanh nghiệp thuận lợi

hơn trong sự phát triển sự nghiệp của mình. Bên cạnh đó, với mỗi doanh nghiệp tùy thuộc
và loại hình doanh nghiệp, nghành nghề kinh doanh mà các quy phạm pháp luật điều
chỉnh cũng khác nhau.
Qua quá trình thực tập tại Công ty cổ phần Thương mại Lạng Sơn, tác giả nhận
thấy rằng hoạt động mua bán hàng hóa là một trong những lĩnh vực có nhiều vấn đề về
pháp lý cần tìm hiểu sâu hơn. Sau một thời gian tìm hiểu về công ty và tìm hiểu về thực
trạng áp dụng pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hóa tại công ty cùng với kiến thức
được trang bị ở nhà trường tác giả nhận thấy rằng hợp đồng mua bán hàng hóa là một
công cụ pháp lý không thể thiếu của hoạt động mua bán hàng hóa. Pháp luật về hợp đồng
mua bán hàng hóa bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp của các bên tham gia giao kết
hợp đồng. Buộc các bên tham gia hoạt động mua bán hàng hóa phải thực hiện đúng nghĩa
vụ của mình. Vì vậy tác giả đã chọn đề tài: “Pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hóa Thực tiễn thực hiện tại Công ty cổ phần Thương mại Lạng Sơn” để làm đề tài khóa luận
của mình.
4


2. Tổng quan các công trình nghiên cứu liên quan
Cho đến thời điểm hiện tại, những vấn đề liên quan đến hợp đồng mua bán hàng
hóa có khá nhiều những công trình nghiên cứu với những khía cạnh khác nhau. Tác giả đã
tìm hiểu và tìm được một số công trình nghiên cứu nổi bật như sau:
Bài viết của PTS. Đinh Ngọc Hiện với đề tài “Giải quyết tranh chấp kinh tế tại tòa
án Việt Nam”. Bài viết nêu rõ những vấn đề trong qui định của pháp luật Việt Nam trong
việc giải quyết những tranh chấp kinh tế.
Tài liệu báo cáo của TS. Nông Quốc Bình, giảng viên Khoa Pháp luật quốc tế,
Trường đại học Luật Hà Nội: “Phạm vi áp dụng và không áp dụng của công ước viên
1980 về hợp đồng mua bán hàng hóa”. Báo cáo nêu ra những quy định của pháp luật về
phạm vi áp dụng và không áp dụng Công ước viên 1980 về hợp đồng mua bán hàng hóa.
Link tham khảo: />Khóa luận tốt nghiệp của Đặng Văn Vũ, Khoa Luật kinh tế, Trường đại học Kinh
Tế Quốc Dân, do TS.Đỗ Kim Hoàng hướng dẫn thực tập với đề tài “Thực trạng và giải
pháp nhằm nâng cao hiệu quả kí kết và thực hiện hợp đồng nhập khẩu hàng hóa tại công

ty cổ phần vật tư bảo vệ thực vật Hòa Bình”. Trong đề tài này tác giả nghiên cứu khái
quát những vấn đề pháp lý chung về kí kết và thực hiện hợp đồng nhập khẩu hàng hóa tại
công ty cổ phần vật tư bảo vệ thực vật Hòa Bình, để tìm hiểu những vấn đề thuận lợi và
khó khăn, nguyên nhân tồn tại những khó khăn trong việc kí kết và thực hiện hợp đồng
nhập khẩu hàng hóa tại công ty.
Link tham khảo: />Khóa luận tốt nghiệp của Đặng Thị Xuyên, Khoa Luật, trường đại học Kinh Tế
Quốc Dân, do TS.Nguyễn Hợp Toàn hướng dẫn với đề tài “Cơ sở pháp lý về kí kết và
thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa và thực tiễn áp dụng tại công ty cổ phần sản xuấtxuất nhập khẩu Ninh Bình”. Đề tài đề cập đến những vấn đề pháp luật về hợp đồng mua
bán hàng hóa, theo quy định của pháp luật Việt Nam và quốc tế. Thông qua thực tiễn áp
dụng tại công ty cổ phần sản xuất - Xuất nhập khẩu Ninh Bình để đưa ra một số giải pháp
kiến nghị nhằm hoàn thiện quy trình này tại công ty nói riêng và các doanh nghiệp tham
gia xuất nhập khẩu nói chung.
Link tham khảo: />Những đề tài nghiên cứu trên cho thấy những qui định của pháp luật về hợp đồng
mua bán hàng hóa có nhiều vấn đề cần đưa ra bàn luận. Các quy định pháp luật về hợp
đồng mua bán hàng hóa vẫn còn nhiều bất cập chưa được hoàn thiện. Vì vậy việc hoàn
5


thiện hệ thống pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hóa là điều cấp thiết. Những công
trình nghiên cứu trên đã giúp tác giả hiểu được phần nào những bất cập và những phương
hướng có thể áp dụng được để hoàn thiện những qui định của pháp luật về hợp đồng mua
bán hàng hóa tại Công ty cổ phần Thương mại Lạng Sơn.
3. Xác lập và tuyên bố vấn đề nghiên cứu
Với đề tài “Pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hóa - Thực tiễn thực hiện tại
Công ty cổ phần Thương mại Lạng Sơn”, tác giả muốn tập trung nghiên cứu một số vấn
đề pháp lý về hợp đồng mua bán hàng hóa và thực tiễn áp dụng tại công ty. Từ đó, tìm ra
những vấn đề còn tồn tại và đề xuất một số giải pháp giúp công ty nâng cao hiệu quả
trong mua bán hàng hóa, đồng thời góp phần hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam về
hợp đồng mua bán hàng hóa.
Trên cơ sở lý luận các qui định của pháp luật điều chỉnh về các vấn đề liên quan đến hợp

đồng mua bán hàng hóa, tác giả sẽ nghiên cứu thực trạng áp dụng tại Công ty cổ phần
Thương mại Lạng Sơn. Sau đó, đưa ra những điểm còn bất cập cần khắc phục để tìm
hướng giải quyết trong những qui định của pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hóa.
4. Đối tượng, mục tiêu và phạm vi nghiên cứu
Thứ nhất, đối tượng nghiên cứu của đề tài:
Đề tài tập trung nghiên cứu những quy định của pháp luật về hợp đồng mua bán
hàng hóa. Cụ thể là giao kết, thực hiện hợp đồng và giải quyết tranh chấp liên quan đến
hợp đồng mua bán hàng hóa. Đề tài còn tập trung nghiên cứu thực trạng áp dụng những
quy định của pháp luật liên quan đến hợp đồng mua bán hàng hóa tại Công ty cổ phần
Thương mại Lạng Sơn.
Thứ hai, mục tiêu nghiên cứu của đề tài:
Những vấn đề nghiên cứu trong đề tài tập trung chủ yếu vào các quy định của pháp
luật về hợp đồng mua bán hàng hóa trong kinh doanh thương mại. Mục tiêu của đề tài cần
tập trung vào các vấn đề cần giải quyết sau:
− Về mặt lý luận: Hệ thống hóa được những qui định của pháp luật về hợp đồng mua
bán hàng hóa. Cụ thể làm rõ những qui định của pháp luật về giao kết, thực hiện và
giải quyết tranh chấp trong hợp đồng mua bán hàng hóa trong Luật Thương mại
2005, Bộ luật Dân sự 2005 cũng như 1 số Điều ước quốc tế.
− Về mặt thực tiễn: Trên cơ sở lý luận đã nghiên cứu về hợp đồng mua bán hàng hóa
thương mại cùng với việc khảo sát thực tế tại Công ty cổ phần Thương mại Lạng
Sơn để phân tích, đánh giá được thực trạng các qui định của pháp luật và thực tiễn
áp dụng luật trong giao kết, thực hiện và giải quyết tranh chấp trong hợp đồng mua
bán hàng hóa tại công ty. Qua đó cũng tìm ra được những bất cập khi áp dụng
những qui định pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hóa của Công ty cổ phần
Thương mại Lạng Sơn.
− Đề xuất các giải pháp: Nhằm hoàn thiện các qui định của pháp luật và nâng cao
hiệu quả áp dụng những qui định của pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hóa tại
6



