Tải bản đầy đủ (.docx) (24 trang)

Khóa luận tốt nghiệp học viện ngân hàng Xác định các nhân tố ảnh hưởng đến rủi ro tín dụng - VIETINBANK

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (296.17 KB, 24 trang )

LỜI NÓI ĐẦU
Trong hoạt động Ngân hàng, cho vay là một hoạt động truyền thống và chủ yếu của
Ngân hàng thương mại. Hoạt động cho vay là danh mục bên Tài sản chiếm tỷ trọng
lớn nhất và hoạt động mang lại thu nhập lớn nhất cho các Ngân hàng thương mại.
Tuy nhiên, hoạt động tín dụng là một hoạt động đặc thù do đó bên cạnh các lợi
ích đạt được thì hoạt động tín dụng của ngân hàng luôn tiền ẩn nhiều rủi ro và có
ảnh hưởng rất lớn đến sự tồn tại và phát triển bền vững của một ngân hàng.
Trong những năm gần đây, khủng hoảng kinh tế thế giới diễn biến hết sức phức tạp
và có ảnh hưởng sâu sắc đến kinh tế của rất nhiều các quốc gia, đặc biệt là hệ thống
Ngân hàng. Điển hình là cuộc khủng hoảng tài chính ngân hàng Châu Á 1997-1998
bắt nguồn từ Thái Lan và gần đây là cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu khởi đầu
từ Mỹ năm 2008 và lan rộng ra toàn thế giới. Ngày càng nhiều các ngân hàng kể cả
các ngân hàng lớn tầm cỡ thế giới, có lịch sử phát triển hàng trăm năm như ngân
hàng Lehman Brothers tuyên bố phá sản với khoản lỗ và nợ xấu khổng lồ. Sự khủng
hoảng của hàng loạt các hệ thống ngân hàng lớn trên thế giới có nguyên nhân chủ
yếu từ các rủi ro mà ngân hàng gặp phải trong quá trình hoạt động kinh doanh của
mình. Có nhiều loại rủi ro khác nhau nhưng rủi ro mà ảnh hưởng trực tiếp và nhiều
nhất là rủi ro tín dụng. Rủi ro tín dụng là một loại rủi ro luôn được các nhà quản trị
rủi ro trong ngân hàng quan tâm, nó có tác động trực tiếp và mạnh mẽ đến sự phát
triển của ngân hàng, là nguyên nhân chính dẫn đến sự thua lỗ và phá sản trong hoạt
động kinh doanh của các Ngân hàng thương mại.
Trước bối cảnh đó, hệ thống ngân hàng Việt Nam còn rất non nớt, chưa đạt được tín
ổn định trong hoạt động, tính hiệu quả và an toàn chưa cao. Điều đó đòi hỏi chúng
ta phải nghiên cứu và nhận diện ra được các nhân tố ảnh tác động đến rủi ro trong
hoạt động ngân hàng, đặc biệt là rủi ro tín dụng để có thể đưa ra các biện pháp
để kiểm soát một cách triệt để ảnh hưởng của rủi ro tín dụng đến sự phát triển của
Ngân hàng. Có rất nhiều nhân tố ảnh hưởng đến rủi ro tín dụng của Ngân hàng, từ
các nhân tố từ khách hàng cho đến các nhân tố từ phía bản thân Ngân hàng hay từ


môi trường vĩ mô. Việc xác định được các nhân tố và mức độ ảnh hưởng đến rủi ro


tín dụng giúp các nhà quản trị hạn chế và kiểm soát rủi ro ở mức có lợi nhất cho
ngân hàng.Vì vậy, việc đánh giá rủi ro tín dụng của ngân hàng và các nhân tố tác
động trực tiếp gây ra rủi ro có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với các nhà quản trị
rủi ro trong ngân hàng nói chung và Maritime Bank nói riêng. Bài khóa luận của em
xin đưa ra cách xác định các nhân tố ảnh hưởng đến rủi ro tín dụng, xác định ảnh
hưởng của các nhân tố và tìm ra các giải pháp để kiểm soát rủi ro tín dụng tại Ngân
hàng Thương mại cổ phần Hàng hải Việt Nam nói riêng.
Mục tiêu nghiên cứu:
Bài khóa luận xin đưa ra các nghiên cứu giải quyết vấn đề sau:
Hệ thống hóa cơ sở lý luận về rủi ro tín dụng trong ngân hàng thương mai.
Phân tích tình hình hoạt động kinh doanh, thực trang rủi ro tín dụng và các nhân tố
ảnh hưởng đến rủi ro tín dụng tại Ngân hàng thương mại cổ phần Hàng hải Việt
Nam. Từ đó đánh giá các nhân tố nào có tác động chủ yếu đến rủi ro tín dụng của
Maritime Bank
Từ đánh giá trên và đinh hướng phát triển của Maritime Bank trong thời gian tới, đề
ra các giải pháp và đề xuất kiến nghị lên các cấp có thẩm quyền.
Phương pháp nghiên cứu
Sử dụng kết hợp cả hai phương pháp là định lượng và định tính. Phương pháp định
lượng: sử dụng thang đo khoảng, thu thập số liệu từ các báo cáo tài chính, báo cáo
tín dụng của Ngân hàng TMCP Hàng Hải Việt Nam. Phương pháp định tính: thông
qua thảo luận, trao đổi với các anh chị phòng tín dụng nhằm xác định các nhân tố
tác động chính đến rủi ro tín dụng tại chính Ngân hàng TMCP Hàng Hải Việt Nam.
Sử dụng phương pháp phân tích logic, phương pháp so sánh, thống kế để lý giải
quan hệ giữa các vấn đề có liên quan.
Sử dụng mô hình kinh tế lượng để tính toán mức độ phụ thuộc, ảnh hưởng giữa các
nhân tố đến rủi ro tín dụng tại Ngân hàng TMCP Hàng Hải Việt Nam.


Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Khóa luận tập trung nghiên cứu mặt lý luận về các nhân tố

tác động đến rủi ro tín dụng tại Ngân hàng TMCP Hàng Hải Việt Nam và xây dựng
mô hình định lượng giữa các nhân tố tác động và rủi ro tín dụng.
Phạm vi nghiên cứu: Các hoạt động kinh doanh của Ngân hàng TMCP Hàng Hải
Việt Nam.
Nội dung của Khóa Luận
Chương I: Lý luận chung về rủi ro tín dụng và Các nhân tố ảnh hưởng đến rủi ro
tín dụng
Chương II: Thực trạng rủi ro tín dụng và các nhân tố ảnh hưởng tới rủi ro tín dụng
tại Maritime Bank trong giai đoạn 2007 – 2013
Chương III: Giải pháp và kiến nghị nhằm kiểm soát rủi ro tín dụng thông qua các
nhân tố ảnh hưởng đến rủi ro tín dụng tại Maritime Bank.


