Tải bản đầy đủ (.docx) (76 trang)

TÀI LIỆU THAM KHẢO giá trị đạo đức truyền thống với việc xây dựng đạo đức mới cho thanh niên bạc liêu hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (413.54 KB, 76 trang )

“Giá trị đạo đức truyền thống với việc xây dựng đạo đức mới cho Thanh
niên Bạc Liêu hiện nay”
Thanh niên là một lực lượng xã hội đặc thù, đóng vai trò quan trọng trong sự vận
động và phát triển của xã hội. Lịch sử nhân loại đã chứng minh rằng sự thành bại,thịnh -suy của mỗi dân tộc phần lớn đều phụ thuộc vào thanh niên. Chính vì vậy
việcgiáo dục, đào tạo bồi dưỡng thế hệ thanh niên là một việc làm thường xuyên và
cần thiết.
Trong sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi
xướng và lãnh đạo đã và đang mang lại những kết quả to lớn trên tất cả các lĩnh vực
củađời sống xã hội. Với những thành tựu đó đã tạo điều kiện cho thanh niên học tập,
giaolưu với các nước, đặc biệt là các nước có nền khoa học - công nghệ tiên tiến. Từ
đó giúpcho thanh niên tích luỹ được nhiều kinh nghiệm quý báu, có cơ hội tiếp thu
những tinh hoa văn hoá của nhân loại. Ngoài ra, chính sự năng động của cơ chế thị
trường đã tôi luyện cho thanh niên có được bản lĩnh đáng quý: nhạy bén, quyết đoán,
thích khám phácái mới, vươn lên để tự khẳng định mình. Thế nhưng bên cạnh những
thành tựu đạtđược đã nảy sinh những hạn chế nhất định do cơ chế thị trường mang
lại, đó là sự xuấthiện đến mức báo động các hiện tượng phản đạo đức, phi nhân tính
trong đời sống xãhội. Chính lối sống thực dụng, chạy theo đồng tiền, thói ích kỷ,
buông thả, phai mờ lýtưởng, bất chấp đạo lý ... đang từng ngày, từng giờ làm xói
mòn, băng hoại những nét đẹp văn hoá, đặc biệt là những giá trị đạo đức truyền thống
của dân tộc. Mặc dù Đảngtacó nhiều quan điểm, đường lối nhằm kế thừa và phát huy
những giá trị đạo đức truyềnthống trong việc xây dựng đạo đức mới cho mọi tầng lớp
nhân dân nói chung, cho thanhniên nói riêng, thế nhưng việc cụ thể hoá các quan
điểm, đường lối ấy của đảng ở một số nơi làm chưa tốt.
Ở Bạc Liêu, mặc dù các chủ thể giáo dục đã có nhiều cố gắng trong quá trìnhgiáo
dục các giá trị đạo đức cho thanh niên, thế nhưng do nhiều nguyên nhân khác nhauđã
làm cho hiệu quả giáo dục chưa cao, thậm chí ở một số nơi cấp ủy Đảng, chínhquyền
và tổ chức Đoàn còn xem nhẹ hoặc chưa thấy rõ tầm quan trọng của việc giáodục đạo
đức cho thanh niênTrước thực trạng ấy, việc giáo dục đạo đức mới cho thanh niên nói
chung, chothanh niên Bạc Liêu hiện nay nói riêng trên cơ sở kế thừa và phát huy



những giá trị đạođức truyền thống của dân tộc như tinh thần đại hội lần thứ X của
Đảng xác định:Xây dựng và hoàn thiện các giá trị, nhân cách con người Việt Nam,
bảo vệ và phát huy những bản sắc văn hoá dân tộc trong thời kỳ công nghiệp hoá hiện
đại hoá, hội nhập kinh tế quốc tế. Bồi dưỡng các giá trị văn hoá trong thanh niên học
sinh đặc biệt là lý tưởng sống, năng lực trí tuệ, đạo đức và bản lĩnh văn hoá con người
Việt Nam [9, tr.106]. đang là một yêu cầu cấp thiết hiện nay.
Vấn đề kế thừa và phát huy những giá trị đạo đức truyền thống để xây dựng đạo
đức mới nói chung, cho thanh niên nói riêng đã được Đảng ta và nhiều nhà khoa
họcbàn đến. Đề cương văn hoá Việt Nam (1943) Đảng ta đã đề cập đến vấn đề kế thừa
giátrị văn hoá truyền thống dân tộc để xây dựng nền văn hoá Việt Nam với nội dung
“dântộc - khoa học -đại chúng”; Giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc Việt Nam
(1980)của Giáo sư Trần Văn Giàu (Nxb Khoa học xã hội,); Về giá trị tinh thần truyền
thống(1993) Nxb thông tin lý luận, Hà Nội; Văn hoá dân tộc trong quá trình mở cửa ở

nướcta hiện nay. (Khoa Văn hoá Xã hội chủ nghĩa, Học viện Chính trị quốc gia Hồ chí
Minh,Nxb CTQG, Hà Nội năm 1995; “Giá trị - định hướng giá trị nhân cách và giáo dục
giátrị” chương trình khoa học công nghệ cấp nhà nước KX 07 - 04, Hà Nội năm
1995;“Quan hệ kinh tế và đạo đức trong việc định hướng các giá trị đạo đức hiện
nay”củaNguyễn Thế Kiệt (Tạp chí Triết học, số 6,1996); Nghị quyết Trung ương 5 Ban
chấphành trung ương khoáVIII (1998) với nội dung: “Xây dựng và phát triển nền văn

hoá Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc”; “Giá trị truyền thống - nhân lõi và
sứcsống bên trong của sự phát triển đất nước, dân tộc”của tác giả Nguyễn Văn
Huyên(Tạp chí Triết học, số 4, 1998); “Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh và vấn đề giáo

dụcrèn luyện trong nền kinh tế thị trường” của Hoàng Trung (Tạp chí Triết học 5, 1998)
Một số chuyên khảo tiêu biểu đi sâu nghiên cứu nhằm xác định các giá trị đạo
đức truyền thống làm cơ sở cho việc xây dựng đời sống văn hoá đặc biệt là đời sống
vănhoá và con người Việt Nam trong thời kỳ đổi mới: “Giáo dục đạo đức với sự hình
thànhvà phát triển nhân cách sinh viên Việt Nam trong giai đoạn hiện nay”của Trần Sĩ

Phán(luận án Tiến sĩ, 1999); “Quan hệ kinh tế và đạo đức với việc xây dựng đạo đức

mớicho thế hệ trẻ hiện nay ở Việt Nam” của Nguyễn Đình Quế (luận văn thạc sĩ, 2000);
“Giá trị đạo đức và biểu hiện của nó trong đời sống xã hội”của Mai Xuân Lợi, (tạp chí
Triết học số 3, 2001);“Vấn đề giáo dục đạo đức truyền thống cho sinh viên Việt Nam hiện


nay”của Doãn Thị Chín (luận văn thạc sĩ, 2004); “Đạo đức mới - đạo đức cáchmạng từ các
cách tiếp cận khác nhau” của Trịnh Duy Huy (tạp chí triết học số 1,2006); “Tư tưởng Hồ

Chí Minh về thế hệ trẻ và giáo dục thế hệ trẻ”của Thái Thanh Thuỷ(thông tin công tác
Trường chính trị, số 1, 2006); “Toàn cầu hoá “nguy cơ tha hoá vàvấn đề định hướng giá
trị văn hoá tinh thần” của Đặng Hữu Toàn (tạp chí triết học, số 5); “Về việc tạo ra bước
chuyển mạnh mẽ trong xây dựng nền đạo đức mới ở nước ta hiện nay”của Nguyễn Văn
Phúc (tạp chí triết học, số 11, 2006); “Nhân ái - một truyền thống cần kế thừa và phát huy
trong việc xây dựng lối sống ở việt nam hiện nay” của Văn Thắng (tạp chí triết học, số 7, 2007).

Nghiên cứu tác động của đạo đức trong việc rèn luyện và phát triển nhân cáchnói
chung, thanh niên nói riêng, trên các tạp chí đã có một số tác giả đề cập: “Về tínhquy
luật của sự hình thành hệ giá trị và chuan mực đạo đức mới”của Nguyễn Văn Phúc (tạp chí Triết

học, số 3, 2007); “Tác động của toàn cầu hoá đến truyền thống cần cù, tiết kiệm của dân tộc
Việt Nam” của tác giả Mai Thị Quý (Tạp chí Triết học, số 5, 2006).“Tác động của toàn
cầu hoá đến truyền thống cần cù, tiết kiệm của dân tộc Việt Nam” của tác giả Mai Thị Quý

