Tải bản đầy đủ (.docx) (48 trang)

Pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hóa và thực tiễn thực hiện tại công ty cổ phần vật tư và vận tải Itasco – HP

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (396.48 KB, 48 trang )

TÓM LƯỢC
Trước yêu cầu phát triển của đất nước, Đảng và Nhà nước ta đã chủ trương thực
hiện chính sách phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có sự tham
gia của nhiều thành phần kinh tế, đồng thời, hoạt động mở rộng quan hệ đối ngoại và
chủ động hội nhập quốc tế trên nhiều lĩnh vực kinh tế, văn hóa, chính trị… đã giúp cho
các mối quan hệ về kinh tế, dân sự, thương mại phát triển đa dạng và không ngừng
tăng thêm về số lượng cũng như chất lượng của các hợp đồng đặc biệt là hợp đồng
mua bán hàng hóa. Đây là loại hình hợp đồng chính được sử dụng trong hoạt động của
Công ty cổ phần vật tư và vận tải Itasco-HP nhưng đôi khi cá nhân và công ty thường
coi nhẹ việc giao kết và thực hiện hợp đồng này.Vì vậy nghiên cứu về hợp đồng mua
bán hàng hóa là thật sự cần thiết không chỉ đối với bản thân công ty mà còn đối với sự
phát triển của luật quốc gia. Sau đây là nội dung cơ bản của bài luận:
Chương I: Làm rõ các lý luận cơ bản liên quan đến pháp luật điều chỉnh hoạt
động giao kết và thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa, cơ sở ban hành pháp luật,
những nguyên tắc, nội dung pháp luật điều chỉnh đến hợp đồng mua bán hàng hóa nói
chung.
Chương II: Tìm hiểu thực trạng pháp luật điều chỉnh hợp đồng mua bán hàng
hóa và thực tiễn thực hiện tại công ty cổ phần vật tư và vận tải Itasco – HP.
Chương III: Đưa ra định hướng nhừm hoàn thiện pháp luật về hợp đồng mua bán
hàng hóa đồng thời đề xuất những kiến nghị để góp phần hoàn hiện vấn đề này.

MỤC LỤC

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
BLDC: BỘ LUẬT DÂN SỰ
LTM: LUẬT THƯƠNG MẠI
CTCPVTVT: CÔNG TY CỔ PHẦN VẬT TƯ VÀ VẬN TẢI
PL HĐKT: PHÁP LỆNH HỢP ĐỒNG KINH TẾ
WTO (World Trade Organization) : TỔ CHỨC THƯƠNG MẠI THẾ GIỚI
1


1


CISG : CÔNG ƯỚC VIÊN 1980

2

2


LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài khóa luận
Ngày 11 tháng 1 năm 2007, Việt Nam chính thức gia nhập vào tổ chức thương
mại thế giới WTO sau 8 năm đàm phán, để chuẩn bị tham gia và chấp nhận những luật
lệ chung cho hầu hết các nước trên thế giới, luật pháp Việt Nam đã có những thay đổi
căn bản nhằm làm thu hẹp khoảng cách giữa luật Việt Nam và luật quốc tế, tạo sân
chơi bình đẳng cho tất cả các bên tham gia vào hoạt động thương mại tại Việt Nam.
Quốc hội Việt Nam đã thông qua nhiều đạo luật mới trong đó có Bộ luật dân sự 2005
và Luật thương mại 2005 thay thế cho Bộ luật dân sự và Luật thương mại cũ đồng thời
chấm dứt hiệu lực của Pháp lện hợp đồng kinh tế. Đây được xem là sự thay đổi lớn và
cần thiết với hệ thống pháp luật Việt Nam nói chung và pháp luật về hợp đồng nói
riêng.
Như chúng ta đã biết hợp đồng mua bán hàng hóa là quan hệ trao đổi hợp pháp
mà hầu hết các cá nhân tổ chức kinh doanh đều phải thực hiện trong quá trình tồn tại
và phát triển, việc kí kết, thực hiện hợp đồng phải tuân theo đúng các quy định của
pháp luật mới có thể giúp gắn chặt mối quan hệ hợp tác, bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của các bên, đồng thời góp phần tăng cường hiệu quả quản lý kinh tế của nhà
nước trong nền kinh tế. Vì vậy với sự ra đời của các đạo luật nêu trên, quy định về
pháp luật hợp đồng hiện nay đã khá đầy đủ và có hệ thống.Tuy nhiên việc áp dụng các
chính sách mới trong việc kí kết và thực hiện hợp đồng vẫn đang có nhiều vấn đề cần

bàn luận chính vì thế ta có thể thấy được vai trò của hợp đồng mua bán hàng hóa đối
với doanh nghiệp là vô cùng quan trọng. Nếu như việc giao kết và thực hiện hợp đồng
mua bán hàng hóa không diễn ra một cách thuận lợi thì làm sao doanh nghiệp có thể kí
kết được những đơn hàng lớn, để đem lại nguồn lợi nhuận cho công ty, đồng thời tránh
được những tổn thất không đáng có trong quá trình kinh doanh.
Khi đến thực tập tại CTCP VTVT Itasco - HP, vấn đề ký kết và thực hiện hợp
đồng của công ty đã thu hút sự quan tâm của tôi, trong đó hợp đồng mua bán hàng hóa
chiếm tới 70% trên tổng số các loại hợp đồng của công ty. Việc ký kết, thực hiện hợp
đồng phải tuân thủ đúng các quy định của pháp luật mới có thể giúp gắn chặt mối quan
hệ hợp tác, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên, góp phần tăng cường hiệu
quả quản lý kinh tế của Nhà nước trong nền kinh tế. Do nhận thức được vai trò to lớn
của hợp đồng mua bán hàng hóa, nên việc tìm hiểu pháp luật hợp đồng là điều cần
thiết đối với công ty, hơn nữa, thực tiễn việc áp dụng pháp luật về hợp đồng mua bán
hàng hóa tại công ty còn nhiều hạn chế và cần nhiều giải pháp giúp công ty cải thiện
trong quá trình ký kết, thực hiện hợp đồng. Vì vậy, việc nghiên cứu áp dụng pháp luật
hợp đồng trên khía cạnh giao kết, thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa tại công ty
3


-

trách nhiệm hữu hạn Nhật Việt là một vấn đề không chỉ có ý nghĩa với riêng công ty
mà còn đối với nhiều doanh nghiệp khác. Đây chính là lý do khiến tôi lựa chọn đề tài:
“Pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hóa và thực tiễn thực hiện tại công ty cổ
phần vật tư và vận tải Itasco – HP” để làm khóa luận tốt nghiệp.
2. Xác lập và tuyên bố vấn đề nghiên cứu
Phân tích khái niệm, đặc điểm, nội dung của hợp đồng mua bán hàng hóa
Phân tích thực trạng các quy phạm pháp luật điều chỉnh hợp đồng mua bán hàng
hóa tại Việt Nam
Đánh giá thực trạng áp dụng pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hóa tại

CTCPVTVT Itasco – HP
Phát hiện các điểm mạnh cần phát huy và hạn chế cần khắc phục
Đưa ra một số kiến nghị, giải pháp nâng cao hiệu quả trong việc ký kết và thực
hiện hợp đồng mua bán hàng hóa tại CTCPVTVT Itasco - HP nói riêng và với các
doanh nghiệp Việt Nam nói chung
3. Đối tượng, mục tiêu và phạm vi nghiên cứu của đề tài
3.1 Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của khóa luận là những vấn đề lý luận chung về một số
khía cạnh pháp lý liên quan đến hợp đồng mua bán hàng hóatrong luật Thương Mại
2005 và các văn bản khác có liên quan, thực trạng các quy phạm pháp luật về hợp
đồng mua bán hàng hóa tại Việt Nam. Từ đó phân tích thực tiễn thực hiện những điều
khoản này tại CTCPVTVT Itasco - HP. Bên cạnh đó, khóa luận tập trung nghiên cứu
hướng giải quyết hoàn thiện và nâng cao hiệu quả của pháp luật về những yếu tố nêu
trênvà đưa ra các hướng giải pháp về những vấn đề còn vướng mắc, nhằm giúp doanh
nghiệp chủ động hơn, tự tin phát triển bản thân doanh nghiệp mình.
3.2 Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu của đề tài: Thông qua việc nghiên cứu các vấn đề lý luận, khảo sát thực
trạng áp dụng pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp luật hợp đồng mua bán hàng hóa tại
doanh nghiệp, để có thể:
Tiếp cận nghiên cứu một cách có hệ thống các quy định hiện hành của pháp luật về
hợp đồng mua bán hàng hóa giữa các bên
Nêu ra thực trạng thi hành các quy định pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hóa và
đánh giá thực trạng đó
Lập luận đưa ra một số đề xuất nhằm nâng cao hiệu lực của pháp luật cũng như tính
hiệu quả của hợp đồng mua bán hàng hóa trong kinh doanh của doanh nghiệp.

