Tải bản đầy đủ (.docx) (46 trang)

Tìm hiểu về nguồn lực thông tin ở thư viện Viện nghiên cứu Châu Âu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (236.95 KB, 46 trang )

MỞ ĐẦU
1.

Lý do chọn đề tài
Trong thời đại ngày nay, thời đại mà khoa học và công nghệ ngự trị
trong đời sống của tất cả mọi người thì thông tin giữ vai trò cực kỳ trọng yếu.
Sự đột phá và vươn tới thành công của thế giới hiện đại đều bắt nguồn từ
thông tin trên cơ sở nguồn lực thông tin. Thông tin trở thành nguồn tài nguyên
đặc biệt của mỗi quốc gia. Chính vì vậy, hoạt động thông tin trở thành một
trong số các nhân tố quan trọng nhất trong chiến lược phát triển của bất kỳ
quốc gia nào trên thế giới
Thực tiễn phát triển kinh tế xã hội ngày càng khẳng định vai trò quan
trọng của thông tin. Một xã hội càng được thông tin hóa cao càng có điều kiện
phát triển mạnh. Tổ chức UNESSCO đã khẳng định rằng thông tin đóng vai
trò cực kỳ quan trọng trong quá trình phát triển và đặc biệt các nước đang
phát triển cần đạt tới sự phát triển đầy đủ các cơ sở hạ tầng thông tin, đó là
các dịch vụ thông tin khoa học, thư viện và lưu trữ.
Từ thực tế cho thấy, muốn phát triển kinh tế- xã hội thì tất cả các quốc
gia trên thế giới cần xây dựng cho mình một nguồn lực thông tin vững mạnh
để đẩy mạnh các hoạt động khai thác, sử dụng và tạo ra các nguồn thông tin
có chất lượng cao. Đặc biệt là nguồn tin khoa học và công nghệ nhằm đáp
ứng nhu cầu của người dùng tin trong sự nghiệp công nghiệp hóa- hiện đại
hóa đất nước nói chung và Viện nghiên cứu Châu Âu nói riêng
Thư viện là một thiết chế văn hóa, có chức năng văn hóa, giáo dục, giải
trí và thông tin khoa học, đảm bảo việc tổ chức và khai thác nguồn lực thông
tin một cách có hiệu quả nhất, góp phần to lớn vào việc giáo dục và nâng cao
dân trí, đẩy nhanh tiến bộ khoa học công nghệ và phục vụ sản xuất. Thư viện
trở thành một bộ phận không thể thiếu đối với người dùng tin.
Ngày nay, với sự phát triển của công nghệ thông tin và công nghệ đã tạo
điều kiện thuận lợi Thư viện tiến hành các hoạt động, ứng dụng công nghệ
thông tin để tiến hành bổ sung, trao đổi và cập nhật thông tin giữa các viện


nghiên cứu trong và ngoài nước. Qua đợt khảo sát tại thư viện Viện nghiên
cứu Châu Âu và xuất phát từ những lý do trên, em đã quyết định chọn đề tài:


“Tìm hiểu về nguồn lực thông tin ở thư viện Viện nghiên cứu Châu Âu”
làm bài tiểu luận
2. Mục đích nghiên cứu
Tiến hành nghiên cứu thực trạng nguồn lực thông tin của thư viện, tình
hình sử dụng nguồn lực thông tin, đánh gia mức độ thỏa mãn nhu cầu tin, phát
hiện những ưu điểm, những hạn chế của nguồn lực thông tin. Từ đó đề ra các
giải pháp nhằm nâng cao chất lượng nguồn lực thông tin, đáp ứng tối đa nhu
3.

4.

5.

cầu tin của bạn đọc tại thư viện Viện nghiên cứu Châu Âu
Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
• Đối tượng nghiên cứu: Nguồn lực thông tin
• Phạm vi nghiên cứu: Thư viện Viện nghiên cứu Châu Âu
Phương pháp nghiên cứu:
• Khảo sát thực tế
• Phỏng vấn
• Thống kê số liệu, phân tích tổng hợp tài liệu
Cấu trúc bài tiểu luận
Ngoài lời mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, tiểu
luận có cấu trúc 3 chương.
Chương 1: Nguồn lực thông tin và vai trò của nguồn lực thông tin tại
thư viện Viện nghiên cứu Châu Âu

Chương 2: Thực trạng nguồn lực thông tin tại thư viện Viện nghiên
cứu Châu Âu
Chương 3: Giải pháp nâng cao chất lượng nguồn lực thông tin tại thư
viện Viện nghiên cứu Châu Âu

Chương 1
NGUỒN LỰC THÔNG TIN VÀ VAI TRÒ CỦA NGUỒN LỰC
THÔNG TIN TẠI THƯ VIỆN VIỆN NGHIÊN CỨU CHÂU ÂU
1.1.
1.1.1.

Khái niệm nguồn lực thông tin
Khái niệm chung
Nguồn lực (resources) là một khái niệm quen dùng trong một số ngành
và hoạt động lĩnh vực xã hội. Tuy nhiên có nhiều cách định nghĩa khác nhau


nhưng các nhà nghiên cứu đều thống nhất ở chỗ coi nguồn lực không chỉ có
các yếu tố vật thể như quan niệm cũ, mà nó còn có các yếu tố phi vật thể có
một ý nghĩa vô cùng quan trọng. Cuộc cách mạng khoa học công nghệ đã
chứng minh những yếu tố phi vật thể như tri thức, công nghệ, truyền thống
dân tộc… có một vai trò vô cùng to lớn trong quá trình phát triển kinh tế- xã
hội
Thông tin là tất cả những gì đem lại sự hiểu biết cho con người.
V.I.Lênin nói: “ Không có thông tin thì sẽ không có tiến bộ trong các lĩnh vực
khoa học, kỹ thuật và sản xuất vật chất”.
Nguồn lực thông tin có thể hiểu được theo nhiều cách khác nhau. Là khái
niệm rất thông dụng trong cuộc sống hiện nay, khái niệm “nguồn lực thông
tin” phản ánh phần thông tin tiềm năng trong xã hội, có cấu trúc được kiểm
soát, có thể truy cập được, có giá trị phục vụ cho hoạt động thực tiễn của con

người.
Nguồn lực thông tin là một phần của sản phẩm trí tuệ, là sản phẩm lao
động khoa học có kiến thức, suy nghĩ , sáng tạo của con người, phản ánh
những kiến thức được kiểm soát và được ghi lại dưới dạng một dạng vật chất
nào đó. Những thông tin đó phải được cấu trúc, tổ chức lại giúp con người có
thể tìm được chúng theo nhiều cách khác nhau, để khai thác được chúng theo
nhiều phương thức khác nhau

1.1.2. Khái niệm nguồn lực thông tin trong cơ quan thông tin thư viện
Đối với mỗi cơ quan thông tin thư viện, nguồn lực thông tin là yếu tố
quan trọng nhất giúp duy trì mọi hoạt động và là cơ sở để từ đó phát triển các
dịch vụ nhằm thỏa mãn nhu cầu thông tin của người dùng tin
Nguồn lực thông tin của thư viện là một tập hợp có hệ thống những
xuất bản phẩm và những vật mang tin khác nhau tồn tại dưới nhiều dạng thức


tư liệu, điện tử,…được lựa chọn phù hợp với tính chất, loại hình và chức
năng, nhiệm vụ của thư viện.
Tóm lại, khái niệm nguồn lực thông tin dược sử dụng trong thư viện
để chỉ mọi thông tin có trong thư viện về nguyên tắc, đều phải được tổ chức,
kiểm soát sao cho người dùng tin có thể truy cập, tìm kiếm, khai thác và sử
dụng được
1.2.