(Tạp chí Triết học, số 5, 2006)
Như vậy việc kế thừa và đổi mới những giá trị đạo đức truyền thống để xây dựng
đạo đức mới ở nước ta hiện nay đã được rất nhiều nhà khoa học quan tâm nghiên cứu.
Tuy nhiên, vấn đề phát huy giá trị đạo đức truyền thống để xây dựng đạo đức mới
nói chung, đạo đức mới cho thanh niên nói riêng là vấn đề đang có biến đổi phức tạp,

vì thế cần phải tiếp tục đi sâu nghiên cứu.
Chương 1

GIÁ TRỊ ĐẠO ĐỨC TRUYỀN THỐNG
VÀ VAI TRÒ CỦA NÓ TRONG VIỆC XÂY DỰNG ĐẠO ĐỨC MỚI CHO
THANH NIÊN VIỆT NAM HIỆN NAY
1.1. GIÁ TRỊ ĐẠO ĐỨC TRUYỀN THỐNG CỦA DÂN TỘC VIỆT
NAMCỦA THANH NIÊN
1.1.1. Giá trị, giá trị đạo đức và giá trị đạo đức truyền thống
“Giá trị” là một trong những phạm trù cơ bản có liên quan đến đời sống
conngười, đến thực tiễn xã hội: “Giá trị là phạm trù người. Chỉ trong con người xã
hội mớicó cái gọi là giá trị. Trong quá trình “chiếm hữu” để trưởng thành và để tự
vượt lênmình giữa con người với ngoại giới, giữa con người với con người, trong xã


hội xuấthiện khái niệm giá trị” [14, tr.5 - 11]. Giá trị được đề cập và nghiên cứu trong
rất nhiềulĩnh vực khoa học: đạo đức học, tâm lý học, xã hội học, chính trị học, kinh tế
học, triết học... Tuy nhiên trong mỗi lĩnh vực khác nhau, khái niệm về giá trị có thể
mang nhữngnội dung khác nhau.
Ngay từ thời cổ đại, gắn liền với triết học, con người đã có những hiểu biết ban
đầu sơ khai về “giá trị”, “giá trị học”. Mãi đến cuối thế kỷ XIX giá trị học mới
táchriêng thành một lĩnh vực khoa học độc lập và từ đó thuật ngữ giá trị được dùng
để chỉ một khái niệm khoa học.
Trong lĩnh vực kinh tế học, phạm trù giá trị gắn liền giá trị hàng hoá, giá cả và
sản xuất hàng hoá và phía sau nó là sức lao động, giá trị lao động của người làm ra
hàng hoá. Theo quan điểm kinh tế, giá trị kinh tế là sức mạnh của sản phẩm này
khống chếnhững sản phẩm khác thông qua trao đổi, giá trị của một vật phẩm thể hiện
ở tính có íchcủa nó, nghĩa là vật phẩm đó có khả năng đáp ứng thoả mãn nhu cầu nào
đó của conngười. Do vậy trong phân tích kinh tế thì giá trị là vị trí tương đối của hàng
hoá trong trật tự ưu tiên, vị trí của nó càng cao thì giá trị của nó càng lớn.

Trong lĩnh vực triết học, khi đề cập đến phạm trù giá trị có nhiều quan điểm khác
nhau. Những người theo chủ nghĩa tiên nghiệm (duy tâm khách quan) như
Kant,M.SheLer, N.Gartman ... coi giá trị là sự tồn tại của những bản chất tiên
nghiệm, nhữngchuẩn mực lý tưởng tồn tại bên ngoài sự vật không phụ thuôc vào nhu
cầu và ham muốncủa con người. Trái lại, chủ nghĩa duy tâm chủ quan coi giá trị là
hiện tượng của ý thức,là biểu tượng của thái độ chủ quan của con người đối với
khách thể mà người đó đang đánh giá. Những người theo thuyết tự nhiên chủ nghĩa
lại coi giá trị là biểu hiện những nhu cầu tự nhiên của con người, từ đó làm nảy sinh
các quan điểm xã hội, kinh tế vàthực dụng.
Chủ nghĩa Mác - Lênin đã nhấn mạnh bản chất xã hội, tính lịch sử, tính nhậnthức
được và tính thực tiễn của giá trị và coi giá trị xã hội là những hiện tượng xã hội đặc
thù, giá trị không phải là những cái tiên nghiệm, thần bí, có từ hư vô mà mọi giá
trịđều có nguồn gốc từ lao động sáng tạo của quần chúng và khi nói đến giá trị baogiờ
cũng nói đến mối quan hệ giữa khách thể và chủ thể. Con người có khả năng nhận
thứcđược giá trị và thông qua thực tiễn để kiểm nghiệm giá trị. Hay nói cách khác,
thực tiễnlà tiêu chuẩn khách quan của giá trị.


Mặc dù có nhiều khái niệm khác nhau về phạm trù giá trị, thế nhưng có thể khái
quát lại rằng giá trị có một số đặc điểm sau:
Một là, mỗi vật thể hay tư tưởng đều có những giá trị, nếu nó được con ngườithừa

nhận hoặc đặt cho nó một vị trí quan trọng trong đời sống của họ.
Hai là, giữa bản chất và quy luật của bản thân sự vật, hiện tượng có sự khác nhau

rất cơ bản với giá trị của sự vật, hiện tượng. Bản chất và quy luật của sự vật hiện
tượngtồn tại không phụ thuộc vào nhu cầu của con người, còn giá trị chỉ tồn tại trong
mối liênhệ với nhu cầu của con người. Vì vậy, tuỳ theo việc con người có hay không
có nhu cầunào đó mà một sự vật hay hiện tượng đối với con người là có hay không có
giá trị .

Ba là, giá trị luôn mang tính khách quan. Điều đó có nghĩa là sự xuất hiện, tồn tại

hay mất đi một nhu cầu nào đó của con người không phải do ý thức mà do yêu cầu
củahoạt động, của thực tiễn trong đó con người sống và hoạt động.
Bốn là, trong mọi giá trị đều chứa đựng yếu tố nhận thức, tình cảm, hành vi của

chủ thể trong mối quan hệ với sự vật, hiện tượng mang giá trị, thể hiện sự lựa chọn
vàđánh giá của chủ thểTóm lại, “nói đến giá trị tức là muốn khẳng định mặt tích cự c,
mặt chính diện,nghĩa là đã bao hàm quan điểm coi giá trị gắn liền với cái đúng, cái
tốt, cái hay, cái đẹp;

là nói đến khả năng thôi thúc con người ta hành động và nỗ

lực vươn tới” [3, tr.16 -19].
Để phân loại giá trị, tuỳ theo mục đích tiếp cận mà các tác giả nêu lên những căn
cứ phân loại khác nhau về giá trị. Thế nhưng thông thường cách phân loại khá phổ
biếnlà chia giá trị thành hai loại: giá trị vật chất và giá trị tinh thần (cách phân chia
này căncứ vào sự thoả mãn nhu cầu vật chất hay tinh thần của con người). Giá trị vật
chất thểhiện rõ nhất trong đời sống kinh tế - nơi gắn bó trực tiếp với tồn tại xã hội,
quyết địnhsự tồn tại của xã hội loài người, vì vậy giá trị vật chất cũng liên quan mật
thiết với cáclĩnh vực chính trị, pháp quyền, thiết chế xã hội... còn giá trị tinh thần
“vượt thoát” hiệnthực nhưng không phải xa rời hiện thực mà là nhằm vươn tới một xã
hội nhân văn, xã hội mà nhân loại tiến bộ đang mong tới.
Trong các giá trị vật chất, người ta thường đề cập đến giá trị sử dụng và giá trị
kinh tế.Trong các giá trị tinh thần, người ta thường đề cập đến các loại giá trị như: giá
trị khoa học (giá trị nhận thức, cái chân lý), giá trị chính trị (cái chính nghĩa, cái


cáchmạng), giá trị tôn giáo (sự thiêng liêng, sự thánh thiện, giá trị đạo đức (cái thiện,
cáiác). tuy nhiên sự phân chia này chỉ mang tính tương đối. Trong phạm vi luận văn

này tác giả xin góp phần làm rõ thế nào là“giá trị đạo đức”?
Trong hệ thống các giá trị tinh thần của đời sống xã hội thì giá trị đạo đức là một
yếu tố vô cùng quan trọng, nó là những chuẩn mực, những khuôn mẫu lý tưởng,
nhữngquy tắc ứng xử nhằm điều chỉnh và chuẩn hoá hành vi của con người trên cơ sở
tựnguyện, tự giác .Vì vậy giá trị đạo đức được đánh giá là: “có ý nghĩa tích cực
đốivớiđời sống xã hội, được lương tâm đồng tình, dư luận biểu dương. Giá trị đạo
đức vì thếcó ý nghĩa thiết yếu đối với đời sống xã hội” [17, tr.51]. Theo Giáo sư
Huỳnh KháiVinh: “giá trị đạo đức biểu hiện ở những chuẩn mực quy định mối quan
hệ người -người với giới tự nhiên và xã hội (gia đình, cộng đồng ...) trên tinh thần
yêu thươnghaythù hận, tôn trọng hay không tôn trọng, sự phát triển hay kìm hãm tài
năng, tự do vàhạnh phúc” [63, tr.60].
Xét theo thời gian, giá trị đạo đức có thể phân thành giá trị đạo đức truyền thống
và giá trị đạo đức hiện đại. Giá trị đạo đức truyền thống có thể được hiểu là
nhữngchuẩn mực, những khuôn mẫu lý tưởng, những quy tắc ứng xử được hình thành
trong cuộc sống và có ý nghĩa tích cực, được lặp đi, lặp lại nhiều lần trong lịch sử,
nhằm điềuchỉnh và chuẩn hoá hành vi của con người.
Mỗi dân tộc đều có những giá trị đạo đức truyền thống của mình. Là một bộ phận
trong hệ giá trị tinh thần của của dân tộc Việt Nam, giá trị đạo đức truyền thống liên
tụcnảy sinh, phát triển trong suốt chiều dài của lịch sử dựng nước và giữ nước của
dân tộc, nó được lưu truyền, chắt lọc, kế thừa từ thế hệ này sang thế hệ khác và chiếm
vị trí cốtlõi trong hệ giá trị tinh thần của dân tộc ta.
Sớm xác định được vai trò quan trọng của giá trị đạo đức truyền thống của dân
tộc đối với sự phát triển đất nước, nên nhân dân ta luôn giữ gìn và tôn trọng những
giátrị quý báu ấy và xem chúng như là những tiêu điểm để mọi người hướng tới, làm
theo.
Giáo sư Trần Văn Giàu đã viết:Giá trị đạo đức truyền thống là những cái gì sừng
sững, vững chắc, cao vọi, tôn nghiêm như những ngọn núi, đời qua đời làm tiêu điểm
để các tầng lớp đồng bào theo đó mà gióng hướng mà không đi lạc, mà phân biệt



chính tà, phải trái, nên chăng, tốt xấu để mọi người xác định thái độ, hành tung của
mình [10, tr. 93].
1.1.2.

