Tải bản đầy đủ (.docx) (15 trang)

Phân tích và đánh giá vai trò quản lý nhà nước đối với học phí tại các trường đại học hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (125.03 KB, 15 trang )

PHÂN TÍCH VÀ ĐÁNH GIÁ VAI TRÒ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI
HỌC PHÍ TẠI CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC HIỆN NAY
Phần I- Những quy định quản lý nhà nước đối với học phí tại các trường đại
học hiện nay
Hằng năm các trường Đại học thực hiện mức thu học phí dựa trên chi thường
xuyên, chi đầu tư của nhà trường và thực hiện theo lộ trình quy định của Chính phủ
ban hành( hiện nay là QĐ86/2015NĐ-CP).
Bộ Giáo dục chỉ đạo cho Vụ Giáo dục hướng dẫn, kiểm tra, việc thực hiện các
chính sách về học phí, thu chi, lộ trình về thu chi và quản lý học phí do Chính phủ
quy định.
Theo luật giáo dục năm 2009 thì trường đại học được chia làm 2 loại là đại học
công lập và đại học ngoài công lập( đại học dân lập)
Đại học công lập là trường đại học do nhà nước (trung ương hoặc địa phương) đầu
tư về kinh phí và cơ sở vật chất (đất đai, nhà cửa) và hoạt động chủ yếu bằng kinh
phí từ các nguồn tài chính công hoặc các khoản đóng góp phi vụ lợi, khác với đại
học dân lập hoạt động bằng kinh phí đóng góp của học sinh, khách hàng và các
khoản hiến tặng.
Đại học ngoài công lập là một cơ sở giáo dục đại học thuộc hệ thống giáo dục quốc
dân, về tuyển sinh, đào tạo thì tuân theo quy chế của Bộ GD&ĐT, văn bằng có giá
trị tương đương như văn bằng công lập. Là trường tư do cá nhân hoặc tổ chức
trong một nước xin phép thành lập và tự đầu tư.
Trường ngoài công lập chịu sự quản lý nhà nước của Bộ Giáo dục và Đào tạo và
các Bộ, ngành, ủy ban nhân dân các cấp theo chức năng, nhiệm vụ và thẩm quyền


được giao; chịu sự quản lý trực tiếp của các cơ quan quản lý giáo dục theo quy
định trong Điều lệ nhà trường của bậc học, cấp học tương ứng.
Trường ngoài công lập có tư cách pháp nhân, có con dấu và được mở tài khoản tại
Kho bạc Nhà nước hoặc Ngân hàng Thương mại để giao dịch.
Các trường đại học công lập ở Việt có thể được chia thành đại học trực thuộc Bộ,
Ngành, đại học trực thuộc tỉnh, đại học trực thuộc doanh nghiệp.



Hằng năm, các trường đại học thực hiện cơ chế thu, quản lý học phí và các chính
sách miễn giảm học phí, hỗ trợ chi phí học tập theo nghị định của chính phủ về cơ
chế thu, quản lý học phí đối với cơ sở giáo dục thuộc hệ thống giáo dục quốc dân
và chính sách miễn, giảm học phí, hỗ trợ chi phí học tập( hiện nay là nghị định
86/2015 NĐ-CP).
Đối với giáo dục đại học, giáo dục nghề nghiệp công lập: Học phí của các cơ sở
giáo dục đại học, giáo dục nghề nghiệp công lập tự bảo đảm chi thường xuyên và
chi đầu tư theo quy định của Chính phủ được xác định trên cơ sở định mức kinh tế
- kỹ thuật, định mức chi phí do cơ quan có thẩm quyền ban hành và lộ trình tính đủ
chi phí đào tạo. Học phí của các cơ sở giáo dục đại học, giáo dục nghề nghiệp công
lập chưa tự bảo đảm chi thường xuyên và chi đầu tư theo quy định của Chính phủ
được xác định trên cơ sở tính toán có sự cân đối giữa hỗ trợ của Nhà nước và đóng
góp của người học, thực hiện theo lộ trình giảm dần bao cấp của Nhà nước.
Cơ sở giáo dục công lập thực hiện chương trình chất lượng cao được thu học phí
tương xứng để bù đắp chi phí đào tạo.
Cơ sở giáo dục ngoài công lập tự quyết định mức thu học phí.