Công ty cổ phần Thương mại Lạng Sơn và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam
về hợp đồng mua bán hàng hóa.
Thứ ba, phạm vi nghiên cứu của đề tài:
Đây là một bản Khóa luận tốt nghiệp nghiên cứu về những qui định của pháp luật
về hợp đồng mua bán hàng hóa. Do không có nhiều thời gian nghiên cứu, đồng thời bản
thân tác giả đã thực tập tại Chi nhánh Công ty cổ phần Thương mại Lạng Sơn tại huyện
Bình Gia. Chính vì vậy, để nghiên cứu có kết quả tốt nhất, tác giả thực hiện nghiên cứu đề
tài “Pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hóa - Thực tiễn thực hiện tại Công ty cổ phần
Thương mại Lạng Sơn” trong phạm vi Chi nhánh Công ty cổ phần Thương mại Lạng Sơn
tại huyện Bình Gia.
5. Phương pháp nghiên cứu
Với đề tài “Pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hóa - Thực tiễn thực hiện tại Công ty cổ
phần Thương mại Lạng Sơn”, để dễ dàng và hiệu quả trong nghiên cứu, tác giả sử dụng
một số phương pháp nghiên cứu như sau:
Thứ nhất, phương pháp thu thập dữ liệu
− Nguồn dữ liệu sơ cấp:
Các văn bản pháp luật điều chỉnh hoạt động mua bán hàng hóa. Chủ yếu là các qui
định về hợp đồng mua bán hàng hóa trong Luật Thương mại 2005, Bộ luật Dân sự năm
2005 và một số các văn bản pháp luật khác có liên quan.
− Nguồn dữ liệu thứ cấp:
Những bài báo mạng trên Internet từ những trang báo pháp luật, những bài báo từ
trang web của Chính phủ,... để có được những thông tin chính xác nhất.
Quan sát trực tiếp hoạt động của công ty để thấy được thực trạng hoạt động mua
bán hàng hóa của công ty.
Phỏng vấn nhân viên công ty để nhận định một các toàn diện hơn về thực tiễn áp
dụng quy định của pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hóa tại công ty.
Thứ hai, phương pháp xử lý dữ liệu
− So sánh:
Phương pháp so sánh giúp bài nghiên cứu được rõ ràng hơn, dựa trên việc nghiên
cứu các tài liệu, các văn bản luật để tiến hành so sánhvà phương pháp này được sử dụng

nhằm cho người đọc hiểu rõ được sự khác biệt trong vấn đề nghiên cứu.
− Phân tích:
Tác giả sử dụng phương pháp này với mục đích giúp cho việc phân tích thực trạng
áp dụng luật khi tham gia hợp đồng mua bán hàng hóa thương mại tại Công ty cổ phần
Thương mại Lạng Sơn để thấy rõ những ưu, nhược điểm khi áp dụng luật đtác giả lại cho
công ty những thuận lợi và khó khăn gì? Những bất cập còn tồn tại trong thực tiễn áp
7


dụng các qui định của pháp luật để từ đó có thể đưa ra những giải pháp nhằm hoàn thiện
hệ thống pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hóa. Phương pháp này được sử dụng hầu
hết các chương trong bài khóa luận.
− Phương pháp liệt kê:
Liệt kê các hệ thống và các văn bản có liên quan để làm căn cứ cho lý luận.
Đề tài còn sử dụng một số phương pháp xử lí dữ liệu khác như: tổng hợp, suy luận,...
6. Kết cấu khóa luận tốt nghiệp
Ngoài lời Tóm lược, Lời cảm ơn, Lời mở đầu, Mục lục, Kết luận, Danh mục tài liệu tham
khảo thì kết cấu của khóa luận gồm 3 chương như sau:
Chương 1: Những lý luận cơ bản về pháp luật điều chỉnh hợp đồng mua bán hàng hóa.
Chương 2: Thực trạng pháp luật điều chỉnh hợp đồng mua bán hàng hóa tại Công ty cổ
phần Thương mại Lạng Sơn.
Chương 3: Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật điều chỉnh hợp đồng mua bán
hàng hóa tại Công ty cổ phần Thương mại Lạng Sơn.


8


CHƯƠNG 1: NHỮNG LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ PHÁP LUẬT ĐIỀU CHỈNH HỢP
ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA

1.1. Khái niệm hợp đồng mua bán hàng hóa
1.1.1. Khái niệm về hợp đồng mua bán hàng hóa
Thứ nhất, khái niệm hợp đồng
Khái niệm hợp đồng tại Việt Nam không được định nghĩa cụ thể trong văn bản
pháp luật nào. Tuy nhiên, theo Điều 388, Bộ luật Dân sự (Sau đây viết tắt là BLDS) 2005
định nghĩa về hợp đồng dân sự như sau: “Hợp đồng dân sự là sự thoả thuận giữa các bên
về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự”.
Như vậy, chúng ta có thể hiểu hợp đồng là sự thỏa thuận giữa các chủ thể nhằm xác lập,
thay đổi hoặc chấm dứt quyền và nghĩa vụ trong những quan hệ xã hội cụ thể.
Thứ hai, khái niệm hàng hóa
Hàng hóa là sản phẩm của lao động có thể thỏa mãn nhu cầu nào đó của con người
thông qua trao đổi, mua bán.
Theo Luật Thương mại (Sau đây viết tắt là LTM) 2005, hàng hóa được định nghĩa bao
gồm “Tất cả các loại động sản, kể cả động sản hình thành trong tương lai; những vật gắn
liền với đất đai” (Khoản 2, Điều 3, LTM 2005). Hàng hóa là đối tượng mua bán phải
không thuộc danh mục hàng hóa cấm kinh doanh theo quy định của Nhà nước (Nghị định
59/2006/NĐ-CỔ PHẦN ngày 12/06/2006). Nếu hàng hóa đó thuộc danh mục hạn chế
kinh doanh hoặc kinh doanh có điều kiện thì phải tuân theo đầy đủ các quy định của pháp
luật về mua bán các loại hàng đó.
Thứ ba, khái niệm hợp đồng mua bán hàng hoá
Hợp đồng mua bán hàng hóa là một phương tiện quan trọng phục vụ cho nhu cầu
tiêu dùng cũng như sản xuất kinh doanh, trao đổi vật tư, sản phẩm giữa các chủ thể thuộc
các thành phần kinh tế khác nhau.
Hiện nay, hoạt động mua bán hàng hoá được điều chỉnh chủ yếu bởi hai văn bản pháp luật
quan trọng là Bộ luật Dân sự 2005 và Luật Thương mại 2005. Hoạt động mua bán hàng
hoá có thể được xtác giả là một dạng cụ thể của hoạt động mua bán tài sản. Theo quy định
của Điều 428, BLDS 2005 về hợp đồng mua bán tài sản thì: “Hợp đồng mua bán tài sản là
sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên bán có nghĩa vụ giao tài sản cho bên mua và nhận
tiền, còn bên mua có nghĩa vụ nhận tài sản và trả tiền cho bên bán”. Theo Điều 163,
BLDS 2005 thì tài sản bao gồm: vật, tiền, giấy tờ có giá và các quyền tài sản.

Luật Thương mại 2005 không đưa ra định nghĩa về hợp đồng mua bán hàng hóa mà chỉ
đưa ra khái niệm về hoạt động mua bán hàng hoá. Mua bán hàng hóa được định nghĩa
theo Khoản 8, Điều 3, LTM 2005 là hoạt động thương mại, theo đó bên bán có nghĩa vụ
giao hàng, chuyển quyền sở hữu hàng hóa cho bên mua và nhận thanh toán, bên mua có
nghĩa vụ thanh toán cho bên bán, nhận hàng và quyền sở hữu hàng hóa theo thỏa thuận.
Hàng hóa theo quy định của LTM 2005 có thể là hàng hóa hiện đang tồn tại hoặc hàng
9


hóa sẽ có trong tương lai; hàng hóa có thể là động sản hoặc bất động sản được phép lưu
thông thương mại. Từ hai định nghĩa trên có thể thấy hợp đồng mua bán hàng hóa theo
quy định của LTM 2005 là một dạng cụ thể của hợp đồng mua bán tài sản.
Căn cứ các điều khoản trên, có thể kết luận rằng “Hợp đồng mua bán hàng hoá là
sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên bán có nghĩa vụ giao hàng hóa cho bên mua và
nhận tiền, còn bên mua có nghĩa vụ nhận hàng và trả tiền cho bên bán theo thời hạn, số
lượng và phương thức thanh toán mà các bên đã thỏa thuận”.
1.1.2. Đặc điểm của hợp đồng mua bán hàng hóa
Có thể xtác giả xét các đặc điểm của hợp đồng mua bán hàng hóa trong mối liên hệ
với hợp đồng mua bán tài sản theo nguyên lý của mối quan hệ giữa cái riêng và cái chung.
Thứ nhất, hợp đồng mua bán hàng hóa có những đặc điểm chung của hợp đồng mua bán
tài sản trong dân sự như:
− Là hợp đồng ưng thuận:
Hợp đồng được coi là giao kết tại thời điểm các bên thỏa thuận xong các điều
khoản cơ bản, thời điểm có hiệu lực của hợp đồng không phụ thuộc vào thời điểm bàn
giao hàng hóa, việc bàn giao hàng hóa chỉ được coi là hành động của bên bán nhắm thực
hiện nghĩa vụ của hợp đồng mua bán đã có hiệu lực.
− Có tính đền bù:
Bên bán khi thực hiện nghĩa vụ giao hàng hóa cho bên mua thì sẽ nhận từ bên mua
một lợi ích tương đương với giá trị hàng hóa theo thỏa thuận dưới dạng khoản tiền thanh
toán.