Vai trò của nguồn lực thông tin trong hoạt động thông tin thư viện
Bước sang thể kỷ XXI đồng nghĩa với việc xã hội loài người đang
chuyển dần từ xã hội công nghiệp sang xã hội mới- xã hôi thông tin, một xã
hội mà ở đó nền kinh tế không dựa trên nguồn tài nguyên thiên nhiên mà chủ
yếu dựa trên nguồn lực thông tin, dựa trên các tiến bộ khoa học kỹ thuật.
Thông tin trở thành tiềm lực và động lực cho sự phát triển, là nhân tố thứ nhất

đóng góp vào sự phát triển của lực lượng sản xuất. Thông tin có vai trò quan
trọng trong mọi lĩnh vực, mọi khía cạnh của cuộc sống.
Xu hướng phát triển kinh tế- xã hội hiện nay ngày càng dựa trên việc
cung cấp đầy đủ, chính xác và kịp thời các nguồn tin. Thông tin được chuyển
giao theo nhiều cách khác nhau qua các hình thức khác nhau như sách, báo,
tạp chí và các vật mang tin hiện đại khác.
Tại Hội nghị Báo chí và Xuất bản toàn quốc tháng 10 năm 1993,
đồng chí Đỗ Mười, nguyên Tổng Bí thư BCHTW Đảng Cộng SảnViệt Nam
đã khẳng định: “Sách báo là một bộ phận không thể thiếu được trong đời sống
tinh thần của mọi người. Trong sự nghiệp đổi mới, sách báo đã đóng góp
phần không nhỏ vào những thành tựu bước đầu rất quan trọng của đất nước.
Sách báo là phương tiện thông tin công khai có tác dụng nhanh và sâu rộng
trong nhân dân”.
Thực tiễn phát triển kinh tế- xã hội ngày càng khẳng định vai trò vô
cùng quan trọng của cơ quan thông tin thư viện. Trong pháp lện thư viện số
31/2000/PL – UBTV 10 quy định: “Thư viện có chức năng nhiệm vụ giữ gìn
di sản thư tịch của dân tộc; thu thập, tàng trữ, tổ chức việc khai thác và sử


dụng chung vốn tài liệu trong xã hội nhằm truyền bá tri thức, cung cấp thông
tin phục vụ nhu cầu học tập, nghiên cứu, công tác và giải trí của mọi tầng lớp
nhân dân; góp phần nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài,
phát triển khoa học công nghệ, kinh tế, văn hóa, phục vụ công cuộc công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”.
Trong hoạt động thông tin thư viện, nguồn lực thông tin có vai trò
quan trọng. Nguồn lực thông tin là thành phần cơ bản của hệ thống thông tin,
đồng thời chính là nguyên liệu của quá trình hoạt động trong hệ thống; là cơ
sở để tọ ra các sản phẩm và dịch vụ thông tin, hợp tác và chia sẻ nguồn lực
thông tin giữa các cơ quan thông tin thư viện.
Nguồn lực thông tin của thư viện là tài sản quý giá, là tiềm lực, là

sức mạnh, là niềm tự hào của thư viện. Nguồn lực thông tin càng phong phú
thì khả năng đáp ứng nhu cầu tin càng lớn.
Thực tế cho thấy nhu cầu tin của người dùng tin ngày càng cao và
đa dạng. Một vấn đề đặt ra cho mỗi thư viện là phải đáp ứng, thỏa mãn các
nhu cầu thông tin của người dùng tin. Đó cũng chính là nhiệm vụ và là thách
thức của mỗi thư viện. Để giải quyết vấn đề này, mỗi thư viện phải tạo dựng
cho mình một nguồn lực thông tin phong phú, đầy đủ, luôn được cập nhật và
phát triển, từ đó tạo điều kiện xây dựng một nguồn lực thông tin phong phú,
đầy đủ, đa dạng có giá trị, luôn được cập nhật và phát triển bền vững.
1.2.1.
1.2.1.1.

Quá trình hình thành và phát triển của thư viện thuộc Viện nghiên cứu
Châu Âu
Một vài nét khái quát về Viện nghiên cứu Châu Âu
Trong tiến trình phát triển kinh tế- xã hội ở Việt Nam, các ngành Khoa
học Xã hội và Nhân văn (KHXH&NV) ngày càng có vị trí, vai trò quan trọng.
Những thành tựu của các cơ quan nghiên cứu KHXH&NV nước ta đã và đang
góp phần quan trọng vào việc hoạch định đường lối chiến lược và chính sách


của Đảng và Nhà nước cũng như khẳng định nguồn gốc, truyền thống lịch sử
và bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam
Nghiên cứu Châu Âu về lĩnh vực khoa học xã hội vừa phải đảm bảo
những yêu cầu chung đối với các ngành khoa học, vừa phải đáp ứng những
yêu cầu của nghiên cứu khoa học xã hội trong một khu vực cụ thể. Châu Âu
nói chung và EU – một tổ chức liên kết khu vực nói riêng cho đến nay chưa
phải là đối tượng nghiên cứu được quan tâm nhiều ở Việt Nam.
Trước năm 1993, ở Việt Nam chưa có cơ quan, tổ chức khoa học
nào chuyên về nghiên cứu Châu Âu ở góc độ KHXHNV. Nghiên cứu Châu

Âu ở góc độ KHXH&NV bao gồm nghiên cứu, giảng dạy, đào tạo, thu thậpxử lý và cung cấp thông tin, tư vấn về Châu Âu dưới góc độ KHXH&NV.
Châu Âu mới chỉ được nghiên cứu ở từng lĩnh vực riêng về lịch sử, kinh tế,
quan hệ quốc tế, văn học,v.v…trong các chuyên đề nghiên cứu được thực
hiện phân tán ở một số khoa, một số bộ phận của các trường đại học và cơ
quan nghiên cứu khoa học xã hội.
Tháng 9/1993 Chính phủ ra quyết định thành lập một cơ quan nghiên
cứu KHXH&NV chuyên về Châu Âu- lúc đầu hạn chế ở các nước thuộc Liên
Xô trước kia và Đông Âu, được gọi là Trung tâm nghiên cứu SNG và Đông
Âu được thành lập theo quyết định số 446/TTg ngày 13 tháng 9 năm 1993.
Sau khi mở rộng đối tượng nghiên cứu ra toàn Châu Âu thì tháng 8 năm 1998
được đổi tên thành Trung tâm nghiên cứu Châu Âu trực thuộc Trung tâm
Khoa học Xã hội và Nhân văn quốc gia. Từ năm 2004, theo Nghị định của
Chính phủ đã đổi tên là Viện nghiên cứu Châu Âu (tên tiếng Anh là Institute
for Europcan studies) trực thuộc Viện Khoa học Xã hội Việt Nam.
Cơ cấu tổ chức
Đội ngũ cán bộ của Viện ngày càng được tăng cường cả về số lượng lẫn
chất lượng. Viện Nghiên cứu Châu Âu hiện nay có 44 cán bộ trong biên chế,
2 cán bộ hợp đồng với 34 cán bộ nghiên cứu, 12 cán bộ làm chức năng phục
vụ nghiên cứu bao gồm 3 GS-PGS, 4 Tiến sĩ, 20 Thạc sỹ số còn lại đều có