3.3 Phạm vi nghiên cứu

Khóa luận sẽ nghiên cứu pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hóa kể từ khi Bộ
luật dân sự 2005 và Luật Thương mại 2005 ban hành cho đến nay,bên cạnh đó khóa


4


-

-

luận tập trung làm rõ cácvấn đề pháp lý về hợp đồng mua bán hàng hóa tại Việt Nam,
nghiên cứu điển hình tại CTCPVTVT Itasco - HP.
Khóa luận giới hạn phạm vi nghiên cứu các quy định của pháp luật về hợp đồng
mua bán hàng hóa và các vấn đề lý luận, thực tiễn trong thực hiện hợp đồng mua bán
hàng hóa ở Việt Nam.
4. Phương pháp nghiên cứu đề tài
Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh và các phương pháp chuyên ngành khoa học pháp lý để giải quyết những vấn đề
lý luận và pháp lý liên quan đến các qui định về pháp luật hợp đồng mua bán hàng
hóa. Khóa luận sử dụng các phương pháp nghiên cứu khoa học cụ thể, như: phương
pháp tổng hợp và phân tích, phương pháp so sánh luật học, phương pháp logic…Dưới
đây là hai phương pháp chủ yếu được sử dụng trong quá trình nghiên cứu đề tài:
Phương pháp thu thập thông tin: Mục đích của việc thu thập thông tin là làm cơ sở lý
luận khoa học hay luận cứ để đi sâu vào vấn đề ký kết và thực hiện hợp đồng mua bán
hàng hóa.
+ Thu thập các quy định, các văn bản quy phạm pháp luật và các tài liệu tổng
quan quy định về giao kết và thực hiện hợp đồng nói chung và hợp đồng mua bán
hàng hóa nói riêng như: LTM 2005, BLDS 2005, các văn bản pháp luật có liên quan từ
đó đưa ra một số nội dung pháp lý về hợp đồng mua bán hàng hóa.
+ Thu thập sổ sách, số liệu có liên quan đến giao kết và thực hiện hợp đồng mua
bán hàng hóa trong CTCPVTVT Itasco - HP để làm rõ thực trạng áp dụng pháp luật
hợp đồng trong quá trình giao kết và thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa tại công ty

Phương pháp phân tích – tổng hợp:
Dựa trên cơ sở các tài liệu đã thu thập được, người viết phân tích đánh giá nội
dung các quy định của pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hóa và thực trạng áp dụng
chúng trong giao kết và thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa tại CTCPVTVT Itasco
– HP.
Từ những kết quả đã phân tích, tổng hợp lại để có nhận thức đầy đủ, đúng đắn,
tìm ra được bản chất, quy luật vận động của pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hóa
và đề xuất giải pháp hoàn thiện pháp luật điều chỉnh hợp đồng mua bán hàng hóa.

5. Kết cấu của khóa luận tốt nghiệp
Bố cục bài khóa luận ngoài phần mở đầu và kết luận thì gồm có 3 chương:
Chương 1: Những lý luận cơ bản về pháp luật điều chỉnh hợp đồng mua bán
hàng hóa.
Chương 2: Thực trạng pháp luật Việt Nam điều chỉnh về hợp đồng mua bán
hàng hóa - Thực tiễn thực hiện tại CTCPVTVT Itasco – HP.
5


Chương 3: Một số giải pháp góp phần hoàn thiện pháp luật điều chỉnh hợp
đồng mua bán hàng hóa ở Việt Nam hiện nay.

CHƯƠNG I: NHỮNG LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ PHÁP LUẬT ĐIỀU CHỈNH HỢP
ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA.
1.1 Khái quát chung về hợp đồng mua bán hàng hóa.
1.1.1 Khái niệm về hợp đồng mua bán hàng hóa.
Để có thể tồn tại và phát triển, các chủ thể trong xã hội tham gia vào các giao
dịch nhất định thông qua việc trao đổi, dịch chuyển các lợi ích do mình tạo ra và nhận
lại những lợi ich vật chất cần thiết từ các chủ thế khác nhằm thỏa mãn các nhu cầu
chính đáng của mình. Một trong những phương thức cơ bản để thực hiện việc trao đổi
lợi ích trong xã hội chính là sự thỏa thuận giữa các bên dựa trên các nguyên tắc tự do,

tự nguyện, bình đẳng và được đặt dưới sự bảo trợ của luật pháp. Hiện tượng đó được
định danh trong luật bằng thuật ngữ pháp lý: “Hợp đồng”
Hợp đồng nói chung là một hành vi pháp lý, là sự thể hiện ý chí của các bên để
làm phát sinh các quyền và nghĩa vụ. Hợp đồng là loại hành vi pháp lý cơ bản và
thông dụng nhất. Ý chí của cá nhân đóng vai trò quan trọng trong hợp đồng, khi sự
thống nhất của các ý chí là thực chất và không trái pháp luật thì nó sẽ làm phát sinh
các nghĩa vụ ràng buộc các bên.
Hàng hoá theo nghĩa rộng được hiểu là sản phẩm lao động của con người, được
tạo ra nhằm mục đích trao đổi để thoả mãn những nhu cầu mang tính xã hội. Nhu cầu
của con người rất phong phú và biến thiên liên tục vì vậy hàng hoá luôn phát triển
phong phú và đa dạng. Theo định nghĩa của pháp luật hiện hành Việt Nam tại Điều 3
khoản 2 LTM 2005 thì “Hàng hoá bao gồm: Tất cả các loại động sản, kể cả bất động
sản hình thành trong tương lai, những vật gắn liền với đất đai”. Cũng tại Điều 3 khoản
8 của Luật này cũng quy định: “Mua bán hàng hoá là hoạt động thương mại, theo đó
các bên có nghĩa vụ giao hàng, chuyển quyền sở hữu hàng hoá cho bên mua và nhận
thanh toán; bên mua có nghĩa vụ thanh toán cho bên bán, nhận hàng và quyền sở hữu
hàng hoá theo đúng thoả thuận”
Hợp đồng mua bán hàng hóa là một phương tiện quan trọng phục vụ cho nhu cầu
tiêu dùng cũng như sản xuất kinh doanh giữa các chủ thể thuộc các thành phần kinh tế
khác nhau, hiện nay, hoạt động mua bán hàng hoá được điều chỉnh chủ yếu bởi hai văn
bản pháp luật quan trọng là BLDS 2005 và LTM 2005. Theo quy định của Điều 428
6


BLDS 2005 về hợp đồng mua bán tài sản thì: Hợp đồng mua bán tài sản là sự thỏa
thuận giữa các bên, theo đó bên bán có nghĩa vụ giao tài sản cho bên mua và nhận tiền,
còn bên mua có nghĩa vụ nhận tài sản và trả tiền cho bên bán. Theo điều 163 BLDS
2005 thì tài sản bao gồm : vật, tiền, giấy tờ có giá và các quyền tài sản.LTM 2005
không đưa ra định nghĩa về hợp đồng mua bán hàng hóa mà chỉ đưa ra khái niệm về
hoạt động mua bán hàng hoá. Hàng hóa theo quy định của LTM 2005 có thể là hàng

hóa hiện đang tồn tại hoặc hàng hóa sẽ có trong tương lai; hàng hóa có thể là động sản
hoặc bất động sản được phép lưu thông thương mại. Từ hai định nghĩa trên có thể thấy
hợp đồng mua bán hàng hóa theo quy định của LTM 2005 là một dạng cụ thể của hợp
đồng mua bán tài sản. Bên cạnh đó cũng cần phân biệt hợp đồng mua bán hàng hoá
với các hợp đồng khác, ví dụ như thuê mua tài sản, dịch vụ gắn liền với hàng hoá, gia
công hàng hoá… Mua bán hàng hoá khác với quan hệ thuê mua tài sản, khi thuê tài
sản, quyền sử dụng và chiếm hữu được chuyển cho người thuê nhưng quyền sở hữu lại
không được người cho thuê chuyển giao cho người đi thuê, mua bán hàng hoá khác
với các dịch vụ giao nhận hàng hoá, vì người giao nhận hàng hoá chỉ thực hiện chức
năng trung gian. Căn cứ các điều khoản trên, có thể kết luận rằng “Hợp đồng mua bán
hàng hoá là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên bán có nghĩa vụ giao hàng hóa
cho bên mua và nhận tiền, còn bên mua có nghĩa vụ nhận hàng và trả tiền cho bên
bán theo thời hạn, số lượng và phương thức thanh toán mà các bên đã thỏa thuận”.
1.1.2 Đặc điểm
Quan hệ mua bán hàng hoá được xác lập và thực hiện thông qua hình thức pháp
lí là hợp đồng mua bán hàng hoá, có bản chất chung của hợp đồng dân sự, là sự thoả
thuận nhằm xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt các quyền và nghĩa vụ trong quan hệ mua
bán. Dù Luật Thương mại 2005 không đưa ra định nghĩa về hợp đồng mua bán hàng
hoá song có thể các định bản chất pháp lí của hợp đồng mua bán hàng hoá được quy
định trong Luật Thương mại năm 2005 trên cơ sở Điều 428 của Bộ luật dân sự năm
2005 về hợp đồng mua bán tài sản. Từ đó cho thấy hợp đồng mua bán hàng hoá trong
thương mại là một dạng cụ thể của hợp đồng mua bán tài sản, tuy vậy, hợp đồng mua
bán hàng hoá theo quy định của Luật Thương mại năm 2005 vẫn có những nét khác
biệt, đặc thù so với hợp đồng mua bán tài sản theo quy định của Bộ luật dân sự năm
2005
Thứ nhất, về chủ thể của hợp đồng: Chủ thể trong hợp đồng mua bán hàng hoá
chủ yếu là thương nhân. Thương nhân theo quy định của Luật Thương mại năm 2005
bao gồm tổ chức kinh tế được thành lập hợp pháp, cá nhân hoạt động thương mại một
cách độc lập, thường xuyên và có đăng kí kinh doanh. Thương nhân là chủ thể của hợp
7