− Là hợp đồng song vụ:
Mỗi bên trong hợp đồng mua bán hàng hóa đều bị ràng buộc bởi nghĩa vụ đối với
bên kia, đồng thời lại cũng là bên có quyền đòi hỏi bên kia thực hiện nghĩa vụ đối với
mình. Trong hợp đồng mua bán hàng hóa tồn tại hai nghĩa vụ chính mang tính chất qua lại
và liên quan mật thiết với nhau: nghĩa vụ của bên bán phải bàn giao hàng hóa cho bên
mua và nghĩa vụ của bên mua phải thanh toán cho bên bán
Thứ hai, với tư cách là hình thức pháp lý của quan hệ mua bán hàng hóa, hợp đồng mua
bán hàng hóa có những đặc điểm nhất định xuất phát từ bản chất thương mại của hành vi
mua bán hàng hóa:
− Về chủ thể:
Hợp đồng mua bán hàng hóa được thiết lập giữa các chủ thể chủ yếu là thương
nhân. LTM 2005 quy định thương nhân bao gồm tổ chức kinh tế được thành lập hợp
pháp; cá nhân hoạt động thương mại một cách độc lập, thường xuyên và có đăng ký kinh
doanh. Ngoài ra, các tổ chức, cá nhân không phải là thương nhân cũng có thể trở thành
chủ thể của hợp đồng mua bán hàng hóa. Theo Khoản 3, Điều 1, LTM 2005, hoạt động
của bên chủ thể không phải là thương nhân và không nhằm mục đích lợi nhuận trong
quan hệ mua bán hàng hóa phải tuân theo LTM khi chủ thể này lựa chọn áp dụng LTM.
10


− Về hình thức:
Hợp đồng mua bán hàng hóa có thể được thể hiện dưới hình thức lời nói, bằng văn
bản hoặc bằng hành vi cụ thể của các bên giao kết. Theo Điều 24, LTM 2005, các bên có
thể được tự do lựa chọn hình thức của hợp đồng. Tuy nhiên, trong một số trường hợp nhất
định pháp luật bắt buộc các bên phải giao kết hợp đồng dưới hình thức văn bản, ví dụ như
hợp đồng mua bán hàng hóa phải được thể hiện dưới hình thức văn bản hoặc bằng hình
thức khác có giá trị pháp lý tương đương như điện báo, TELEX, FAX hay thông điệp dữ
liệu.
Theo quy định tại Điều 401, BLDS 2005 thì trong hợp đồng mua bán hàng hóa, sự vi
phạm về hình thức không làm cho hợp đồng bị vô hiệu. Đồng thời, các điều khoản trong

LTM 2005 cũng không quy định việc sự vi phạm về hình thức có dẫn đến hợp đồng vô
hiệu hay không.
− Về đối tượng
Hợp đồng mua bán hàng hóa có đối tượng là hàng hóa. Theo nghĩa thông thường
có thể hiểu hàng hóa là sản phẩm lao động của con người, được tạo ra nhằm mục đích
thỏa mãn nhu cầu của con người. Càng ngày cùng với sự phát triển của xã hội, hàng hóa
càng trở nên phong phú. Khái niệm hàng hóa được quy định trong luật pháp các nước
hiện nay dù có những khác biệt nhất định song đều có xu hướng mở rộng các đối tượng là
hàng hóa được phép lưu thông.
Theo Luật Thương mại của đa số các nước và trong nhiều Điều ước quốc tế như: Hiệp
định GATT, Hiệp định thành lập khối thị trường chung châu Âu thì hàng hóa là đối tượng
của mua bán thương mại gồm những tài sản có hai thuộc tính cơ bản là: có thể đưa vào
lưu thông và có tính chất thương mại.
Theo LTM 2005, hàng hóa là đối tượng của quan hệ mua bán có thể là hàng hóa hiện
đang tồn tại hoặc hàng hóa sẽ có trong tương lai; hàng hóa có thể là động sản hoặc bất
động sản được phép lưu thông thương mại.
− Về mục đích:
Hợp đồng mua bán hàng hóa thường hướng tới mục đích lợi nhuận. Do hoạt động
thương mại là hoạt động nhằm mục đích sinh lợi, chủ thể chủ yếu của hợp đồng mua bán
hàng hóa là thương nhân nên lợi nhuận thường là mục tiêu hàng đầu của hợp đồng này.
− Về nội dung:
Nội dung của hợp đồng mua bán hàng hóa thể hiện quyền và nghĩa vụ giữa bên
mua và bên bán. Nội dung của hợp đồng là tổng hợp các điều kiện mà các bên đã thỏa
thuận khi tham gia giao kết hợp đồng. Các điều kiện đó xác định các quyền và nghĩa vụ
của các bên trong hợp đồng. Trong hợp đồng mua bán hàng hóa, bên bán có nghĩa vụ giao
hàng, chuyển quyền sở hữu cho bên mua và nhận thanh toán; bên mua có nghĩa vụ thanh
toán cho bên bán, nhận hàng và quyền sở hữu theo thỏa thuận. Quyền của bên này là
nghĩa vụ của bên kia.
11



1.1.3. Phân loại hợp đồng mua bán hàng hóa
Hợp đồng mua bán hàng hàng hóa được phân loại như sau:
Căn cứ vào phạm vi của hợp đồng:
− Hợp đồng mua bán hàng hóa trong nước
− Hợp đồng mua bán hàng hóa (hợp đồng ngoại thương)
Căn cứ vào điều kiện của hợp đồng:
− Hợp đồng có điều kiện
− Hợp đồng không có điều kiện
Căn cứ vào hình thức của hợp đồng:
− Hợp đồng mua bán hàng hóa bằng miệng
− Hợp đồng mua bán hàng hóa bằng văn bản
− Hợp đồng mua bán hàng hóa bằng hành vi
1.2.
hóa

Cơ sở ban hành và nội dung pháp luật điều chỉnh hợp đồng mua bán hàng

1.2.1. Cơ sở ban hành các văn bản pháp luật điều chỉnh hợp đồng mua bán hàng hóa
Nền kinh tế nước ta là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Kinh tế
hàng hóa là một kiểu tổ chức kinh tế - xã hội, mà trong đó sản phẩm sản xuất ra nhằm
mục đích chính là để bán, tức để thỏa mãn nhu cầu của người mua, đáp ứng nhu cầu của
xã hội và thu lợi nhuận.
Trong bất kỳ nền kinh tế thị trường nào thì các quy luật kinh tế của sản xuất và lưu
thông hàng hóa đều được phản ánh và tác động một cách khách quan thông qua cơ chế thị
trường. Cơ chế thị trường chính là một tổ chức kinh tế, trong đó người sản xuất và người
tiêu dùng chịu sự tác động chi phối lẫn nhau của nền kinh tế thị trường. Thông qua các
hoạt động trao đổi mua bán, thị trường có vai trò to lớn đối với sự phát triển của nền kinh
tế. Thị trường cung cấp thông tin cần thiết cho nhà kinh doanh và tạo yếu tố cạnh tranh
làm động lực cho sự phát triển sản xuất, giảm chi phí, hạ giá thành, nâng cao chất lượng

sản phẩm. Một trong những đặc điểm cơ bản của nền kinh tế thị trường là tự do trao đổi
các sản phẩm hàng hóa giữa người mua và người bán. Người bán bao giờ cũng muốn bán
giá cao, người mua muôn mua giá thấp. Như vậy, hợp đồng về bản chất là sự thỏa thuận,
thống nhất ý chị giữa các bên tham gia ký kết hợp đồng theo nguyên tắc tư do, tự nguyện
và bình đẳng, không trái pháp luật.
Quan hệ mua bán hàng hóa được xác lập và thực hiện thông qua hình thức pháp lý
là hợp đồng mua bán hàng hóa. Hợp đồng mua bán hàng hóa có bản chất chung của hợp
đồng, là sự thỏa thuận nhằm xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt các quyền và nghĩa vụ trong
quan hệ mua bán hàng hóa. Quyền và nghĩa vụ của các bên được xác lập bởi hợp đồng
giữa các bên và quy định của pháp luật. Hợp đồng mua bán hàng hóa có bản chất chung
của hợp đồng, nó là sự thỏa thuận nhằm xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt các quyền và
nghĩa vụ trong quan hệ mua bán. Để đảm bảo lợi ích của cả người bán và người mua việc
12


xác lập những quy tắc chung trong quá trình mua bán ký kết hợp đồng, thực hiện hợp
đồng là yếu tố rất quan trọng. Do vậy việc thiết lập những qui phạm pháp luật về hợp
đồng mua bán trở thành yếu tố tiên quyết nhằm tạo điều kiện cho nền kinh tế được phát
triển ổn định và bền vững.
1.2.2. Hệ thống các văn bản pháp luật điều chỉnh hợp đồng mua bán hàng hóa
Để điều chỉnh mối quan hệ trong hợp đồng mua bán hàng hóa trong thương mại
của các chủ thể, các doanh nghiệp khi tham gia, pháp luật Việt Nam đã ban hành hệ thống
các văn bản pháp luật điều chỉnh cơ bản gồm:
Hiến pháp:
Từ những ngày đầu lập hiến đến nay, Việt Nam có năm bản Hiến pháp phù hợp với
từng giai đoạn xây dựng, bảo vệ và phát triển đất nước của từng thời kỳ. Đó là các bản
Hiến pháp năm 1946; 1959; 1980; 1992; 2013. Bản Hiến pháp năm 2013 là bản Hiến
pháp mới nhất tính đến thời điểm hiện nay, được Quốc hội khóa XIII, kỳ họp thứ 6 thông
qua ngày 28 tháng 11 năm 2013, có hiệu lực từ ngày 01 tháng 01 năm 2014.
Hiến pháp là đạo luật cơ bản của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, có hiệu lực