Các cơ sở giáo dục đại học phải công bố công khai mức học phí cho từng năm học
cùng với dự kiến cho cả khóa học đối.
Trong quá trình áp dụng thực hiện, Bộ giáo dục và đào tạo phối hợp với các cơ
quan tiếp tục nghiên cứu điều chỉnh khung học phí của các cơ sở giáo dục đại học
theo hướng có lộ trình xác định của Chính phủ quy định cơ chế tự chủ của các đơn
vị sự nghiệp công lập để kịp thời điều chính cho phù hợp.
Các trường ĐH công lập
Nguyên tắc xác sinh viên 1 số trường như
định học phí
sư phạm, quân đội, an
ninh…không phải đóng

học phí.
Đối với giáo dục đại học,
giáo dục nghề nghiệp công
lập: Học phí của các cơ sở
giáo dục đại học, giáo dục
nghề nghiệp công lập tự
bảo đảm chi thường xuyên
và chi đầu tư theo quy định
của Chính phủ.
Cơ sở giáo dục công lập
thực hiện chương trình chất
lượng cao được thu học phí
tương xứng để bù đắp chi
phí đào tạo
Quản lý tiền Nộp toàn bộ số thu học phí
học phí
của các ngành nghề được
ngân sách nhà nước hỗ trợ
chi phí đào tạo vào Kho
bạc Nhà nước để quản lý
và sử dụng; nộp toàn bộ
tiền thu học phí của các
ngành, nghề không được
ngân sách nhà nước hỗ trợ
vào ngân hàng thương mại
để quản lý, sử dụng. Toàn

Các trường ĐH ngoài công lập
Cơ sở giáo dục ngoài công lập tự
quyết định mức thu học phí. Họ

không nhận được sự hỗ trợ về vốn
của Nhà nước, nguồn tài chính để
hoạt động của họ là từ học phí
của sinh viên học tại trường,
khách hàng và các khoản hiến
tặng. Học phí tại các trường này
có xu hướng lớn hơn nhiều so với
trường đại học công lập.

Gửi toàn bộ số học phí thu được
vào ngân hàng thương mại hoặc
Kho bạc Nhà nước nơi mở tài
khoản để đăng ký hoạt động.


bộ tiền lãi gửi ngân hàng
thương mại được sử dụng
để lập các quỹ hỗ trợ sinh
viên.
Sử dụng học phí sử dụng học phí theo quy
định của Chính phủ về cơ
chế tự chủ của đơn vị sự
nghiệp công lập
Thu học phí

sử dụng học phí theo quy định
của Chính phủ về chính sách
khuyến khích xã hội hóa đối với
các hoạt động trong lĩnh vực giáo
dục, dạy nghề, y tế, văn hóa, thể

thao, môi trường.
Học phí được thu định kỳ hàng tháng; nếu học sinh, sinh viên
tự nguyện, nhà trường có thể thu một lần cho cả học kỳ hoặc cả
năm học. Đối với cơ sở giáo dục mầm non, giáo dục thường
xuyên, đào tạo thường xuyên và các khóa đào tạo ngắn hạn, học
phí được thu theo số tháng thực học. Đối với cơ sở giáo dục
phổ thông, học phí được thu 9 tháng/năm. Đối với cơ sở giáo
dục đại học, học phí được thu 10 tháng/năm. Trong trường hợp
tổ chức giảng dạy, học tập theo học chế tín chỉ, cơ sở giáo dục
có thể quy đổi để thu học phí theo tín chỉ, song tổng số học phí
thu theo tín chỉ của cả khóa học không được vượt quá mức học
phí quy định cho khóa học nếu thu theo năm học.

Phần II- Thực trạng chính sách học phí giáo dục đại học ở Việt Nam
Học phí là một trong những nguồn tài chính quan trọng nhất cho các trường đại
học. Học phí đại học của các trường đại học công lập ở Việt Nam do Chính phủ
ban hành. Những chính sách về học phí đại học của Việt Nam đã có nhiều thay đổi
trong hơn 20 năm qua.
i) Giai đoạn trước năm 1998
Trước năm 1987, tất cả các sinh viên đại học được trợ cấp hoàn toàn. Trong giai
đoạn này, giáo dục đại học theo cơ chế chỉ huy tập trung, phi thị trường chi phối,