đồng mua bán hàng hoá có thể là thương nhân Việt Nam hoặc thương nhân nước ngoài
(trong hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế), ngoài chủ thể là thương nhân, các tổ
chức, cá nhân không phải là thương nhân cũng có thể trở thành chủ thể của hợp đồng
mua bán hàng hoá. Hoạt động của chủ thể không phải là thương nhân và không nhằm
mục đích lợi nhuận trong quan hệ hợp đồng mua bán hàng hoá chỉ phải tuân theo pháp
luật thương mại khi chủ thể này lựa chọn áp dụng Luật Thương mại năm 2005.Trong
khi đó, chủ thể của hợp đồng mua bán tài sản có thể là mọi tổ chức, cá nhân đầy đủ
năng lực, có nhu cầu mua bán tài sản, có sự mở rộng hơn rất nhiều so với chủ thể trong
hợp đồng mua bán hàng hóa.
Thứ hai, về đối tượng hợp đồng, hợp đồng mua bán hàng hoá theo quy định của
Luật Thương mại năm 2005 có đối tượng là hàng hoá. Tuy nhiên không thể hiểu theo
nghĩa thông thường, hàng hoá là sản phẩm lao động của con người, được tạo ra nhằm
mục đích thoả mãn nhu cầu của con người hay chỉ bao gồm máy móc, thiết bị, nguyên
liệu, nhiên liệu, vật liệu, hàng tiêu dùng, các động sản khác được lưu thông trên thị
trường, nhà ở dùng để kinh doanh đưới hình thức cho thuê, mà còn là hàng hoá hiện
đang tồn tại hoặc sẽ có trong tương lai, hàng hoá có thể là động sản hoặc bất động sản
được phép lưu thông thương mại. Khoản 2 Điều 3 Luật Thượng mại năm 2005 quy
định: “Hàng hóa bao gồm:
a) Tất cả các loại động sản, kể cả động sản hình thành trong tương lai;
b) Những vật gắn liền với đất đai”.
Còn hợp đồng mua bán tài sản trong dân sự có đối tượng gồm các loại tài sản
quy định trong Điều 162 Bộ luật Dân sự 2005: “Vật, tiền, giấy tờ có giá và các quyền
tài sản được phép giao dịch”. Đối tượng của hợp đồng mua bán tài sản được quy định
trong Bộ luật dân sự năm 2005 được quy định mang tính chất khái quát, là những tài
sản được phép lưu thông, bao gồm cả hàng hóa trong mua bán thương mại, hàng hóa
trong hợp đồng mua bán hàng hoá chỉ là một bộ phận của các loại tài sản là đối tượng
của hợp đồng mua bán tài sản trong dân sự.
Thứ ba, về mục đích của hợp đồng: hợp đồng mua bán hàng hoá theo quy định

của Luật Thương mại chủ yếu là để kinh doanh thu lợi nhuận cho các thương nhân.
Chỉ phần nào đó phục vụ mục đích tiêu dùng và các mục đích khác cho cả thương
nhân và những chủ thể không phải thương nhân tuỳ theo mong muốn và nhu cầu của
họ trong từng thời điểm. Trong khi đó, ở hợp đồng mua bán tài sản theo quy định của
Bộ luật dân sự năm 2005, với sự đa dạng của số lượng các chủ thể tham gia nên không
nhất thiết đặt ra mục đích thu lợi nhuận mà có thể nhằm nhiều mục đích khác nhau
như thiết lập quyền sở hữu, tiêu dùng,…
Thứ tư, về hình thức hợp đồng. Mặc dù cả Luật Thương mại năm 2005 và Bộ
Luật dân sự năm 2005 đều quy định hình thức hợp đồng mua bán có thể được thể hiện
8


dưới hình thức bằng lời nói, bằng văn bản hoặc bằng hành vi cụ thể của các bên gia
kết. Tuy nhiên, trong thực tế hoạt động kinh doanh thương mại, đối tượng của hợp
đồng thường là những hàng hóa có số lượng, khối lượng hoặc giá trị lớn và để đảm
bảo lợi ích giữa các bên giao kết, tránh xảy ra tranh chấp không đáng có thì hình thức
hợp đồng bằng văn bản được sử dụng là chủ yếu.
Thứ năm, về nội dung hợp đồng: Nội dung của hợp đồng mua bán hàng hoá theo
quy định của Luật Thương mại năm 2005 cũng như trong hợp đồng mua bán tài sản
trong Bộ luật dân sự năm 2005 cơ bản là các điều khoản do các bên thoả thuận, thể
hiện quyền và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ hợp đồng. Tuy nhiên, nghĩa vụ của
các bên trong giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa quy định tại Khoản 8 Điều 3 Luật
Thương mại năm 2005 “Mua bán hàng hoá là hoạt động thương mại, theo đó bên bán
có nghĩa vụ giao hàng, chuyển quyền sở hữu hàng hóa cho bên mua và nhận thanh
toán; bên mua có nghĩa vụ thanh toán cho bên bán, nhận hàng và quyền sở hữu hàng
hoá theo thỏa thuận” có sự khác biệt so với quy định tại Điều 428 Bộ luật dân sự:
“Hợp đồng mua bán tài sản là sự thoả thuận giữa các bên, theo đó bên bán có nghĩa vụ
giao tài sản cho bên mua và nhận tiền, còn bên mua có nghĩa vụ nhận tài sản và trả tiền
cho bên bán”. Nghĩa vụ giao, nhận “thanh toán” có tính chất rộng mở hơn so với giao,
nhận “tiền”, các hình thức thanh toán trong thương mại bao gồm tiền mặt, chuyển

khoản, tín dụng, ghi nợ, séc, thẻ thanh toán, hóa đơn, biên nhân, … Trong hợp đồng
mua bán hàng hóa, đối tượng thường có giá trị lớn, việc thanh toán bằng tiền không
phải lúc nào cũng diễn ra thuận lợi, nhanh chóng, việc sử dụng các phương tiện thanh
toán và phương thức thanh toán khác sẽ tạo điều kiện thuận lợi hơn cho các bên khi
thực hiện nghĩa vụ hợp đồng.
Đối với Luật Thương mại năm 2005, Bộ luật dân sự năm 2005 luôn luôn là bộ
luật gốc,việc xác định đối tượng điều chỉnh riêng đôi khi không dàng chút nào. Việc
tìm hiểu sự khác biệt giữa hợp đồng mua bán hàng hoá quy định trong Luật Thương
mại năm 2005 với hợp đồng mua bán tài sản theo quy định của Bộ luật dân sự năm
2005 có ý nghĩa rất quan trọng đối với nhà làm luật trong quá trình xây dựng pháp luật
và các bên chủ thể trong việc lựa chọn và áp dụng luật trong trường hợp cụ thể.
1.2 Cơ sở ban hành và nội dung của pháp luật điều chỉnh vấn đề hợp đồng
mua bán hàng hóa
1.2.1 Cơ sở ban hành pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hóa
1.2.1.1 Cơ sở về chính trị
Sau khi giành được thắng lợi trong công cuộc kháng chiến, nền chính trị của
nước ta đã ổn định hơn, nước ta luôn luôn chủ động để hòa nhập chung vào nền kinh
tế thế giới hiện đại. Cùng với sự tăng cường quan hệ hợp tác trong nước và nước ngoài
đã không ngừng thúc đẩy Việt Nam hoạt động giao lưu trên nhiều lĩnh vực, đặc biệt là
9


lĩnh vực kinh tế, điều này đã tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của các quan hệ
xã hội, các quan hệ dân sự và thương mại. Một trong những quan hệ thương mại góp
phần lớn vào công cuộc xây dựng và phát triển đất nước, đó là quan hệ mua bán hàng
hóa, quan hệ mua bán hàng hoá được xác lập và thực hiện thông qua hình thức pháp lí
là hợp đồng mua bán hàng hoá. Hơn nữa,hoạt động mua bán tại Việt Nam ngày càng
phát triển nhất là trong giai đoạn nước ta đang trong quá trình hội nhập thế giới, trước
tình hình đó, để đảm bảo quyền và lợi ích của các chủ thể tham gia đòi hỏi Nhà nước
cần ban hành các văn bản pháp luật điều chỉnh những quan hệ trong hoạt động mua

bán hàng hoá, nhất là hợp đồng mua bán hàng hóa.
1.2.1.2 Cơ sở về kinh tế
Nền kinh tế thị trường có ảnh hưởng lớn đến sự tốn tại và phát triển của từng
quốc gia từng dân tộc, thực tiễn những năm đổi mới chỉ ra rằng, việc chuyển sang mô
hình kinh tế thị trường của Đảng ta là hoàn toàn đúng đắn. Nhờ mô hình kinh tế đó,
chúng ta đã bước đầu khai thác được tiềm năng trong nước đi đôi với thu hút vốn và
kỹ thuật nước ngoài, mở rộng quan hệ kinh tế với nhiều quốc gia trên thế giới. Nhà
nước phải sử dụng hệ thống pháp luật làm công cụ điều tiết hoạt động của các tổ chức
kinh tế thuộc mọi thành phần kinh tế nhằm làm cho nền kinh tế phát triển theo định
hướng xã hội chủ nghĩa, phát huy mặt tích cực và ngăn chặn mặt tiêu cực của cơ chế
thị trường, điều tiết các hoạt động kinh tế đối ngoại sao cho nền kinh tế không bị lệ
thuộc vào nước ngoài. Vì vậy, hệ thống pháp luật của Việt Nam luôn luôn thay đổi sao
cho phù hợp với các quy định chung trên thế giới khi có sự hợp tác với nước ngoài và
sự đa dạng trong hoạt động thương mại, đặc biệt là hoạt động mua bán hàng hóa. Việc
xây dựng hệ thống pháp luật hoàn chỉnh đối với nước ta là một quá trình lâu dài, vì thị
trường luôn luôn biến động nên hệ thống pháp luật cũng phải được bổ sung hoàn chỉnh
kịp thời cho phù hợp với tình hình thực tế. Do vậy, Quốc hội đã thông qua BLDS 2005
thống nhất điều chỉnh các mối quan hệ về hợp đồng nói chung và LTM 2005 quy định
mang tính chuyên ngành về hợp đồng mua bán hàng hóa để giải quyết những bất cập
nêu trên, đồng thời để đáp ứng nhu cầu hội nhập WTO, phù hợp với sự phát triển của
kinh tế nước ta
1.2.1.3 Cơ sở về xã hội
Trong nhà nước pháp quyền, mọi quan hệ xã hội đều cần được điều chỉnh bởi
pháp luật, quan hệ mua bán hàng hóa là một phần của quan hệ xã hội, thực chất hoạt
động mua bán hàng hóa là sự thỏa thuận giữa hai bên nhằm mục đích kinh doanh, sao
cho hai bên đều được hưởng lợi ích tối đa. Việc ban hành các quy định về mua bán
hàng hóa thông qua hợp đồng mua bán hàng hóa sẽ đảm bảo quyền, lợi ích của các chủ