trình độ đại học, trung cấp. Viện Nghiên cứu Châu Âu gồm có 8 phòng và
trung tâm nghiên cứu khoa học, 1 phòng phục vụ nghiên cứu là phòng Thư
viện, 2 phòng giúp việc Viện trưởng, 1 Hội đồng khoa học làm tư vấn cho
Viện trưởng. Bên cạch đó, Viện còn có Tạp chí Nghiên cứu Châu Âu, là cơ
quan ngôn luận của Viện và là diễn đàn khoa học của ngành Châu Âu học
dành cho các đối tượng quan tâm.
A. Lãnh đạo Viện
Viện trưởng: PGS.TS Nguyễn Quang Thuấn
Viện phó: TS. Nguyễn An Hà

B. Cơ cấu tổ chức:
* Hội đồng khoa học
Hội đồng khoa học Viện Nghiên cứu Châu Âu có nhiệm vụ làm tư vấn
cho Viện trưởng. Các thành viên Hội đồng khoa học của Viện do Viện trưởng
quyết định sau khi có ý kiến chấp thuận của Chủ tịch Viện Khoa học xã hội
Việt Nam. Hội đồng khoa học của Viện hoạt động theo quy chế về tổ chức và
hoạt động của Hội đồng khoa học do Chủ tịch Viện Khoa học xã hội Việt
Nam ban hành.
Hội đồng khoa học của Viện bao gồm các thành viên sau:
PGS.TS Nguyễn Quang Thuấn (Chủ tịch hội đồng)
GS.TS. Bùi Huy Khoát
TS. Đinh Công Tuấn
TS. Trần Thị Kim Dung
TS. Nguyễn An Hà
* Các phòng và trung tâm nghiên cứu khoa học
- Trung tâm Nghiên cứu Nga và SNG
- Trung tâm Nghiên cứu EU
- Phòng Nghiên cứu các quốc gia Châu Âu
- Phòng Nghiên cứu kinh tế Châu Âu
- Phòng Nghiên cứu chính trị Châu Âu


- Phòng Nghiên cứu lịch sử, văn hoá và xã hội Châu Âu
- Phòng Nghiên cứu quan hệ quốc tế và hội nhập của Châu Âu
- Phòng Nghiên cứu môi trường và phát triển khu vực
* Phòng phục vụ nghiên cứu
- Thư viện
* Các phòng giúp việc Viện trưởng
- Phòng Quản lý Khoa học và Đào tạo
- Phòng Hành chính - Tổng hợp

* Tạp chí Nghiên cứu Châu Âu
Tạp chí Nghiên cứu Châu Âu là cơ quan ngôn luận của Viện nghiên cứu
Châu Âu và là diễn đàn dành cho những người quan tâm đến ngành Châu Âu
học tại Việt Nam. Tạp chí được tổ chức và hoạt động theo giấy phép hoạt
động Báo chí, Luật báo chí, các văn bản pháp quy khác về báo chí và quy chế
về tổ chức hoạt động của các tạp chí thuộc Viện Khoa học xã hội Việt
Nam.Tạp chí có Phòng Biên tập - Trị sự. PGS.TS Nguyễn Quang Thuấn Tổng biên tập
Hiện nay, tạp chí Tiếng Việt định kỳ ra 1 tháng/số và tạp chí Tiếng Anh
ra 1 năm/số.
1.2.1.2.

Lịch sử hình thành thư viện Viện nghiên cứu Châu Âu
Là một phòng ban phục vụ nghiên cứu cơ bản cuả Viện nghiên cứu Châu
Âu, thư viện được thành lập cùng với sự ra đời của Viện. Thư viện Viện
nghiên cứu Châu Âu thành lập năm 1993, trực thuộc Viện khoa học xã hội
Việt Nam.
Chức năng
Tư vấn cho hoạt động của Hội đồng khoa học Viện nghiên cứu
Châu Âu. Tham gia tổ chức chỉ đạo các hoạt động nghiên cứu khoa học, sáng
kiến kĩ thuật của các cán bộ, giáo viên, các tập thể phòng ban trong Viện
nghiên cứu Châu Âu. Quản lí các đề tài nghiên cứu khoa học, hợp tác nghiên
cứu khoa học kĩ thuật trong và ngoài nước.


Nhiệm vụ:
Thu thập, xử lí, xây dựng và phổ biến thông tin chuyên ngành về
nghiên cứu Châu Âu trong và ngoài nước đồng bộ, đủ tin cậy và kịp thời để
phục vụ cho công tác giảng dạy, học tập, nghiên cứu, đáp ứng nhu cầu người
dùng tin trong và ngoài Viện.
Giới thiệu chương trình nghiên cứu về Châu Âu thông qua việc

xuất bản những sách và tạp chí nhằm phổ biến thông tin nhanh nhất đến người
dùng tin trong và ngoài Viện.
Mở rộng mối quan hệ hợp tác với các cơ quan, đơn vị ngoài Viện.
Xây dựng và phát triển nguồn thông tin, đồng thời xác định nhu cầu thông tin
nhằm nâng cao hiệu quả phục vụ, đảm bảo thông tin tối đa cho người dùng
tin.
Quản lí kho tư liệu, sách báo về nghiên cứu Châu Âu.
Phục vụ người dùng tin là cán bộ nghiên cứu, các nhà quản lí, sinh
viên làm khóa luận, luận văn.
Quan hệ với các tổ chức thông tin trong nước cũng như những tổ
chức thông tin về chuyên ngành nghiên cứu Châu Âu của các nước trên thế
giới.


Đội ngũ cán bộ
Hiện nay, thư viện- Viện nghiên cứu Châu Âu đang hoạt động rất ổn
định và hiệu quả với sự nhiệt huyết, lòng yêu nghề, sự nỗ lực ham học hỏi,
trau dồi chuyên môn nghiệp vụ của một tập thể các cán bộ làm việc tại đây.
Một điều rất dễ nhận thấy là đội ngũ cán bộ của thư viện ngày càng khẳng
định được sự chuyên nghiệp của mình, chuyên môn nghiệp vụ vững vàng,
phục vụ bạn đọc một cách tôt nhất. Điều này đã phần nào khẳng định vai trò
quan trọng của thư viện đối với Viện nghiên cứu Châu Âu nói riêng và đối
với Viện khoa học xã hội Việt Nam nói chung trong sự nghiệp xây dựng nền
tảng cho đất nước.
Tính đến thời điểm hiện tại, đội ngũ cán bộ của thư viện có 4 người