CHƯƠNG 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ RỦI RO TÍN DỤNG VÀ CÁC NHÂN TỐ ẢNH
HƯỞNG ĐẾN RỦI RO TÍN DỤNG CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI

1.1. Rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng
1.1.1. Khái niệm rủi ro tín dụng
Hệ thống Ngân hàng hiện nay đã có nhiều cải cách, tuy nhiên rủi ro tín dụng vẫn là
nguyên nhân chủ yếu gây ra thất thoát và dẫn đến nguy cơ phá sản của ngân hàng.
Theo Thomas P.Fitch quan niệm: “Rủi ro tín dụng là loại rủi ro xảy ra khi người
vay không thanh toán được nợ theo thỏa thuận hợp đồng dẫn đến sai hẹn trong
nghĩa vụ trả nợ. Cùng với rủi ro lãi suất, rủi ro tín dụng là một trong những rủi ro
chủ yếu trong hoạt động cho vay của Ngân hàng” (Dictionary of Banking terms,
Barron’c Educational, Inc, 1997)
Timothy W.koch cho rằng: “Một khi ngân hàng nắm giữ tài sản sinh lời, rủi ro xảy
ra khi khách hàng sai hẹn – có nghĩa là khách hàng không thanh toán được vốn gốc
và lãi theo thỏa thuận. Rủi ro tín dụng là sự thay đổi tiềm ẩn thu nhập thuần và trị
giá của vốn xuất phát từ việc khách hàng không thanh toán hay thanh toán trễ

hạn.” (Bank management, University of South Carolina, The Dryden, 1995, page
107).
Ở Việt Nam, bắt đầu từ năm 2005, khi Ngân hàng Nhà nước ban hành quyết định
493 về phân loại nợ thì chúng ta mới có cái nhìn tổng quát về rủi ro tín dụng trong
hoạt động ngân hàng.
Theo quyết định 493/2005/QĐ-NHNN ban hành ngày 22/04/2005 quy định: “ Rủi
ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng là khả năng xảy ra tổn thất trong hoạt động
ngân hàng của tổ chức tín dụng do khách hàng không thực hiện hoặc không có khả
năng thực hiện nghĩa vụ của mình theo cam kết.”


13

Tiếp theo là thông tư 02 /2013/TT-NHNN quy đinh: “Rủi ro tín dụng trong hoạt
động ngân hàng là tổn thất có khả năng xảy ra đối với nợ của tổ chức tín dụng, chi
nhánh ngân hàng nhà nước do khách hàng không thự hiện hoặc không có khả năng
thực hiện một phần hoặc toàn bộ nghĩa vụ của mình theo cam kết”.
Gần đây nhất là dự thảo thông tư về quản trị rủi ro có quy định: “Rủi ro tín dụng
trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng là rủi ro tiềm ẩn gây ra tác động
tiêu cực đối với thu nhập hoặc vốn của tổ chức tín dụng do bên đi vay hoặc đối tác
(bao gồm các quốc gia) không thực hiện đúng điều khoản của hợp đồng hoặc
không thực hiện được đầy đủ nghĩa vụ của mình trong hợp đồng”.
Như vậy, rủi ro tín dụng được hiểu là những rủi ro do khách hàng vay không thực
hiện đúng các điều khoản của hợp đồng tín dụng, với biểu hiện cụ thể khách hàng
trả chậm nợ, trả nợ không đầy đủ hoặc không trả nợ khi đến hạn các khoản gốc và
lãi vay, gây ra những tổn thất về tài chính và khó khăn trong hoạt động kinh doanh
ngân hàng
1.1.2. Phân loại rủi ro tín dụng
Rủi ro tín dụng được chia thành rủi ro giao dịch và rủi ro hệ thống
Rủi ro giao dịch là rủi ro mà nguyên nhân phát sinh là do những hạn chế trong quá

trình giao dịch và xét duyệt cho vay, đánh giá khách hàng. Rủi ro giao dịch gồm 3
loại rủi ro chính:
Rủi ro lựa chọn: là rủi ro liên quan đến quá trình đánh giá và phân tích tín dụng, khi
ngân hàng lựa chọn những Phương án vay vốn có hiệu quả để ra quyết định cho
vay.
Rủi ro bảo đảm: phát sinh từ các tiêu chuẩn bảo đảm như các điều khoản trong hợp
đồng tín dụng, các loại tài sản đảm bảo, chủ thể đảm bảo, cách thức đảm bảo và
mức cho vay trên giá trị tài sản đảm bảo…
Rủi ro nghiệp vụ: là rủi ro có liên quan đến công tác quản lý khoản vay và hoạt
động cho vay, bao gồm cả việc xếp hạng khoản vay và kỹ thuật xử lý các khoản vay
có vấn đề.


Biểu đồ 1.1: Sơ đồ phân loại rủi ro tín dụng

Rủi ro danh mục: là hình thức của rủi ro tín dụng mà nguyên nhân phát sinh là do
hạn chế trong hoạt động quản lý danh mục cho vay của ngân hàng. Rủi ro danh mục
bao gồm:
Rủi ro nội tại: xuất phát từ các yếu tố, đặc điểm riêng có, mang tính riêng biệt bên
trong của mỗi chủ thể đi vay hoặc ngành, lĩnh vực kinh tế. Nó xuất phát từ đặc điểm
hoạt động hoặc đặc điểm sử dụng vốn của khách hàng vay vốn
Rủi ro tập trung là trường hợp Ngân hàng tập trung vốn cho vay quá nhiều với một
số khách hàng, cho vay quá nhiều doanh nghiệp hoạt động trong cùng một ngành,
lĩnh vực kinh tế hay cùng một vùng địa lý nhất định hoặc cùng một loại hình cho
vay có rủi ro cao.
Ngoài ra, nếu căn cứ vào khả năng trả nợ của khách hàng, rủi ro tín dụng được phân
chia thành các loại sau: Rủi ro không hoàn trả nợ đúng hạn và rủi ro do không có
khả năng trả nợ.




Rủi ro không hoàn trả nợ đúng hạn (rủi ro đọng vốn): Khi thiết lập mối quan hệ tín
dụng, ngân hàng và khách hàng vay phải quy ước về thời gian hoàn trả nợ vay. Tuy
nhiên đến thời hạn mà ngân hàng vẫn chưa thu hồi được vốn vay, những tổn thất
xảy ra trong trường hợp này người ta gọi đó là rủi ro không hoàn trả nợ đúng hạn.
Rủi ro do không có khả năng trả nợ: là rủi ro xảy ra trong trường hợp khách hàng đi
vay đã mất khả năng chi trả. Do vậy ngân hàng phải thanh lý tài sản đảm bảo của
khách hàng để thu hồi nợ.
Dấu hiệu nhận biết rủi ro tín dụng
Các dấu hiệu tài chính
Các chỉ số thanh khoản cho thấy dấu hiệu suy yếu: hệ số thanh toán nhanh, hệ số
thanh toán tức thời…. Các chỉ tiêu này quá thấp cho thấy doanh nghiệp đang mất
dần thanh khoản và có khả năng không trả được tiền vay cho ngân hàng.
Cơ cấu vốn không hợp lý: được biểu hiện bằng hệ số nợ, hệ số nợ trên vốn chủ sở
hữu, hệ số nợ dài hạn…. Nhìn chung, hệ số nợ cao trong tổng nguồn vốn của doanh
nghiệp thường phản ánh mức độ rủi ro tài chính của doanh nghiệp cao.
Các chỉ số khả năng sinh lời cho thấy dấu hiệu suy yếu: ROA (tỷ suất lợi nhuận /
tổng tài sản), ROE (tỷ suất lợi nhuận / Vốn chủ sở hữu)…
Các vòng quay hoạt động thể hiện sự suy yếu: vòng quay hàng tồn kho, vòng quay
các khoản phải thu… Các vòng quay ở mức không hợp lý thể hiện quá trình luân
chuyển vốn không hiệu quả, vốn bị ứ đọng hoặc luân chuyển quá nhanh.
Các chỉ số trên cho phép ta đánh giá được thực trạng tình hình sản xuất kinh doanh,
khả năng tài chính cũng như khả năng trả nợ của doanh nghiệp, phát hiện ra những
dấu hiệu của RRTD.
1.1.3.2. Các dấu hiệu phi tài chính
Dấu hiệu liên quan đến phương pháp quản lý của khách hàng
Có sự thay đổi về cơ cấu nhân sự trong hệ thống quản trị như: chủ tịch hồi đồng
quản trị, thành viên hội đồng quản trị, điều này có thể làm thay đổi các chính sách
của công ty.