các chương trình giáo dục đại học có mục tiêu đáp ứng nhu cầu lao động của các
Bộ cụ thể.
ii) Giai đoạn 1998 – 2009
Đây là giai đoạn Việt Nam thực hiện chính sách học phí đại học không thay đổi
(tuition fees freeze). Giai đoạn này chính sách học phí đại học được thực hiện theo
Quyết định số 70/1998/QĐTTg ngày 31/3/1998 của Thủ tướng Chính phủ và
Thông tư số 54/1998/TTLT BGD&ĐT-BTC ngày 31/8/1998 hướng dẫn thực

hiện Quyết định số 70/1998/QĐ-TTg.
Trong quá trình thực hiện đã tồn tại một số điểm không hợp
lý: Thứ nhất, khung học phí không có sự phân biệt ngành nghề, chương trình giáo
dục đại học và không tính đến sự khác biệt về điều kiện kinh tế - xã hội ở các địa
bàn khác nhau. Thứ hai, mức thu học phí cố định, không được điều chỉnh. Thứ ba,
mức học phí đại học chưa gắn với chi phí giáo dục đại học.
iii) Giai đoạn 2009 – 2015
Trong giai đoạn 2009 – 2015, Việt Nam thực hiện chính sách học phí đại học tăng
theo Nghị định số 49/2010/NĐ-CP. Việc sử dụng Nghị định 49 đã có những thay
đổi so với giai đoạn 2009 trở về trước, nhưng việc cải cách này còn rất hạn chế
như: Mức học phí bị cào bằng; Chính sách học phí không có sự phân biệt giữa các
cơ sở đào tạo có chất lượng cao và cơ sở đào tạo có chất lượng thấp. Như vậy rất
cần phải xây dựng một khuôn khổ để tiếp tục cải cách học phí, đặc biệt là việc xây
dựng chính sách học phí áp dụng sau năm 2015, theo hướng khắc phục được các
tồn tại nói trên.
iv) Giai đoạn sau năm 2015


Từ năm học 2015-2016, Việt Nam áp dụng khung chính sách học phí đại học theo
Nghị định số 86/2015/NĐ-CP ban hành ngày 2/10/2015. Theo Nghị định 86, mức
thu học phí của giáo dục đại học công lập được thực hiện theo nguyên tắc về khả
năng tự chủ tài chính của các cơ sở giáo dục. Nghị quyết 77/NQ-CP của Chính phủ
cho phép các cơ sở giáo dục đại học công lập sẽ được tự chủ một cách rộng mở
hơn so với hiện nay trên tất cả các phương diện về tuyển sinh, ngành nghề giáo dục
đại học và học phí. Thế nhưng, việc cho các trường đại học công lập được quyết
định mức học phí bình quân tối đa bằng mức trần học phí do Nhà nước quy định
vẫn còn là “rào cản” để các trường có thể phát triển một cách toàn diện.
Còn học phí ở các trường ngoài công lập được tự quyết định mức học phí nhưng
phải công bố công khai trên website của trường. Từ trước đến nay thì mức học phí
của các trường ngoài công lập luôn có sự chênh lệch khác lớn với các trường công

lập và giữa các trường ngoài công lập cũng có mức chênh lệch khác nhau.
Phần III- Xu hướng về vai trò quản lý nhà nước đối với học phí của các
trường đại học hiện nay
3. 1. Xu hướng tự chủ tài chính đối với các trường đại học
Theo Nghị quyết số 29-NQ/TW với nội dung Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục
và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa – hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế, đảng và nhà nước xác
định xu hướng hiện nay đó là nâng cao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm đối với
các cơ sở giáo dục đại học.
Tự chủ về tài chính là một nội dung quan trọng của tự chủ đại học.