• 3 cán bộ biên chế
• 1 cán bộ hợp đồng
Trong đó có 02 thạc sĩ, 01 kỹ sư tin học, 01 cử nhân chuyên ngành quản

trị kinh doanh
Có thể nói rằng đội ngũ cán bộ của thư viện đều có trình độ cao ( đại
học và trên đại học). Họ là những cán bộ có trình độ chuyên môn ngành thông
tin- thư viện được đào tạo bài bản, nắm vững nghiệp vụ, có kinh nghiệm thực
tiễn và có trình độ ngoại ngữ và có khả năng định hướng, tìm kiếm thông tin
phù hợp, chính xác, hướng dẫn tra cứu cho người dùng tin nhanh chóng. Như
vậy có một thực tế là đội ngũ cán bộ của thư viện tuy có trình độ nghiệp vụ
nhưng trình độ chuyên môn thuộc các lĩnh vực nghiên cứu của Viện thì lại rất
khiêm tốn nên để có thể nắm bắt chính xác nội dung mọi tài liệu về Châu Âu
còn hạn chế


CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG NGUỒN LỰC THÔNG TIN TẠI THƯ VIỆN VIỆN
NGHIÊN CỨU CHÂU ÂU
2.1. Cơ cấu nguồn lực thông tin
Ngày nay, trước sự bùng nổ thông tin, nguồn thông tin trên thế giới
ngày càng nhiều và phong phú, đòi hỏi mỗi thư viện phải có những định
hướng nhất định trong việc xây dựng, phát triển nguồn lực thông tin của
mình, nghĩa là phải đảm bảo được chất lượng tài liệu phù hợp với người dùng
tin cuat thư viện, trên cơ sở đó mới thực hiện chức năng đáp ứng nhu cầu
thông tin của xã hội.
Đánh giá chất lượng, hoạt động của thư viện thì yếu tố đầu tiên
phải đề cập đến là sự phù hợp của nguồn lực thông tin với nhu cầu thông tin
của người dùng tin tại thư viện. Do đó, thư viện phải luôn đánh giá chất lượng
nguồn lực thông tin hiện có, tìm hiểu những nhu cầu mới, từ đó có những
chính sách phát triển nguồn lực thông tin trước mắt và trong tương lai ngày
càng phù hợp với người dùng tin cả về số lượng lẫn chất lượng.
2.1.1. Loại hình tài liệu
Thư viện của Viện nghiên cứu Châu Âu ra đời cùng với sự ra đời

của Viện nghiên cứu Châu Âu năm 1993. Ngày đầu thành lập với số vốn tài
liệu ít ỏi là 150 cuốn sách và tạp chí được chia từ Viện Châu Á- Thái Bình
Dương, cho tới nay, sau 16 năm hoạt động, trưởng thành, Thư viện- Viện
nghiên cứu Châu Âu đã có một nguồn lực thông tin tương đối phong phú,
được chia thành 2 nhóm chính: Nguồn lực thông tin truyền thống và nguồn
lực thông tin điện tử


2.1.1.1. Nguồn lực thông tin truyền thống: (bao gồm sách, báo, tạp
chí..)
Thư viện có hơn 5000 đầu sách, trong tổng số 2.671 sách nước
ngoài thì có đến 1.265 cuốn sách do Uỷ Ban Châu Âu tài trợ từ dự án nghiên
cứu Châu Âu tại Việt Nam; 140 đầu báo, tạp chí tiến Việt và tiếng nước ngoài
trong đó có 97 loại báo, tạp chí nước ngoài và 37 loại báo , tạp chí trong
nước. Một năm thư viện được cấp khoảng 150 triệu đồng cho việc bổ sung tài
liệu và hoạt động khác. Nguồn tài liệu được bổ sung bằng nhiều hình thức
như: Mua, biếu tặng, trao đổi. Năm 2000-2003 thư viện được Hội đồng Anh
tăng 150 cuốn sách văn học nước ngoài và hơn 500 tài liệu các loại. Năm
2003 thư viện còn được Trường Đại học ở Mỹ tặng 100 cuốn sách tiếng nước
ngoài. Năm 2005 dự án “Chương trình nghiên cứu Châu Âu tại Việt Nam”
đem lại cho thư viện 1.265 cuốn sách tiếng nước ngoài, 125 cuốn sách Việt và
hơn 200 tài liệu các loại. Thực hiện việc liên kết trao đổi với các tổ chức trong
nước và quốc tế, năm 2008 Thư viện đã được Ngân hàng Thế Giới tặng: 20
cuốn sách và tài liệu; Thư viện Quốc hội Mỹ: 22 cuốn sách; Qũy Châu Á: 22
cuốn sách; Hội sinh viên Việt – Mỹ: 51 cuốn sách và 161 tài liệu, tạp chí.
Hiện nay, thư viện đang lưu giữ:
-

Sách tiếng Việt: 2244 cuốn;
Tài liệu tra cứu: 125 cuốn( bao gồm từ điển, bách khoa toàn thư, niên giám,


-

sổ tay…)
Sách tiếng nước ngoài: 2671 cuốn( Tiếng Anh, Đức, Nga)
Tài liệu tiếng Việt: 850 tài liệu
Tài liệu nước ngoài: 574 tài liệu
Tài liệu không công bố: 52 tài liệu bao gồm luận án tiến sĩ cán bộ trong Viện
bảo vệ trong và ngoài nước. Các chuyên đề nghiên cứu, đề tài cấp Nhà nước,
đề tài cấp Bộ, đề tài cấp Viện. Các tài liệu hội thảo quốc tế, hội thảo trong
nước. Nó không chỉ là nguồn tài liệu tham khảo hữu ích mà còn là tài liệu tra
cứu có giá trị đối với người dùng tin trong Viện. Tuy nhiên, đến nay Viện


chưa có những biện pháp tích cực thu thập và quản lý nguồn tin này, gây lãng
phí và thiệt thòi cho người dùng tin.
Bảng 1: Thống kê sách, tài liệu trong thư viện
S

Loại

TT

-

Tổng
số(cuốn)
2244

1


Sách Việt

2

Sách ngoại văn( Anh, Đức, Nga)

2671

3

Tài liệu tiếng Việt

850

4

Tài liệu tiếng nước ngoài

574

5

Tài liệu tra cứu

125

6

Tài liệu không công bố


52

T
ỷ lệ
3
4,4%
4
1%
1
3%
8
,8%
1
,9%
0
,8%

Tài liệu chuyên ngành về Châu Âu bằng tiếng Việt rất ít, cho nên thư viện
phải bổ sung những tài liệu liên quan như tài liệu nói về kinh tế, văn hóa,
chính trị, xã hội của những nước lớn trên thế giới như Trung Quốc, Nhật Bản
hoặc quan hệ của những nước này với EU. Nói chung thư viện mới chỉ đáp
ứng được 50% nhu cầu thông tin, ngoài ra bạn đọc còn thu thập thông tin qua
các kênh khác nhau như : vô tuyến, đặc biệt là khai thác thông tin trên mạng
internet.
- Báo, tạp chí Tiếng Việt : 37 loại tạp chí (trong đó có các tạp chí nghiên
cứu như : Tạp chí nghiên cứu Kinh tế, Tạp chí nghiên cứu quốc tế, Tạp chí
ngoại thương, Tạp chí nghiên cứu Trung Quốc, Tạp chí nghiên cứu Triết
học..)
- Báo, tạp chí Tiếng nước ngoài (tiếng Nga, Trung, Pháp, Anh): 97 loại