Các giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc Việt Nam

Xuất phát từ quan điểm của chủ nghĩa duy vật lịch sử cho rằng tồn tại xã hộiquyết
định ý thức xã hội, cho nên những giá trị tinh thần và đạo đức, nhân cách củangười
Việt Nam có nguồn gốc sâu xa là bắt nguồn từ những hoàn cảnh địa lý, môitrường tự
nhiên, lịch sử xã hội .
Việt Nam là một nước có nền sản xuất nông nghiệp lâu đời, đời sống người nông
dân quanh năm gặp nhiều khó khăn, vất vả, phần lớn phụ thuộc vào thiên nhiên.
Mặtkhác, do nằm trong khu vực nhiệt đới gió mùa Đông Bắc và Đông Nam nên điều
kiệntựnhiên tương đối khắc nghiệt, mưa nắng thất thường, điều đó đã gây ra nhiều
thiên taihạn hán, dẫn đến mất mùa. Chính trong điều kiện khó khăn đó đã hình thành
ở conngười Việt Nam những giá trị quý báu: sự gắn bó cộng đồng chặt chẽ, yêu
thương đùmbọc, giúp đỡ nhau ... từ đó hình thành thói quen cần cù, tiết kiệm.
Việt Nam là đất nước có nhiều tài nguyên thiên nhiên quý báu “rừng vàng, biển
bạc, đất phì nhiêu”; mặt khác, lại nằm ở đầu mối giao thông quốc tế, cho nên Việt
Namthường xuyên là mục tiêu của các thế lực ngoại xâm và trong điều kiện thiên
nhiên khắcnghiệt, sự de doạ của ngoại xâm, để tồn tại và phát triển, người Việt Nam
phải “chung lưng đấu cật”, “sát cánh bên nhau” trong sản xuất và chiến đấu. Việc gắn
đời sống củacá nhân với cộng đồng cũng là để bảo vệ cuộc sống của mình. Do đó
trong nấc thang giá trị xã hội thì giá trị cộng đồng là được đánh giá cao, hay nói cách
khác đề cao các giá trị đạo đức là đặc điểm nổi bật trong đời sống của dân tộc Việt
Nam.
Trong các chủ trương, đường lối của Đảng ta và nhiều công trình nghiên cứu của
các nhà khoa học Việt Nam đã thể hiện quan điểm của mình về các giá trị đạo
đứctruyền thống của dân tộc. Giáo sư Vũ Khiêu cho rằng, giá trị đạo đức của dân tộc
Việt Nam bao gồm: “lòng yêu nước, truyền thống đoàn kết, lao động cần cù và sáng

tạo, tinhthần nhân đạo, lòng yêu thương và quý trọng con người” [17, tr.74], còn theo
Giáo sư Trần Văn Giàu, thì giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc Việt Nam bao
gồm: “yêunước, cần cù, anh hùng, sáng tạo, lạc quan, thương người, vì nghĩa” [10,
tr.94]. Trongcác văn kiện của Đảng ta, đặc biệt là Nghị quyết của bộ chính trị về một


số định hướng lớn trong công tác tư tưởng đã xác định: “Những giá trị văn hoá truyền
thống bền vững củadân tộc Việt Nam là lòng yêu nước nồng nàn, ý thức cộng đồng
sâu sắc, đạo lý thương ngườinhư thể thương thân, đức tính cần cù, vượt khó, sáng tạo
trong lao động” [8, tr. 19].
Nghịquyết Hội nghị lần thứ V của Ban chấp hành trung ương Đảng khoá VIII, đã
khẳng định:Bản sắc dân tộc của văn hoá Việt Nam bao gồm những giá trị bền vững,
những tinh hoa được vun đắp nên qua lịch sử hàng ngàn năm đấu tranh dựng nước và
giữ nước. Đó là lòng yêu nước nồng nàn, lòng tự tôn, tự hào dân tộc, tinh thần cộng
đồng gắn kết cá nhân - gia đình - làng xã - tổ quốc, lòng nhân ái bao dung, trọng
nghĩa tình đạo lý, đức tính cần cù sáng tạo trong lao động, là đức hy sinh cao thượng
tất cả vì độc lập dântộc, vì hạnh phúc của nhân dân, là sự tế nhị trong cư xử, tính giản
dị trong lối sống [6, tr.10].
Quan điểm trên của Đảng ta và các nhà khoa học tuy có những điểm cụ thể khác
nhau, cách diễn đạt khác nhau, thế nhưng đều khẳng định rõ vị trí nổi bật của các
giátrịđạo đức truyền thống của dân tộc. Dựa trên cách tiếp cận về giá trị, giá trị đạo
đứctruyền thống, ta thấy rằng dân tộc Việt Nam trong quá trình dựng nước và giữ
nước đãtạo nên những giá trị đạo đức truyền thống cơ bản sau:
Chủ nghĩa yêu nước:
Bất cứ một quốc gia, một dân tộc nào trên thế giới đều có tình yêu đất
nước.Nhưng lòng yêu nước của mỗi quốc gia, mỗi dân tộc lại có sự hình thành và
biểu hiện những bản sắc riêng.
Yêu nước là một truyền thống cực kỳ quý báu, lâu đời của dân tộc Việt Nam.Chủ
nghĩa yêu nước Việt Nam được hình thành gắn liền với lịch sử đấu tranh dựngnước
và giữ nước của dân tộc. Từ những buổi đầu tiên dựng nước, dân tộc Việt Namlạiphải

đương đầu với điều kiện thiên nhiên khắc nghiệt, với giặc ngoại xâm - những kẻthù
hung hãn và hùng mạnh. Để tồn tại và phát triển, đòi hỏi dân tộc Việt Nam phải
cólòng yêu nước, bởi vì có yêu nước mới có quyết tâm, dám chịu hy sinh để bảo vệ
nền độc lập cho dân tộc.
Mặc dù cuộc sống riêng tư của mỗi cá nhân, giữa cá nhân với cộng đồng người có
nhiều khác biệt, nhưng yêu nước là giá trị hàng đầu của mỗi con người Việt Nam, là
“tiêu điểm của mỗi tiêu điểm”, là “giá trị trên các giá trị”. Giáo sư Trần Văn Giàu


chorằng: “yêu nước là sợi chỉ đỏ xuyên qua toàn bộ lịch sử Việt Nam từ cổ đại đến
hiệnđại” [1G, tr.94].
Sự hình thành chủ nghĩa yêu nước gắn liền với lịch sử dựng nước và giữ nước của
dân tộc Việt Nam. Tinh thần yêu nước Việt Nam không chỉ là tình cảm mà còn làmột
tư tưởng thiêng liêng, cao quý nhất, được bắt nguồn từ những tình cảm đơn sơ vàbình
dị của mỗi người dân. Tình cảm đó ban đầu bắt nguồn từ sự yêu thương, quan tâmđến
những người thân thương, ruột thịt, rồi đến xóm làng, sau đó phát triển cao thànhtình
yêu tổ quốc. Tình yêu tổ quốc không chỉ gắn liền với quá trình dựng nước mà nó còn
thể hiện rõ trong quá trình bảo vệ đất nước. Chủ nghĩa yêu nước của dân tộc ViệtNam
được thể hiện ở lòng dũng cảm, ý chí bất khuất, kiên cường; đó là tinh thần hếtmực
yêu hoà bình, yêu tự do, nhưng khi đất nước có ngoại xâm thì “thà hy sinh tất cả chứ
nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”. Chính tinh thần yêu
nước nồng nàn đã giúp dân tộc ta vượt qua mọi khó khăn, chiến thắng mọi thế
lựcxâm lược. Qua những cuộc chiến tranh trường kỳ đầy gian khổ đó, chủ nghĩa yêu
nướcđã trở thành dòng chủ lực của đời sống Việt Nam, thành một triết lý xã hội và
nhân sinhtrong tâm hồn người Việt Nam.
Tổng kết truyền thống yêu nước của dân tộc Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
khẳng định:Dân tộc Việt Nam có lòng nồng nàn yêu nước. Đó là một truyền thống
quý báu của ta. Từ xưa đến nay mỗi khi tổ quốc bị xâm lăng thì tinh thần ấy lại sôi
nổi, nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy
hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả bè lũ bán nước và cướp nước [37, tr.171].

Tóm lại, chính lòng yêu nước nồng nàn, ý chí quật cường dân tộc đã tạo ra sức
mạnh vô cùng to lớn, giúp cho dân tộc Việt Nam vượt qua mọi gian nguy, chiến thắng
mọi kẻ thù xâm lược, giữ vững độc lập, tự do cho tổ quốc. Chính vì vậy yêu nước
làniềm tự hào của dân tộc và là một truyền thống cực kỳ quý báu mà chúng ta cần
phải kế thừa và đổi mới trong sự nghiệp xây dựng CNXH ở nước ta hiện nay.
Lòng nhân ái - yêu thương con người:
Lòng nhân ái - yêu thương con người là một đức tính nhân đạo cao cả của dân tộc
Việt Nam. Đức tính ấy đã thấm sâu vào các mối quan hệ gia đình, làng xóm, đến
cộng đồng xã hội và nhân loại. Truyền thống nhân ái của dân tộc Việt Nam thể hiện
rõ trong cuộc sống hằng ngày, trong lao động, học tập và chiến đấu. Mặc dù trong