Hiện nay Thủ tướng Chính phủ đã có quyết định cho 14 trường đại học, cao đẳng
được thực hiện tự chủ tài chính. Theo đó, các trường sẽ không được cấp ngân sách
đầu tư từ Nhà nước mà phải tự hạch toán thu – chi.
Các trường đã được phê duyệt đề án tự chủ tài chính gồm: Đại học Kinh tế Thành
phố Hồ Chí Minh, Đại học Tôn Đức Thắng, Đại học Kinh tế Quốc dân, Đại học Hà
Nội, Đại học Tài chính-Marketing, Đại học Ngoại thương, Đại học Công nghiệp
Dệt May Hà Nội, Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh, Học viện Nông nghiệp
Việt Nam, Đại học Công nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh, Đại học Công nghiệp
thực phẩm Thành phố Hồ Chí Minh, Đại học Điện lực, Học viện Công nghệ Bưu
chính Viễn thông, Trường Đại học Thương mại.
3. 2. Nội dung của cơ chế tự chủ tài chính
Nội dung của tự chủ tài chính đối với các trường đai học công lập theo Nghị định
số 43/2006/Nð-CP như sau:
- Thứ nhất, về mục tiêu là trao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm cho các nhà
trường trong tổ chức, sắp xếp bộ máy, sử dụng lao động, nguồn lực tài chính để
hoàn thành nhiệm vụ, cung cấp dịch vụ với chất lượng cao cho XH; tăng nguồn
thu, tăng thu nhập cho người lao ñộng. Thực hiện XHH về cung cấp dịch vụ
cho XH, tăng sự đóng góp của cộng đồng, giảm dần sự bao cấp từ NS. Phân

biệt rõ cơ chế quản lý của nhà nước ñối với trường ĐHCL và cơ quan hành
chính nhà nước.
- Thứ hai, nguyên tắc thực hiện quyền tự chủ là phải hoàn thành nhiệm vụ
được giao; các hoạt động dịch vụ phù hợp với chức năng, nhiệm vụ, khả năng
chuyên môn và tài chính của nhà trường. đảm bảo chế độ công khai, dân chủ,
gắn với tự chịu trách nhiệm; chịu sự kiểm tra, giám sát của các cơ quan nhà


nước có thẩm quyền. Bảo đảm lợi ích Nhà nước; quyền, nghĩa vụ của tổ chức,
cá nhân theo quy định của pháp luật
- Thứ ba, về quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về tài chính. Căn cứ vào nguồn
thu sự nghiệp, trường ĐHCL được chia thành 3 loại: 1) đơn vị có nguồn thu sự
nghiệp tự bảo đảm toàn bộ chi phí hoạt động thường xuyên (gọi tắt là đơn vị tự
bảo đảm chi phí hoạt động); 2) đơn vị có nguồn thu sự nghiệp tự bảo đảm một
phần chi phí hoạt động thường xuyên, phần còn lại được NSNN cấp (gọi tắt là
đơn vị tự bảo đảm một phần chi phí hoạt động); 3) đơn vị có nguồn thu sự
nghiệp thấp hoặc không có nguồn thu thì NSNN cấp 100% chi phí hoạt động
thường xuyên theo chức năng, nhiệm vụ (gọi tắt là đơn vị được Nhà nước bảo
đảm chi phí hoạt động). Việc phân loại trên được ổn định trong 3 năm, sau đó
phân loại lại cho phù hợp
3.3.

Ưu điểm và hạn chế của tự chủ tài chính

Các nhà hoạch định chính sách đang đặt câu hỏi liệu ngân quỹ nhà nước nên đóng
góp bao nhiêu cho giáo dục đại học giữa những đòi hỏi đang cạnh tranh lẫn nhau:
giáo dục phổ thông, chăm sóc sức khỏe cộng đồng, phát triển giao thông công
cộng, và nhiều thứ khác nữa mà ngân quỹ quốc gia phải lo liệu.
Học phí ở hầu hết các nước tiêu biểu cho nguồn thu từ tư nhân lớn nhất của giáo
dục đại học. Nó cũng tiêu biểu cho điểm gặp nhau gần như trực tiếp giữa những

lực lượng cung và cầu trong cán cân tài chính. Xét về nguồn cung, học phí và hỗ
trợ của ngân sách nhà nước đối với các trường là hai nguồn chính trang trải cho
hoạt động của các trường công. Đối với các trường tư, phi lợi nhuận, học phí là
nguồn thu chính, cùng với quỹ hiến tặng, tài trợ, các khoản thu từ dịch vụ khác là
các nguồn bổ sung. Ở các trường vì lợi nhuận, học phí là nguồn thu cơ bản. Cho
nên, học phí ở tất cả các loại trường đều có thể dùng để xác định quy mô của