pháp lý cao nhất. Mọi văn bản pháp luật phải phù hợp với Hiến pháp. Đồng thời, đây
cũng là căn cứ để Quốc hội thông qua và ban hành các văn bản pháp luật.
Bộ luật Dân sự 2005:
Bộ luật Dân sự được coi là nguồn của các văn bản pháp luật khác. Bộ luật Dân sự
2005 được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XI, kỳ họp thứ 7
thông qua ngày 14 tháng 6 năm 2005.
Tại thời điểm này, Bộ luật Dân sự 2005 vẫn có hiệu lực. Bộ luật Dân sự mới nhất
là Bộ luật Dân sự năm 2015 sẽ có hiệu lực vào ngày 01 tháng 01 năm 2017.
Bộ luật Dân sự 2005 không có các quy định riêng cụ thể đối với hợp đồng mua bán hàng
hóa. Tuy nhiên, như đã trình bày, mọi hợp đồng, cho dù phát sinh trong lĩnh vực cụ thể
nào (dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động) đều được coi là hợp
đồng dân sự, chịu sự điều chỉnh chung và thống nhất của Bộ luật Dân sự 2005.
Các quy định về hợp đồng dân sự nói chung được quy định từ Điều 388 đến Điều 427.
Các quy định về hợp đồng mua bán tài sản được quy định từ Điều 428 đến Điều 449.
Ngoài ra, liên quan đến hợp đồng mua bán hàng hóa còn chịu sự điều chỉnh của các quy
định trong Mục 7 của Bộ luật (từ Điều 758 đến Điều 777) về quan hệ dân sự có yếu tố
nước ngoài.
Luật Thương mại 2005:
Luật Thương mại 2005 được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
thông qua ngày 14 tháng 6 năm 2005, có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 01 năm 2006.
Các quy định liên quan đến hợp đồng mua bán hàng hóa được quy định từ Điều 24 đến
Điều 62 Luật Thương mại 2005. Liên quan đến chế tài trong thương mại và giải quyết
13


tranh chấp được quy định từ Điều 292 đến Điều 319 Luật Thương mại 2005 và một số
quy định khác có liên quan.
Ngoài các văn bản đã liệt kê ở trên, còn có các văn bản dưới luật khác điều chỉnh
vấn đề hợp đồng mua bán hàng hóa.
1.2.3. Một số nội dung cơ bản của pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hóa

Thứ nhất, về giao kết hợp đồng
Trong phần giao kết hợp đồng, tác giả đề cập đến một số nội dung về chủ thế giao kết hợp
đồng, hình thức giao kết hợp đồng và nguyên tắc kí kết hợp đồng
Về chủ thể giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa:
Chủ thể giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa chủ yếu là thương nhân.Theo Khoản
1, Điều 6, LTM 2005 thì thương nhân bao gồm tổ chức kinh tế được thành lập hợp pháp,
cá nhân hoạt động thương mại một cách thường xuyên, độc lập và có đăng ký kinh doanh.
Như vậy, thương nhân có thể là cá nhân hay tổ chức kinh tế.
− Thương nhân là cá nhân.
Để được công nhận là thương nhân thì một cá nhân phải có năng lực hành vi dân
sự đầy đủ theo quy định của pháp luật và hoạt động thương mại một cách độc lập, thường
xuyên và có đăng kí kinh doanh.
Trong lĩnh vực hoạt động thương mại do thương nhân phải chịu trách nhiệm đầy đủ về
hành vi thương mại của mình, vì vậy những người sau dây sẽ không được công nhận là
thương nhân: Người không có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, người mất năng lực hành
vi dân sự, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự; Người đang bị truy cứu trách nhiệm
hình sự, người đang phải chấp nhận hình phạt tù; Người đang trong thời gian bị toà án
tước quyền nghề vì các tội, buôn bán hàng cấm, kinh doanh trái phép… và các tội khác
theo quy định của pháp luật.
− Thương nhân là tổ chức kinh tế
Theo Khoản 1, Điều 6, LTM 2005 thì tổ chức kinh tế là thương nhân khi tổ chức
kinh tế đó được thành lập hợp pháp nhằm mục đích hoạt động thương mại một cách độc
lập, thường xuyên và có đăng kí kinh doanh.
Về hình thức hợp đồng mua bán hàng hóa
Khoản 1, Điều 401, BLDS 2005 quy định về hình thức hợp đồng dân sự như sau:
“Hợp đồng dân sự có thể được giao kết bằng lời nói, bằng văn bản hoặc hành vi cụ thể,
khi pháp luật không quy định loại hợp đồng đó phải được giao kết bằng một hình thức
nhất định.”. Khoản 1, Điều 24, LTM 2005 cũng quy định tương tự về hình thức của hợp
đồng mua bán hàng hóa như BLDS 2005.
Như vậy, hợp đồng mua bán hàng hóa có thể được giao kết bằng lời nói, bằng văn bản

hoặc hành vi cụ thể giữa thương nhân với thương nhân, giữa một bên là thương nhân với
một bên không phải là thương nhân nhằm mục đích mua bán, trao đổi hàng hóa.
14


Trong trường hợp mua bán hàng hóa có yếu tố nước ngoài, hợp đồng mua bán hàng hóa
bắt buộc phải giao kết bằng văn bản.
Về ngôn ngữ trong hợp đồng:
Hợp đồng mua bán hàng hóa là sự thể hiện ý chí của các bên khi tham gia xác lập
các quan hệ giao dịch; nó được xâu chuỗi bởi các điều khoản liên kết bởi các câu từ. Do
đó, một trong những yêu cầu đặt ra cho hợp đồng mua bán hàng hóa là từng câu chữ,
ngôn từ sử dụng trong hợp đồng phải đảm bảo sự chính xác cụ thể, rõ ràng, đầy đủ ý
nghĩa. Một trong những yếu tố đầu tiên để hợp đồng thể hiện các ý chí của các bên được
rõ ràng, chính xác là ngôn ngữ trong giao dịch. Hợp đồng mua bán hàng hóa được ký kết
bằng ngôn ngữ mà các bên đều chấp thuận, ngôn ngữ hợp đồng thường là tiếng nước
ngoài với một hoặc cả hai bên, trong đó phần lớn được ký kết bằng tiếng Anh
Về nội dung giao kết trong hợp đồng mua bán hàng hóa:
Nội dung giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa gồm các điều khoản do các bên
thỏa thuận, thể hiện quyền và nghĩa vụ của bên bán và bên mua trong quan hệ hợp đồng
mua bán hàng hóa. Tuỳ vào từng hợp đồng hàng hóa cụ thể, các bên có thể thoả thuận hay
không thỏa thuận những nội dung khác nhau theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên, có
một số nội dung mang đặc trưng của hợp đồng mua bán hàng hóa cần chú ý như:
− Đối tượng của hợp đồng mua bán hàng hóa:
Căn cứ vào quy định của Luật Thương mại 2005, hàng hóa là tất cả các loại động
sản, kể cả động sản hình thành trong tương lai và những vật gắn liền với đất. Đối tượng
của hợp đồng mua bán hàng hóa là hàng hóa được phép lưu thông trên thị trường, được
phép xuất nhập khẩu theo quy định của pháp luật nước bên mua và bên bán, có thể thỏa
mãn nhu cầu nào đó của con người. Thông thường hàng hóa là đối tượng của hợp đồng
mua bán hàng hóa sẽ được dịch chuyển qua lại qua biên giới của một hoặc nhiều quốc gia
khác nhau. Song có những trường hợp hàng hóa không cần hoặc không thể dịch chuyển

qua biên giới vẫn là đối tượng của hợp đồng này. Ví dụ: Hợp đồng mua bán giữa một bên
là công dân Việt Nam và một bên là công dân Việt Nam định cư tại nước ngoài, hàng hóa
mà các bên hướng đến đang tồn tại ở Việt Nam. Khi đó, dù hàng hóa có được chuyển ra
ngoài lãnh thổ Việt Nam hay không thì hợp đồng đó vẫn được xtác giả là hợp đồng mua
bán hàng hóa do đã thỏa mãn điều kiện chủ thể hợp đồng cư trú tại các quốc gia khác
nhau.
− Số lượng và chất lượng hàng hóa:
Các bên của hợp đồng mua bán hàng hóa có thể thỏa thuận và ghi trong hợp đồng
về số lượng hàng hóa cụ thể hoặc số lượng hàng hóa được xác định bằng đơn vị đo lường
theo tập quán thương mại quốc tế như chiếc, mét vuông, kilôgam… tùy theo tính chất của
hàng hóa. Chất lượng hàng hóa giúp xác định chính xác hơn đối tượng của hợp đồng theo
nhu cầu của người mua với những tính năng, kích thước, quy cách nhất định. Thỏa thuận
cụ thể về số lượng và chất lượng hàng hóa là cơ sở để xác định giá cả một cách tốt nhất.
Trách nhiệm của các bên cũng sẽ khác nhau với mỗi phương pháp xác định chất lượng
15