Xuất hiện sự bất đồng trong hệ thống điều hành sẽ làm ảnh hưởng đến hoạt động
bình thường của Doanh nghiệp, từ đó ảnh hưởng đến hiệu quả và dòng tiền của
phương án kinh doanh hoặc dự án.
Ít kinh nghiệm, xuất hiện nhiều hành động nhất thời, không có khả năng đối phó với
những thay đổi, điều này ảnh hưởng đến khả năng giải quyết những khó khăn và
đưa doanh nghiệp vượt qua khó khăn.
Thuyên chuyển nhân viên quá thường xuyên dẫn đến sự mất ổn đinh trong doanh
nghiệp
Tranh chấp trong quá trình quản lý, khiến cho những chính sách điều hành công ty
không thống nhất và ảnh hưởng đến sự hoạt động ổn định của công ty.
Chi phí quản lý bất hợp pháp, dễ dẫn đến rủi ro cho ngân hàng. Quản lý có tính gia
đình
Dấu hiệu liên quan đến khác hàng
Giảm sút mạnh số dư tiền gửi, khả năng thanh khoản của doanh nghiệp giảm và dẫn
đến khả năng doanh nghiệp không có tiền trả nợ ngân hàng
Công nợ gia tăng và mức độ vay thường xuyên. Doanh nghiệp có thể yêu cầu khoản
vay vượt quá nhu cầu dự kiến và chấp nhận nguồn tài trợ lãi suất cao, đối với các
doanh nghiệp này có thể là họ rất cần tiền để kinh doanh, tuy nhiên khả năng trả nợ
cho ngân hàng không chắc chắn, có thể dẫn đến rủi ro tín dụng cho Ngân hàng.
Dấu hiệu vấn đề kỹ thuật và thương mại
Khó khăn trong phát triển sản phẩm mới hoặc không có sản phẩm thay thế: khi bộ
phận phát triển sản phẩm không làm tốt vai trò của mình thì sản phẩm của công ty
tung ra thị trường sẽ không được người tiêu dùng đón nhận, doanh thu kém và thua
lỗ.
Những thay đổi chính sách của nhà nước: nếu ngành nghề của công ty hoạt động
không thuộc lĩnh vực nhà nước khuyến khích thì rất có thể khi chính sách nhà nước
thay đổi, công ty sẽ gặp nhiều khó khăn hơn trong hoạt động.
Thay đổi trong quyền sở hữu: khi công ty hoạt động không hiệu quả, chủ doanh
nghiệp cạn kiệt vốn và thiếu năng lực điều hành, có thể sẽ phải nhượng lại công ty

cho người khác có năng lực, điều hành tốt hơn để vực dậy công ty.


Thay đổi ngành nghề kinh doanh: công ty hoạt động không hiệu quả trong lĩnh vực
này và quyết định chuyển sang lĩnh vực kinh doanh mới, chưa nhiều kinh nghiệm,
chưa thể hiểu biết sâu rộng về lĩnh vực mới nên rất nhiều rủi ro.
Sản phẩm có tính thời vụ cao: sản phẩm có tính thời vụ cao sẽ dẫn đến luồng tiền về
không đều, khi thị trường biến động thì kết quả hoạt động của công ty cũng bị ảnh
hưởng mạnh.
Có biểu hiện cắt giảm chi phí: chi phí được cắt giảm mạnh có thể là do tình hình
hoạt động trên một bộ máy cồng kềnh thực sự không hiệu quả.
Thay đổi trên thị trường về lãi suất và tỷ giá: khi lãi suất và tỷ giá biện động mạnh
mà công ty không thích nghi kịp với thay đổi đó thì sẽ bị công ty khác cạnh tranh,
nguy cơ dẫn đến phá sản.
Mất khách hàng lớn: Công ty hoạt động không tốt, chính sách khách hàng không
hiệu quả, sản phẩm thì kém hấp dẫn dẫn đến khách hàng bỏ công ty đi.
Vấn đề thị hiếu: thị hiểu của người dân cực kỳ quan trọng, nếu sản phẩm của công
ty không phù hợp với thị hiếu chung của người tiêu dùng thì rất khó để công ty có
thể phát triển.
Dấu hiệu về xử lý thông tin tài chính
Sự gia tăng tỷ lệ không cân đối nợ
Chuẩn bị số liệu tài chính không đủ, trì hoãn bất thường của người vay trong việc
nộp báo cáo tài chính và các khoản thanh toán theo kế hoạch cũng như trì hoãn giao
tiếp với các nhân viên ngân hàng.
Đối với những món vay kinh doanh là những thay đổi bất thường xuất hiện trong
các phương pháp mà người vay sử dụng để tính khấu hao TSCĐ, trả tiền trợ cấp,
tính giá trị hàng tồn kho, tính thuế hay tính thu nhập.
Cấu trúc lại số dư nợ, không chia cổ tức hay sự thay đổi mức phân hạng tín dụng
của khách hàng là những dấu hiệu cần chú ý
Những thay đổi bất lợi về giá cổ phiếu của khách hàng vay vốn.



Độ lệch giữa doanh thu hay dòng tiền thực tế so với dòng tiền dự kiến khi khách
hàng xin vay
Khả năng tiền mặt giảm: dòng tiền mặt của khách hàng giảm mà công ty không có
biện pháp cải thiện kịp thời sẽ làm doanh nghiệp mất khả năng thanh toán , nguy cơ
dẫn đến phá sản.
Phải thu tăng nhanh và thời hạn thanh toán nợ kéo dài: chứng tỏ vốn của khách
hàng đang bị ứ đọng lại ở khâu phân phối sản phẩm, dẫn đến khách hành không có
tiền để tiếp tục chu kỳ sản xuất kinh doanh tiếp theo.
Nhưng thay đổi bất thường ngoài dự kiến và không giải thích được trong số dư tiền
gửi của khách hàng.
Kết quả kinh doanh thua lỗ,điều này ảnh hưởng đến tình hình hoạt động cũng như
khả năng trả nợ cho Ngân hàng của khách hàng giảm.
Dấu hiệu phi tài chính khác
Có sự xuống cấp của cơ sở kinh doanh: điều này ảnh hưởng đến kết quả hoạt động
kinh doanh của khách hàng, làm cho hiệu quả sản xuất kinh doanh không cao. Hàng
tồn kho tăng do không bán được, hư hỏng, lạc hậu: đây là dấu hiệu quan trọng, điều
này đồng nghĩa với việc khách hàng không tiêu thu được sản phẩm, doanh thu giảm
và hiệu quả hoạt động không cao.
Có sự kỷ luật với cán bộ chủ chốt: điều này sẽ gây ra gián đoạn trong việc điều
hành cũng như việc đề ra các chính sách kinh doanh của công ty.
Thay thế trên thị trường về lãi suất , tỷ giá, mất khách hàng lớn, mất nhà cung ứng,
tăng đối thủ cạnh tranh, vấn đề thay đổi thị hiếu khách hàng.
1.1.4. Nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín dụng
1.1.4.1. Nguyên nhân từ môi trường kinh doanh
Môi trường tự nhiên
Môi trường tự nhiên
Các thiệt hại có nguyên nhân từ môi trường tự nhiên không thuận lợi như thời tiết,
khí hậu, động đất, núi lửa, bão lụt, hạn hán… có thể tác động trực tiếp hoặc gián

tiếp tới hoạt động kinh doanh và hiệu quả kinh doanh của khách hàng vay vốn, làm
cho khách hàng gặp khó khăn về nguồn tiền trả nợ, do vậy có thể dẫn đến rủi ro tín
dụng.