(ví dụ : Tạp chí Economic Outlook, European studies journal, Foreign affairs,
US news & World report....)
- Ngoài ra còn có các ấn phẩm của Viện đó là các công trình nghiên cứu
được xuất bản thành sách của các giáo sư, tiến sĩ trong Viện. Mỗi năm tạp chí


Nghiên cứu Châu Âu xuất bản 12 số, mỗi số thư viện lưu 20 cuốn, cho đến
năm 2008 Thư viện lưu giữ 3600 cuốn tạp chí bằng tiếng Việt và 100 cuốn
tạp chí bằng tiếng Anh. Đây là nguồn tài liệu tham khảo được nhóm sinh viên
quan tâm và nghiên cứu nhiều nhất
-

Bảng 2 : Các loại báo, tạp chí trong thư viện
S

Loại

Tổng số

Tỷ lệ

Báo, tạp chí tiếng Việt
Báo, tạp chí tiếng Anh
Báo, tạp chí tiếng Nga
Báo, tạp chí tiếng

(Loại)
37
55
26

12

27,6%
41,0%
19,4%
9,0%

4

3,0%

TT
1
2
3
4
5

Trung
Báo, tạp chí tiếng Pháp

2.1.1.2 Nguồn lực thông tin điện tử: (CSDL, CD-ROM…)
Tin học hoá là xu thế phổ biến của các thư viện ở Việt Nam hiện nay.
Thư viện - Viện Nghiên cứu Châu Âu cũng không nằm ngoài hướng phát
triển ấy. Từ năm 1997 cho tới nay, trung bình mỗi năm Thư viện được cấp 20
triệu đồng cho việc xây dựng CSDL.
Thư viện hiện có 7 CSDL với 14.850 biểu ghi trong đó :
- CSDL sách Việt: 2244 biểu ghi
- CSDL sách La tinh: 890 biểu ghi
- CSDL sách dự án: 1265 biểu ghi

- CSDL sách tiếng Nga: 150 biểu ghi
- CSDL bài trích Tạp chí Châu Âu: 1689 biểu ghi
- CSDL báo, tạp chí tiếng Việt: 5930 biểu ghi
- CSDL báo, tạp chí tiếng nước ngoài: 2682 biểu
Ngoài ra còn 2 CSDL sách, bài trích báo, tạp chí với 127.569 biểu ghi
của các Viện thuộc Viện Khoa học Xã hội Việt Nam.


Thư viện còn đang lưu giữ gần 200 đĩa CD-ROM, chứa toàn bộ nội dung
thư mục sách dự án bằng tiếng Anh. Nếu bạn đọc có nhu cầu sẽ được cung
cấp 01 bản miễn phí.
Thư viện dành 3 máy vi tính cài đặt hệ thống CSDL giúp người dùng tin
truy cập vào các CSDL để tra cứu, tìm kiếm tài liệu. Ngoài ra các phòng
nghiên cứu trong Viện đều được kết nối mạng LAN, giúp cho bạn đọc có thể
ngồi ngay tại phòng làm việc của mình để tra cứu CSDL thư viện.
Người dùng tin ở nhóm quản lý, nhóm nghiên cứu được khai thác
Internet miễn phí tại Thư viện. Do đó nguồn lực thông tin khai thác trên mạng
Internet cũng được bạn đọc quan tâm.
Một số Website thường xuyên được truy cập là :
: Trang này bao gồm các bài viết về nước Nga
trong các lĩnh vực chính trị, quân sự, văn hoá, thể thao… và đặc biệt là quan
hệ hữu nghị giữa nước Nga và Việt Nam cũng như chính sách đối ngoại của
Nga.
Trang này do EU chịu trách nhiệm cập nhật.
Trong đó bao gồm những thông tin về mọi lĩnh vực như: Nông nghiệp, công
nghiệp, kinh tế, chính trị, chính sách vùng, ngân sách, ngoại thương, y tế, văn
hoá… những chính sách, thể chế cũng như các hoạt động của EU.
: Trang Web này giới thiệu về cơ cấu, tổ chức
hoạt động của Nghị viện Châu Âu, chức năng hoạt động, mối quan hệ của
Nghị viện với các thể chế của các thành viên trong khối EU.

: Trang này cung cấp những thông tin
kinh doanh ở Châu Âu, chỉ số thị trường chứng khoán, xu hướng kinh doanh,
tình hình đầu tư, những công nghệ mới ở Châu Âu.
: Trang thông tin này thường xuyên được cập nhật
những chính sách, hoạt động, tỷ lệ lãi xuất, những đánh giá của các chuyên
gia về chính sách tiền tệ của Ngân hàng trung ương Châu Âu.


: Trang Web này giới thiệu tổ chức, hoạt động của
Uỷ ban kinh tế xã hội của EU.
: Vấn đề chính sách vùng hiện nay được coi là một
vấn đề trọng tâm trong các hoạt động của EU. Trang Web này cung cấp
những thông tin về vai trò, cơ cấu hoạt động, các quyết định có liên quan đến
công cuộc phát triển vùng của EU.
: Trang Web này giới thiệu về Phái đoàn
Uỷ ban Châu Âu tại Việt Nam, các hoạt động đang và sẽ diễn ra của phái
đoàn. Qua Website này người truy cập sẽ có cái nhìn tổng quan về quan hệ
Việt Nam – EU. Chính sách hợp tác và phát triển, các quan hệ kinh tế, thương
mại giữa Việt Nam và EU.
: Trang này giới thiệu các thông tin về hoạt động
nghiên cứu khoa học tại Châu Âu, những hoạt động đổi mới của công tác
nghiên cứu cũng như những thành tựu mới về khoa học công nghệ của Châu
Âu.
Truy cập vào CSDL tổng hợp EBSCO qua địa chỉ:
: Đây là CSDL tổng hợp chứa hơn 15.000 tạp chí
chuyên ngành có uy tín trên thế giới với 11 CSDL riêng biệt về các lĩnh vực
như: Kinh tế, thương mại, khoa học về thông tin…
Nguồn lực thông tin điện tử đã được người dùng tin tại Viện ưa thích
nhưng việc bổ sung nguồn tài liệu điện tử như CD-ROM, tài liệu điện tử
(Fulltext), phương tiện nghe nhìn…hiện nay còn hạn chế.

Website của Viện Nghiên cứu Châu Âu được xây dựng từ cuối năm
2006, đang hoạt động và cập nhật thường xuyên. Đây là diễn đàn và kênh
thông tin của những người quan tâm đến Viện nghiên cứu Châu Âu. Nội dung
Website ngoài giới thiệu những hoạt động nghiên cứu của Viện còn có toàn
bộ CSDL sách của Thư viện, thư mục thông báo sách mới, giúp bạn đọc tra
tìm thông tin dễ dàng.