những giai đoạn lịch sử khác nhau, lòng nhân ái mang những nội dung mới khác
nhau, nhưng về cơ bản vẫn giữ được nét đặc sắc riêng, là cơ sở quan trọng để thiết
lập mối quan hệ giữa người và người trong tất cả các mối quan hệ xã hội.
Lòng nhân ái của dân tộc Việt Nam được thể hiên trước hết trong quan hệ gia
đình: cha mẹ hết lòng quan tâm đến việc nuôi dưỡng, giáo dục con cái khi chúng còn
nhỏ dại và ngược lại, con cái phải có trách nhiệm tôn kính cha mẹ, khi cha mẹ về già
hay đau yếu phải hết lòng nuôi dưỡng; trong quan hệ anh - em thì “anh em như thể
tay chân, rách lành đùm bọc, khó khăn đỡ đần”, “máu chảy ruột mềm”, “môi hở răng
lạnh”...
Lòng nhân ái không chỉ thể hiện trong quan hệ gia đình mà nó còn xuất phát từ
lòng yêu thương con người “thương người như thể thương thân”, “đánh người chạy đ
ichứ ai đánh người trở lại”. Lòng nhân ái - yêu thương con người là cơ sở cho cách
xử thế ở đời của người Việt Nam: hết lòng vì nghĩa, giúp đỡ, đùm bọc nhau khi khó
khăn hoạn nạn mà không hề toan tính. Lòng yêu thương con người ở Việt Nam còn là
điều kiện để tồn tại, là vũ khí để chiến đấu, là lẽ sống bền vững, là hạnh phúc lớn
nhất của con người. Tình yêu thương ấy được xây dựng và củng cố trong cộng đồng
và gia đình tất yếu đựơc mở rộng thành tình yêu thương trong cộng đồng tổ quốc, rồi
đến cộng đồng nhân loại. Bởi sự tồn tại của gia đình trước hết phụ thuộc vào sự tồn

tại của cả nước và hoà bình, hạnh phúc của mỗi quốc gia gắn liền với hoà bình, hạnh
phúc của cả nhân loại.
Nếu ở Việt Nam tính cộng đồng là biểu hiện mãnh liệt nhất trong tình cảm giữa
cá nhân với tổ quốc thì tình cảm này không tách khỏi tình cảm gia đình mà ngược lại
nó được nảy sinh và rèn luyện từ trong gia đình. Nghĩa là lòng nhân ái, yêu thương
con người của dân tộc Việt Nam không phải là tư tưởng hẹp hòi “chủ nghĩa dân tộc”
và đối lập với tình cảm quốc tế. Thế nhưng lòng nhân ái của dân tộc Việt Nam cũng
kiên quyết không thể tha thứ cho những kẻ ngoan cố, tán tận lương tâm, vong tình
phụ nghĩa. Lòng yêu thương con người của dân tộc Việt Nam không chỉ giới hạn
trong quê hương, trong một dân tộc mà lòng nhân ái ấy bao la vô hạn mang tính nhân
loại, thậm chí nhân ái ngay đối với kẻ thù khi họ đã ăn năn, hối lỗi, lầm đường, lạc
lối.


Lòng nhân ái, nhân nghĩa của dân tộc Việt Nam còn thể hiện ở lòng vị tha cao
thượng. Trong quá trình đấu tranh giữ nước, tinh thần ấy đã thể hiện sáng n gời qua
những trang sử hào hùng của dân tộc. Trong Bình ngô đại cáo của Nguyễn Trãi là một
minh chứng: “lấy nhân nghĩa để thắng hung tàn, lấy chí nhân để thay cường bạo” hay
cuộc kháng chiến chống quân Thanh, sau khi đánh bại chúng, Vua Quang Trung đã
cấp lương thảo và phương tiện cho đám tàn quân về nước.
Lòng nhân ái, nhân nghĩa của dân tộc Việt Nam được kết tinh rõ nét trong tư
tưởng Hồ Chí Minh, Người là hiện thân của lòng nhân ái. Tình yêu thương con người
ở Hồ Chí Minh là một tình cảm rộng lớn, trước hết là dành cho những người cùng
khổ, cho nhân dân lao động bị áp bức, bóc lột. Tình yêu thương đó đã thôi thúc và trở
thành ham muốn tột bậc ở Người là làm cho nước nhà được độc lập, nhân dân được
tự do, mọi người ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành. Vì thương người
mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã bôn ba rất nhiều nước, chịu nhiều khó khăn, gian khổ.
Suốt cuộc đời hoạt động của mình Người đã hy sinh tất cả vì độc lập của dân tộc vì
hạnh phúc của nhân dân, để tìm cho dân tộc Việt Nam con đường để tự giải phóng
mình thoát khỏi những gông cùm nô lệ - đó là con đường của cách mạng vô sản do

Lênin vạch ra. Tình yêu thương con người của Hồ Chí Minh còn được thể hiện trong
mối quan hệ bạn bè, đồng chí, với mọi người trong quan hệ hàng ngày. Tình yêu
thương ấy đòi hỏi phải tự nghiêm khắc với mình, nhưng phải rộng rãi, độ lượng với
người khác. Lòng nhân ái của dân tộc Việt Nam còn được thể hiện với những người
sai lầm khuyết điểm nhưng đã nhận ra và cố gắng sửa chữa. Trong suốt cuộc đời hoạt
động của mình, lòng nhân ái của Bác đã trở thành sức mạnh, nó có tác dụng cảm hoá
hàng vạn con người đã trót lầm đường, lạc lối, trước đây đã theo giặc, đi ngược với
lợi ích của nhân dân nay đã ăn năn, hối hận, Bác xem họ như những đứa con “lạc
bầy” cần được cưu mang hoạn dưỡng.
Lòng yêu thương con người trong tư tưởng Hồ Chí Minh là vô hạn, nhưng Người
cũng phân biệt rất rõ ranh giới giữa bạn và thù, giữa bọn thống trị và nhân dân của
nước ấy. Đối xử với tù binh, tha chết và tiễn đưa quân xâm lược bại trận về nước,
nhanh chóng lập lại tình hữu nghị sau mỗi trận chiến tranh - đó là đạo lý của con
người Việt Nam trước cộng đồng nhân loại.
Tinh thần đoàn kết cộng đồng sâu sắc:


Tinh thần đoàn kết, tương trợ lẫn nhau là một trong những truyền thống quý báu
của dân tộc Việt Nam, nó được hình thành trong quá trình đấu tranh chống ngoại xâm
chống thiên nhiên khắc nghiệt. Bởi trong những điều kiện khó khăn đó, con người
muốn vượt qua họ phải “chung lưng, đấu cật”, góp sức, góp trí ... vì vậy tinh thần
đoàn kết cộng đồng sâu sắc được hình thành là một lẽ tất nhiên trong đời sống của
con người, để đáp ứng nhu cầu khách quan đang đòi hỏi. Dân tộc Việt Nam luôn xem
đoàn kết là một sức mạnh làm nên mọi thắng lợi. Đoàn kết thể hiện trong mọi thành
công và thất bại, “có phúc cùng hưởng, có họa cùng chia”. Đặc biệt tinh thần đoàn
kết thể hiện rõ nhất và quý nhất khi gặp khó khăn, hoạn nạn. Khi đói rét thì “nhường
cơm xẻ áo” khi gặp hoạn nạn, khó khăn thì “chị ngã em nâng”...
Tinh thần đoàn kết của dân tộc Việt Nam thể hiện trong mọi không gian và thời
gian. Trong gia đình: “thuận vợ thuận chồng, tác biển đông cũng cạn”, trong sản xuất
cũng như trong đời sống hằng ngày giữa các cá nhân với nhau thì đoàn kết thể hiện ở

chỗ: “một cây làm chẳng lên non, ba cây chụm lại nên hòn núi cao”, trong chiến đấu
chống thiên nhiên và kẻ thù, thì “đoàn kết thì sống, riêng lẻ thì chết”.
Thực tiễn cách mạng Việt Nam đã chứng minh rằng tinh thần đoàn kết là một yếu
tố vô cùng quan trọng, cái đảm bảo chắc chắn cho thắng lợi của dân tộc, là điểm tựa
tinh thần vững chắc, một động lực mạnh mẽ trong sự nghiệp giải phóng dân tộc cũng
như trong sự nghiệp cách mạng XHCN. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng khẳng định:
“đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết, thành công, thành công, đại thành công”. Trước lúc
Bác mất trong di chúc của mình, Người đã căn dặn các thế hệ sau rằng: Đoàn kết là
một truyền thống cực kỳ quý báu của Đảng và nhân dân ta. Các đồng chí từ trung
ương đến các chi bộ cần phải giữ gìn sự đoàn kết, nhất trí của Đảng như giữ gìn con
ngươi của mắt mình.
Nhờ có tinh thần đoàn kết chặt chẽ, sâu sắc ấy mà cộng đồng người Việt Nam
luôn duy trì được các quan hệ xã hội hài hoà, giữ được sự đồng thuận, bình yên cho
xóm làng, quê hương, đất nước.
Truyền thống cần cù, tiết kiệm, thông minh, sáng tạo:
Truyền thống cần cù, tiết kiệm, thông minh, sáng tạo cũng là một trong những ,
giá trị đạo đức có từ bao đời của dân tộc Việt Nam. Nó được hình thành và phát triển
trong điều kiện tự nhiên, hoàn cảnh xã hội khó khăn khắc nghiệt ngay từ những


ngàyđầu dựng nước và giữ nước. Trong quá trình sản xuất, con người luôn phải sống
và lao động trong những điều kịên thiên nhiên khắc nghiệt: như hạn hán, lũ lụt, mư a
bão...
Mặt khác, Việt Nam là một nước có nhiều tài nguyên khoáng sản, là đầu mối giao
thôngcủa các nước, nên thường xuyên bị các thế lực ngoại xâm xâm lược. Chính vì
vậynhững người dân Việt Nam trong quá trình lịch sử của mình đã kiên trì bám làng,
bá m đất, vừa sản xuất, vừa đánh giặc để giữ gìn chủ quyền và độc lập cho dân tộc.
Sốngtrong hoàn cảnh khó khăn, vất vả tưởng chừng như không thể nào vượt qua nổi,
nhưng nhờ có đức tính cần cù và tiết kiệm mà nhân dân ta đã vượt qua, để từng bước
tự khẳng định mình trong quá trính phát triển của dân tộc. Tất cả những khó khăn