10



thể tham gia, từ đó tạo điều kiện xây dựng, duy trì và phát triển các mối quan hệ tốt
đẹp giữa cá nhân, tổ chức trong xã hội.
1.2.2 Nội dung của pháp luật điều chỉnh vấn đề hợp đồng mua bán hàng hóa
1.2.2.1 Nội dung của pháp luật điều chỉnh giao kết hợp đồng thương mại
1.2.2.1.1 Trình tự, thủ tục giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa
Trình tự giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa là quá trình mà trong đó các bên
chủ thể bảy tỏ ý chí với nhau bằng cách trao đổi ý kiến để đi đến thoả thuận trong việc
cùng nhau làm xác lập những quyền và nghĩa vụ đối với nhau, thực chất, đó là quá
trình mà hai bên “mặc cả” với nhau về những điều khoản trong nội dung của hợp đồng
mua bán hàng hóa. Quá trình này diễn ra thông qua hai giai đoạn:
Thứ nhất: Bên đề nghị đưa ra lời đề nghị giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa.
Thứ hai: Bên được đề nghị chấp nhận lời đề nghị giao kết hợp đồng mua bán
hàng hóa và đi đến giao kết hợp đồng.
1.2.2.1.2 Đề nghị giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa
Như đã biết, đề nghị giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa là việc thể hiện rõ ý
định giao kết hợp đồng và chịu sự ràng buộc về đề nghị này của bên đề nghị đối với
bên đã được xác định cụ thể trong quan hệ mua bán hàng hóa.
Thực chất, đề nghị giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa là việc một bên biểu lộ ý
chí của mình trước người khác bằng cách bày tỏ cho phía bên kia biết ý muốn tham gia
giao kết với người đó một hợp đồng mua bán hàng hóa.
Việc đề nghị giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa có thể được thực hiện bằng
nhiều cách thức khác nhau như:
Thứ nhất: Người đề nghị giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa có thể gặp trực
tiếp người được đề nghị trao đổi, thỏa thuận và trực tiếp đưa ra lời đề nghị giao kết
hợp đồng mua bán hàng hóa.
Thứ hai: Người đề nghị giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa có thể gửi lời đề
nghị giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa tới người được đề nghị thông qua các
phương tiện điện tử như qua mạng internet, fax hay bằng việc chuyển, gửi công văn,
giấy tờ qua đường bưu điện,...

 Thời điểm đề nghị giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa có hiệu lực:
Căn cứ theo Điều 391 BLDS 2005, thời điểm đề nghị giao kết hợp đồng có hiệu
lực được xác định là thời điểm đề nghị giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa có hiệu
lực do bên đề nghị ấn định, nếu bên đề nghị không ấn định thì đề nghị giao kết hợp
đồng có hiệu lực kể từ khi bên được đề nghị nhận được đề nghị đó.
Các trường hợp được coi là đã nhận được đề nghị giao kết hợp đồng được xác
định như sau:
Thứ nhất: Đề nghị được chuyển đến nơi cư trú, nếu bên được đề nghị là cá nhân;
được chuyển đến trụ sở, nếu bên được đề nghị là pháp nhân.
11


Thứ hai: đề nghị được đưa vào hệ thống thông tin chính thức của bên được đề
nghị.









Thứ ba: khi bên được đề nghị biết được đề nghị giao kết hợp đồng thông qua các
phương thức khác.
Thay đổi, rút lại đề nghị giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa:
Căn cứ theo Điều 392 BLDS 2005, bên đề nghị giao kết hợp đồng có thể thay
đổi, rút lại đề nghị giao kết hợp đồng trong các trường hợp sau đây:
Thứ nhất: Nếu bên được đề nghị nhận được thông báo về việc thay đổi hoặc rút
lại đề nghị trước hoặc cùng với thời điểm nhận được đề nghị.

Thứ hai:Điều kiện thay đổi hoặc rút lại đề nghị phát sinh trong trường hợp bên đề
nghị có nêu rõ về việc được thay đổi hoặc rút lại đề nghị khi điều kiện đó phát sinh.
Khi bên đề nghị thay đổi nội dung của đề nghị thì đề nghị đó được coi là đề
nghị mới.
Hủy bỏ đề nghị giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa:
Căn cứ theo Điều 393 BLDS 2005, trong trường hợp bên đề nghị giao kết hợp
đồng thực hiện quyền huỷ bỏ đề nghị do đã nêu rõ quyền này trong đề nghị thì phải
thông báo cho bên được đề nghị và thông báo này chỉ có hiệu lực khi bên được đề nghị
nhận được thông báo trước khi bên được đề nghị trả lời chấp nhận đề nghị giao kết
hợp đồng.
Chấm dứt đề nghị giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa:
Căn cứ theo Điều 394 Bộ luật dân sự 2005, đề nghị giao kết hợp đồng chấm dứt
trong các trường hợp sau đây:
Thứ nhất: Bên nhận được đề nghị trả lời không chấp nhận.
Thứ hai: Hết thời hạn trả lời chấp nhận.
Thứ ba: Khi thông báo về việc thay đổi hoặc rút lại đề nghị có hiệu lực.
Thứ tư: Khi thông báo về việc huỷ bỏ đề nghị có hiệu lực.
Thứ năm: Theo thoả thuận của bên đề nghị và bên nhận được đề nghị trong thời
hạn chờ bên được đề nghị trả lời.
Sửa đổi đề nghị giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa do bên được đề nghị đề xuất:
Căn cứ theo Điều 395 BLDS 2005, khi bên được đề nghị đã chấp nhận giao kết
hợp đồng, nhưng có nêu điều kiện hoặc sửa đổi đề nghị thì coi như người này đã đưa
ra một lời đề nghị giao kết mới.
1.2.2.1.3 Chấp nhận giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa
Chấp nhận giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa thực chất là việc bên được đề
nghị giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa nhận lời đề nghị và đồng ý tiến hành giao
kết hợp đồng mua bán hàng hóa với bên đã đưa ra lời đề nghị giao kết hợp đồng mua
bán hàng hóa đó.Thời hạn trả lời chấp nhận giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa:
Căn cứ theo Điều 397 BLDS 2005, khi bên đề nghị có ấn định thời hạn trả lời thì
việc trả lời chấp nhận chỉ có hiệu lực khi được thực hiện trong thời hạn đó, nếu bên đề

12


nghị giao kết hợp đồng nhận được trả lời khi đã hết thời hạn trả lời thì chấp nhận này
được coi là đề nghị mới của bên chậm trả lời.
Trong trường hợp thông báo chấp nhận giao kết hợp đồng đến chậm vì lý do
khách quan mà bên đề nghị biết hoặc phải biết về lý do khách quan này thì thông báo
chấp nhận giao kết hợp đồng vẫn có hiệu lực, trừ trường hợp bên đề nghị trả lời ngay
không đồng ý với chấp nhận đó của bên được đề nghị.Khi các bên trực tiếp giao tiếp
với nhau, kể cả trong trường hợp qua điện thoại hoặc qua các phương tiện khác thì bên
được đề nghị phải trả lời ngay có chấp nhận hoặc không chấp nhận, trừ trường hợp có
thoả thuận về thời hạn trả lời.
 Rút lại thông báo trả lời chấp nhận:
Căn cứ theo Điều 400 BLDS 2005, bên được đề nghị giao kết hợp đồng có thể
rút lại thông báo chấp nhận giao kết hợp đồng, nếu thông báo này đến trước hoặc cùng
với thời điểm bên đề nghị nhận được trả lời chấp nhận giao kết hợp đồng.
1.2.2.1.4 Địa điểm giao kết hợp đồng
Căn cứ theo Điều 403 Bộ luật dân sự 2005, địa điểm giao kết hợp đồng dân sự do
các bên thoả thuận; nếu không có thoả thuận thì địa điểm giao kết hợp đồng dân sự là
nơi cư trú của cá nhân hoặc trụ sở của pháp nhân đã đưa ra đề nghị giao kết hợp đồng.
1.2.2.1.5 Thời gian giao kết hợp đồng
Giao kết hợp đồng là một vấn đề quan trọng trong pháp luật hợp đồng bởi nó giúp
ta xác định được khi nào hợp đồng được xác lập, là một hợp đồng cụ thể trong số các
hợp đồng cơ bản của hợp đồng thương mại, do đó, hợp đồng mua bán hàng hóa cũng
tuân theo những quy định của BLDS 2005 về vấn đề thời điểm giao kết hợp đồng.
Căn cứ theo Điều 404 Bộ luật dân sự 2005 quy định:Hợp đồng dân sự được giao
kết vào thời điểm bên đề nghị nhận được trả lời chấp nhận giao kết; hợp đồng dân sự
cũng xem như được giao kết khi hết thời hạn trả lời mà bên nhận được đề nghị vẫn im
lặng, nếu có thoả thuận im lặng là sự trả lời chấp nhận giao kết; thời điểm giao kết hợp
đồng bằng lời nói là thời điểm các bên đã thỏa thuận về nội dung của hợp đồng và thời

điểm giao kết hợp đồng bằng văn bản là thời điểm bên sau cùng ký vào văn bản.
1.2.2.1.6 Hình thức giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa
Tự do thỏa thuận là một trong những nguyên tắc quan trọng trong giao kết hợp
đồng. Điều này có nghĩa, các bên được tự do lựa chọn hình thức phù hợp khi giao kết hợp
đồng mua bán hàng hóa. Tuy nhiên, tự do lựa chọn trong khuôn khổ pháp luật cho
phép.Về nguyên tắc, hình thức giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa phải phù hợp với
hình thức hợp đồng mua bán hàng hóa. LTM 2005 không quy định hình thức giao kết
hợp đồng mua bán hàng hóa, song có thể dựa vào quy định của LTM 2005 về hình
thức hợp đồng mua bán hàng hóa để xác định hình thức giao kết hợp đồng mua bán
hàng hóa.
13