* Nguồn nhân lực: Hiện nay tổng số cán bộ thư viện là 4 người đều trong
diện biên chế, trong đó có, 2 Thạc sĩ, 2 cử nhân tốt nghiệp các trường đại học
như: Đại học Luật, Đại học Bách khoa… 3 trong tổng số 4 người có chuyên
môn thư viện, 1 cán bộ quản trị mạng có trình độ công nghệ thông tin. Nói
chung số lượng cũng như trình độ cán bộ thư viện đã đáp ứng phần nào đòi
hỏi công việc, tuy nhiên do điều kiện làm việc còn thiếu thốn như diện tích
làm việc quá nhỏ 100m2 bao gồm cả kho sách và phòng đọc, điều hoà không
đủ, đã làm giảm hứng thú với công việc. Ngoài số lượng cán bộ hiện có, thư
viện cũng liên kết với một số trường đại học như: Đại học Văn hoá, Đại học
KHXH và NV, Đại học Quốc gia Hà nội, Đại học Dân lập Đông Đô, Cao
đẳng sư phạm TW, … trong việc tạo điều kiện cho sinh viên thực tập. Một
năm thư viện hướng dẫn 1, 2 đoàn thực tập, mỗi đoàn từ 3-5 sinh viên. Thư
viện - Viện Nghiên cứu Châu Âu không chỉ là nơi các em sinh viên thực hành
những bài học lý thuyết trên giảng đường mà đây là một môi trường để các
em làm quen với công việc cũng như cách sống trước khi ra trường, đối với
thư viện các em là những cộng tác viên tích cực trong công tác chuyên môn
nghiệp vụ.
2.1.2. Nội dung tài liệu
Hiện nay, nguồn lực thông tin theo nội dung tài liệu khá phong phú, bao
gồm nhiều lĩnh vực khác nhau. Ngoài nội dung tài liệu nói về các nước Châu
Âu thì còn có các tài liệu nói về các lĩnh vực của đời sống xã hội như: kinh tế,
văn hóa, an ninh- quân sự, chính trị, ngoại giao, đối nội, quan hệ giữa các

nước Châu Âu, quan hệ Việt Nam- EU…Nguồn lực thông tin của thư viện
thuộc chủ yếu về Châu Âu. Điều này xuất phát từ thực tế Viện nghiên cứu
Châu Âu là Viện chuyên nghiên cứu, đào tạo cử nhân thạc sĩ, tiến sĩ học
chuyên ngành về các nước Châu Âu muốn tìm hiểu rõ hơn, hiểu hơn về văn
hóa bản địa của họ nên số lượng tài liệu được bổ sung về Thư viện phục vụ
cho việc nghiên cứu Châu Âu của bạn đọc. Tài liệu về con người, môi trường


chiếm rất ít do thư viện ít chú trọng đến những vấn đề đó nên chưa được bổ
sung và thêm vào kho lưu chiểu nhiều
2.1.3. Ngôn ngữ tài liệu
Hiện tại Thư viện Viện nghiên cứu Châu Âu có các loại tài liệu thuộc
ngôn ngữ tiếng Việt, tiếng Anh, và các ngôn ngữ khác. Trong thư viện số
lượng tài liệu bằng tiếng Việt chiếm tỷ lệ lớn nhất gần ½ số lượng tài liệu có
trong kho, tài liệu tiếng Anh chiếm 30% tổng số tài liệu có trong thư viện , tài
liệu tiếng Nga, Đức, Pháp và ngôn ngữ khác chiếm một tỷ lệ không đáng kể.
Hiện nay, rất nhiều tài liệu được xuất bản bằng tiếng Anh. Do đó thư viện cần
tăng cường thêm tài liệu viết bằng tiếng Anh để thỏa mãn nhu cầu tin của
người dùng tin, giúp người dùng tin có thêm nhiều thông tin về các nước
Châu Âu, qua đó đánh giá, nâng cao năng lực và tiềm năng của Việt Nam và
các nước trên thế giới.
2.2. Tình hình sử dụng nguồn lực thông tin tại thư viện Viện nghiên
cứu Châu Âu
2.2.1. Người dùng tin và đặc điểm nhu cầu tin của nhóm người dùng
tin
Nhu cầu tin của người dùng tin là căn cứ cơ bản định hướng cho hoạt
động của các cơ quan TT - TV. Nắm vững và đáp ứng một cách kịp thời đầy
đủ và chính xác nhu cầu thông tin của người dùng tin là một trong những
nhiệm vụ quan trọng của thư viện. Người dùng tin vừa là khách hàng của các
dịch vụ thông tin đồng thời là người sản sinh ra thông tin. Điều tra đánh giá

đúng mức nhu cầu dùng tin và nhu cầu tra cứu thông tin của bạn đọc tại Viện
Nghiên cứu Châu Âu là việc làm cần thiết để từ đó có hướng tổ chức và
hoànhiện nguồn lực thông tin tạo điều kiện cung cấp thông tin tư liệu một
cách chính xác, phù hợp với nhu cầu thông tin của người dùng tin. Nhu cầu
thông tin là đòi hỏi khách quan của con người đối với việc tiếp nhận xử lý
thông tin nhằm duy trì các hoạt động của con người. Chất lượng của việc đáp


ứng yêu cầu tin phụ thuộc vào sự nắm bắt đặc điểm người dùng tin và nhu cầu
tra cứu tin của họ.
Người dùng tin tại Viện Nghiên cứu Châu Âu số lượng không nhiều như
những thư viện tổng hợp hay thư viện của các trường Đại học nhưng luôn ổn
định, bao gồm những người công tác tại Viện Nghiên cứu Châu Âu, các nhà
nghiên cứu ngoài Viện có nhu cầu tin về Châu Âu, sinh viên các trường đại
học .Đặc điểm của người dùng tin ở Viện là những người có trình độ học vấn
cao, giỏi ngoại ngữ, có nhu cầu nghiên cứu tài liệu bằng tiếng nước ngoài.
Người dùng tin đến Thư viện - Viện Nghiên cứu Châu Âu với nhiều mục đích
khác nhau như: Tìm kiếm tài liệu để viết bài, khoá luận, luận văn, nâng cao
trình độ chuyên môn, hiểu biết và giải trí. Nhu cầu tra cứu thông tin của người
dùng tin tại Viện Nghiên cứu Châu Âu cũng vì thế mà trở nên đa dạng, phong
phú hơn, đồng thời đòi hỏi được thoả mãn bằng những công cụ tra cứu thông
tin hiện đại với chất lượng cao. Để xem xét những đặc điểm cơ bản về nhu
cầu tin và nhu cầu tra cứu thông tin có thể chia họ thành 3 nhóm chính:
- Người dùng tin là cán bộ làm công tác quản lý
- Người dùng tin là cán bộ làm công tác nghiên cứu khoa học và giảng
dạy.
- Người dùng tin là sinh viên các trường đại học
* Nhóm cán bộ lãnh đạo quản lý
Xã hội càng phát triển, sự cạnh tranh và những đòi hỏi của nền kinh tế
thị trường càng lớn khiến những nhà quản lý phải thật năng động. Nhu cầu tin

của nhóm này phong phú, sâu sắc hơn, đòi hỏi được thoả mãn kịp thời và đáp
ứng bằng những phương tiện hiện đại. Đây là nhóm bạn đọc có số lượng
không nhiều (14 người chiếm 14% tổng số bạn đọc tại Thư viện - Viện
Nghiên cứu Châu Âu, trong đó có 10 nam và 4 nữ) nhưng lại là thành phần có
ảnh hưởng lớn tới hoạt động thông tin, là nhóm đối tượng được ưu tiên phục
vụ trong các cơ quan thông tin - thư viện.