đóđược thểhiện trong rất nhiều câu ca dao, dân ca Việt Nam: “cày đồng đang buổi
ban trưa, mồhôithánh thót như mưa ruộng cày”, “một bông lúa vàng chín giọt mồ
hôi”… Chính vì sự khónhọc đó đòi hỏi con người phải quý trọng những thành quả
lao động ấy: “ai ơi bưng bátcơm đầy, dẻo thơm một hạt, đắng cay muôn phần”.
Cần cù của dân tộc Việt Nam là sự siêng năng trong lao động, nhưng điều đócũng
không có nghĩa là “cần cù bù thông minh” mà cần cù ở đây là sự lao động có kế
hoạch, sáng tạo, có năng suất cao. Truyền thống tiết kiệm của dân tộc Việt Nam
đượcthể hiện ở chỗ không xa xỉ, không hoang phí, không bừa bãi. Tiết kiệm ở đây
không chỉlà sự tiết kiệm về tiền của mà nó còn bao hàm ở sự tiết kiệm về sức lao
động và thờigian.
Mặc dù trong lao động, dân tộc Việt Nam rất cần cù, nhưng sự cần cù ấy luôngắn
liền với sự tiết kiệm. Lối sống tiết kiệm xuất phát từ triết lý sống của người ViệtNam
rằng mọi người phải có trách nhiệm với chính bản thân, gia đình mình và xã hộiphải
có trách nhiệm với các thế hệ tương lai. Mặt khác, do cuộc sống quá khó khăn lại
không ổn định nên dân tộc Việt Nam thường có tâm lý dành dụm, chắt chiu đề
phòngnhững trường hợp bất trắc xảy ra. Cần và kiệm có gắn kết với nhau thì cuộc
sống con người mới đỡ vất vả hơn vì “cần” mà không “kiệm” thì cần cũng không ích
gì, khôngthể vượt qua khó khăn, đói rét. Nhưng “kiệm” mà không “cần” thì cũng vô
nghĩa. Chủtịch Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh hai đức tính “cần”, “kiệm”. Hai đức tính
ấy cùng với “liêm”, “chính” tạo thành một khối thống nhất, toàn vẹn trong mỗi con
người như “bốnmùa của trời”, “bốn phương của đất”. Người nhấn mạnh:


Trời có bốn mùa: xuân - hạ - thu - đông;
Đất có bốn phương: đông - tây - nam - bắc;
Người có bốn đức tính: cần - kiệm - liêm- chính.
Thiếu một mùa thì không thành trời.
Thiếu một hướng thì không thành đất.
Thiếu một đức thì không thành người [36, tr.631].
Truyền thống tiết kiệm của dân tộc Việt Nam không có nghĩa là keo kiệt, bủnxỉn.

Chủ tịch Hồ Chí Minh phân biệt rất rõ giữa tiết kiệm và keo kiệt, Người cho rằng,
việcđáng tiêu mà không tiêu là bủn xỉn chứ không phải là tiết kiệm và nhắc nhở
chúng tarằng:
“Khi không nên tiêu xài thì một đồng xu cũng không nên tiêu. Khi có việc đáng
làm việclợi ích cho đồng bào, cho tổ quốc thì dù bao nhiêu công, tốn bao nhiêu của
cũng vui lòng”[36, tr.637].
Thực tiễn chứng minh, nhờ có cần cù và sáng tạo trong lao động mà cha ông ta đã
xây dựng được non sông gấm vóc và giữ vững nền độc lập của đất nước đến ngàynay.
Trong quá trình đổi mới đất nước hiện nay, chúng ta cần phải kế thừa và phát huyđức
tính cần cù trong lao động, chiến đấu và học tập vì cần cù là nguồn gốc của sự
sốngcòn, hạnh phúc, trí tuệ và của mọi sự tiến bộ xã hội.
Truyền thống hiếu học:
Hiếu học là một trong những giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc Việt
Nam.Hiếu học có cơ sở bền vững từ trong mỗi gia đình, mỗi dòng tộc, mỗi quê
hương củangười Việt Nam. Dù ở bất kỳ lúc nào, ở đâu trên đất nước Việt Nam chúng
ta vẫn bắt gặp những gương hiếu học đáng trân trọng. Các bậc cha mẹ ở các thế hệ
nối tiếp nhau từ xưa đến nay đều có mơ ước con mình học giỏi để thành người hữu
dụng. Trong lịchsử của dân tộc, mặc dù trong những hoàn cảnh khó khăn, thậm chí
đói nghèo nhưng vẫncó những bậc cha mẹ đã quan tâm đến việc học hành của con
cái, tạo được gia đìnhkhoa bảng, nhiều đời, sử sách lưu danh đến ngày nay. Họ đã
cống hiến cho đất nướcnhững danh nhân văn hoá, những nhân tài đáng trân trọng - đó
là những tấm gương hiếuhọc sáng ngời, như Mai Thúc Loan, Nguyễn Hiền, Mạc
Đĩnh Chi, Lê Quý Đôn ...vànhiều gương hiếu học khác. Mặc dù những gương hiếu
học đó có những điều kiện hoàncảnh cụ thể khác nhau, nhưng điểm chung của họ là


tuy sống trong hoàn cảnh vô cùng khó khăn, thậm chí nghiệt ngã, nhưng với tinh thần
hiếu học, kiên trì, vượt khó họđãvươn lên trở thành những danh nhân đất Việt.
Do hiếu học, nên dân tộc Việt Nam sớm có truyền thống “tôn sư trọng đạo”, “tiên
học lễ, hậu học văn”, học trước hết để làm người sau đó để làm việc. Cho nên đểtrở

thành người tốt, làm việc tốt thì phải học. Người có học thức cao luôn được xã hội
suy tôn. Vì vậy “tôn sư trọng đạo” trở thành một truyền thống vô cùng cao đẹp của
dântộc ta, nó góp phần định hướng giá trị trong quá trình phát triển xã hội. Trong tác
phẩm“bàn về khoan dung trong văn hoá” của Giáo sư, tiến sĩ Huỳnh Khái Vinh v à
Tiến sĩNguyễn Thanh Tuấn đã nhận định rằng: “Giá trị hiếu học, coi trọng học vấn và
tôn sư trọng đạo là truyền thống lâu bền và là một hàm nghĩa của văn hiến Việt Nam”
[63, tr.316]. Viện sĩ Nguyễn Văn Hiệu thì cho rằng: “hiếu học là truyền thống quý
báu tựngàn xưa của dân tộc ta. Truyền thống ấy cần được giữ gìn và phát huy trong
thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, bất chấp những “sóng gió” của kinh
tế thịtrường” [2, tr.4].Hiếu học là một truyền thống tốt đẹp, nó được kế thừa và phát
huy trong suốtchiều dài lịch sử của dân tộc Việt Nam. Trong xã hội Phong kiến, trong
điều kiện khắcnghiệt của thiên nhiên, sự thiếu thốn về mọi thứ nên người Việt Nam
sớm ý thức đượcrằng chỉ có học mới có thể thoát khỏi những đói nghèo, khổ cực.
Hình ảnh Mai ThúcLoan đầu đội mâm đồng nặng trĩu nhưng vì ham học đã “học
trộm” đến tê cả gót chânmà vẫn không hay, về sau trở thành vị vua nổi tiếng của nước
ta; Nguyễn Hiền, mồ côicha, sống trong túp lều ở chùa, nghèo nên phải bắt đom đóm
làm đèn để học, năm 13tuổi đã đỗ trạng nguyên - đây là vị trạng nguyên nhỏ tuổi nhất
trong lịch sử khoa bảngViệt Nam; Mạc Đĩnh Chi, mồ côi cha sớm, nhà nghèo phải
đốt lá rừng để học và đã trởthành vị trạng nguyên tài giỏi của dân tộc... và còn nhiều
gương hiếu học khác in dấu trong lịch sử của dân tộc. Có thể nói rằng, trải qua những
giai đoạn lịch sử khác nhaunhưng truyền thống hiếu học luôn được nhân dân ta kế
thừa, phát huy và nâng lên thànhlẽ sống.
Trong cuộc chiến tranh trường kỳ, gian khổ chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ
xâm lược, dân tộc Việt Nam phải đương đầu với nhiều khó khăn thử thách,
nhưngtruyền thống hiếu học vẫn luôn được nhân dân ta kế thừa và phát huy cao độ.
Trongđiều kiện “khói đạn, mưa bom” vẫn xuất hiện những con người mang trong


mình truyềnthống hiếu học của dân tộc đã không ngại khó khăn, nguy hiểm vượt lên
hoàn cảnh để họchành thành đạt.

Khi nước nhà hoàn toàn thống nhất, cả nước tập trung cải tạo xã hội cũ, tiến lên
CNXH, Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đã nhận thức được rằng chúng ta không
thểkhắc phục nghèo đói, đưa đất nước phát triển nếu không có tri thức khoa học.
Chínhđiều đó đã có nhiều chủ trương, đường lối chính sách của đảng, nhà nước nhằm
khuyếnkhích nhân dân phát huy truyền thống hiếu học của dân tộc. Mặc dù điều kiện
sống chưacao, thế nhưng vẫn có nhiều gia đình đã chắt chiu, dành những điều kiện tốt
nhất chocon em mình học hành “đến nơi, đến chốn”.
Có thể nói, hiếu học là một truyền thống cực kỳ quý báu của dân tộc Việt
Nam.Trong điều kiện hiện nay cần phải phát huy truyền thống đó vì có như vậy mới
có thểđào tạo và sử dụng con người mới - con người XHCN “vừa hồng vừa chuyên”,
đáp ứng được những yêu cầu mới đang đặt ra cho cả dân tộc.
1.1.3. Những nét tiêu biểu của giá trị đạo đức truyền thống dân tộc ở đạođức
truyền thống của thanh niên Việt Nam
Qua các thời kỳ cách mạng khác nhau, được sự quan tâm giáo dục, bồi dưỡng của
Đảng, của Chủ tịch Hồ Chí Minh, của nhà nước và xã hội, đã có biết bao tấm
gươnghọc tập, nghiên cứu, sáng tạo và chiến đấu, hy sinh ngời sáng vì lý tưởng độc
lập dântộc và CNXH đã được lưu danh. Những truyền thống đạo đức tốt đẹp của th
anh niên
Việt Nam luôn được gìn giữ, phát huy qua các thời kỳ cách mạng.
Trước hết, đó là tinh thần yêu nước mãnh liệt, sâu sắc, tinh thần xả thân vì cách

mạng.Sống dưới ách đô hộ nhiều năm của thực dân Pháp, thanh niên Việt Nam
luônkhát khao độc lập, tự do cho dân tộc, căm thù bọn thực dân đế quốc xâm lược và
sôi sụcmột ý chí cứu nước. Trong số đó, nhà yêu nước trẻ tuổi Việt Nam đầu tiên là
NguyễnÁiQuốc đã có công lao vĩ đại trong việc thành lập ra Đảng cộng sản Việt Nam
, tạo nênmột sự kiện lịch sử trọng đại đối với toàn bộ quá trình phát triển cách mạng
nước ta.
Đảng cộng sản Việt Nam ra đời là sự chuẩn bị điều kiện cơ bản, quyết định cho
những thắng lợi oanh liệt và những bước nhảy vọt trong quá trình phát triển của dân
tộc ta. Từnhững kinh nghiệm và hiểu biết ở tuổi thanh niên của chính bản thân mình,