Môi trường kinh tế
Vấn đề chu kỳ kinh tế
Nền kinh tế trong chu kỳ suy thoái hay tăng trưởng ảnh hưởng lớn tới khả năng trả
nợ của khách hàng. Trong điều kiện nền kinh tế tăng trưởng, làm ăn thuận lợi, khả
năng trả nợ của người đi vay cao, vồn ngân hàng được bảo toàn. Ngược lại, trong
chu kỳ kinh tế suy thoái, tình hình kinh doanh gặp nhiều khó khăn ảnh hưởng xấu
tới khả năng trả nợ của khách hàng.
Vấn đề lạm phát
Lạm phát cao làm suy yếu nền kinh tế, tác động mạnh đến đời sống người dân và
doanh nghiệp khi giá cả leo thang, ảnh hưởng xấu tới tình hình kinh doanh và
nguồn trả nợ của khách hàng.
Vấn đề thất nghiệp
Tỷ lệ thất nghiệp cao đồng nghĩa với việc nền kinh tế không thế sử dụng tối đa
nguồn lực về con người, bỏ phí cơ hội sản xuất thêm sản phẩm dịch vụ, làm suy
giảm khả năng sản xuất, giảm hiệu ứng kinh tế của sản xuất theo quy mô, gây khó
khăn cho việc hoàn trả vốn vay của khách hàng.
Như vậy, môi trường kinh tế không thuận lợi sẽ ảnh hưởng xấu tới hoạt động của
khách hàng vay vốn, làm giảm khả năng trả nợ, làm tăng nguy cơ đọng vốn, mất
vốn của khách hàng.
Môi trường chính trị - xã hội, pháp luật
Vấn đề chính trị - xã hội
Một quốc gia có nền chính trị ổn định sẽ thu hút vốn đầu tư nước ngoài và kích
thích hoạt động kinh doanh trong nước. Ổn định an ninh chính trị giúp người dân an
tâm đầu tư, làm ăn, ngân hàng an tâm hơn về khả năng trả nợ của người vay. Ngược
lại, khi chính trị bất ổn thì các ngân hàng và khách hàng luôn phải đối mặt với sự

bất ổn định, khó khăn trong hoạt động kinh doanh, dẫn đên sự gia tăng rủi ro tín
dụng.
Vấn đề pháp luật
Môi trường pháp luật luôn là điều kiện quan trọng quyết định đến sự phát triển của
hoạt động tín dụng nói riêng và hoạt động kinh doanh của nền kinh tế nói chung.
Môi trường pháp lý đồng bộ, hệ thống pháp luật chặt chẽ sẽ làm lành mạnh hóa các
quan hệ kinh tế, đảm bảo các hoạt động kinh doanh diễn ra chôi chảy, các chủ thể


kinh tế sẽ yên tâm kinh doanh, mở rộng đầu tư phát triển. Ngược lại nếu pháp luật
thường xuyên thay đổi, không nhất quán, mâu thuẫn,không rõ ràng sẽ là một trở
ngại lớn đối với hoạt động tín dụng của ngân hàng và hoạt động kinh doanh của
khách hàng.
1.1.4.2. Nguyên nhân từ phía khách hàng
Đối với khách hàng cá nhân
Rủi ro tín dụng xảy ra khi các khách hàng gặp các rủi ro bất thường trong cuộc
sống, thiên tai, ốm đau, dịch bệnh, chết, tai nạn…. hoặc các rủi ro về đạo đức:
khách hàng không có thiện chí trả nợ, sử dụng vốn sai mục đích, cung cấp thông tin
giả mạo…
Đối với khách hàng doanh nghiệp
RRTD xảy ra các biến động khách quan ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh
doanh của khách hàng: biến động giá cả các yếu tố đầu vào, thời tiết bất thường gây
trì trệ sản xuất, nhà cung cấp không giao hàng đúng tiến độ, khách hàng của doanh
nghiệp chậm thanh toán… Hoặc các rủi ro mang tích chủ quan: vấn đề đọa đức của
doanh nghiệp, không có thiện chí trả nợ, cung cấp thông tin giả mạo, hay các vấn
đề về năng lực điều hành, quản trị của ban lãnh đạo yếu kém, đưa ra các đường lối,
phương hướng sai lầm làm mất khả năng trả nợ của doanh nghiệp.
1.1.4.3. Nguyên nhân từ phía ngân hàng
Chính sách tín dụng không hợp lý
Chính sách tín dụng được hội đồng quản trị ban hành, nhằm hướng dẫn và kiểm tra,

định hướng hoạt động ngân hàng một cách thống nhất trong toàn bộ tổ chức, hướng
dẫn cán bộ trong nghiệp vụ tín dụng. Khi chính sách tín dụng xác định khẩu vị rủi
ro không hợp lý, có những điều không rõ ràng hoăc có các kẽ hở sẽ tạo ra những
khoản vay không lành mạnh, chứa đựng rủi ro tín dụng cao.
Vấn đề trong thẩm định tín dụng – vấn đề đo lường tín dụng


Về thẩm định tín dụng
Khi quy trình thẩm định tín dụng bất hợp lý hoặc việc thẩm định có nhiều khó khăn khi
đánh giá về khó khăn và thiện chí trả nợ của khách hàng sẽ bị sai lệch, dẫn đến việc
đưa ra những sự lựa chọn sai.
Đo lường rủi ro tín dụng
Ngay cả khi xác định được rủi ro tín dụng nhưng việc đo lường lại không chính xác thì
vấn đề phân loại nợ, đảm bảo tiền vay sẽ không còn chính xác, đẩy ngân hàng tới nguy
cơ gánh chịu tổn thất khi rủi ro tín dụng xảy ra.
Vấn đề trong giám sát tín dụng
Ngân hàng đôi khi lơi lỏng công tác kiểm tra, giám sát sau khi giải ngân, Việc kiểm tra
giám sát là hết sức quan trọng, tránh nguy cơ khách hàng sử dụng vốn sai mục đích, có
thể khiến khách hàng bị thua lỗ, không có khả năng hoàn trả được vốn vay.
Vấn đề rủi ro đạo đức của cán bộ tín dụng
Yếu tố con người trong mọi hoạt động và trong hoạt động ngân hàng luôn được coi là
nguyên nhân của mọi nguyên nhân. Trong hoạt động tín dụng của ngân hàng yếu tố cán
bộ ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng thể hiện qua:
Thứ nhất là trình độ chuyên môn còn nhiều hạn chế. Sự hạn chế thể hiện trên hai khía
cạnh: trình độ chuyên môn về nghiệp vụ ngân hàng và đặc biệt là thiếu sự hiểu biết về
lĩnh vực kinh doanh của khách hàng.
Thứ hai là đạo đức nghề nghiệp, trong rất nhiều trường hợp xảy ra rủi ro tín dụng tại
các ngân hàng thường có sự cấu kết giữa cán bộ tín dụng và khách hàng gây hậu quả
rất nghiêm trọng, mặt khác nếu chính cán bộ có đạo đức tốt cũng góp phần quyết định
hạn chế rủi ro tín dụng.