hàng hóa, có các phương pháp xác định chất lượng như dựa vào các phẩm cấp hoặc các
tiêu chuẩn, dựa vào mẫu hàng hóa, dựa vào nhãn hiệu hàng hóa hay điều kiện kỹ thuật…
− Giá và phương thức thanh toán:
Trong hợp đồng, các bên có thể xác định cụ thể giá của hàng hóa hoặc xác định giá và
cách tính giá. Giá trong hợp đồng mua bán hàng hóa phải được biểu thị rõ về đơn giá,
tổng giá trình, đồng tiền tính giá và đồng tiền thanh toán. Tiền tệ dùng để thanh toán có
thể là nội tệ hoặc ngoại tệ đối với các bên.
− Địa điểm và thời hạn giao nhận hàng:
Địa điểm giao hàng cần được quy định rõ trong hợp đồng, địa điểm này là nơi mà
các bên tiến hành giao nhận hàng. Việc xác định địa điểm giao hàng thường tùy vào điều
kiện cơ sở giao hàng mà các bên lựa chọn.
− Thời hạn giao hàng trong hợp đồng mua bán hàng hóa:
Là thời hạn mà bên bán phải hoàn thành nghĩa vụ giao hàng cho bên mua. Các bên

có thể quy định thời hạn giao hàng là một khoảng thời gian nhất định hoặc quy định thời
hạn cuối cùng mà hàng phải giao xong; giao hàng trong một lần hoặc nhiêu lần. Thời
điểm người bán hoàn thành nghĩa vụ giao hàng phụ thuộc vào điều kiện cơ sở giao hàng
mà các bên thỏa thuận. Người bán cũng có thể giao hàng trước thời hạn, giao hàng từng
phần khi có thỏa thuận trong hợp đồng hoặc khi nhận được sự chấp thuận của người mua.
Ngoài những nội dung liên quan đến quyền và nghĩa vụ của các bên giao kết tương
tự như trong hợp đồng mua bán hàng hóa thông thường, các bên có thể đưa thêm vào hợp
đồng những điều khoản mà họ cho là cần thiết. Mà trong đó việc thêm điều khoản về luật
áp dụng cho hợp đồng và điều khoản giải quyết tranh chấp là rất quan trọng đối với hợp
đồng mua bán hàng hóa. Bởi pháp luật điều chỉnh hợp đồng mua bán hàng hóa không chỉ
là luật quốc gia mà còn nhiều nguồn luật khác cho nên có thể gây ra tranh chấp cho các
bên khi chọn luật áp dụng.
Không chỉ quy định các nội dung về giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa, để đảm bảo
việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ đã thỏa thuận theo đúng hợp đồng, mang lại lợi ích
cho các bên tham gia giao kết, đồng thời không xâm hại đến những lợi ích mà pháp luật
cần bảo vệ; pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hóa đã đưa ra những quy định mà các
chủ thể phải tuân thủ trong quá trình thực hiện hợp đồng. Thực hiện hợp đồng là quá trình
các bên thực hiện nghĩa vụ đã cam kết của mình, do đó pháp luật điều chỉnh việc thực
hiện hợp đồng mua bán hàng hóa chủ yếu thông qua các quy định đối với nghĩa vụ của
bên bán, bên mua trong hợp đồng và các quy định về trách nhiệm pháp lý khi xảy ra vi
phạm.
Về trình tự giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa:
Trình tự giao kết hợp đồng là quá trình mà trong đó bên bán và bên mua bày tỏ ý
chí với nhau bằng cách trao đổi ý kiến để đi đến thỏa thuận cùng nhau xác lập quyền và
nghĩa vụ mỗi bên. Giống với hợp đồng mua bán nói chung, trình tự giao kết hợp đồng
mua bán hàng hóa cũng bao gồm quá trình đề nghị giao kết (chào hàng) và chấp nhận đề
16


nghị giao kết hợp đồng (chấp nhận chào hàng). Trong đó, đề nghị giao kết hợp đồng mua

bán hàng hóa thể hiện rõ ý định giao kết hợp đồng với bên đã được xác định cụ thể. Đề
nghị hợp đồng có thể do bên bán hoặc bên mua thực hiện. Đề nghị giao kết hợp đồng hay
lời chào hàng phải đảm bảo được những tiêu chuẩn pháp lý nhất định theo quy định của
pháp luật như điều kiện có hiệu lực, thời gian có hiệu lực, điều kiện hủy bỏ… với nội
dung rõ ràng về tên hàng, số lượng, phẩm chất, giá cả hàng hóa. Chấp nhận đề nghị giao
kết hợp đồng là sự trả lời của bên được đề nghị về việc chấp nhận toàn bộ nội dung của đề
nghị; hoặc bên được đề nghị có thể im lặng nhưng vẫn được xtác giả là chấp nhận đề nghị
giao kết nếu có thỏa thuận im lặng là sự trả lời chấp nhận giao kết.
Thứ hai, về thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa
Về nghĩa vụ cơ bản của bên bán:
− Nghĩa vụ giao hàng:
Giao hàng là nghĩa vụ cơ bản nhất của bên bán trong hợp đồng mua bán hàng hoá.
Trước khi thực hiện nghĩa vụ giao hàng, với hợp đồng mua bán hàng hóa, có những thủ
tục là điều kiện để hợp đồng có hiệu lực nên các bên phải hoàn thành như: Xin giấy phép
nhập khẩu hoặc hạn ngạch (với trường hợp giấy phép phải có hạn ngạch), mở thư tín dụng
nếu hợp đồng có thỏa thuận phương thức thanh toán này… Việc thực hiện các nghĩa vụ
khác của bên bán đều có liên quan và nhằm mục đích hoàn thành nghĩa vụ giao hàng cho
bên mua.
Cụ thể, bên bán phải giao hàng đúng đối tượng và chất lượng: Đối tượng và chất lượng
hàng hoá là những nội dung cơ bản của hợp đồng mua bán hàng hoá. Bên bán phải thực
hiện giao hàng đúng đối tượng và chất lượng theo thỏa thuận và quy định của pháp luật.
Trong việc giao nhận hàng hoá, vấn đề xác định hàng hoá có phù hợp với hợp đồng về đối
tượng và chất lượng hay không có ý nghĩa rất quan trọng. Về nguyên tắc, bên bán phải
căn cứ vào nội dung cụ thể của hợp đồng để xác định vấn đề này; nếu không, phải căn cứ
vào các quy định của pháp luật. Khi hàng hoá giao không phù hợp với hợp đồng, bên mua
có quyền tự chối nhận hàng. Trong nhiều trường hợp, việc giao hàng hoá còn bao gồm
việc giao các chứng từ có liên quan đến hàng hoá như chứng nhận chất lượng, chứng
nhận nguồn gốc, xuất xứ, vận đơn... Nếu trong hợp đồng mua bán hàng hóa có thỏa thuận
về việc giao chứng từ thì bên bán có nghĩa vụ giao chứng từ liên quan đến hàng hoá cho
bên mua trong thời hạn nhất định, tại địa điểm xác định và bằng phương thức đã thỏa

thuận.
Ngoài ra, bên bán phải giao hàng đúng thời hạn và đúng địa điểm đã thỏa thuận.
Những nội dung liên quan đến điều khoản giao hàng như thời gian, địa điểm, phương
thức giao hàng thường được các bên thỏa thuận phù hợp với đặc điểm của hàng hoá trong
hợp đồng. Trường hợp các bên không thỏa thuận những vấn đề này trong hợp đồng thì áp
dụng quy định của pháp luật hoặc tập quán thương mại.
− Kiểm tra hàng hoá trước khi giao hàng:
Việc kiểm tra hàng hoá trước khi giao hàng là yêu cầu cần thiết đối với giao dịch
mua bán hàng hóa, giúp ngăn ngừa những sai sót trong việc giao hàng, tăng khả năng thực
17


hiện hiệu quả việc mua bán. Bên bán cần tạo điều kiện để bên mua kiểm tra hàng hoá
trước khi giao hàng nếu các bên không có thoả thuận khác.
− Đảm bảo quyền sở hữu đối với hàng hoá mua bán:
Theo quy định của pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hóa thì quyền sở hữu
được chuyển từ bên bán sang bên mua kể từ thời điểm hàng hóa được chuyển giao. Bên
bán phải đảm bảo quyền sở hữu đối với hàng hoá đã giao cho bên mua. Nghĩa là, bên bán
phải đảm bảo tính hợp pháp về quyền sở hữu và việc chuyển giao quyền sở hữu đối với
hàng hoá giao cho bên mua; đảm bảo quyền sở hữu của bên mua đối với hàng hoá đã bán
không bị tranh chấp bởi bên thứ ba. Trong trường hợp hàng hoá bị người thứ ba tranh
chấp thì bên bán phải đứng về phía bên mua để bảo vệ quyền lợi của bên mua; nếu người
thứ ba có quyền sở hữu một phần hoặc toàn bộ tài sản mua bán thì bên mua có quyền hủy
bỏ hợp đồng và yêu cầu bên bán bồi thường thiệt hại.
− Chuyển giao quyền sở hữu hàng hoá cho bên mua:
Theo quy định của pháp Luật Thương mại Việt Nam, trừ trường hợp pháp luật có
quy định khác hoặc các bên có thỏa thuận khác, quyền sở hữu được chuyển từ bên bán
sang bên mua kể từ thời điểm hàng hoá được chuyển giao. Trong trường hợp các bên
không có thỏa thuận, quyền sở hữu hàng hoá có thể được chuyển giao ở những thời điểm
khác nhau, tùy thuộc tính chất của việc chuyển giao hàng hoá và phương thức mua bán.