Nguyễn Ái Quốc đã dẫn dắt cả một thế hệ thanh niên yêu nước Việt Nam hồi đầu thế
kỷ XX, mà hăng hái đi đầu là học sinh, sinh viên đầy nhiệt huyết đến được với chân
lý cách mạngcủa thời đại.
Các thế hệ thanh niên về sau luôn tự hào về lớp thanh niên yêu nước đã sớm đi
theo con đường của Nguyễn Ái Quốc, trực tiếp tham gia xây dựng Đảng, Đoàn
thanhniên như Trần Phú (Tổng Bí thư đầu tiên của Đảng khi mới 26 tuổi), Ngô Gia
Tự,Nguyễn Đức Cảnh, Trịnh Đình Cửu, Lê Hồng Phong, Nguyễn Thị Minh Khai ...
họ đãtrở thành những chiến sĩ cách mạng kiên cường của Đảng và nhân dân ta. Đoàn
thanh niên với những phong trào hành động, tuyên truyền, giác ngộ lý tưởng cách
mạng. Khẩuhiệu của thanh niên Tiền phong lúc này là: “Thanh niên: tiến !”.
Trong thời kỳ chống thực dân Pháp xâm lược (1945 - 1954), ngay từ những ngày
đầu, tầng lớp thanh niên, học sinh, sinh viên đã tích cực tham gia vào các tổ chức
chiếnđấu, phục vụ chiến đấu, tiến hành cuộc chiến tranh du kích. Nhiều tấm gương
hy sinhanh dũng của tuổi trẻ, đồng loạt các thanh niên xin gia nhập các đoàn quân
“Nam tiến” đánh đuổi giặc Pháp.
Ngày 19/12/1946, đáp ứng lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch HồChí
Minh, đội thám tử quân Hà Nội ra đời. Tiêu biểu cho những tấm gương chiến đấubất
khuất đó là thanh niên Vũ Chí Thành đã hy sinh ngay trong đêm đầu của cuộc kháng
chiến. Ngoài ra các phong trào thanh niên còn diễn ra dưới nhiều hình thức như
biểutình, rải tuyền đơn, tuyên truyền khẩu hiệu đấu tranh, trực tiếp tham gia lao động
sảnxuất để chi viện cho chiến trường... chiến đấu với “giặc đói” và “giặc dốt”.
Tiếp nối truyền thống yêu nước của các thế hệ tiền bối, thanh niên Việt Nam
đãgóp phần lớn lao vào thắng lợi cuộc kháng chiến thần thánh Điện Biên Phủ chống
thựcdân Pháp và sự can thiệp của đế quốc Mỹ.
Bước sang giai đoạn kháng chiến chống Mỹ cứu nước, tinh thần yêu nước, nhiệt
tình cách mạng của thanh niên lại được phát huy mạnh mẽ hơn nữa. Một phong
tràohoạt động rộng lớn của tuổi trẻ miền Bắc đã lan nhanh: “Ba sẵn sàng”. Chỉ trong
một thời gian ngắn đã có trên 1,5 triệu thanh niên học sinh, sinh viên làm đơn

tìnhnguyện tham gia. Ba sẵn sàng là: Sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu dũng cảm, sẵn
sàng gia nhập các lực lượng vũ trang nhân dân. Sẵn sàng khắc phục mọi khó khăn,


đẩy mạnh sản xuất, công tác và học tập trong bất kỳ tình huống nào. Sẵn sàng đi bất
cứ nơi đâu, làm bất cứ việc gì khi tổ quốc cần đến.
Ngoài ra còn có phong trào “Năm xung phong” của thanh niên miền Nam, phong
trào “phụ nữ ba đảm đang”, phụ nữ giỏi việc nước, đảm việc nhà”... đã góp phần to
lớnvào thắng lợi vĩ đại của dân tộc ta.
Một trong những ngôi sao sáng của thanh niên ta trên mặt trận chiến đấu trong
những năm kháng chiến chống Mỹ cứu nước là Vũ Xuân Thiều. Anh xung phongvào
bộ đội khi mới vừa tròn 20 tuổi, đang làm đồ án tốt nghiệp kỹ sư vô tuyến điện tại
Đại học Bách khoa Hà Nội. Anh đã trực tiếp bắn rơi pháo đài B52 củaMỹ, hysinh khi
lập chiến công vẻ vang và được tuyên dương là anh hùng lực lượng vũ trang nhân
dân khi vừa tròn 27 tuổi.
Chúng ta không thể kể hết những tấm gương yêu nước của thanh niên Việt Nam
trong thời kỳ kháng chiến cứu nước. Nhìn chung thanh niên đều có một tinh thần
nhiệttình cách mạng, sẵn sàng xả thân vì độc lập, tự do của dân tộc.
Thứ hai, tinh thần xung phong, vượt khó, chịu đựng mọi gian khổ với tinh thần

hiếu học, hăng hái rèn luyện học tập, luôn vươn tới đỉnh cao của khoa học - công
nghệ,văn học nghệ thuật.
Tinh thần “xung phong, hăng hái,vượt khó” cũng là một trong những giá trị đạo
đức truyền thống của Thanh niên Việt Nam. Truyền thống lịch sử thanh niên đã
chứng minh rằng trong bất kỳ giai đoạn cách mạng nào của dân tộc Việt Nam các thế
hệ thanhniên luôn là lực lượng đi đầu với tinh thần xung phong, vượt khó. Lòng dũng
cảm, tinhthần hăng hái xung phong, vượt khó bắt nguồn từ truyền thống yêu nước,
vừa là thuộctính vốn có của tuổi trẻ được tạo hoá ban cho đối với thế hệ đang độ tuổi
trưởng thàn h đầy nhiệt tình và sức sống - là lứa tuổi sẵn sàng đón nhận những nhiệm
vụ khó khăn, nặng nề, nguy hiểm. Được Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh dìu dắt,

thuộc tính đó đượcnâng lên thành chủ nghĩa anh hùng cách mạng. Chiến tranh là một
thử thách vô cùngkhắc nghiệt. Nhưng sự ác liệt trong chiến tranh là môi trường tôi
luyện phẩm chất anh hùng cách mạng của thanh niên. Trong cuộc chiến tranh chống
Pháp và Mỹ, hưởng ứnglời kêu gọi của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, lớp lớp thanh
niên đã xung phong rachiến trường, hăng hái tòng quân giết giặc. Dù bất cứ ở nhiệm
vụ nào, tham gia dâncông hay hay xung phong phục vụ tuyền tuyến thì bản lĩnh tiên


phong của thanh niênđều được thể hiện. Trước những khó khăn tưởng chừng không
thể nào vượt qua, trướcnhững thử thách cam go, thậm chí là sự hy sinh tính mạng,
nhưng với tinh thần hănghái, vượt khó đã giúp cho thanh niên hoàn thành tốt nhiệm
vụ của mình, góp phần vàocông cuộc giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước. Khẩu
hiệu mà thanh niên hằng tâmniệm“đâu cần thanh niên có, việc gì khó có thanh niên”
đã biến thành phong trào cách mạng rộng khắp trong thanh niên, đó là “phong trào 5
xung phong chống Mỹcứunước”, “ba xung phong giải phóng miền Nam”. Chính vì
vậy trong di chúc của mình. Chủ tịch Hồ Chí Minh nhận xét: Đoàn viên thanh niên ta
nói chung là tốt, mọi việc điềuhăng hái, xung phong, không ngại khó khăn, có chí
tiến thủ.
Khi thống nhất đất nước, chủ nghĩa anh hùng cách mạng được tiếp tục phát huy
trong thời kỳ mới, bất cứ ở đâu, khi nào mà Đảng và nhân dân cần đến thanh niên sẵn
sàng đáp ứ ng. Trong những năm gần đây, ngày càng có nhiều thanh niên tự nguyện
rời khỏi thành thị, rời bỏ những vị trí có thu nhập cao để xung phong đến công tác ở
các vùng cao, vùng sâu, h ải đảo nơi còn nhiều khó khăn về vật chất. Bởi hơn ai hết,
thanh niên đã tự ý thức được r ằng chỉ có họ những ngườitrẻ, khoẻ, đầy nhiệt huyết
mới có thể gánh vác những công việc khó khăn này. Ngoài ra , tinh thần xung phong,
hăng hái, vượt khó còn thể hiện qua các phong trào “thanh niên lập nghiệp, tuổi trẻ
giữ nước”, “phong trào tuổi trẻ xung kích, sáng tạo”, “phong trào thanh niên tình
nguyện”. Với tinh thần xung phong, hăng hái đó, đã một mặt góp phần làm giàu đẹp
cho quê hương đất nước, nhưng mặt khác cũng đã rèn luyện cho thanh niên một niềm
tin m ãnh liệt vào sức mạnh dời non, lấp bể” của mình.