Căn cứ theo khoản 1 Điều 24 LTM 2005 quy định, hình thức của hợp đồng mua
bán hàng hóa được thể hiện bằng lời nói, bằng văn bản hoặc được xác lập bằng hành vi
cụ thể. Do đó, giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa có thể được xác lập dưới ba hình
thức: lời nói, văn bản hoặc hành vi.
Đối với giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa được xác lập bằng hình thức lời nói
(hay còn gọi là hình thức miệng), các bên tham gia giao kết hợp đồng mua bán hàng
hóa chỉ cần thỏa thuận miệng với nhau về nội dung cơ bản của hợp đồng, giiao kết hợp
đồng dưới hình thức này rất thuận tiện, nhanh chóng và thường áp dụng cho những
trường hợp mà các bên tham gia giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa đã quen biết và
có sự tin tưởng lẫn nhau hoặc đối với những hợp đồng mua bán hàng hóa ngay sau khi
giao kết sẽ thực hiện và chấm dứt ngay, hình thức này có giá trị pháp lý không dễ xảy
ra tranh chấp khi thực hiện hợp đồng.
Đối với giao kết hợp đồng được xác lập bằng hình thức văn bản, các bên khi
tham gia giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa sẽ ghi nhận nội dung giao kết hợp đồng
mua bán hàng hóa bằng một văn bản chứa đựng đầy đủ các nội dung cơ bản của hợp
đồng và có chữ ký xác nhận của các bên, hình thức này tạo ra chứng cứ pháp lý chắc
chắn hơn so với hình thức miệng. Thông thường theo hình thức này, hợp đồng được

lập thành nhiều bản mỗi bên giữ một bản làm bằng chứng chứng minh quyền của mỗi
bên. Căn cứ vào văn bản hợp đồng mua bán hàng hóa, các bên dễ dàng xác định được
quyền và nghĩ vụ. Đặc biệt, các bên còn dễ dàng thực hiện quyền yêu cầu của mình đối
với bên kia. Hình thức này thường được áp dụng trong các quan hệ mua bán hàng hóa
mà việc thực hiện hợp đồng không cùng lúc với việc giao kết, các giao dịch mua bán
hàng hóa quan trọng, có giá trị lớn hay các hợp đồng mua bán hàng hóa có độ nhạy
cảm cao.
Ngoài hai hình thức nói trên, hợp đồng mua bán hàng hóa còn có thể được giao
kết bằng một hình thức khác đó là hình thức hành vi. Theo đó, hợp đồng mua bán hàng
hóa sẽ được giao kết miễn các hành vi đó chứa đựng những thông tin mà các bên trong
quan hệ mua bán hàng hóa đó hiểu và thực hiện trên thực tế.Giống với hình thức
miệng, hợp đồng mua bán hàng hóa được giao kết bằng hình thức hành vi có giá trị
pháp lý không cao, dễ xảy ra tranh chấp.
1.2.2.1.7 Nội dung giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa
Nội dung giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa chính là nội dung hợp đồng mua
bán hàng hóa. Do đó, các quy định pháp luật về nội dung hợp đồng mua bán hàng
hóa cũng chính là các quy định pháp luật về nội dung giao kết hợp đồng mua bán
hàng hóa.
Nội dung của hợp đồng là tổng hợp các điều khoản do các bên thỏa thuận, thể
hiện quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng. Do đó, nội dung của hợp đồng
14


mua bán hàng hóa có thể hiểu là tổng hợp các điều khoản do các bên thỏa thuận, các
điều khoản đó xác định những quyền và nghĩa vụ cụ thể của các bên trong hợp đồng
mua bán hàng hóa.
Căn cứ theo Điều 402 BLDS 2005 quy định nội dung của hợp đồng: “Tuỳ theo
từng loại hợp đồng, các bên có thể thoả thuận về những nội dung sau đây:
1. Đối tượng của hợp đồng là tài sản phải giao, công việc phải làm hoặc không
được làm.

2. Số lượng, chất lượng.
3. Giá, phương thức thanh toán.
4. Thời hạn, địa điểm, phương thức thực hiện hợp đồng.
5. Quyền, nghĩa vụ của các bên.
6. Trách nhiệm do vi phạm hợp đồng.
7. Phạt vi phạm hợp đồng.
8. Các nội dung khác.”
Xuất phát từ nguyên tắc tự do hợp đồng, pháp luật không giới hạn các điều khoản
mà các bên thỏa thuận với nhau. Nội dung của hợp đồng mua bán hàng hóa trước hết
là các điều khoản do các bên thỏa thuận. Đồng thời, trên cơ sở các quy định của
BLDS, LTM và tính chất của quan hệ hợp đồng mua bán hàng hóa, có thể thấy những
điều khoản quan trọng của hợp đồng mua bán hàng hóa bao gồm: đối tượng, số lượng,
chất lượng, giá cả, phương thức thanh toán, thời gian thanh toán, thời hạn giao hàng,
địa điểm giao hàng,... tuy nhiên, với từng hợp đồng mua bán hàng hóa cụ thể lại có sự
khác nhau.
Các điều khoản trong nội dung của hợp đồng mua bán hàng hóa có thể chia ra
thành ba loại:
Loại thứ nhất: Điều khoản cơ bản
Các điều khoản cơ bản xác định nội dung chủ yếu và là những điều khoản không
thể thiếu của hợp đồng mua bán hàng hóa, nếu không thỏa thuận được các điều khoản
này thì hợp đồng mua bán hàng hóa không thể giao kết được. Điều khoản cơ bản có
thể do tính chất của từng hợp đồng quyết định hoặc do pháp luật quy định. Tùy theo
từng loại hợp đồng mà điều khoản cơ bản có thể là đối tượng, giá cả, địa điểm... có
những điều khoản đương nhiên là điều khoản cơ bản, vì không thoả thuận tới nó sẽ
không thể hình thành hợp đồng. Bên cạnh đó cũng có những điều khoản vốn dĩ không
phải là điều khoản cơ bản nhưng các bên thấy cần phải thoả thuận được điều khoản đó
mới giao kết hợp đồng thì những điều khoản này cũng là điều khoản cơ bản của hợp
đồng mua bán hàng hóa sẽ giao kết
Loại thứ hai: Điều khoản thông thường
Điều khoản thông thường là những điều khoản được pháp luật quy định trước,

nếu khi giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa, các bên không thoả thuận những điều
khoản này thì vẫn coi như hai bên đã mặc nhiên thoả thuận và được thực hiện như
15


pháp luật đã quy định. Khác với điều khoản cơ bản, các điều khoản thông thường
không làm ảnh hưởng tới quá trình giao kết hợp đồng, để giảm bớt những công việc
không cần thiết trong giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa, các bên có thể không cần
thoả thuận và không cần ghi vào văn bản hợp đồng những điều khoản mà pháp luật đã
quy định nhưng các bên vẫn phải thực hiện những điều khoản đó. Vì vậy, nếu có tranh
chấp về những nội dung này thì quy định của pháp luật sẽ là căn cứ để xác định quyền
và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng.
Loại thứ ba: Điều khoản tùy nghi
Ngoài những điều khoản phải thoả thuận vì tính chất của hợp đồng và những
điều khoản mà pháp luật đã quy định trước, khi giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa
các bên còn có thể thoả thuận để xác định thêm một số điều khoản khác nhằm làm cho
nội dung của hợp đồng mua bán hàng háo được cụ thể hoặc tạo điều kiện thuận lợi cho
các bên trong quá trình thực hiện hợp đồng, các điều khoản này được gọi là điều khoản
tùy nghi.Điều khoản tùy nghi là những điều khoản mà các bên tham gia giao kết hợp
đồng tự ý lựa chọn và thoả thuận với nhau để xác định quyền và nghĩa vụ dân sự của
các bên. Thông qua điều khoản tùy nghi, bên có nghĩa vụ được phép lựa chọn một
trong những cách thức nhất định để thực hiện hợp đồng, sao cho thuận lợi mà vẫn bảo
đảm được quyền yêu cầu của bên kia, dựa vào tính chất các điều khoản tùy nghi có thể
chia ra làm hai loại là điều khoản tùy nghi ngoài pháp luật và điều khoản tùy nghi khác
pháp luật.
Như vậy, tùy từng hợp đồng cụ thể, một điều khoản trong nội dung của hợp đồng
mua bán hàng hóa có thể là điều khoản cơ bản, có thể là điều khoản thông thường hay
cũng có thể là điều khoản tùy nghi.

-


1.2.2.2 Nội dung pháp luật về thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa
1.2.2.2.1 Thực hiện các nội dung của hợp đồng mua bán hàng hóa
Về giao hàng:
Bên bán phải giao hàng, chứng từ theo thỏa thuận trong hợp đồng về số lượng,
chất lượng, cách thức đóng gói, bảo quản và các quy định khác trong hợp đồng.
Trường hợp không có thỏa thuận cụ thể, bên bán có nghĩa vụ giao hàng và chứng từ
liên quan theo quy định của luật (Điều 34 LTM 2005). Nếu hợp đồng mua bán hàng
hóa mà phải qua người vận chuyển thì bên bán phải ký hợp đồng vận chuyển, hợp
đồng bảo hiểm rủi ro trên đường vận chuyển, nếu hợp đồng quy định bên bán không
ký hợp đồng bảo hiểm mà bên mua ký thì bên bán phải cung cấp cho bên bán những
thông tin về hàng hóa để họ tiến hành ký hợp đồng bảo hiểm (khoản 3 Điều 36 LTM
2005). Mọi vấn đề liên quan đến giao hàng các bên có thể thỏa thuận ghi vào hợp
16


-

-

-

-

đồng, nếu những vấn đề này không được ghi vào hợp đồng thì sẽ theo quy định chung
của pháp luật.
Khi thực hiện hợp đồng thì bên bán phải có nghĩa vụ đảm bảo tính hợp pháp của
hàng hóa, bảo đảm quyền sở hữu của bên mua đối với hàng hóa, bảo đảm tính hợp
pháp về sở hữu trí tuệ đối với hàng hóa đó (Điều 46 LTM 2005), chịu trách nhiệm bảo
hành hàng hóa( Điều 49 LTM 2005).