Quan điểm nghề nghiệp xuất phát từ việc giải quyết mối quan hệ giữa trách nhiệm và
quyền lợi, giữa lợi ích cá nhân và lợi ích của ngân hàng. Khi các mối quan hệ trên
không được giải quyết thỏa đáng thì có thể dẫn tới quan điểm tiêu cực trong công tác,
ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng.
1.1.4.4. Nguyên nhân từ tài sản bảo đảm


Tài sản bảo đảm là cơ sở kinh tế và pháp lý giúp khách hàng đáp ứng điều kiện của
Ngân hàng để có được khoản tín dụng của ngân hàng. Tuy nhiên, trong trường hợp tài
sản bảo đảm lại khó định giá, giá thị trường biến động mạnh, tính khả mại thấp( tài sản
chuyên dụng) hoặc có tranh chấp pháp lý… Việc thu hồi tài sản là nguồn nợ thứ cấp do
đó trở nên khó khăn, ngân hàng không thể thu hồi đủ để bù đắp lượng vốn tổn thất.
Như vậy, các nguyên nhân phát sinh rủi ro tín dụng rất đa dạng, bao gồm cả nguyên
nhân khách quan và nguyên nhân chủ quan. Xác định đúng được nguyên nhân gây ra
rủi ro tín dụng sẽ giúp ngân hàng chủ động trong việc phòng ngừa và giảm thiểu rủi ro
tín dụng.
1.1.5. Các chỉ tiêu đo lường rủi ro tín dụng
1.1.5.1. Các chỉ tiêu về nợ quá hạn và nợ xấu a. Nợ quá hạn
Nợ quá hạn là khoản nợ mà một phần hoặc toàn bộ gốc và/ hoặc lãi đã quá hạn. Nợ quá
hạn là thước đo quan trọng nhất đánh giá sự lành mạnh thể chế, tác động tới tất cả các
lĩnh vực hoạt động chính của ngân hàng. Nợ quá hạn được đánh giá qua công thức:

Nợ quá hạn xuất hiện làm chậm quá trình tuần hoàn và chu chuyển vốn của các tổ chức
tín dụng, làm giảm hiệu quả sử dụng vốn, giảm lợi nhuận, giảm hiệu quả kinh doanh.
Thông thường ngân hàng có tỷ lệ nợ quá hạn càng cao thì mức độ rủi ro tín dụng càng
lớn, khả năng mất vốn càng cao, ảnh hưởng đến dòng tiền dự thu về, ảnh hưởng đến
cung thanh khoản. Nếu ngân hàng không dự tính được điều này thì sẽ phải đi vay với
lãi suất cao để bù đắp, làm tăng chi phí. Đối với tỷ lệ khách hàng có nợ quá hạn, chỉ số
này càng cao thể hiện chất lượng khách hàng kém, đẩy mức rủi ro lên cao. Do đó, mục
tiêu của tất cả các ngân hàng là giảm 2 chỉ tiêu này xuống mức thấp nhất có thể bằng

các biện pháp phòng ngừa rủi ro.
b. Nợ xấu


Theo quyết định 493/2005/QĐ-NHNN ban hành ngày 22/04/2005 của NHNN: “
Nợ xấu là những khoản nợ được phân loại vào nhóm 3 (nợ dưới chuẩn), nhóm 4 (nợ
nghi ngờ), và nhóm 5 (nợ có khả năng mất vốn)”. Việc xem xét nợ thuộc nhóm nào
đã được quy định bằng cả định lượng và định tính:
Định lượng: tại điều 5 Quyết định 493 quy định những khoản nợ thuộc nhóm 3 trở
xuống là những khoản đã quá hạn trả gốc và trả lãi trên 90 ngày.
Định tính: tại điều 7 Quyết định 493 cũng quy định “các NHTM căn cứ vào khả năng
trả nợ của khách hàng để phân loại nhóm nợ thích hợp”. Khi khả năng
trả nợ của khách hàng trở nên đáng lo ngại, các NHTM cần kịp thời phân loại nợ để kịp
thời theo dõi và có biện pháp xử lý nợ xấu.
Nợ xấu cho vay được đánh giá qua công thức:

Những tỷ lệ này càng cao thì mức độ an toàn của ngân hàng càng thấp. Nếu nợ xấu
không được giải quyết kịp thời thì đến một thời điểm nào đó khả năng trích lập dự
phòng rủi ro sẽ không đủ để bù đắp tổn thất và việc nâng cao tiềm lực tài chính
đảm bảo tỷ lệ an toàn vốn CAR cho ngân hàng sẽ trở nên khó khăn. Do vậy ngân hàng
phải có biện pháp để kiểm soát tỷ lệ nợ xấu ở mức thấp nhất có thể.
Tỷ lệ nợ xấu ảnh hưởng một cách trực tiếp đến rủi ro tín dụng. Khi tỷ lệ nợ xấu tăng
cao đồng nghĩa với việc tỷ lệ trích lập dự phòng rủi ro tăng theo do các nhóm nợ dưới
tiêu chuẩn trở xuống tăng lên. Dự phòng rủi ro tăng khi ngân hàng dự phóng được tổn


thất do rủi ro tín dụng trong thời gian tới có nguy cơ tăng. Chính vì vậy tỷ lệ nợ xấu có
quan hệ thuận chiều với rủi ro tín dụng.
Để chi tiết hơn, cụ thể hơn về tỉ lệ nợ xấu, chúng ta có thể khai thái tỉ lệ nợ xấu trong
từng ngành nghề lĩnh, vực cụ thể như:

*******
Qua các tỷ lệ chi tiết về nợ xấu của các ngành nghề, có thể xác định chính xác ngàn
kinh tế nào có tỷ lệ nợ xấu cao nhất dẫn đến rủi ro tín dụng của Ngân hàng.
c. Nợ nhóm 5
Nợ nhóm 5 là nợ có khả năng mất vốn và các khoản nợ được ngân hàng đánh giá là
không còn khả năng thu hồi, mất vốn

Tỷ lệ có khả năng mất vốn phản ánh mức độ có thể gây ra tổn thất là không có khả
năng thu hồi nợ của Ngân hàng. Tỷ lệ nợ có khả năng mất vốn càng cao thì rủi ro tín
dụng của ngân hàng trở nên nghiêm trọng. Tỷ lệ nợ có khả năng mất vốn cũng được
các ngân hàng tiến hành phân chia theo đối tượng khách hàng, theo lĩnh vực ngành
nghề và theo khu vực địa lý với ý nghĩa giúp các nhà quản lý kiểm soát và điều chỉnh
danh mục cho vay phù hợp với mục tiêu và khẩu vị rủi ro của ngân hàng mình.
d. Tỷ lệ khách hàng có nợ xấu
Tỷ lệ khách hàng có nợ xấu (khách hàng có nợ thuộc nhóm 3 trở lên) được tính bằng
số lượng khách hàng đang có nợ xấu trên tổng số lượng khách hàng hiện có
Số lượng khách hàng có nợ xấu
Tỷ lệ khách hàng có nợ xấu =
Tổng số lượng khách hàng
Tỷ lệ này đo lường xác suất rủi ro xảy ra nợ xấu khi chúng ta cấp tín dụng cho một
khách hàng mà không tính đến tỉ trọng giá trị khoản vay của mỗi khách hàng. Tỉ lệ này


từ một góc độ nào đó cũng phản ánh được chất lượng các khoản vay của một ngân
hàng. Thường thì các ngân hàng thường chú trọng tập trung vào thẩm định các khoản
vay có giá trị lớn kĩ lưỡng hơn là thẩm định các khoản vay có giá trị nhỏ lẻ, vay cá
nhân nên sẽ dẫn đến việc có thể tỉ lệ này sẽ cao hơn rất nhiều so với tỉ lệ nợ xấu trên
tổng dư nợ do số lượng các khoản vay nhỏ lẻ cho từng khách hàng nhiều nhưng tỉ trọng
trong tổng dư nợ lại thấp. Chính vì vậy khi đánh giá tình trạng rủi ro tín dụng của một
ngân hàng thì chúng ta nên nhìn từ nhiều góc độ khác nhau.