− Nghĩa vụ bảo hành hàng hoá:
Bảo hành là việc bên bán, trong một thời gian nhất định phải chịu trách nhiệm về
hàng hoá sau khi đã giao hàng hoá cho bên mua. Việc bảo hành được thực hiện theo thỏa
thuận hoặc theo các quy định của pháp luật. Bên bán phải thực hiện nghĩa vụ bảo hành
trong thời gian ngắn nhất mà hoàn cảnh thực tế cho phép. Đồng thời bên bán phải chịu
các chi phí về việc bảo hành, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.
Về nghĩa vụ cơ bản của bên mua:
Nghĩa vụ cơ bản của bên mua bao gồm nhận hàng và thanh toán.
− Nghĩa vụ nhận hàng:
Nhận hàng là nghĩa vụ cơ bản của bên mua tương ứng với nghĩa vụ giao hàng của
bên bán. Nhận hàng được hiểu là việc bên mua tiếp nhận hàng hoá từ bên bán. Bên mua
có nghĩa vụ nhận hàng theo thỏa thuận trong hợp đồng. Khi nhận hàng, bên mua phải thực
hiện các công việc hợp lý để giúp bên bán giao hàng, những công việc này có thể khác
nhau trong những trường hợp cụ thể.
− Nghĩa vụ thanh toán:
Thanh toán là nghĩa vụ quan trọng nhất của bên mua trong quan hệ hợp đồng mua
bán hàng hoá. Bên mua có nghĩa vụ thanh toán cho bên bán theo thỏa thuận trong hợp
đồng. Điều khoản thanh toán được các bên thỏa thuận thông thường bao gồm những nội
dung cụ thể về đồng tiền thanh toán, phương thức thanh toán, thời hạn, địa điểm thanh
toán, trình tự, thủ tục thanh toán... Bên mua phải thực hiện đúng những nội dung này theo
18


thỏa thuận. Trường hợp các bên không có thỏa thuận về những nội dung cụ thể liên quan
đến việc thanh toán thì áp dụng quy định của pháp luật.
Về vi phạm hợp đồng:
Trong quá trình thực hiện hợp đồng, có thể có những vi phạm xảy ra. Vi phạm hợp
đồng là việc một bên không thực hiện, thực hiện không đầy đủ hoặc thực hiện không
đúng nghĩa vụ theo thỏa thuận giữa các bên hoặc theo quy định của pháp luật. Căn cứ xác
định trách nhiệm do vi phạm hợp đồng gồm: Có hành vi vi phạm hợp đồng; có thiệt hại

thực tế xảy ra; có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm và thiệt hại thực tế; có lỗi
của bên vi phạm. Với vi phạm các thỏa thuận giữa các bên thì trách nhiệm pháp lý căn cứ
theo quy định pháp luật Việt Nam là các hình thức trách nhiệm gồm:
− Buộc thực hiện đúng hợp đồng:
Khi một bên trong hợp đồng không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa
vụ quy định trọng hợp đồng thì bên có quyền lợi bị vi phạm có quyền yêu cầu bên vi
phạm thực hiện đúng hợp đồng hoặc áp dụng các biện pháp khác để hợp đồng được thực
hiện và bên vi phạm phải chịu phí phát sinh. Hình thức này được áp dụng trong các
trường hợp: Giao hàng thiếu; giao hàng kém chất lượng, cung ứng dịch vụ không đúng
hợp đồng. Trong trường hợp giao hàng thiếu, chế tài này quy định rằng bên vi phạm phải
giao đủ hàng theo đúng như đã thỏa thuận trong hợp đồng, tức là phải giao đúng về số
lượng, chất lượng, chủng loại... Đối với việc giao hàng kém chất lượng, cung cấp dịch vụ
không đúng hợp đồng, bên vi phạm phải tìm cách loại trừ các khuyết tật của hàng hóa,
thiếu sót của dịch vụ. Trong trường hợp này, bên vi phạm có thể giao hàng khác để thay
thế hàng kém chất lượng hoặc cung ứng dịch vụ theo đúng hợp đồng, tuy nhiên không
được dùng tiền hoặc hàng khác chủng loại, dịch vụ khác để thay thế, nếu không được sự
chấp thuận của bên có quyền lợi bị vi phạm.
− Phạt vi phạm:
Đây là một chế tài rất hay được sử dụng trong việc giải quyết các tranh chấp phát
sinh trong hợp đồng kinh tế. Phạt vi phạm là việc bên có quyền lợi bị vi phạm yêu cầu
bên vi phạm trả một khoản tiền phạt nhất định do vi phạm hợp đồng, nếu trong hợp đồng
có thỏa thuận hoặc pháp luật quy định. Từ định nghĩa trên có thể thấy, phạt vi phạm chỉ
được áp dụng khi trong hợp đồng có thỏa thuận hoặc pháp luật quy định sẽ áp dụng loại
chế tài này cho những vi phạm nhất định và không phụ thuộc vào bên bị vi phạm có thiệt
hại hay không.
− Tạm ngừng, đình chỉ và hủy bỏ hợp đồng:
Trước hết, tạm ngừng thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa là hình thức mà một
bên tạm thời không thực hiện nghĩa vụ trong hợp đồng. Khi hợp đồng mua bán hàng hóa
bị tạm ngừng thực hiện thì hợp đồng vẫn còn hiệu lực. Về đình chỉ hợp đồng, đình chỉ
thực hiện hợp đồng là hình thức mà một bên chấm dứt thực hiện nghĩa vụ. Khi hợp đồng

bị đình chỉ thực hiện thì hợp đồng đồng thời chấm dứt hiệu lực từ thời điểm một bên nhận
được thông báo đình chỉ. Các bên không phải tiếp tục thực hiện nghĩa vụ hợp đồng. Với
hình thức hủy bỏ hợp đồng mua bán hàng hóa, một bên chấm dứt thực hiện nghĩa vụ hợp
19


đồng và làm cho hợp đồng không có hiệu lực từ thời điểm giao kết. Hủy bỏ hợp đồng có
thể là hủy bỏ một phần hợp đồng hoặc toàn bộ hợp đồng. Hủy bỏ một phần hợp đồng là
việc bãi bỏ thực hiện một phần nghĩa vụ hợp đồng, các phần còn lại trong hợp đồng vẫn
còn hiệu lực. Hủy bỏ toàn bộ hợp đồng là việc bải bỏ hoàn toàn việc thực hiện tất cả các
nghĩa vụ hợp đồng đối với toàn bộ hợp đồng. Khi một hợp đồng mua bán hàng hóa bị hủy
bỏ toàn bộ, hợp đồng được coi là không có hiệu lực từ thời điểm giao kết.
Về quyền của bên bán:
Theo Điều 306 Luật Thương mại, trong hợp đồng mua bán hàng hóa, bên bán có
quyền nhận tiền hàng theo thỏa thuận trong hợp đồng. Khi bên mua chậm thanh toán thì
bên bán có quyền yêu cầu trả tiền lãi trên số tiền chậm trả đó theo lãi suất nợ quá hạn
trung bình trên thị trường tại thời điểm thanh toán tương ứng với thời gian chậm trả, trừ
trường hợp có thoả thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác. Đồng thời, nếu bên bán
chậm nhận được hoặc không nhận được tiền bán hàng do lỗi của bên mua thì bên bán có
quyền ngừng giao hàng hoặc yêu cầu bên mua bồi thường thiệt hại, ngoài ra bên bán còn
có thể áp dụng các hình thức chế tài khác như: buộc thực hiện hợp đồng, phạt vi phạm,
hủy bỏ hợp đồng.
Về quyền của bên mua:
Hợp đồng mua bán hàng hóa là hợp đồng song vụ điển hình, trong đó, quyền của
bên này tương ứng với nghĩa vụ của bên kia và ngược lại. Do đó, quyền của bên mua
chính là những điều khoản mà bên bán có nghĩa vụ thực hiện như đã đề cập ở phần nghĩa
vụ của bên bán. Ngoài ra, theo quy định tại Điều 51 Luật Thương mại thì bên mua có
quyền ngừng thanh toán tiền hàng trong các trường hợp:
− Bên mua có bằng chứng về việc bên bán lừa dối;
− Bên mua có bằng chứng về việc hàng hóa đang là đối tượng bị tranh chấp thì có