Về địa điểm giao hàng tại LTM 2005 có quy định tại Điều 35:
Các bên có thể thỏa thuận về địa điểm, thời hạn và phương thức giao hàng tùy
theo tính chất của hàng hóa trong hợp đồng khi đã thỏa thuận về địa điểm giao hàng
thì các bên phải tôn trọng thỏa thuận và phải thực hiện đúng thỏa thuận đó, bên bán
phải có nghĩa vụ giao hàng, bên mua phải có nghĩa vụ nhận hàng đúng địa điểm đã
thỏa thuận.
Trong trường hợp không thỏa thuận địa điểm giao hàng thì địa điểm giao hàng
được xác định theo khoản 2 điều 35 LTM.
Về thời gian giao hàng tại Điều 37 LTM 2005 có quy định:
Các bên thường thỏa thuận về thời điểm giao hàng trong hợp đồng, nếu các bên
không thỏa thuận vấn đề này trong hợp đồng thì áp dụng quy định của pháp luật hoặc
theo tập quán, nếu các bên không thỏa thuận về thời điểm giao hàng cụ thể mà chỉ nêu
thời hạn giao hàng thì bên bán có thể giao hàng vào bất kỳ thời điểm nào trong thời
hạn đó và phải báo trước cho bên mua. Nếu trong hợp đồng không có thỏa thuận về
thời hạn giao hàng thì theo quy định tại Điều 37 LTM 2005, bên bán phải giao hàng
trong một thời hạn hợp lý sau khi giao kết hợp đồng.
Về trách nhiệm do giao hàng không phù hợp với hợp đồng tại Điều 39 LTM 2005 có
quy định: bên mua có quyền từ chối nhận hàng nếu hàng hóa không phù hợp với hợp
đồng, bên bán phải chịu trách nhiệm trừ trường hợp những khiếm khuyết của hàng hóa
bên mua phải biết hoặc đã biết khi ký hợp đồng.
Về Thanh toán tại Điều 50 đến Điều 55 LTM 2005 có quy định:
Thanh toán tiền hàng được coi là nghĩa vụ quan trọng mà người mua phải thực
hiện, bên mua phải có nghĩa vụ thanh toán và nhận hàng theo đúng thỏa thuận và các
bên có thể thỏa thuận về phương thức, địa điểm, thời hạn thanh toán, và trình tự thủ
tục thanh toán, đồng tiền thanh toán…Khi đó bên mua phải tuân thủ đúng các phương
thức thanh toán và thực hiện thanh toán theo trình tự, thủ tục theo thỏa thuận. Nếu các
bên không có sự thỏa thuận này thì sẽ tuân theo quy định của pháp luật, điều này được
quy định tại LTM 2005: Xác định địa điểm thanh toán theo quy định tại Điều 54, thời
hạn thanh toán theo quy định tại Điều 55 và khoản 3 Điều 50.
Trong trường hợp bên mua hàng vi phạm hợp đồng chậm thanh toán tiền hàng thì

phải trả lãi trên số tiền trả chậm đó theo lãi suất nợ quá hạn trung bình trên thị trường
tại thời điểm thanh toán tương ứng với thời gian trả chậm, khi bên vị phạm yêu cầu,
17


trừ trường hợp có thỏa thuận khác Điều 306 LTM 2005. Khi người mua vị phạm nghĩa
vụ thanh toán thì người bán cũng có thể căn cứ vào Khoản 4 Điều 51, Điều 308 về tạm
ngưng thực hiện hợp đồng, Điều 312 về hủy bỏ hợp đồng, Điều 321về hình thức xử lý
hành vi vi phạm pháp luật thương mại.
- Chuyển rủi ro tại Điều 57 đến Điều 61 LTM 2005 có quy định:
Vấn đề chuyển rủi ro trong việc mua bán hàng hóa và một vấn đề cơ bản mà các
bên cần nắm, các bên cần thỏa thuận về thời điểm chuyển rủi ro để tránh phát sinh
tranh chấp, trong hợp đồng không có thỏa thuận về thời điểm chuyển rủi ro, nếu bên
bán có nghĩa vụ giao hàng cho bên mua tại một địa điểm nhất định, thì rủi ro về mất
mát hoặc hư hỏng được chuyển cho bên mua khi hàng hóa đã được giao cho bên mua.
Nếu hợp đồng không có quy định về việc vận chuyển hàng hóa cũng như địa điểm
giao hàng nhất định thì rủi ro về mất mát hoặc hư hỏng hàng hóa được chuyển cho bên
mua khi hàng hóa đã được chuyển giao cho người vận chuyển đầu tiên, trong các
trường hợp cụ thể thời điểm chuyển rủi ro được pháp luật quy định chi tiết hơn.
- Chuyển quyền sở hữu tại Điều 62 LTM 2005 có quy định:
Việc chuyển quyền sở hữu hàng hóa từ bên bán sang bên mua là do hai bên thỏa
thuận hoặc nếu không có thỏa thuận thì quyền sở hữu được chuyển sang người mua là
tại thời điểm giao hàng.
Ngoài ra, vấn đề này BLDS 2005 cũng có quy định tại Điều 248 về việc chuyển
giao quyền sở hữu của mình cho người khác.
1.2.2.2.2 Một số biện pháp đảm bảo thực hiện hợp đồng:
Các biện pháp bảo đảm thực hiện hợp đồng được quy định từ Điều 318 đến Điều
373 BLDS 2005 bao gồm: cầm cố tài sản, thế chấp tài sản (bao gồm cả cầm cố, thế
chấp bằng tài sản của người thứ ba), đặt cọc, ký cược, ký quỹ, bảo lãnh và tín chấp.
Theo các quy định của pháp luật hiện hành thì các bên trong hợp đồng có quyền

tự chủ, tự do cam kết và tự do thoả thuận đồng thời các bên cũng phải tự chịu trách
nhiệm đối với các cam kết, thoả thuận của mình, điều này được thể hiện rõ nhất trong
các quy định về giao kết, thực hiện hợp đồng cầm cố, thế chấp và bảo lãnh.
1.2.2.3 Một số vấn đề liên quan đến việc giải quyết tranh chấp phát sinh:
1.2.2.3.1 Các phương thức giải quyết tranh chấp:
Theo quy định tại Điều 317 LTM 2005, các phương thức giải quyết tranh chấp
trong thương mại bao gồm:
- Thương lượng giữa các bên.
- Hòa giải giữa các bên.
- Giải quyết tại trung tâm trọng tài thương mại (Theo thủ tục tố tụng trọng tài được quy
định tại luật trọng tài thương mại năm 2010).
- Giải quyết tranh chấp tại tòa án( theo thủ tục tố tụng dân sự được quy định trong Bộ
Luật Tố tụng dân sự 2004). Thời hiệu khởi kiện đối với các tranh chấp thương mại (tại
18


1.2.2.3.2

điều 319 LTM 2005) là 2 năm kể từ thời điểm quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm,
trừ trường hợp quy định tại điểm e khoản 1 Điều 237 của LTM 2005.
Chế tài áp dụng giải quyết tranh chấp:
Tùy theo mức độ vi phạm sẽ áp dụng chế tài phù hợp để giải quyết tranh chấp
theo quy định tại Điều 292 LTM 2005. Sau đây là các chế tài thường được áp dụng:
Buộc thực hiện hợp đồng: Đây là chế tài có chức năng đảm bảo hợp đồng được
thực hiện như thoả thuận, đúng với mục đích ban đầu của các bên; được áp dụng đối
với bất kỳ hành vi vi phạm hợp đồng nào.
Phạt vi phạm: Là chế tài có chức năng tăng cường ý thức tuân thủ hợp đồng của
các bên.Bên bị vi phạm có quyền yêu cầu bên vi phạm trả một khoản tiền phạt do vi
phạm hợp đồng. Điều kiện để áp dụng chế tài này là phải có tồn tại thoả thuận về việc
phạt vi phạm giữa các bên, đồng thời đã xảy ra hành vi vi phạm mà các bên thoả thuận

là điều kiện để áp dụng chế tài phạt vi phạm.
Bồi thường thiệt hại: Đây là chế tài có chức năng bù đắp tổn thất vật chất cho bên
bị vi phạm. Bên vi phạm có trách nhiệm bồi thường giá trị tổn thất thực tế và khoản lợi
trực tiếp đáng lẽ bên bị vi phạm được hưởng nếu không có hành vi vi phạm.
1.3 Nguyên tắc về pháp luật điều chỉnh hợp đồng mua bán hàng hóa.
1.3.1 Nguyên tắc giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa.
Việc giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa trong thương mại cũng phải tuân thủ
nguyên tắc cơ bản như đối với một hợp đồng dân sự thông thường và theo điều 389
BLDS 2005, việc giao kết hợp đồng dân sự cần tuân thủ nguyên tắc sau:
Nguyên tắc tự do, tự nguyện thảo thuận, không được trái pháp luât, đạo đức xã
hội ( điều 4 và khoản 1 điều 389 BLDS 2005, khoản 1điều 11 LTM 2005)
Đối với hợp đồng mua bán hàng hóa trong thương mại, các cá nhân, tổ chức
không kể là thương nhân hay không phải là thương nhân, nếu có đủ các điều kiện mà
pháp luật quy định đều có thể tham gia giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa trong
thương mại mà không bị bất cứ ai ngăn cản hay làm thay đổi ý chí.
Ví dụ: Doanh nghiệp A ( bên bán ) có quyền tự do ký hợp đồng mua bán vải vóc
với doanh nghiệp B, doanh nghiệp C theo quy định của pháp luật mà không thể bị
ngăn cản, nghĩa là doanh nghiệp B hay C không có quyền ngăn cản doanh nghiệp A ký
kết với nhiều đối tác.
Nguyên tắc này cũng cho phép các bên được tự do thỏa thuận tất cả các vấn đề
liên quan đến quyền và nghĩa vụ giữa các bên, tuy nhiên quá trình giao kết hợp đồng
phải đảm bảo hợp pháp, không trái với đạo đức xã hội, hợp đồng phải được giao kết
hợp pháp cả về nội dung cũng như hình thức đúng với thẩm quyền của các bên.
Nguyên tắc bình đẳng, thiện chí, hợp tác, trung thực và ngay thẳng ( điều 5;
khoản 2 điều 389 BLDS 2005 và điều 10 LTM 2005)
19