Không những thế, thanh niên còn tham gia vào cuộc đấu tranh chống văn hóalai
căng, đồi trụy, phản động với nhiều hình thức phong phú như: hội thảo, tọa đàm, viết
báo tường, hoạt động văn hóa thể dục thể thao, tham quan, du lịch, cắm trại... đi đôi
là việc phát triển văn hóa - văn nghệ lành mạnh và nhiều hoạt động có tính chất nhân
đạo, từ thiện. Từ năm 1970 - 1972 với khẩu hiệu “hát cho đồng bào tôi nghe”, “đồng
bào ta cùng hát” thanh niên đã trực tiếp đưa những bài hát cách mạng tiến bộ, yêu
nước đến với quần chúng nhân dân như : “lên đàng”, “dậy mà đi”, “tự nguyện”,
“tiếng trống hào hùng”...thúc giục thanh niên đứng lên đấu tranh chống kẻ thù, bảo vệ
tổ quốc. Ngoài ra “tuần lễ nữ sinh mặc áo dài Việt Nam”, những buổi sinh hoạttruyền


thống về văn hóa dân tộc như “tuần lễ Hai Bà Trưng”, “Trần Văn Ơn ”... đãtạo luồng
không khí mới đậm đà bản sắc dân tộc, phát huy tinh thần yêu nước trong thanh niên.
Thứ ba, qua lịch sử phong trào thanh niên Việt Nam ta còn thấy một tinh thầnđoàn

kết, yêu thương giúp đỡ nhau trong học tập, chăm chỉ học tập, chia sẻ khó khănvới
đồng bào.
Thanh niên Việt Nam luôn sẵn sàng “nhường cơm sẻ áo” với đồng bào gặp khó
khăn là hoạt động hoàn toàn tự giác, tự nguyện. Họ không đòi hỏi nhiều cho mình
khiđất nước còn nghèo, dân ta còn thiếu thốn. Ngược lại sự đóng góp nhiều mặt của
thanh niên đã làm nên những chiến thắng vẻ vang cho dân tộc Việt Nam trong cả sự
nghiệpdựng nước và giữ nước.
Suốt nửa thế kỷ tồn tại và phát triển, lúc thuận lợi cũng như khi gặp khó khăn,
thanh niên Việt Nam đã luôn phát huy truyền thống là một tổ chức chính trị - xã hội
củahọc sinh, sinh viên. Họ đã vượt qua nhiều chặng đường đầy thử thách để thực hiện
chứcnăng là người bạn gần gũi của học sinh, sinh viên, là chiếc cầu nối của học sinh,
sinh viên với Đảng và nhà nước, là thành viên phối hợp chặt chẽ trong mọi công tác
vớiĐoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh nhằm góp phần tạo điều kiện vật chất và
tinh thần cho học sinh, sinh viên trong học tập, nghiên cứu, trong các phong trào
chính trị xã hội thực tiễn và trong bồi dưỡng nhân cách người học sinh, sinh viên mới

1.2. ĐẠO

ĐỨC MỚI VÀ VAI TRÒ CỦA GIÁ TRỊ ĐẠO ĐỨC

TRUYỀNTHỐNG TRONG VIỆC XÂY DỰNG ĐẠO ĐỨC MỚI CHỎ THANH NIÊN
VIỆTNAM HIỆN NAY
1.2.1.Vai trò và yêu cầu đạo đức mới của thanh niên Việt Nam hiện nay

Đạo đức không sinh ra từ đạo đức, mà nảy sinh do nhu cầu của đời sống xã hội, là
kết quả sự phát triển lịch sử. Đạo đức được hình thành từ rất sớm, ngay từ khi bắt đầu
hình thà nh xã hội loài người. Tuỳ thuộc vào các giai đoạn lịch sử và cách tiếp cận
khác nhau mà vấn đề đạo đức được hiểu theo những nghĩa khác nhau. Ở phương
Đông cổ đại, người Trung Quốc đã đưa ra

nhiều học thuyết về đạo đức được biểu

hiện trong quan niệm về “đạo” và “đức” của họ. “Đạo” mang nghĩa là đường đi, con
đường. Về sau khái niệm đạo được vận dụng trong triết học để chỉ con đường của tự
nhiên. Ngoài ra đạo còn là một phạm trù để chỉ đường sống của con người trong xã
hội.


Khái niệm “đức” lần đầu tiên xuất hiện trong Kim văn đời nhà Chu Trung Quốc
và sau được người Trung Quốc sử dụng nhiều. “Đức” là sự biểu hiện của đạo, là
đạonghĩa, là nguyên tắc luân lý. Nói tóm lại, theo quan niệm của người Trung Quốc
cổ đạithì đạo đức là những yêu cầu, những nguyên tắc do cuộc sống đặt ra mà mỗi
người phảituân theo.
Ở phương tây, ngay từ thời cổ đại cũng có nhiều nhà triết học đưa ra nhiều quan
niệm khác nhau về vấn đề đạo đức. Trong số đó, Xôcrát (469 - 399 TCN) là người
đầutiên đặt nền mống cho khoa học đạo đức học. Về sau Arixtot (384 - 322 TCN) đặc

biệt quan tâm đến phẩm hạnh con người và cho ra đời bộ sách đạo đức học. Nội dung
củaphẩm hạnh con người theo Arixtot chính là ở chỗ con người biết định hướng
đúng, biết làm việc thiện. Epiquya là nhà triết học rất quan tâm đến vấn đề đạo đức.
Ông là ngườiđầu tiên đưa ra phạm trù lẽ sống và là một trong những người có công
luận giải về sựtựdo của con người.
Kế thừa những tư tưởng quý báu về đạo đức trước đó, chủ nghĩa Mác – Lêninđưa
ra quan niệm về đạo đức:Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội, là tập hợp những
nguyên tắc, quy tắc, chuẩn mực xã hội nhằm điều chỉnh và đánh giá cách ứng xử của
con người trong quan hệ với nhau và quan hệ với xã hội, chúng được biểu hiện bởi
niềm tin cá nhân, bởi truyền thống và sức mạnh của dư luận xã hội [12,tr.7].
Từ quan niệm trên, đạo đức trước hết được hiểu là một hình thái ý thức xã hội,nó
phản ánh tồn tại xã hội, phản ánh hiện thực của đời sống đạo đức xã hội. Quan
điểmnày đã khắc phục những sai lầm của các nhà triết học trước Mác (cả duy vật lẫn
duytâm) khi họ xem xét các vấn đề xã hội và đạo đức. Theo họ, đạo đức là biểu hiện
củamột sức mạnh siêu nhiên nào đó, là biểu hiện của những năng lực “tiên thiên”
nhấtthành bất biến của lý trí con người. Những nhà triết học duy vật trước Mác tiêu
biểu làPhoi-ơ-bắc đã nhìn thấy đạo đức trong quan hệ con người, người với người.
Nhưng vớiông con người chỉ là một thực thể trừu tượng, bất biến, con người nhân
bản, nghĩa làcon người ở bên ngoài lịch sử, đứng trên giai cấp, dân tộc và thời đại.
Những người theo quan điểm Đác - Uyn xã hội đã tầm thường hóa chủ nghĩa duy
vật bằng cách cho rằng, những phẩm chất đạo đức của con người là đồng nhất
vớinhững bản năng bầy đàn của động vật. Đối với họ đạo đức, về thực chất cũ ng chỉ
lànhững năng lực được đem lại từ bên ngoài con người, ngoài xã hội. Như vậy nét


chung ,của các lý thuyết này là coi đạo đức không phải là cái phản ánh cơ sở xã hội
hiện thựckhách quan.
Khác với tất cả những quan điểm trước đó, C.Mác và Ph.Ăngghen đã quan niệm
đạo đức được nảy sinh do nhu cầu của đời sống xã hội, là kết quả của sự phát triển
lịch sử.Trong tác phẩm "Chống ĐuyRinh", Ph.Ăngghen đã viết: “Xét cho đến cùng,

mọi họcthuyết về đạo đức đã có từ trước đến nay đều là sản phẩm của tình hình kinh
tế của xã hộilúc bấy giờ” [34, tr.137].
Với tư cách là một hình thái ý thức xã hội, do tồn tại xã hội sinh ra và phản ánh
tồn tại xã hội, cho nên đạo đức không đứng yên mà luôn vận động và biến đổi cùng
vớisự biến đổi của cái đã sinh ra nó.
Trong xã hội Cộng sản nguyên thuỷ, khi lực lượng sản xuất còn thấp kém, quan
hệ sản xuất dựa trên cơ sở của chế độ sở hữu công cộng về tư liệu sản xuất. Điều đó
đãquy định đời sống làm chung, ăn chung, ở chung của người nguyên thuỷ. Chính vì
vậ y mặc dù trong xã hội cộng sản nguyên thuỷ các dấu hiệu về đạo đức đã xuất hiện,
nhưng biểu hiện của nó còn sơ khai, mang tính trực quan, cụ thể nhưng nó đã được
xem làmầm mống đầu tiên của đạo đức. Đạo đức trong Xã hội cộng sản nguyên thuỷ
tồn tạivàthể hiện trong xã hội và thông qua các quan hệ xã hội khác trên cơ sở phon g
tục, tậpquán, thói quen, kinh nghiệm ...
Đến cuối chế độ Cộng sản nguyên thuỷ, xã hội đã xuất hiện giai cấp, xuất hiện
chế độ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất. Trong các xã hội có sự phân chia giai
cấpthì đạo đức cũng mang tính giai cấp, đó là đạo đức của những người bóc lột và
đạo đứccủa những người bị bóc lột. Chính vì đạo đức mang tính chất đối kháng, nên
nhữngchuẩn mực, quy tắc đạo đức được xây dựng trên cơ sở bất bình đẳng, sự nô
dịch, sự áp bức và bóc lột. Điều này thể hiện rất rõ trong các chế độ xã hội Chiếm
hữu nô lệ, Phongkiến, Tư bản Chủ nghĩa. Trong ba nền đạo đức ấy, chúng ta phải
thừa nhận rằng mỗinền đạo đức như thế nó có vị trí riêng, vai trò riêng trong quá
trình phát triển của nhânloại. Mặc dù đạo đức Tư sản đã từng có vai trò to lớn trong
lịch sử, mà cụ thể là nó đềcao vai trò của cá nhân, thế nhưng khi đạo đức Tư sản tuyệt
đối hoá vai trò cá nhân, dẫnđến chủ nghĩa cá nhân thì nó đã thể hiện rõ mặt trái của
nó, đó là lối sống chạy theođồng tiền, vị kỷ, chạy theo những ham muốn bản năng
thấp hèn. điều đó đã làm chocác quan hệ giữa người và người trở nên lạnh lùng, tàn