Bên cạnh đó, chúng ta cũng còn một số tiêu chí để đưa ra các chỉ số nhận xét như theo
mục đích sử dụng vốn thì có cho vay tiêu dùng, cho vay kinh doanh; theo phương thức
cho vay thì có cho vay từng lần, cho vay theo hạn mức tín dụng, cho vay theo dự án
đầu tư, cho vay hợp vốn, cho vay trả góp, cho vay theo hạn mức tín dụng dự phòng,
cho vay qua thẻ tín dụng, cho vay theo hạn mức thấu chi…
Phân tích càng đa dạng, càng ở nhiều khía cạnh, giác độ khác nhau thì chúng ta càng
có cái nhìn sâu sắc hơn về các nhân tố tác động đến rủi ro tín dụng.
1.1.5.2. Mức độ tập trung tín dụng
Tập trung danh mục quá cao cũng là một trong các nhân tố quan trọng dẫn đến rủi ro
tín dụng, chính vì vậy quản lí mức độ tập trung danh mục cho vay cũng là một nội
dung trong việc quản lí rủi ro tín dụng. Dựa vào các tiêu chí cụ thể thì nhà quản lí có
thể phân đoạn các khoản vay thành nhiều nhóm khác nhau, từ đó có thể so sánh và đưa
ra nhận xét giữa các nhóm khoản vay trong từng điều kiện hoàn cảnh cụ thể để có
hướng điều chỉnh cơ cấu các nhóm cho phù hợp để giảm thiểu rủi
ro cho ngân hàng nhưng vẫn tối đa hóa lợi nhuận ở mức hợp lí. Trong những trường
hợp cần thiết, khi nhận thấy ngân hàng đang tập trung cao vào một lĩnh vực kinh doanh
có xu hướng rủi ro tăng cao thời gian tới, ngân hàng có thể cắt giảm tỉ trọng cho vay
lĩnh vực đó và tiến hành đa dạng hóa danh mục cho vay ở những lĩnh vực khác để giảm
thiểu rủi ro. Ngân hàng có thể phân chia danh mục tín dụng thành nhiều loại như cho
vay công nghiệp, vay nông nghiệp, vay bất động sản, vay tiêu dùng và vay thương mại.
Vì kĩ thuật phân loại rất phức tạp, còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố nên thường các ngân
hàng hay hướng tới phân loại theo lĩnh vực ngành nghề cho vay, theo khu vực địa lý,
theo hệ thống xếp hạng tín nhiệm hoặc theo độ tuổi khách hàng
a. Mức độ tập trung tín dụng theo ngành nghề kinh doanh:


Chỉ tiêu này được xác định bởi mức độ tập trung vốn theo danh mục các ngành: xây
lắp, thương nghiệp, công nghiệp chế biến, nông nghiệp, điện… Chỉ tiêu này phụ thuộc
vào nhiều nhân tố: chính sách tín dụng của bản thân ngân hàng, mục tiêu của ngân
hàng trong từng thời kỳ, trạng thái nền kinh tế và định hướng phát triển kinh tế của

Nhà nước đối với từng ngành. Khi mức độ tập trung vốn vào một ngành nghề càng lớn
thì mức độ rủi ro có thể gặp phải càng lớn khi mộ trường kinh doanh của ngành đó biến
động xấu.
b. Mức độ tập trung tín dụng theo thời hạn
Chỉ tiêu này đo lường tỷ trọng dồn vốn tín dụng vào các hình thức cấp tín dụng: ngắn
hạn, trung hạn và dài hạn trong danh mục đầu tư của Ngân hàng. Mức độ tập trung
ngày càng cao thì rủi ro tín dụng càng lớn.

Trong đó: X là ngắn hạn/ trung hạn/ dài hạn
c. Mức độ tập trung tín dụng theo đối tượng khách hàng
Đối tượng khách hàng bao gồm một khách hàng và một nhóm khách hàng:

Tập trung một khối lượng lớn vốn tín dụng lớn vào một khách hàng hoặc một nhóm
khách hàng có thể giúp ngân hàng tối đa hóa lợi nhuận nhưng cũng đông nghĩa với rủi
ro gặp phải rất lớn. Vì vậy đây là một trong các chỉ tiêu quan trọng mà ngân hàng cần
thẩm định kỹ lưỡng trước khi quyết định cấp tín dụng cho khách hàng.


1.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến rủi ro tín dụng
Các nhân tố ảnh hưởng đến rủi ro tín dụng của Ngân hàng thương mại có thể được xem
xét trên 3 nhóm nhân tố : Nhóm nhân tố thuộc về bản thân NHTM, Nhóm các nhân tố
thuộc về khách hàng của Ngân hàng (đặc biệt là các doanh nghiệp) và nhóm nhân tố từ
môi trường vĩ mô
1.2.1. Nhân tố từ phía Ngân hàng
Chính sách và trình độ quản lý của bản thân ngân hàng là những nhân tố quan trọng
quyết định đến mức độ rủi ro tín dụng của Ngân hàng.
Văn hóa tín dụng và khẩu vị rủi ro: hiểu rõ văn hóa cho vay và khẩu vị rủi ro là điều rất
quan trọng để thành công trong công việc khiểm soát và quản lý rủi ro. Bởi vì hoạt
động cho vay là hoạt động rất quan trọng, sự ảnh hưởng của văn hóa tín dụng đến hoạt
động ngân hàng rất có ý nghĩa. Cán bộ ngân hàng cần phải hiểu rõ về khẩu vị rủi ro và

văn hóa tín dụng của ngân hàng mình. Văn hóa tín dụng ở đây là tập hợp các giá trị tín
dụng, niềm tin, nhận thức và hành vi tín dụng, nó chứa đựng tất cả những gì liên quan
đến tín dụng. Văn hóa tín dụng có mức độ ảnh rất lớn đến tín dụng và rủi ro tín dụng
Khả năng, phương pháp thẩm định, đánh giá từng khoản vay riêng lẻ. Phương pháp
không phù hợp hoặc sai sót trong đánh giá khoản vay của cán bộ dẫn đến việc ngân
hàng cấp tín dụng cho khách hàng có mức độ tín nhiệm thấp, khả năng trả nợ thấp, do
khách hàng không có khả năng trả nợ và điều đó dẫn đến rủi ro tín dụng.
- Chính sách phân bổ tín dụng giữa các khu vực, ngành nghề và khách hàng. Việc phân
bổ tín dụng không đồng đều dẫn đến khi ngành nghề mà ngân hàng tập trung cho vay
có diễn biến tiêu cực sẽ gây ra rủi ro lớn cho ngân hàng. Trong trường hợp ngân hàng
tập trung tín dụng vào một số ít đối tượng khách hàng, khi khách hàng đó mất khả năng
trả nợ, ngân hàng sẽ phải gánh chịu rủi ro tín dụng lớn.
Khả năng phân tích, đánh giá, nhìn nhận các đặc trưng của từng ngành nghề lĩnh vực
mà ngân hàng cho vay và các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của khách
hàng đó. Khả năng này thể hiện ở việc phân tích tình trạng hiện tại cũng như dự báo
biến động trong tương lai. Khi có rủi ro lớn liên quan đến tình hình kinh tế xã hội
chung xảy ra, các khách hàng vay trong ngành đó sẽ chịu ảnh hưởng và không có khả
năng trả nợ và dẫn đến rủi ro tín dụng cho ngân hàng.