Nguyên tắc này thể hiện bản chất của các quan hệ hợp đồng.Trong quá trình giao
kết hợp đồng, các bên đều bình đẳng với nhau.Không ai được áp đặt ý chí của mình

lên người khác, các bên phải thỏa thuận với nhau trên cơ sở trung thực, ngay thẳng và
hợp tác. Tất cả nhưng hợp đồng giao kết do nhầm lẫn, bị lừa dối hoặc bị đe dọa đều
không đáp ứng nguyên tắc này, vì vậy những hợp đồng đó sẽ bị coi là vô hiệu, không
có hiệu lực pháp luật.
Ví dụ: Doanh nghiệp M (bên bán) ký hợp đồng mua bán hoa quả nhập khẩu với
doanh nghiệp B thì hai bên đều phải tự nguyện, bình đẳng về địa vị pháp lý. Tự
nguyện trong việc thỏa thuận giá cả hàng hóa, phương thức thanh toán, thời hạn và địa
điểm giao nhận hàng, các bên phải thỏa thuận thống nhất ý chí, không bên nào được áp
đặt, đe dọa hay lừa dối đối tác. Nếu vi phạm nguyên tắc này thì hợp đồng bị coi là vô
hiệu.
Như vậy quá trình giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa trong thương mại cần
phải tuân thủ các nguyên tắc trên, quá trình giao kết hợp đồng chỉ cần vi phạm một
trong hai nguyên tắc sẽ dẫn đến hợp đồng vô hiệu.
1.3.2 Nguyên tắc thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa.
Những thỏa thuận trong hợp đồng có hiệu lực sẽ có giá trị ràng buộc các bên.
Các bên phải thực hiện các nghĩa vụ đã thỏa thuận theo đúng hợp đồng bởi hợp đồng
có tính chất là luật nội bộ đối với các bên. Để đảm bảo việc thực hiện lợi ích nghĩa vụ
cho các bên, đồng thời không xâm hại đến những lợi ích mà pháp luật bảo vệ, pháp
luật quy định những nguyên tắc có tính chất bắt buộc phải tuân theođối với các chủ thể
trong quá trình thực hiện hợp đồng. Như vậy việc thực hiện hợp đồng phải tuân thủ
các nguyên tắc sau:
- Nguyên tắc thực hiện đúng: Chấp hành thực hiện đúng hợp đồng là không được
tự ý thay đối tượng này bằng một đối tượng khác hoặc không được thay thế việc thực
hiện nó bằng cách trả một số tiền nhất định hoặc không thực hiện nó, nguyên tắc này
đòi hỏi thỏa thuận cái gì thì thực hiện đúng cái đó.
- Nguyên tắc thực hiện đầy đủ: Nguyên tắc này có nghĩa là thực hiện đầy đủ tất
cả các điều khoản đã cam kết trong hợp đồng, tức là tất cả các quyền và nghĩa vụ phát
sinh từ quan hệ hợp đồng đều phải được thực hiện đầy đủ, cụ thể là thực hiện đúng đối
tượng, đúng chất lượng, đúng thời gian, đúng số lượng, đúng phương thức thanh toán
và các thoả thuận khác trong hợp đồng.

- Nguyên tắc giúp đỡ nhau trong quá trình thực hiện hợp đồng: Nguyên tắc này
đòi hỏi các bên phải hợp tác chặt chẽ với nhau, thường xuyên theo dõi và giúp đỡ nhau
để thực hiện đúng và nghiêm chỉnh mọi điều khoản của hợp đồng, giúp nhau khắc
phục những khó khăn trong quá trình thực hiện hợp đồng kinh tế.

20


CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT ĐIỀU CHỈNH VỀ HỢP ĐỒNG
MUA BÁN HÀNG HÓA – THỰC TIỄN THỰC HIỆN TẠI CÔNG TY CỔ
PHẦN VẬT TƯ VÀ VẬN TẢI ITASCO – HP.
2.1. Tổng quan tình hình và các nhân tố ảnh hưởng đến pháp luật về hợp
đồng mua bán hàng hóa.
2.1.1. Tổng quan tình hình về pháp luật điều chỉnh mua bán hàng hóa
Tại đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (năm 1986), Đảng ta chủ trương đổi mới
tư duy kinh tế, phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, xoá bỏ cơ chế tập trung
quan liêu bao cấp, từ đó, nền kinh tế nước ta từng bước được vận hành theo cơ chế thị
trường, phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần.Trong nền kinh tế thị trường, sản
phẩm làm ra là để trao đổi, mua bán do đó hợp đồng kinh tế có vai trò hết sức quan
trọng.Nó là hình thức pháp lý của mối quan hệ kinh tế, quan hệ hàng hóa – tiền tệ giữa
các chủ thể kinh doanh. Hợp đồng kinh tế trong nền kinh tế thị trường không còn là
công cụ của Nhà nước trong việc xây dựng và thực hiện kế hoạch như trong nền kinh
tế kế hoạch hóa tập trung và bao cấp nữa mà là công cụ của chính các chủ thể kinh
doanh để họ trao đổi hàng hóa, thực hiện dịch vụ nhằm mục đích kinh doanh. Hợp
đồng kinh tế trở về với bản chất của hợp đồng là sự thỏa thuận của các bên trong việc
xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền và nghĩa vụ trên cơ sở tự nguyện, bình đẳng và
không trái pháp luật, để phát huy vai trò của hợp đồng kinh tế trong nền kinh tế thị
trường, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên trong quan hệ hợp đồng kinh tế,
bảo vệ lợi ích của người tiêu dùng cần có sự can thiệp đúng mực của nhà nước vào các
quan hệ hợp đồng kinh tế thông qua hệ thống pháp luật thống nhất, đồng bộ đặc biệt là

pháp luật kinh tế phù hợp với quy luật phát triển và đòi hỏi khách quan của nền kinh tế
thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa của nước ta.
Trong điều kiện đó, điều lệ về chế độ hợp đồng kinh tế ban hành kèm theo Nghị
định 54/CP ngày 10/3/1975 không còn phù hợp nữa, nhà nước đã ban hành pháp lệnh
hợp đồng kinh tế ngày 25/9/1989 và nhiều văn bản khác để điều chỉnh các quan hệ hợp
đồng. PL HĐKT 1989 ra đời đánh dấu một bước tiến quan trọng trong lĩnh vực pháp
lý về hợp đồng kinh tế nói chung và hợp đồng mua bán hàng hóa nói riêng, PL HĐKT
được coi là một trong những bước đi lập pháp đầu tiên, phản ứng nhanh chóng trước
đòi hỏi của kinh tế. Điểm thành công nhất của PL HĐKT là sự khẳng định nguyên tắc
21


tự do hợp đồng bằng quy định ký kết hợp đồng kinh tế là quyền của các đơn vị kinh tế,
không cơ quan, cá nhân, tổ chức nào được áp đặt ý chí của mình cho các chủ thể khác
khi ký kết các hợp đồng kinh tế. Tuy nhiên, PL HĐKT 1989 được ban hành vào thời
kỳ đầu của công cuộc đổi mới khi mà cơ cấu của nền kinh tế hàng hóa của chúng ta
còn chưa định hình, tri thức về nền kinh tế thị trường của chúng ta còn thiếu, tư duy
pháp lý về nền kinh tế thị trường còn bị hạn chế do đó trong pháp lệnh hợp đồng kinh
tế còn mang những quy định mang dấu ấn của cơ chế cũ vì vậy khi đi vào vận hành nó
đã bộc lộ những điểm yếu.
Đầu tiên là sự mâu thuẫn giữa tư tưởng của cơ quan soạn thảo pháp lệnh, trong
khi chúng ta vẫn cho rằng hợp đồng kinh tế là hợp đồng có mục đích kinh doanh để
phân biệt với hợp đồng dân sự nhưng khi hợp đồng được ký kết giữa hai cá nhân có
đăng ý kinh doanh hay giữa hai doanh nghiệp tư nhân lại không được coi là hợp đồng
kinh tế ( theo điều 2 pháp lệnh). PLHĐKT 1989 chỉ công nhận một hợp đồng là hợp
đồng kinh tế nếu hợp đồng đó có mục đích kinh doanh và ít nhất một bên tham gia là
pháp nhân, điều này đã làm cho phạm vi của hợp đồng kinh tế bị thu hẹp. Một số hợp
đồng bị loại ra khỏi phạm vi điều chỉnh của PLHĐ kéo theo đó là những tranh chấp từ
những hợp đồng ấy cũng bị loại ra ngoài thẩm quyền giải quyết của tòa kinh tế.
Thứ hai là các chủ thể tham gia ký kết còn bị hạn chế bởi nguyên tắc chịu trách

nhiệm trực tiếp về tài sản.Điều này đồng nghĩa với việc không cho các chủ thể tham
gia ký kết hợp đồng kinh tế dưới sự bảo lãnh của chủ thể khác.Bên cạnh đó là sự giới
hạn chủ thể tham gia ký kết hợp đồng kinh tế ngay từ đầu đã bị giới hạn và trong thực
tiễn thực hiện nó ngày càng trở nên rõ nét hơn. Pháp lệnh ban hành đã không tính tới
sự đa dạng của các chủ thể kinh doanh khi đất nước chuyển sang nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa, hệ thống pháp luật nước ta đã xuất hiện nhiều chủ thể
kinh doanh tham gia rộng rãi các quan hệ kinh tế, không cần phải là pháp nhân hay cá
nhân có đăng ký kinh doanh.
Từ việc nhận thức những bất cập trên đồng thời dựa trên cơ sở nền tảng của PL
HĐKT, Quốc hội đã lần lượt ban hành hai văn bản pháp luật mới là BLDS năm 1995
vàLTM năm 1997 quy định về hợp đồng và quyền tự do hợp đồng. Hai đạo luật được
đánh giá là bước tiến quan trọng trong quá trình hoàn thiện pháp luật điều chỉnh hoạt
động kinh tế theo hướng thị trường ở Việt Nam. Nhìn chung, nội dung hai văn bản
pháp luật này có những quy định thoáng hơn về hợp đồng.
Thứ nhất là về chủ thể tham gia ký kết hợp đồng, hai bộ luật này không giới hạn
chủ thể là pháp nhân hay cá nhân có đăng ký kinh doanh mà tùy thuộc vào tính chất
của từng loại hợp đồng, phạm vi chủ thể có quyền giao kết có những sự khác nhau
nhất định. Theo BLDS 1995, các chủ thể của hợp đồng dân sự bao gồm: cá nhân (có
năng lực pháp luật và năng lực hành vi dân sự), pháp nhân, tổ hợp tác, hộ gia đình. Tại
22


Điều 5 LTM 1997 cũng quy định chủ thể của hợp đồng trong lĩnh vực thương mại là
cá nhân, pháp nhân, tổ hợp tác, hộ gia đình có đăng ký kinh doanh hoạt động thương
mại. Như vậy, phạm vi chủ thể có quyền giao kết hợp đồng được mở rộng đáng kể.
Thứ hai là về hình thức hợp đồng, BLDS 1995 và LTM 1997 đều quy định hình
thức có thể là lời nói, văn bản, hành vi cụ thể. Các chủ thể khi giao kết hợp đồng có
thể lựa chọn bất kỳ hình thức nào kể cả fax, email…mà vẫn bảo đảm chặt chẽ cần thiết
về mặt pháp lý.Trong khi đó, PL HĐKT lại bắt buộc các chủ thể khi ký kết thì hợp
đồng phải được thể hiện dưới dạng văn bản hoặc những giấy tờ có giá trị tương đương.