nhẫn theo lối “trả ti ền ngaykhông cần tình nghĩa”, đồng tiền trở thành chân giá trị
cuối cùng trong tất cả các quanhệ xã hội. Khi nhận định về đạo đức của xã hội Tư bản

người ta thấy rằng cùng với việctạo ra bước tiến khổng lồ và những thành tựu to lớn
trong sự phát triển, Chủ nghĩa Tưbản cũng đã để lại trong lòng nó không ít những hậu
quả tiêu cực. Vấn đề luân lý, đạođức ngày càng suy giảm. Nhận định về điều này
C.Mác cho rằng:Mọi sự vật đều tựa hồ như bao hàm mặt đối lập của nó. Chúng ta
thấy rằng những máy móc có một sức mạnh kỳ diệu trong việc giảm bớt lao động của
con người và làm cho lao động của con người có kết quả cao hơn, thì lại đem nạn đói
và tình trạng kiệt quệ đến cho con người. Những nguồn của cải mới từ xưa đến nay
chưa ai biết, dường như do một sức mạnh thần kỳ nào đólại đang biến thành nguồn
gốc của sự nghèo khổ. Những thắng lợi của kỹ thu ật dường như đã được mua bằng
cái giá của sự suy đồi về mặt tinh thần.
Dường như loài người càng chinh phục được thiên nhiên nhiều hơn, thì con người
lại càng trở thành nô lệ của những người khác hoặc nô lệ cho sự đê tiện của chính
mình [32, tr.40 ].
Trên cơ sở nắm được những quy luật vận động và phát triển của đạo đức, C.Mác
và Ph.Ăngghen đã dự báo về sự xuất hiện nền đạo đức mới với tư cách là biểu hiện
vềmặt đạo đức của xã hội mới - xã hội Cộng sản chủ nghĩa và sự hình thành đạo đức
mớitrên cơ sở gắn đạo đức vô sản với cuộc đấu tranh giải phóng giai cấp vô sản và do
đónhân loại thoát khỏi sự phân biệt giai cấp. Vì vậy, theo Mác đạo đức Cộng sản là
một thứ “đạo đức thực sự có tính người, đứng trên những đối lập giai cấp và trên mọi
hồiứcvề những đối lập ấy” [34, tr.137].
Tuy nhiên, đạo đức mới - đạo đức cộng sản được hình thành là một quá trình lâu
dài, phức tạp. Thắng lợi của giai cấp vô sản chỉ là cơ sở, nền mống đầu tiên cho sự
xáclập đạo đức cộng sản. Sự nghiệp xây dựng đạo đức mới - đạo đức cộng sản là một
quátrình lâu dài phức tạp và là một quá trình tự giác.
Với thắng lợi của cách mạng tháng 10 Nga vĩ đại, Lênin là người đầu tiên lĩnh sứ
mệ nh lãnh đạo sự nghiệp xây dựng chế độ CSCN và đạo đức Cộng sản. Theo Lênin
đạo đức cộng sản “là những gì góp phần phá huỷ xã hội cũ của bọn bóc lột và góp
phần đoàn kết tất cả những người lao động chung quanh giai cấp vô sản đang sáng
tạo ra xã hội mới” [27, tr.369]. Lênin cũng chỉ ra rằng: “cơ sở của đạo đức cộng sản



là cuộc đấu tranh để củngcố và hoàn thành công cuộc xây dựng chủ nghĩa cộng sản”
[27, tr.372].
Vận dụng sáng tạo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin nói chung và lý luận về
đạo đức nói riêng vào thực tiễn cách mạng Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ
rarằng: “Nói tóm tắt đạo đức cách mạng là:
Quyết tâm suốt đời đấu tranh cho đảng, chocách mạng. Đó là điều chủ chốt nhất.
Ra sức làm việc cho Đảng, giữ vững kỷ luật của Đảng, thực hiện tốt đường lối,
chính sách của đảng.
Đặt lợi ích của Đảng và của nhân dân lao động lên trên, lên trước lợi ích riêng của
cá nhân mình. Hết lòng hết sức phục vụ nhân dân. Vì đảng vì dân mà đấu tranh quên
mình, gương mẫu trong mọi công việc.
Ra sức học tập Chủ nghĩa Mác - Lênin, luôn luôn dùng phê bình và tự phê bình
để nâng cao tư tưởng và cải tiến công tác của mình và cùng đồng chí mình tiến bộ
[38, tr.291].
Hồ Chí Minh đã coi đạo đức cách mạng là “gốc”, là nền tảng của mọi người cách
mạng, Người nói: “cũng như sông thì có nguồn mới có nước, không có nguồn thì
sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo
đức,không có đạo đức thì dù có tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân [36,
tr.252-253].
Khác với các nền đạo đức trước đây, đạo đức cách mạng của giai cấp công nhân,
đạo đức cộng sản hay đạo đức mới - là nền đạo đức tiêu biểu cho giai cấp công nhân
và toàn thể nhân dân lao động, là nền đạo đức hướng tới sự xoá bỏ hoàn toàn sự áp
bức và bóc lột, mà chỉ có dưới CNXH mới có thể thực hiện được. Như vậy, so với
các nền đạo đức trước đây thì đạo đức mới là một bước phát triển cao về chất. Nó là
kết quả của sự kế thừa những nội dung tốt đẹp nhất của các nền đạo đức trước đó, vì
vậy đạo đức cách mạng bao hàm rất nhiều yếu tố mang tính nhân loại và nền đạo đức
ấy sẽ được xây dựng thành công trong tương lai trên toàn thế giới, cùng với sự thắng
lợi của chủ nghĩa cộng sản.
Tính cách mạng và khoa học của đạo đức mới thể hiện ở chỗ nó là sự phản ánh

sáng tạo thực tiễn cách mạng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, ở sự kế
thừa có phê phán chọn lọc những giá trị truyền thống của dân tộc và những tinh hoa


văn hoá của nhân loại. Nội dung đạo đức mới mang tính khách quan, được quy định
bởi địa vị và vai trò của giai cấp công nhân trong nền sản xuất vật chất xã hội, bởi
bản chất cách mạng và nhân đạo của của giai cấp vô sản. Chính tính cách mạng và
khoa học của đạo đức mới đã quy định bản chất của đạo đức mới.
Chủ nghĩa tập thể là cơ sở của đạo đức mới:
Chủ nghĩa tập thể là nguyên tắc, là cơ sở của đạo đức mới. Ở đây con người
không chỉ suy nghĩ và hành động vì mình, vì bản thân mình mà còn vì người khác, có
tinh thần trách nhiệm và thái độ tôn trọng, chăm sóc lẫn nhau. Tập thể ở đây vừa là
mục đích, vừa là phương tiện, là hình thức để cho các cá nhân phát triển. Chủ nghĩa
tập thể là kết quả của sự phát triển hợp quy luật của lịch sử xã hội loài người, là sự
tổng hợp của những nhân tố chủ quan và khách quan của đời sống con người và xã
hội loài người.
Chủ nghĩa tập thể hoàn toàn đối lập với chủ nghĩa cá nhân. Chủ nghĩa cá nhân là
biểu hiện của sự tuyệt đối hoá lợi ích của cá nhân, của gia đình mà xem thường hay
tạo ra sự đối lập với lợi ích của tập thể, của xã hội. Thế nhưng dưới CNXH cũng
không chấp nhận sự tuyệt đối hoá lợi ích tập thể, lợi ích xã hội mà xem thường lợi ích
cá nhân.
Cái mà CNXH kiên quyết xoá bỏ là chủ nghĩa cá nhân chứ không phải là lợi ích
cá nhâncái lợi thu được hợp pháp trong quá trình lao động, sản xuất và kinh doanh
của mỗi cá nhân. Để khắc phục Chủ nghĩa cá nhân, theo Chủ nghĩa Mác - Lênin
không chỉ dừng lại ở việc giáo dục cá nhân mà điều quan trọng là phải xây dựng
những tập thể thực sự tốt đẹp. Ở đâu tập thể tốt thì ở đó chủ nghĩa cá nhân ít có điều
kiện nảy nở. Chủ tịch Hồ
Chí Minh và Đảng ta thường xuyên nhắc nhở cán bộ, đảng viên và nhân dân ta
phảinâng cao tinh thần tập thể, chống chủ nghĩa cá nhân. Theo Bác, chủ nghĩa cá
nhân là kẻ thù nguy hiểm mà mọi người chúng ta phải luôn luôn tỉnh táo đề phòng và

kiên quyết tiêu diệt chúng, tuy vậy cuộc đấu tranh ấy là một quá trình lâu dài, phức
tạp.
Chủ nghĩa tập thể đòi hỏi tập thể phải có nghĩa vụ đối với cá nhân, quan tâm đến
mọi mặt của đời sống cá nhân, đồng thời cũng yêu cầu mỗi cá nhân phải biết kết hợp
hài hoà lợi ích giữa cá nhân và xã hội với tinh thần: “mọi người vì mỗi người, mỗi


×