quyền tạm ngừng thanh toán cho đến khi việc tranh chấp đã được giải quyết;
− Bên mua có bằng chứng về việc bên bán đã giao hàng không phù hợp với hợp
đồng thì có quyền tạm ngừng thanh toán cho đến khi bên bán đã khắc phục sự
không phù hợp đó.
Thứ ba, về giải quyết tranh chấp trong hợp đồng mua bán hàng hóa
Khi xảy ra tranh chấp, phương thức đầu tiên mà các bên thường hay lựa chọn nhất
là thương lượng. Phương thức này thể hiện được bản chất của giao kết hợp đồng là sự
thỏa thuận giữa các bên. Nó cũng là phương thức nhanh gọn và đảm bảo lợi ích của các
bên được hài hòa hơn. Thương lượng có thể được tiến hành độc lập hoặc tiến hành cùng
với quá trình tố tụng tại Trung tâm trọng tài hoặc Tòa án.
Thương lượng giữa các bên
Đối với thương lượng độc lập: Nghĩa vụ của các bên phải tiến hành trong quá trình
thương lượng được quy định trong điều khoản về giải quyết tranh chấp. Do đó các bên
phải tiến hành như là một điều khoản trong hợp đồng. Kết quả thương lượng được coi như
20


một thỏa thuận mới về vấn đề tranh chấp, các bên phải đảm bảo được sự tự nguyện trong
thỏa thuận theo quy định của pháp luật.
Đối với thương lượng được tiến hành theo thủ tục trọng tài hoặc Tòa án thì theo yêu cầu
của các bên, trọng tài viên, thẩm phán có thể ra văn bản công nhận kết quả thỏa thuận của
các bên sau quá trình thương lượng. Văn bản này có giá trị như một quyết định của Trọng
tài hay Tòa án.
Hòa giải giữa các bên
Hòa giải là quá trình giải quyết tranh chấp mang tính chất riêng tư, trong đó có hòa
giải viên là người thứ ba làm trung gian giúp các bên đạt được sự thỏa thuận. Với phương
thức này, các bên có thể giải quyết tranh chấp một cách thân thiện và có thể tiếp tục giữ
vững mối quan hệ trong kinh doanh; hạn chế tối đa sự hao phí thời gian và tiền của vào
việc giải quyết tranh chấp nếu nó được tiến hành theo thủ tục tố tụng trọng tài hoặc tòa
án; ngoài ra, nó không phải là quá trình tố tụng công khai nên đảm bảo giữ vững được các

bí mật trong thương mại mà các bên không muốn cho người ngoài biết. Giữ vững uy tín
và danh dự cho các bên.
Do bản chất của hòa giải là sự tự nguyện thỏa thuận nên kết quả thỏa thuận không có tính
chất bắt buộc thi hành cao như giải quyết tại Trung tâm trọng tài hay Tòa án.
Giải quyết tại Trung tâm trọng tài
Cũng như hai phương thức giải quyết trên thì phương thức giải quyết tranh chấp tại
Trung tâm trọng tài được các bên lựa chọn bởi những ưu điểm của phương thức này có
thể được kể đến đó là: Đỡ tốn kém về thời gian bởi đây là phương thức giquyết tại Tòa
án. Và nó cũng đảm bảo tính khách quan, trung lập của trọng tài. Phán quyết của trọng tài
có hiệu lực thi hành bởi nó được Tòa án công nhận và cho thi hành qua một thủ tục tư
pháp. Ngoài ra phương thức này cũng đảm bảo bí quyết kinh doanh của các bên vì nó
không phải là phương thức giải quyết công khai như giải quyết tại Tòa án.
Giải quyết tại Tòa án
Tòa án là cơ quan chủ yếu giải quyết các tranh chấp, bất đồng không những chỉ
trong hoạt động kinh doanh thương mại mà còn các lĩnh vực khác trong đời sống xã hội.
Mỗi lĩnh vực đều có một tòa chuyên trách cho lĩnh vực đó giải quyết. Đối với lĩnh vực
kinh doanh thương mại thì tòa kinh tế sẽ chịu trách nhiệm giải quyết. Những tranh chấp
về kinh doanh thương mại thuộc thẩm quyền giải quyết của tòa án được quy định tại Điều
29 Bộ Luật tố tụng dân sự. Để được giải quyết theo phương thức này thì không nhất thiết
các bên phải thỏa thuận trước đó sẽ giải quyết tại Tòa án. Khi có tranh chấp xảy ra,
nguyên đơn có quyền khởi kiện ra Tòa án nếu các bên không có thỏa thuận trọng tài hoặc
thỏa thuận trọng tài vô hiệu.
Phương thức giải quyết này ta có thể thấy được những ưu điểm đó là phán quyết của Tòa
án có tính cưỡng chế thi hành cao. Tuy nhiên phương pháp này lại là phương pháp giải
quyết công khai nên bất lợi cho các bên, đặc biệt là những lĩnh vực kinh doanh cần phải

21


giữ bí mật cho bí quyết kinh doanh của mình. Ngoài ra, khi đã giải quyết được tranh chấp

thì các bên khó có thể giữ được mối quan hệ trong kinh doanh như trước đây đã từng có.
1.3.

Nguyên tắc về pháp luật điều chỉnh hợp đồng mua bán hàng hóa

Để đảm bảo tính công bằng, minh bạch và hiệu quả khi áp dụng những quy định
của pháp luật về hờp đồng mua bán hàng hóa cần tuân thủ những nguyên tắc sau:
Thứ nhất, nguyên tắc tự do giao kết hợp đồng nhưng không trái pháp luật, đạo đức xã
hội:
Dựa trên nguyên tắc này, mọi cá nhân, tổ chức khi có đủ các điều kiện tư cách chủ
thể đều có thể tham gia giao kết bất kỳ một giao dịch hoặc hợp đồng mua bán hàng hóa
nào, nếu muốn. Các chủ thể tham gia quan hệ hợp đồng có sự tự do ý chí trong việc lựa
chọn hợp đồng mà mình giao kết, tự do lựa chọn chủ thể giao kết, tự do lựa chọn các
quyền và nghĩa vụ trong quá trình giao kết. Không một chủ thể nào được phép can thiệp
trái pháp luật vào sự tự do giao kết hợp đồng của các chủ thể tham gia hợp đồng. Tuy
nhiên, mặc dù pháp luật Việt Nam thừa nhận sự tự do giao kết hợp đồng là một nguyên
tắc nhưng trên tinh thần: “Quyền tự do cam kết, thỏa thuận trong việc xác lập quyền,
nghĩa vụ dân sự được pháp luật bảo đảm, nếu cam kết, thỏa thuận đó không vi phạm điều
cấm của pháp luật, không trái đạo đức xã hội.”. Điều này có nghĩa là các chủ thể tham gia
giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa có sự tự do, nhưng sự tự do đó phải trong một
khuôn khổ nhất định. Hợp đồng mua bán hàng hóa chỉ được pháp luật công nhận và bảo
vệ khi ý chí của các bên giao kết hợp đồng phù hợp với ý chí của Nhà nước. Hay nói cách
khác, sự tự do ý chí giao kết hợp đồng của các chủ thể phải nằm trong khuôn khổ, giới
hạn nhất định dựa trên lợi ích của cá nhân khác, lợi ích chung của xã hội và trật tự công
cộng.
Thứ hai, nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng, thiện chí, hợp tác, trung thực, ngay thẳng:
Nguyên tắc này được quy định nhằm đảm bảo trong quá trình giao kết hợp đồng
mua bán hàng hóa không ai bị cưỡng ép hoặc bị buộc giao kết trái với ý chí của mình. Ý
chí tự nguyện của các bên chủ thể tham gia hợp đồng chỉ được bảo đảm khi các bên bình
đẳng với nhau trên mọi phương diện. Nguyên tắc bình đẳng là một trong những nguyên

tắc được ghi nhận trong Hiến pháp Việt Nam năm 2013. Trong quan hệ hợp đồng mua
bán hàng hóa, sự bình đẳng luôn luôn được pháp luật của các quốc gia thừa nhận. Pháp
luật các nước nói chung và pháp luật Việt Nam nói riêng không thừa nhận những hợp
đồng mua bán hàng hóa được giao kết thiếu sự bình đẳng và ý chí tự nguyện của một
trong các bên chủ thể. Mà việc giao kết hợp đồng được coi là tự nguyện chỉ khi hợp đồng
phản ánh một cách khách quan, trung thực mong muốn, nguyện vọng của các bên tham
gia hợp đồng.
Thứ ba, nguyên tắc thực hiện đúng hợp đồng, đúng đối tượng, chất lượng, số lượng,
chủng loại, thời hạn, phương thức và các thỏa thuận khác:
Chấp hành thực hiện đúng hợp đồng nghĩa là các bên không được tự ý thay đổi hay
không thực hiện nội dung của hợp đồng đã giao kết. Các bên phải thực hiện đúng tất cả
các điều khoản đã cam kết trong hợp đồng bao gồm các quy định về đối tượng, chất
22


lượng, số lượng, chủng loại, thời hạn, phương thức thanh toán… Việc tuân thủ nguyên tắc
này không chỉ giảm thiểu khả năng xảy ra các vi phạm, tranh chấp mà còn giúp hợp đồng
đạt được hiệu quả cao hơn, đtác giả lại lợi ích kinh tế cho các bên giao kết hợp đồng.
Thứ tư, nguyên tắc thực hiện một cách trung thực, theo tinh thần hợp tác và có lợi nhất
cho các bên, đảm bảo tin cậy lẫn nhau:
Nguyên tắc này đòi hỏi các bên phải hợp tác chặt chẽ với nhau, thường xuyên theo
dõi và giúp đỡ nhau để thực hiện nghiêm chỉnh mọi điều khoản của hợp đồng, giúp nhau
khắc phục những khó khăn trong quá trình thực hiện hợp đồng. Để làm được như vậy,
giữa bên bán và bên mua phải có sự tin tưởng lẫn nhau nhằm đạt được mục tiêu có lợi
nhất cho cả hai bên.
Thứ năm, nguyên tắc không được xâm phạm đến lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng,
quyền và lợi ích hợp pháp của người khác:
Trong quá trình thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa các bên tham gia phải đảm
bảo không xâm phạm tới lợi ích của Nhà nước hay quyền và lợi ích của người khác. Có
như thế, hợp đồng mua bán hàng hóa được ký kết mới đảm bảo được vai trò của nó trong

việc góp phần phát triển kinh tế và xã hội của đất nước.