Trình độ quản lý, giám sát khoản vay sau khi cho vay, đánh giá tình hìnhkhách hàng,
nhìn nhận tình hình khách hàng, nhìn nhận tình hình kinh tế và diễn biến các khu vực
đầu tư. Chất lượng cán bộ tín dụng đóng vai trò then chốt trong việc sàng lọc được
khách hàng tốt, dự án tốt. Cán bộ tín dụng phải tiếp xúc với nhiều khách hàng ở nhiều
lĩnh vực khách nhau, nhiều vùng lãnh thổ, thậm chí nhiều quốc gia khách nhau. Để
đánh giá tốt khách hàng họ phải am hiểu khách hàng, lĩnh vực kinh doanh mà khách
hàng tham gia, môi trường mà khách hàng sống. Như vậy, cán bộ tín dụng phải được
đào tạo và tự đào tạo kỹ lưỡng và toàn diện, giảm thiểu rủi ro tín dụng cho ngân hàng.
- Đạo đức của cán bộ tín dụng: trong rất nhiều trường hợp xảy ra rủi ro tín dụng tại các
ngân hàng thường có sự cấu kết giữa cán bộ tín dụng và khách hàng gây hậu quả rất

nghiêm trọng, mặt khác nếu chính cán bộ có đạo đức tốt cũng góp phần quyết định hạn
chế rủi ro tín dụng.
- Quan điểm nghề nghiệp xuất phát từ việc giải quyết mối quan hệ giữa trách nhiệm và
quyền lợi, giữa lợi ích cá nhân và lợi ích của ngân hàng. Khi các mối quan hệ trên
không được giải quyết thỏa đáng thì có thể dẫn tới quan điểm tiêu cực trong công tác,
ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng.
1.2.2. Nhân tố từ phía khách hàng
Một trong những nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến rủi ro tín dụng trong ngân hàng là
nhân tố từ phía khách hàng vay vốn.
Mục đích vay vốn và thiện trí trả nợ vay: Đa số khách hàng khi vay vốn Ngân hàng đều
có ý tưởng kinh doanh hoàn hảo với phương án kinh doanh khả thi và cụ thể và luôn có
mong muốn trả nợ ngân hàng. Số khách hàng sử dụng vốn sai mục đích và không có
thiện trí trả nợ ngân hàng để chiến đoạt tài sản là rất ít. Tuy nhiên. Những rủi ro phát
sinh trong quá trình sủ dụng vốn vay như ảnh hưởng của môi trường kinh doanh hay
môi trường kinh tế… dẫn đến nảy sinh ý tưởng không có thiện trí trả nợ của khách
hàng, và điều này dẫn đến rủi ro tín dụng cho ngân hàng.
Khả năng quản lý kinh doanh của khách hàng: Khi khách hàng vay tiền ngân
hàng để mở rộng quy mô kinh doanh, đa phần là tập trung vào đầu tư vào tài sản vật
chất chứ ít khách hàng dám mạnh dạn đổi mới cung cách quản lý, đầu tư cho bộ máy
giám sát kinh doanh tài chính, tái chính kế toán theo đúng chuẩn mực. Quy mô kinh
doanh được mở rộng quá lớn so với khả năng và tư duy quản lý là nguyên nhân chính


dẫn đến sự phá sản của các phương án kinh doanh đặc biệt thường xảy ra với các
doanh nghiệp vừa và nhỏ, từ đó kéo theo rủi ro tín dụng ngân hàng xảy ra.
- Sự minh bạch, ổn định của tình hình tài chính doanh nghiệp: Đối với nhiều doanh
nghiệp, thói quen ghi chép đầy đủ, chính xác rõ ràng các sổ sách kế toán vẫn chưa
được khách hàng cung cấp cho khách hàng nhiều khi chỉ mang tính chất hình thức hơn
là thực chất. Khi cán bộ ngân hàng lập các bảng phân tích tài chính của doanh nghiệp
dựa trên số liệu khách hàng cung cấp thường thiếu thực tế và xác thực. Do đó khả năng

giám sát và đánh giá của ngân hàng về việc sử dụng vốn của doanh nghiệp rất hạn chế
và không chính xác, doanh nghiệp có thể sử dụng vốn sai mục đích, làm ăn thua lỗ dẫn
đến không có khả năng trả nợ cho ngân hàng, và điều này đồng nghĩa với rủi ro tín
dụng ngân hàng xảy ra.
1.2.3. Nhân tố từ môi trường vĩ mô
- Mức độ ổn định của nền kinh tế - xã hội: Môi trường kinh tế không ổn định có những
sự kiện bất thường xảy ra ảnh hưởng đến tốc độ tăng trưởng kinh tế và khả năng hoạt
động kinh doanh của khách hàng nói chung. Khi điều kiện kinh tế có những biến cố
tiêu cực, có thể là suy thoái kinh tế dẫn đến tổng cầu của nền kinh tế giảm ảnh hưởng
đến kế hoạch sản xuất và tiêu thụ sản phẩm của Doanh nghiệp, hoặc những yếu tố đặc
trưng chỉ ảnh hưởng đến một hoặc một vài ngành có liên quan như sự khan hiếm của
các yếu tố đầu vào, thị trường đầu ra bị thu hẹp. Tất cả các yếu tố đó đều có thể dẫn
đến khả năng không trả được nợ của một nhóm khách hàng hoặc toàn bộ khách hàng
của Ngân hàng. Điều này đồng nghĩa với việc ngân hàng phải đối mặt với một mức rủi
ro tín dụng rất cao.
- Mức độ đầy đủ, chặt chẽ của hệ thống chính sách, quy định pháp lý và công tác kiểm
tra giám sát. Nếu hệ thống chính sách còn hạn chế, doanh nghiệp có điều kiện lợi dụng
những kẽ hở để “lách” luật, khách hàng có điều kiện sử dụng vốn sai mục đích, có thể
thiếu thiện chí trả nợ cho ngân hàng. Ngoài ra, nếu công tác kiểm tra giám sát nền kinh
tế không thường xuyên và đầy đủ, các sai phạm hay nguy cơ đổ vỡ không được các cơ
quan nhận diện và cảnh báo sẽ khiến cho ngân hàng không lường trước được các biến
cố phát sinh và dễ dẫn đến rủi ro tín dụng. Ngược lại, khi các chính sách, quy định
pháp lý có những nội dung thắt chặt hoặc không khuyến khích sự tăng trưởng của
ngành sẽ khiến. Trong những năm gần đây, Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội,
Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước và các cơ quan liên quan đã ban hành nhiều Luật liên
quan đến hoạt động tín dụng ngân hàng, quan tâm và sát sao hơn. Tuy nhiên, Luật và
các Văn bản đã có nhưng việc triển khai vào hoạt động ngân hàng thì lại hết sức chậm