trường thông qua số chỗ ngồi mà trường ấy có khả năng cung cấp. Với trường
công, học phí thường là một nguồn tài chính nhỏ hơn so với trường tư, vì ở hầu hết
các nước, hỗ trợ của nhà nước đối với giáo dục đại học còn vượt xa những nguồn
thu phát sinh trong các trường tư.
Tự chủ cũng có thể được thể hiện ở hai cấp: cấp độ giữa trường đại học với nhà
nước, và cấp độ giữa trường với các bộ phận trong trường. Tự chủ cũng có thể chỉ
có tính chất thủ tục, hình thức (procedural) – quyền quyết định các phương tiện,
cách thức để đạt đến mục tiêu đã được xác định trước, hoặc tự chủ có tính thực
chất (substantial) – quyền quyết định các mục tiêu cũng như chương trình hoạt
động. Tự chủ cũng có thể được nhìn nhận như là các quyền lực có điều kiện: các
trường chỉ có thể có quyền tự chủ khi đã đạt được các chuẩn mực quốc gia hoặc
các chuẩn mực đã được định sẵn theo các chính sách công. Tuy được nhìn nhận
dưới nhiều khía cạnh khác nhau, tự chủ của trường đại học vẫn có thể được khái
quát là khả năng của trường được hoạt động theo cách thức mình lựa chọn để đạt
được sứ mạng và mục tiêu do trường đặt ra.
Một nguyên lý cơ bản đằng sau tự chủ đại học là các cơ sở GDĐH sẽ vận hành tốt
hơn nếu họ được nắm vận mệnh của chính mình. Tự chủ sẽ tạo động lực để họ đổi
mới nhằm đạt hiệu quả cao hơn trong hoạt động của mình, đồng thời cũng làm tăng
tính cạnh tranh giữa các cơ sở GDĐH, tạo điều kiện để đa dạng hóa các hoạt động
giáo dục. Vì vậy, xu hướng chung trên toàn cầu hiện nay là chuyển dịch dần từ mô
hình Nhà nước kiểm soát sang các mô hình có mức độ tự chủ cao hơn, từ Nhà nước
kiểm soát (state control) sang Nhà nước giám sát (state supervison). Ví dụ như

Nhật Bản thông qua Đạo luật Hiệp hội Đại học Quốc gia năm 2003 trao quyền tự
chủ về mặt pháp lý cho tất cả các trường đại học với quyền lực nhiều hơn cho
Giám đốc/Hiệu trưởng và Ban quản trị trường. Năm 2005, Singapore cũng thông
qua một luật tương tự trao quyền tự chủ cho 3 trường đại học của nước này. Gần


đây, bang Nord Rhein-Westfalia, Đức cũng trao quyền tự quyết định cho 33 trường
đại học trong việc tuyển dụng các giáo sư và các khóa đào tạo của trường. Bảng
dưới đây trình bày một số ví dụ về quyền tự chủ đại học ở một số nước trên thế
giới.
3.3.1

Ưu điểm:

Các cơ chế, chính sách mới trao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về tài chính đối
với giáo dục đã tạo cơ hội cho giáo dục đại học công lập nâng cao tính chủ động,
sáng tạo trong quản lý tài chính và tài sản, sử dụng ngân sách nhà nước tiết kiệm,
hiệu quả hơn; Phát triển nguồn thu sự nghiệp thông qua việc đa dạng hoá các hoạt
động sự nghiệp và nâng cao chất lượng dịch vụ; Huy động được nhiều nguồn vốn
để đầu tư, tăng cường cơ sở vật chất, đổi mới trang thiết bị… thông qua các hoạt
động hợp tác liên doanh, liên kết; Khai thác hiệu quả các nguồn thu… từng bước
giảm dần sự bao cấp của nhà nước, đồng thời tăng thu nhập cho cán bộ, công chức
trong đơn vị.
Bên cạnh đó, chính sách thu học phí cũng có sự đổi mới theo hướng tạo sự chủ
động cho các đơn vị giáo dục. Cụ thể, Nghị định số 49/2010/NĐ-CP ngày
14/5/2010 cũng đã phần nào khắc phục hạn chế về mức học phí không phù hợp với
mặt bằng giá cả. Chính sách học phí đã xác định trên nguyên tắc chia sẻ chi phí
đào tạo giữa nhà nước và người học. Học phí đối với giáo dục đại học công lập
chương trình đại trà được căn cứ vào khung quy định của Nhà nước; Đồng thời, có
tính đến đặc điểm, yêu cầu phát triển từng ngành, hình thức đào tạo và hoàn cảnh

học của sinh viên. Ngay cả cơ chế cấp trực tiếp tiền hỗ trợ miễn, giảm học phí cho
các đối tượng được miễn, giảm học phí cũng đã được xem xét chỉnh sửa hợp lý, để
các đối tượng này đóng học phí đầy đủ cho nhà trường. Điều này, thể hiện rõ trách
nhiệm của Nhà nước về chính sách xã hội, khắc phục hạn chế các đơn vị giáo dục