23


CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT ĐIỀU CHỈNH HỢP ĐỒNG MUA BÁN
HÀNG HÓA TẠI CÔNG TY CỔ PHẦN THƯƠNG MẠI LẠNG SƠN
2.1. Tổng quan tình hình và các nhân tố ảnh hưởng đến hợp đồng mua bán hàng
hóa tại Công ty cổ phần Thương mại Lạng Sơn
2.1.1. Tổng quan về Công ty cổ phần Thương mại Lạng Sơn
Giới thiệu về Chi nhánh Công ty cổng phần thương mại Lạng Sơn:
Chi nhánh Công ty cổ phần Thương mại Lạng Sơn tại huyện Bình Gia thành lập
theo Giấy phép đăng ký kinh doanh số 4900142205-015 do Sở Kế hoạch và Đầu tư Tỉnh
Lạng Sơn cấp.
Trong suốt quá trình hình thành và hoạt động, không thể kể hết những khó khăn
chồng chất cũng như những trở ngại không lường mà tập thể cán bộ công nhân viên Chi
nhánh công ty phải vượt qua từ những ngày tháng khởi nghiệp, đổi lại đến nay công ty đã
khẳng định được uy tín, vị thế, thương hiệu của mình trong chủ yếu trong lĩnh vực thương
mại tại huyện Bình Gia. Để tồn tại trên thị trường cạnh tranh Chi nhánh công ty đã xây
dựng chiến lược cho riêng mình, trong đó trọng tâm là đầu tư vào buôn bán tổng hợp;
Lãnh đạo Chi nhánh công ty luôn quan tâm đến đời sống của người lao động, bằng những
việc làm cụ thể như tổ chức các buổi giao lưu cho công nhân viên, tạo môi trường làm
việc lành mạnh, cởi mở và đoàn kết cho nhân viên. Tạo động lực cho nhân viên phấn đấu
qua các hình thức lương thành tích, lương khoán…
Hoạt động sản xuất kinh doanh của Chi nhánh Công ty cổ phần Thương mại Lạng
Sơn tại huyện Bình Gia khá đa dạng, thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau bao gồm: Bán buôn
sản phẩm thuốc lá, thuốc lào; Bán buôn vải, hàng may sẵn, giày dép; Bán buôn đồ dùng
khác cho gia đình; Bán buôn máy móc, thiết bị và phụ tùng máy nông nghiệp; Bán buôn
máy móc, thiết bị và phụ tùng máy khác; Bán buôn nhiên liệu rắn, lỏng, khí và các sản
phẩm liên quan; bán buôn kim loại và quặng kim loại; Bán buôn vật liệu, thiết bị lắp đặt

khác trong xây dựng; Bán buôn chuyên doanh khác chưa được phân vào đâu; Bán buôn
tổng hợp; Bán lẻ khác trong các cửa hàng kinh doanh tổng hợp; Bán lẻ đồ uống trong các
cửa hàng chuyên doanh; Bán lẻ sản phẩm thuốc lá, thuốc lào trong các cửa hàng chuyên
doanh; Bán lẻ nhiên liệu động cơ trong các cửa hàng chuyên doanh; Bán lẻ máy vi tính,
thiết bị ngoại vi, phần mềm và thiết bị viễn thông trong các cửa hàng chuyên doanh; Bán
lẻ thiết bị nghe nhìn trong các cửa hàng chuyên doanh; Bán lẻ đồ ngũ kim, sơn, kính và
thiết bị lắp đặt khác trong xây dựng trong các cửa hàng chuyên doanh; Bán lẻ thảm, đệm,
chăn, màn, rèm, vật liệu phủ tường và sàn trong các cửa hàng chuyên doanh; Bán lẻ hàng
may mặc, giày dép, hàng da và giả da trong các cửa hàng chuyên doanh; Bán lẻ thuốc,
dụng cụ y tế, mỹ phẩm và vật phẩm vệ sinh trong các cửa hàng chuyên doanh; Bán lẻ
hàng hóa khác mới trong các cửa hàng chuyên doanh; Vận tải hành khách đường bộ khác;
Vận tải hàng hóa bằng đường bộ; dịch vụ lưu trú ngắn ngày; Nhà hàng và các dịch vụ ăn
uống phục vụ lưu động; Kinh doanh bất động sản, Quyền sử dụng đất thuộc chủ sở hữu,
chủ sử dụng hoặc đi thuê; Điều hành tua du lịch; Dịch vụ tắm hơi, massage và các dịch vụ
24


tăng cường sức khoẻ tương tự (trừ hoạt động thể thao). Trong đó, Bán buôn tổng hợp là
trọng tâm.
Chức năng và nhiệm vụ của công ty:
-

Công ty thực hiện chức năng kinh doanh đẩy mạnh bán buôn hàng hóa tổng hợp
đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của nhân dân huyện Bình Gia.
Nhiệm vụ bảo tồn và phát triển vốn, sử dụng hiệu quả vốn được giao, làm cho vốn
sinh lời.
Chấp hành, thực hiện đúng các chế độ, chính sách và pháp luật của Nhà nước trong
quản lý kinh tế và kinh doanh. Có nghĩa vụ nộp ngân sách nhà nước theo quy định
của pháp luật.
Xây dựng các quy chế hoạt động kinh doanh và tổ chức sản xuất kinh doanh buôn

bán tổng hợp (dài hạn, ngắn hạn) phù hợp với định hướng phát triển kinh tế của
huyện Bình Gia nói riêng và tỉnh Lạng Sơn nói chung.
Bảo vệ và đảm bảo vệ sinh môi trường, giữ gìn trật tự an toàn xã hội.

2.1.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến hợp đồng mua bán hàng hóa tại Công ty cổ phần
Thương mại Lạng Sơn
Thứ nhất, về chính trị - pháp luật
Trong kinh doanh hiện đại, các yếu tố chính trị - pháp luật ngày càng có ảnh hưởng
lớn đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Khi tham gia vào kinh doanh để thành
công trên thị trường thì các doanh nghiệp phải không những nắm vững pháp luật trong
nước mà còn phải hiểu và nắm vững pháp luật quốc tế tại thị trường mà mình kinh doanh
đồng thời với việc nẵm vững luật pháp thì các doanh nghiệp cũng phải chú ý tới môi
trường chính trị. Chính trị có ổn định thì mới giúp doanh nghiệp chủ động hơn trong hoạt
động kinh doanh của mình. Các yếu tố cơ bản thuộc môi trường chính trị - pháp luật là:





Sự ổn định về chính trị và đường lối ngoại giao.
Sự cân bằng của các chính sách của Nhà nước.
Quan điểm, mục tiêu, định hướng phát triển kinh tế - xã hội.
Hệ thống pháp luật và mức độ hoàn thiện của hệ thống pháp luật

Thứ hai, về nền kinh tế thị trường
Các yếu tố kinh tế có ảnh hưởng vô cùng to lớn đến kết quả và hiệu quả kinh
doanh của các doanh nghiệp nói chung và ký kết được hợp đồng hay không. Các yếu tố
kinh tế bao gồm một phạm vi rất rộng từ các yếu tố tác động đến hợp đồng mua bán hàng
hóa. Các yếu tố cơ bản nhất ảnh hưởng đến doanh nghiệp kinh doanh là: tốc độ tăng
trưởng GDP, lãi suất tiền vay, tiền gửi ngân hàng, tỷ lệ lạm phát, tỷ giá hối đoái, mức độ

thất nghiệp, các cân thanh toán, chính sách tài chính, tín dụng, kiểm soát về giá cả, tiền
lương tối thiểu… Các yếu tố này ảnh hưởng đến phương thức và cách thức kinh doanh
của doanh nghiệp thậm chí còn có thể làm thay đổi cả mục tiêu, phương hướng và chiến
lược của doanh nghiệp.
Thứ ba, về tiềm lực của doanh nghiệp
25


×