Đặc điểm nổi bật của nhóm cán bộ quản lý: Họ là những người có trình
độ học vấn cao: Trình độ thạc sĩ chiếm 28,6%, nghiên cứu sinh 28,6%, tiến sĩ
21,4% và PGS-GS chiếm 21,4%. Do tính chất công việc nên nhu cầu tin của
họ lớn, đa dạng về nội dung và hình thức, lượng thông tin có diện rộng, khái
quát trên mọi lĩnh vực khoa học. Công việc của họ là tổ chức, điều hành hoạt
động của cơ quan, của từng bộ phận nên họ thường phải ra các quyết định,
do vậy nhóm này cần thông tin có chất lượng cao, có độ tin cậy, chọn lọc phù
hợp: thông tin về đường lối phát triển kinh tế, chính trị, xã hội, các văn bản tài
liệu của Đảng và Nhà nước. Các tài liệu mà họ sử dụng chủ yếu là tài liệu
tham khảo tiếng nước ngoài như tiếng Anh, tiếng Pháp và nhất là tiếng Nga.
Ngoài tiếng mẹ đẻ những cán bộ quản lý ở đây có thể sử dụng tốt 2 đến 3 thứ
tiếng vì họ thường xuyên tham gia các cuộc hội thảo trong nước và quốc tế,
tiếp xúc với các chuyên gia nước ngoài, học tập tại nước ngoài. Hầu hết nhóm
này đều tham gia các lớp tiếng Anh nâng cao do Hội đồng Anh tổ chức hoặc
tự học ngôn ngữ khác như: Pháp, Đức,… Do không có thời gian cho nên
100% (14 người) cán bộ quản lý sử dụng dịch vụ mượn về nhà và tra cứu
thông tin, chiếm (24,1%) và (29,8%) so với tỷ lệ bạn đọc sử dụng dịch vụ
này.
Bảng 3: Số lượng cán bộ quản lý sử dụng các dịch vụ thông tin
Tổng số
bạn đọc


Số lượng cán
bộ

Số
lượng

Tỷ
lệ(%)

Tên dịch vụ
40
Đọc tại chỗ
0
0
58
Mượn về nhà
14
24.1
39
Sao chụp
0
0
47
Tra cứu thông tin
14
29.8
Ngoài công tác quản lý họ còn tham gia kiêm nhiệm công tác đào tạo đại
học và sau đại học tại các trường Đại học và Viện nghiên cứu khác. Mặc dù
công việc rất bận và có ít thời gian nhưng họ vẫn dành một khoảng thời gian
đến thư viện để tra tìm tài liệu.



Đa số cán bộ làm công tác quản lý đều là chủ nhiệm đề tài hoặc cán bộ
chủ chốt thực hiện đề tài cấp Viện, cấp Bộ hoặc cấp Nhà nước. Do đó khi
triển khai một đề tài nào nhóm cán bộ quản lý thường có yêu cầu với thư viện
tra tìm danh mục tài liệu theo những chủ đề mà họ nghiên cứu. Sau khi Thư
viện có danh mục các tài liệu tham khảo đưa cho họ làm cơ sở để họ lựa chọn,
nếu tìm được tài liệu hoặc thông tin cần thiết thư viện có nhiệm vụ cung cấp
bản gốc những tài liệu đó theo yêu cầu.
* Nhóm cán bộ làm công tác nghiên cứu, giảng dạy
Là nhóm người tham gia hoạt động thông tin năng động, tích cực và ổn
định nhất tại Viện Nghiên cứu Châu Âu. Nhóm này chiếm 43% trong tổng số
người dùng tin (trong đó nữ 25 người chiếm 58,1%, nam có 18 người chiếm
41,9%). Họ vừa là người dùng tin nhưng cũng là người tạo ra các thông tin
(các bài nghiên cứu được đăng thành sách, in trên báo, tạp chí, các đề xuất, dự
án, kiến nghị…). Ngoài việc tham gia nghiên cứu, hầu hết nhóm này còn
tham gia giảng dạy ở một số trường đại học như: Trường Đại học Khoa học
Xã hội và Nhân văn, trường Đại học Ngoại thương, Học viện Quan hệ quốc
tế, trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Thành phố Hồ Chí Minh….
Nhóm này tập trung nhiều nhất ở độ tuổi 23-40 (79,1%). Đây là lứa tuổi
mang trong mình sức làm việc dồi dào, năng động, tiếp cận với thông tin và
xử lý thông tin rất nhanh. Họ cần thông tin rộng, sâu, đầy đủ và cập nhật thường xuyên. Do đó thư mục thông báo sách mới, CSDL bài trích báo tạp chí,
được nhiều người dùng tin nhóm này quan tâm.
Lĩnh vực mà người dùng tin thuộc nhóm này quan tâm nhiều nhất đó là:
Văn hóa-xã hội (65,7%), lĩnh vực kinh tế (42,5%) vì EU là một trong những
đối tác kinh tế hàng đầu của Việt Nam, số lượng thàng viên EU từ 15 nước
lên thành 27 nước như hiện nay khiến cho Châu Âu trở thành một thị trường
tiềm lực và rộng lớn. Nhu cầu tin về chính trị - thể chế cũng được quan tâm
(46,0%) vì từ liên kết kinh tế tiến tới những liên kết chặt chẽ về mặt chính trị,
chính sách an ninh và đối ngoại chung, hoạt động chính trị và xây dựng thể



chế là một lĩnh vực phức tạp trong bất kỳ xã hội nào. Nhu cầu tài liệu về quan
hệ quốc tế chiếm tỷ lệ 50,8%. EU có vai trò tác động tích cực thúc đẩy hợp
tác quốc tế, phát triển kinh tế và tạo dựng an ninh quốc tế. Ngoài nhu cầu tin
về kinh tế, chính trị, quan hệ quốc tế, cán bộ nghiên cứu còn tập trung tìm
hiểu những vấn đề liên quan đến chính sách vùng, an sinh xã hội và vấn đề
môi trường (47,4%), những qui định và luật môi trường mà Việt Nam phải
thực hiện trong quan hệ thương mại và xuất khẩu hàng hoá.
Bảng 4 : Nhu cầu tin của nhóm người dùng tin về các lĩnh vực KHXH
chủ yếu nhất
Nhó
m

Tổng số
phiếu
S
7

Chính trị-thể
chế

5

Luật pháp

4
hệ

quốc tế

Môi trường

9

An

ninh-

hội

5

3

0

0

4

0.1

2.4

9
6

0

9


3

0.6

1
9

6
5.7

4
7.4

4

2

3
1.6

3

1

3
2.2

1.6
0


5

1

4

6

4

2
2

0.8

3
0

9

5

9

3
2.0

7.4


.2
1

8.4

7.4

1.0

.0
9

3

6

3

3

2

4

2
1

3

1


1

4

%

1.6

6.9

.5

3

6.0

1.1
5

3

Quốc phòng
2
Văn hoá-Xã

0

S


8
4

6

1

1

.5

9

3

6.7

5

1

2

2

7

4
2.5


1.1

7.0
1

3

2

4

1

%
L

1

2.0

2.1

9
vùng

1

1

5


sách

1

5

viên
S

1
9.2

.5

2

Sinh

L

4

4.4

9

Quan

%


1

1

1

Lịch sử

S

2
1.0

0

Chính

%
L

3

Nghiên
cứu

L

Lĩnh vực
Kinh tế


Quản lý

5
9.4

1
2

3
4.3


Bảng 5: Số lượng cán bộ nghiên cứu sử dụng các dịch vụ thông tin
Số
lượng

Số lượng
cán bộ

Số
lượng

Tỷ
lệ(%)