chạp và còn gặp phải nhiều vướng mắc bất cập như một số văn bản về cưỡng chế thu

hồi nợ. Những văn bản này đều có quy định: Trong trường hợp khách hàng không trả
được nợ, Ngân hàng thương mại có quyền xử lý Tài sản đảm bảo nợ vay để thu hồi nợ.
Trên thực tế, các Ngân hàng thương mại không làm được điều này vì ngân hàng là một
tổ chức kinh tế, không phải là cơ quan quyền lực Nhà nước, không có chức năng cưỡng
chế, buộc khách hàng bàn giao Tài sản đảm bảo cho ngân hàng để xử lý hoặc việc
chuyển Tài sản đảm bảo nợ vay để Tòa án xử lý qua con đường tố tụng … cùng nhiều
các quy định khác dẫn đến tình trạng Ngân hàng thương mại không giải quyết được nợ
tồn đọng, tài sản tồn đọng. Sự thanh tra, kiểm tra, giám sát của Ngân hàng nhà nước
còn chưa thực sự hiệu quả. Bên cạnh những cố gắng và kết quả đạt được, hoạt động
thanh tra ngân hàng và đảm bảo an toàn hệ thống chưa có sự cải thiện căn bản về chất
lượng. Năng lực cán bộ thanh tra, giám sát chưa đáp ứng được yêu cầu, thậm chí một
số nghiệp vụ kinh doanh và công nghệ mới Thanh tra ngân hàng còn chưa theo kịp.
Nội dung và phương pháp thanh tra, giám sát lạc hậu, chậm đổi mới. Vai trò kiểm toán
chưa được phát huy và hệ thống thông tin chưa được tổ chức một cách hữu hiệu. Thanh
tra tại chỗ vẫn là phương pháp chủ yếu, khả năng kiểm soát toàn bộ hoạt động thị
trường tiền tệ và giám sát rủi ro còn yếu. Thanh tra ngân hàng còn hoạt động một cách
thụ động theo cách xử lý vụ việc đã phát sinh, ít có khả năng ngăn chặn và phòng ngừa
rủi ro và vi phạm. Mô hình tổ chức của thanh tra ngân hàng còn nhiều bất cập. Do vậy
mà có những sai phạm của các Ngân hàng thương mại không được thanh tra Ngân
hàng nhà nước cảnh báo, có biện pháp ngăn chặn ngay từ đầu, để đến khi hậu quả nặng
nề đã xảy ra rồi mới can thiệp. Hàng loạt các sai phạm về cho vay, bảo lãnh tín dụng ở
một số Ngân hàng thương mại dẫn đến những rủi ro rất lớn, có nguy cơ đe dọa sự an
toàn của cả hệ thống lẽ ra có thể đã được ngăn chặn ngay từ đầu nếu bộ máy thanh tra
phát hiện và xử lý sớm hơn
Các chính sách tiền tệ: Khi mà chính phủ đưa ra các chính sách tiền tệ và ngân hàng là
một đơn vị thực hiện chính sách đó. Tuy nhiên những chính sách đó có thể có lợi cho
Ngân hàng nhưng cũng có thể có hại. Khi mà NHNN thay đổi lãi suất huy động, lãi
suất cơ bản hoặc tỷ lệ dự trữ bắt buộc… nó làm thay đổi mọi kế hoạch của ngân hàng.
Khi lãi suất huy động tăng lên làm ngân hàng gặp khó khăn trong việc cho vay do chịu
mức chi phí huy động cao thì ngân hàng để đảm bảo lợi nhuận sẽ phải đẩy lãi suất cho

vay lên cao. Điều đó cũng đồng nghĩa với khả năng trả nợ gốc và lãi của khách hàng
cho ngân hàng là rất khó khăn và rủi ro tín dụng vì thế tăng cao.
Chất lượng hệ thống thông tin quản lý: hệ thống thông tin quản lý là cơ sở cho các
thành viên trong nền kinh tế tham chiếu để có các quyết định kinh doanh phù hợp. Hệ


thống thông tin tốt phải đảm bảo các yêu cầu như cập nhật thường xuyên, dễ dàng tiếp
cận và nguồn gốc thông tin rõ ràng mạch lạc. Tuy nhiên không phải quốc gia nào cũng
có hệ thống thông tin tốt như vậy, vì thế rủi ro tín dụng có thể phát sinh từ nguyên nhân
thông tin không cân xứng.
1.3. Ý nghĩa của việc xác định các nhân tố ảnh hưởng đến rủi ro tín dụng
của hệ thống ngân hàng thương mại.
Trong hoạt động kinh doanh ngân hàng, rủi ro tín dụng ảnh hưởng rất lớn đến mọi hoạt
động của ngân hàng. Rủi ro tín dụng xảy ra trước hết sẽ tác động làm Ngân hàng không
thu hồi được vốn như dự kiến, mất cơ hội đầu tư cho các dự án khả thi khác, làm tăng
chi phí và giảm lợi nhuận của Ngân hàng. Khi rủi ro tín dụng phát sinh cùng việc ngân
hàng không thực hiện được kế hoạch đầu tư cũng như kế hoạch thanh toán các khoản
tiền gửi khi đến hạn, rủi ro tín dụng lớn khi sẽ dẫn đến khó khăn trong việc huy động
vốn và phát triển các dịch vụ, khó mở rộng mối quan hệ với bạn hàng và với các ngân
hàng khác, buộc ngân hàng phải thu hẹp hoạt động.
Nếu một khoản vay nào đó bị tổn thất, không thu hồi đượcthì ngân hàng phải sử dụng
nguồn vốn của mình để bù đắp. Vì vậy nếu xảy ra quá nhiều rủi ro trong hoạt động tín
dụng mà ngân hàng phải dùng vốn của mình để trang trải cho các thất thoát này thì đến
một chừng mực nào đó ngân hàng có thể lâm vào tình trạng mất thanh khoản và thậm
chí là phá sản.
Việc nghiên cứu và tìm ra các nhân tố tác động đến rủi ro tín dung trong ngân hàng
thương mai có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, giúp các nhà quản trị Ngân hàng đánh giá
và xác định được đâu là nhân tố chính tác động mạnh mẽ đến rủi ro tín dụng trong
ngân hàng, yếu tố nào là yếu tố tác động làm rủi ro tín dụng diễn biến theo chiều hướng
tích cực, yếu tố nào làm rủi ro tín dụng diễn biến theo chiều hướng xấu. Từ đó các nhà

quản trị rủi ro trong ngân hàng có thể đề ra các biện pháp nhằm hạn chế ảnh hưởng tiêu
cực của các nhân tố tác động đến rủi ro tín dụng nhằm giảm thiểu rủi ro, hoặc làm tăng
tác động hiệu quả của những nhân tố ảnh hưởng tích cực.


KẾT LUẬN CHƯƠNG 1
Qua việc nghiên cứu chương 1 của khóa luận, chúng ta thấy được khái niệm về rủi ro
tín dụng, các dấu hiệu của rủi ro tín dụng, nguyên nhân, biểu hiện cũng như các nhóm
nhân tố ảnh hưởng đến rủi ro tín dụng. Qua đó thấy được tầm quan trọng của việc xác
định các nhân tố ảnh hưởng đến rủi ro tín dụng và việc quản trị rủi ro tín dụng trong
Ngân hàng thương mại.


×