đại học công lập phải thực hiện miễn, giảm học phí như trước đây. Ngoài ra, chính
sách cũng đã mở rộng đối tượng được miễn học phí là những sinh viên là người
dân tộc thiểu số thuộc hộ có thu nhập tối đa bằng 150% thu nhập của hộ nghèo…
Với việc trao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về tài chính đối với các cơ sở giáo
dục đại học công lập đã mở ra cơ hội cho các cơ sở giáo dục đại học công lập nâng
cao tính chủ động, sáng tạo trong quản lý tài chính và tài sản của đơn vị, sử dụng
ngân sách nhà nước được giao tiết kiệm, hiệu quả hơn. Sở dĩ như vậy vì khi thực
hiện chế độ giao, khoán mức chi như điện thoại, văn phòng, công tác phí… sẽ
giảm đáng kể chứng từ, hóa đơn, các đơn vị sử dụng tiết kiệm các nguồn kinh phí
để từ đó góp phần vào việc tăng thu nhập cho giảng viên và cán bộ công nhân viên.
Hơn nữa, việc thực hiện cơ chế này còn góp phần sử dụng hiệu quả hơn các nguồn
lực.
Khi nguồn thu tăng lên, các trường đại học sẽ có những nguồn lực tài chính để tăng
đầu tư cho cơ sở vật chất, trang thiết bị, nguồn nhân lực… để từ đó nâng cao chất
lượng giáo dục giáo dục đại học. Với việc trao quyền tự chủ tài chính, các trường
đại học sẽ có điều kiện để tăng thu, tiết kiệm chi, có nguồn lực nâng cao đời sống,
thu nhập của giảng viên, tạo động lực để họ tích cực lao động nâng cao chất lượng
đào tạo.
3. 3.2

Hạn chế:

Các trường đại học được tự chủ về mức chi nhưng tự chủ về thu chưa tương xứng,
dẫn tới hiệu quả của việc thực hiện tự chủ không hơn là bao so với không tự chủ.

Trong thời gian dài, do bị khống chế về trần học phí, mức trần học phí thường
thấp, thu không đủ chi cho nên một số cơ sở giáo dục đại học công lập xé rào, ban
hành nhiều khoản thu ngoài quy định, dẫn đến thiếu công khai, minh bạch trong
việc sử dụng nguồn thu. Việc duy trì mức học phí thấp, dẫn đến các cơ sở giáo dục


đại học công lập không có đủ nguồn để cải thiện thu nhập cho giảng viên từ nguồn
học phí chính quy, không thu hút và giữ được những giảng viên có trình độ tham
gia giảng dạy. Để có nguồn bổ sung thu nhập các trường phải khai thác từ các hoạt
động đào tạo không chính quy, dẫn đến thời gian đứng lớp của giảng viên đại học
phần lớn bị quá tải.
Hầu hết các giảng viên đại học đều vượt định mức giờ giảng theo quy định. Điều
này dẫn đến, việc giảng viên đại học không có thời gian để nghiên cứu khoa học,
nâng cao trình độ nghiệp vụ, đổi mới nội dung bài giảng, phương pháp sư phạm...
Đây cũng là một trong những nguyên nhân ảnh hướng đến chất lượng đào tạo.
Phần IV- Đánh giá vai trò của quản lý nhà nước đối với học phí tại các trường
đại học hiện nay
4.1 Một số hạn chế của chính sách học phí tại các trường đại học hiện nay
Đối với các trường công lập:
Thứ nhất, nguồn thu từ học phí không đủ bù đắp cho hoạt động giảng dạy của các
trường đại học.
Thứ hai, theo tính toán của nghiên cứu sinh, học phí hiện nay tuy có sự điều chỉnh
tăng qua các năm nhưng vẫn chưa tăng đủ. Nếu sau năm 2015 vẫn tiếp tục cải cách
tăng học phí theo tốc độ hiện hành của giai đoạn 2011-2015, cụ thể là 17% và 20%
(theo Nghị định 49/2010/NĐ-CP) với các nhóm ngành cụ thể, sẽ mất nhiều năm
để đạt được mức chất lượng giáo dục đại học trung bình của thế giới
Thứ ba, mức học phí hiện hành của giáo dục đại học ở Việt Nam chưa quan tâm
đầy đủ đến khả năng chi trả của người học.