bạn đọc
Tên dịch vụ
40
Đọc tại chỗ

7
17.5
58
Mượn về nhà
34
58.6
39
Sao chụp
18
46.2
47
Tra cứu thông tin
14
29.8
Nhóm này ưu tiên sử dụng dịch vụ mượn về nhà (58,6%) và sao chụp tài
liệu (46,2%), dịch vụ đọc tại chỗ ít được sử dụng (17,5%) là do diện tích thư
viện còn chật trội, điều kiện còn thiếu thốn như điều hoà chưa đủ, máy tính
chỉ có 3 cái nếu hôm nào sinh viên đến tra tìm tài liệu đông thì không đủ phục
vụ.
Từ năm 1998 khi bắt đầu triển khai ứng dụng tin học hoá công tác
thông tin, thư viện thì toàn bộ sách, báo, tài liệu có trong thư viện đã được cập
nhật vào trong các CSDL do đó hệ thống mục lục tra cứu đã ngừng bổ sung
và đến bây giờ bạn đọc cũng như cán bộ thư viện gần như lãng quên không sử
dụng. Chính vì thế phương tiện tra cứu giờ đây được thay thế bằng các quyển
thư mục theo chủ đề, thư mục thông báo sách mới và đặc biệt là CSDL.
* Nhóm sinh viên
Sinh viên của nhiều trường Đại học như: Đại học Ngoại thương, Đại học
KHXH&NV, Đại học kinh tế, Học viện quan hệ quốc tế, Đại học Vinh… có
nhu cầu nghiên cứu về Châu Âu. Đây là nhóm người dùng tin đông và hoạt
động tích cực nhất, chiếm 43% tổng số người dùng tin tại Viện. Ngoài kiến

thức được các giảng viên cung cấp trên lớp họ còn có nhu cầu nắm bắt những
thông tin mới ngoài xã hội. Đây là nhóm chủ động, sáng tạo, thích tìm hiểu
cái mới, nhu cầu tin của họ đa dạng, phong phú xuất phát từ yêu cầu và tính
chất chuyên ngành đào tạo.
Về lứa tuổi, nhóm sinh viên hầu hết ở độ tuổi < 23 (chiếm 86,0%). Về
trình độ học vấn, 100% nhóm này còn đang học tập ở các trường Đại học, có


trình độ học vấn thấp hơn so với 2 nhóm người dùng tin nghiên cứu giảng dạy
và quản lý, khả năng ngoại ngữ của sinh viên chưa cao. Hầu hết các sinh viên
tham gia hoạt động nghiên cứu Châu Âu đều biết 1 ngoại ngữ, đó là tiếng
Anh, nhưng chỉ ở mức độ nhất định. Nhu cầu tin chủ yếu là tài liệu tiếng Việt
và tài liệu tiếng Anh có nội dung đơn giản. Hình thức phục vụ chủ yếu mà họ
sử dụng là : Đọc tại chỗ (chiếm 82,5%), sao chụp (chiếm 53,8%) và tra cứu
thông tin (chiếm 40,4%) vì quy định của Thư viện - Viện Nghiên cứu Châu
Âu chỉ cho bạn đọc là cán bộ trong Viện được mượn về nhà và truy cập
Internet

Bảng 6: Số lượng sinh viên sử dụng các dịch vụ thông tin tại thư viện
Số
lượng
đọc
40
58
39
47

Số lượng sinh
bạn viên


Số
lượng

Tên dịch vụ
Đọc tại chỗ
Mượn về nhà
Sao chụp
Tra cứu thông tin

33
10
21
19

Tỷ
lệ(%)
82.5
17.2
53.8
40.4

Khi đến Thư viện sinh viên chủ yếu tra cứu tin thông qua CSDL vì hầu
hết sinh viên đều có kiến thức nhất định về công nghệ thông tin, theo ý kiến
của họ thì tra cứu theo CSDL tương đối dễ dàng. 100% bạn đọc trả lời thường
xuyên sử dụng công cụ tra cứu là CSDL chiếm tỷ lệ 59,9% so với số lượng
bạn đọc sử dụng các công cụ tra cứu khác. Trong khi đó tra cứu theo mục lục
chỉ có 3,6%, đây là một thực tế tại Viện vì từ khi Thư viện trang bị máy tính
tra cứu tin thông qua các CSDL thì hầu hết bạn đọc đến thư viện đã bỏ qua hệ
thống mục lục, nguyên nhân nữa là do Thư viện đã ngừng cập nhật thông tin



vào các tủ mục lục. CSDL sách tiếng Việt và CSDL bài báo trong tạp chí
Nghiên cứu Châu Âu được sinh viên truy cập nhiều nhất.
Nhu cầu tin của nhóm này thường rất phong phú, đa dạng liên quan đến
chuyên ngành Châu Âu học, vấn đề họ quan tâm là lịch sử (52,4%) nhất là
lịch sử kinh tế và lịch sử quan hệ ngoại giao Việt Nam - EU. Lĩnh vực luật
pháp (47,4%), vấn đề văn hóa - xã hội (34,4%)…
Tóm lại bạn đọc tại Thư viện - Viện Nghiên cứu Châu Âu bao gồm
nhiều thành phần, nhiều lứa tuổi và trình độ học vấn khác nhau nhưng nhìn
chung nhu cầu tin của họ rất phong phú và đa dạng về nhiều lĩnh vực, và mỗi
nhóm người dùng tin lại có nhu cầu và cách tiếp cận thông tin dưới nhiều hình
thức khác nhau.
2.2.2. Tình hình sử dụng nguồn lực thông tin tại thư viện
Để đánh giá đúng tình hình sử dụng nguồn lực thông tin cũng như
mức độ thoả mãn nhu cầu tin tại thư viện Viện nghiên cứu Châu Âu, ta có thể
đánh giá qua các phương diện sau:
 Loại hình tài liệu
Loại hình tài liệu ở thư viện Viện nghiên cứu Châu Âu tuy không nhiều
về số lượng nhưng nội dung lại rất phong phú, đa dạng.Nhìn vào số lượng và
thành phần các loại hình tài liệu hiện có ở thư viện chúng ta có thể đánh giá
mức độ thoả mãn nhu cầu tin của gười dùng tin. Cụ thể:
Về tài liệu truyền thống, qua việc điều tra cho thấy dạng tài liệu sách
được sử dụng nhiều nhất chiếm 85%. Sách tra cứu, tham khảo cũng đã đáp
ứng được tối đa nhu cầu của người dùng tin tại thư viện.
Đối với luận án, luận văn, khoá luận, đề tài nghiên cứu khoa học nhu cầu
tin chiếm 30%. Nội dung thông tin trong dạng tài liệu này rấy đa dạng, phong
phú, chứa đựng kinh nghiệm đã tích luỹ trong quá trình hoạt động nghiên cứu
khoa học, sản xuất…Việc tiếp cận với nguồn thông tin này có ý nghĩa to lớn,
giúp người dùng tin giảm được công sức thời gian, tiền của để có được nguồn
thông tin quý giá này.



×