Thứ tư, việc xác định tỷ lệ giữa trợ cấp nhà nước và mức đóng góp của gia đình
(dưới dạng học phí) còn một số điểm chưa hợp lý.
Thứ năm, tại Việt Nam cũng đang có một chương trình tín dụng sinh viên được áp
dụng trên cả nước từ năm 2007 là Chương trình 157. Tuy vậy, Chương trình 157
chưa đạt được nhiều hiệu quả rõ rệt trong việc hướng tới mục tiêu nâng cao cơ hội
tiếp cận giáo dục đại học cho sinh viên nghèo.
Đối với các trường ngoài công lập:
Trên thực tế, các trường ngoài công lập hiện nay do phải tự đầu tư xây dựng cơ sở
vật chất và bảo đảm kinh phí hoạt động bằng vốn ngoài ngân sách nhà nước nên
được quyền điều chỉnh học phí cho phù hợp với các điều kiện thực tế. Và nói như
Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Bộ GD-ĐT Nguyễn Thiện Nhân, mức học phí phải
tương xứng với kinh phí đầu tư cho hoạt động và chất lượng đào tạo của trường để
người học có thể chấp nhận được.
Thế nhưng, thực tế thì không hoàn toàn như vậy. Điều này đã thể hiện rõ qua đợt
khảo sát về hoạt động của các trường đại học của Ủy ban Văn hóa, Giáo dục,
Thanh niên, thiếu niên, nhi đồng của Quốc hội vừa qua. GS Nguyễn Minh Thuyết,
Phó Chủ nhiệm Ủy ban cho biết: Các trường đại học, cao đẳng, đặc biệt là trường
ngoài công lập mở ra trong thời gian qua nhiều quá, trong khi điều kiện đảm bảo
chất lượng của các trường chưa phải là tốt, thậm chí dưới mức trung bình. Nếu tính
riêng từ năm 2005 đến nay, có 132 trường ĐH, CĐ mới thành lập hoặc nâng cấp
nhưng những điều kiện đảm bảo chất lượng đào tạo chưa đủ. Cụ thể là đội ngũ cán
bộ còn rất yếu, nếu tính trên mặt bằng toàn quốc thì có 10,5% cán bộ giảng dạy đại
học là có mặt trong những trường mới mở. Số cán bộ có trình độ cao thường là cán
bộ kiêm nhiệm chứ không phải là cán bộ cơ hữu của các trường đó.


Thực trạng này cho thấy, các cơ quan quản lý Nhà nước, đặc biệt là Bộ GD-ĐT
cần có biện pháp quyết liệt đối với các trường ĐH ngoài công lập để bảo vệ quyền
lợi người học. Việc áp dụng một mức trần học phí đối với khu vực ngoài công lập
cũng cần được xem xét một cách nghiêm túc nhằm hạn chế hiện tượng các trường

đua nhau tăng học phí nhưng chất lượng đào tạo thì “mù mờ”, không được đánh
giá, kiểm định rõ ràng.
4.2 Nguyên nhân của hạn chế chính sách học phí tại các trường đại học tại Việt
Nam
Thứ nhất, cơ chế vận hành, quản lý giáo dục đại học ở nước ta vẫn chưa hiệu quả
do Nhà nước chưa xây dựng được một hệ thống văn bản pháp lý đủ mạnh làm nền
tảng cho việc thực thi chính sách.
Thứ hai, các cơ quan chủ quản (Bộ, cơ quan ngang Bộ) thực hiện quản lý với các
cơ sở giáo dục đại học nhân lực chủ yếu bằng phương pháp mệnh lệnh hành chính
cứng nhắc.
Thứ ba, việc ban hành chính sách học phí đại học ở Việt Nam chưa được xác định
trên các phương pháp luận một cách đầy đủ.
Thứ tư, các trường đại học chưa được chủ động và chưa có điều kiện tham gia
đóng góp ý kiến cho việc xây dựng chính sách học phí.
Thứ năm, người dân vẫn còn có quan niệm về giáo dục đại học miễn phí hoặc học
phí thấp.




×