Tuy nhiên trong 5 năm thực hiện, LTM 1997 đã bộc lộ nhiều bất cập và trở thành
đạo luật có hiệu quả áp dụng thực tế không cao.
Thứ nhất là về sự điều chỉnh của đối tượng hạn hẹp, định nghĩa về hoạt động
thương mại trong điều 45 LTM 1997 là một định nghĩa hẹp, chỉ xác định hoạt động
thương mại bao gồm 14 hành vi thương mại. Vì vậy, hiều hoạt động thương mại mới
xuất hiện hoặc các doanh nghiệp đang có nhu cầu thực hiện nhưng hiện chưa có quy
định pháp luật điều chỉnh cụ thể, trong khi những chế định chung của Luật Thương
mại năm 1997 không áp dụng được (ví dụ hoạt động nhượng quyền thương mại). Thứ
hai là từ khi có Luật Thương mại năm 1997 tới nay, nhiều văn bản quy phạm pháp luật
mới đã được ban hành hoặc đã và đang được sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với sự phát
triển của hoạt động thương mại. Do đó, nhiều chế định của Luật Thương mại năm
1997 đã trở nên không phù hợp (ví dụ chồng chéo với Luật Doanh nghiệp về địa vị
pháp lý của thương nhân, không tương thích với Pháp lệnh Trọng tài Thương mại về
khái niệm hoạt động thương mại...). Hơn nữa, cách thức áp dụng các văn bản pháp luật
để điều chỉnh một quan hệ hợp đồng cụ thể cũng không rõ ràng, có thể áp dụng các
quy định của BLDS 1995 để điều chỉnh quan hệ hợp đồng kinh tế được hay không?
thứ tự ưu tiên áp dụng các văn quy định trong văn bản pháp luật chuyên ngành so với
các quy định trong BLDS 1995, LTM 1997, PL HĐKT như thế nào?
Nhiều vấn đề do hai đạo luật trên quy định đã trở nên lạc hậu không đáp ứng
được nhu cầu phát triển kinh tế và xã hội Việt Nam cũng như thực tiễn Thương mại
Quốc tế khi chúng ta đã ký kết hiệp định thương mại Việt – Mỹ và chuẩn bị gia nhập
WTO, thực hiện cam kết quốc tế và khu vực trong thương mại, sự tương thích của
LTM Việt Nam với các văn bản pháp lý quốc tế cũng cần được tiến hành một cách
nhanh chóng. Vì những lý do đó Quốc Hội lần lượt thông qua hai văn bản pháp luật
lớn là BLDS 2005 và LTM 2005. Đây cũng chính là hai văn bản chủ yếu điều chỉnh
những vấn đề pháp lý liên quan đến hợp đồng nói chung và hợp đồng mua bán hàng
hoá nói riêng. Trong đó, BLDS 2005 quy định những vấn đề pháp luật mang tính
chung về hợp đồng, còn LTM 2005 quy định những vấn đề mang tính chuyên ngành
về hợp đồng mua bán hàng hoá. Mối quan hệ giữa hợp đồng dân sự với hợp đồng
23



chuyên ngành được giải quyết theo hướng ưu tiên áp dụng luật hợp đồng chuyên
ngành. Những nội dung về hợp đồng mua bán hàng hoá trong hệ thống pháp luật hiện
hành được quy định một cách chi tiết, rõ ràng hơn các văn bản pháp luật trước đó.
2.1.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến việc thực hiện và giao kết hợp đồng mua
bán hàng hóa.
2.1.2.1 Nhân tố ảnh hưởng đến việc giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa.
2.1.2.1.1 Nhân tố kinh tế
Nếu như trước năm 1990, Việt Nam mới có quan hệ thương mại với 40 nước thì
ngày nay, nhờ thực hiện chính sách đối ngoại mở rộng, hợp tác với tất cả các nước trên
thế giớ trên cơ sở bình đẳng, cùng có lợi, Việt Nam đã có quan hệ ngoại giao với 176
quốc gia trên thế giới, có quan hệ kinh tế với trên 200 quốc gia và vùng lãnh thổ và có
khoảng 80 quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư trực tiếp vào Việt Nam. Trong đó có
những nước và khu vực có nguồn vốn lớn,thị trường lớn và công nghệ cao như Mỹ,
Nhật Bản, EU và các nền kinh tế mới công nghiệp hóa ở Đông Á,...
Chính sách đổi mới, mở cửa và công nghiệp hóa, hiện đại hóa được đẩy mạnh,
mở cho Việt Nam nhưng cơ hội để phát huy, phát triển nền kinh tế, sắp tới đây, mức
thuế suất áp dụng cho hàng hóa các nước thành viên trong Tổ chức thương mại thế
giới WTO được giảm đáng kể, thúc đẩy các nước đầu tư vào Việt Nam. Chính sách
"đa dạng hóa, đa phương hóa" cũng giúp Việt Nam gia nhập sâu hơn vào nền kinh tế
thế giới và nền kinh tế khu vực, theo đó nền kinh tế Việt Nam ngày càng phát triển, có
thể nhận thấy qua các thương vụ kinh doanh, số lượng hợp đồng kinh tế - thương mại,
số lượng hợp đồng mua bán hàng hóa được giao kết tăng lên tuy nhiên kèm theo mức
độ phức tạp của các hoạt động kinh doanh cũng như mức độ phức tạp của các hợp
đồng kinh tế - thương mại, các hợp đồng mua bán hàng hóa cũng tăng lên.
2.1.2.1.2 Nhân tố con người
Kinh tế phát triển dẫn đến nhu cầu trao đổi, mua bán hàng hóa của con người
tăng lên, do đó, số lượng cũng như tính phức tạp của mỗi hợp đồng mua bán hàng hóa
cũng có xu hướng thay đổi. Từ thực tiễn cho thấy, hầu hết các tranh chấp xảy ra trong

hoạt động kinh doanh nguyên nhân do sự không chặt chẽ của hợp đồng. Nhận thức của
con người về pháp luật luật hợp đồng mà đặc biệt là pháp luật về vấn đề giao kết hợp
đồng mua bán hàng hóa trở nên hết sức quan trọng, nó ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả
kinh doanh cũng như những rủi ro mà các cá nhân, tổ chức kinh tế có thể gặp phải nếu
có nhận thức không đúng về pháp luật hợp đồng trong quá trình giao kết hợp đồng
mua bán hàng hóa.
Việc nhận thức không đúng của con người về pháp luật về hợp đồng mà đặc biệt
là pháp luật về vấn đề giao kết hợp đồng rất có thể dẫn đến hợp đồng không có hiệu
lực bởi được giao kết bởi người không có thẩm quyền, vô hiệu do không đúng thẩm
quyền của người thực hiện việc giao kết hợp đồng, việc nhận thức không đúng pháp
24


luật về giao kết hợp đồng có thể gây ra các rủi ro tiềm ẩn sau đó. Tuy nhiên có thể
giảm thiểu bằng cách nâng cao nhận thức của con người về pháp luật về giao kết hợp
đồng mua bán hàng hóa.
2.1.2.1.3 Nhân tố kỹ thuật
Vấn đề an toàn trong giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa luôn là vấn đề lớn đối
với sự thành công của một hợp đồng mua bán hàng hóa hay xa hơn là sự thành công
trong hoạt động kinh doanh của một doanh nghiệp, cá nhân, tổ chức hay bất kỳ một
chủ thể nào trong nền kinh tế. Do đó, bảo vệ tính toàn vẹn của một giao kết hợp đồng
mua bán hàng hóa là một vấn đề đáng quan tâm.
2.1.2.1.4 Các nhân tố khác
Bên cạnh các nhân tố kể trên, một số nhân tố khác ảnh hưởng đến giao kết hợp
đồng mua bán hàng hóa có thể kể đến như:
- Sự quản lý của Nhà nước về vấn đề giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa.
- Mức độ chặt chẽ của các quy định pháp luật về hợp đồng.
- Nhận thức của doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế về giao kết hợp đồng mua bán
hàng hóa.
- Văn hóa doanh nghiệp…

2.1.2.2 Nhân tố ảnh hưởng đến việc thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa.
Thứ nhất là nguồn hàng, đây là nhân tố rất quan trọng để việc ký kết hợp đồng
được thành công, nếu nguồn hàng tốt thì sẽ đảm bảo được số lượng cũng như chất
lượng, mẫu mã, kiểu dáng của hàng hoá, phù hợp với các điều khoản hợp đồng. Nhưng
nếu nguồn hàng có vấn đề thì sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến các mục tiêu tiếp theo và quy
trình thực hiện hợp đồng. Đến ngày giao hàng mà lượng hàng không đủ, hoặc đủ
nhưng không đáp ứng được các yêu cầu về chất lượng, mẫu mã, kiểu dáng, ở mức nhẹ
thì phạt hợp đồng vì chậm hàng, chất lượng không đồng đều, còn ở mức nặng thì huỷ
hợp đồng và bồi thường mọi thiệt hại do không thực hiện đúng các điều kiện trong hợp
đồng, hơn thế, nó còn làm giảm uy tín, vị thế của công ty trên thị trường.
Thứ hai là nhà cung cấp, việc lựa chọn một người cung cấp hàng tin cậy có đủ uy
tín, đủ năng lực sẽ quyết định đến hiệu quả của quá trình thực hiện hợp đồng, về cơ
bản người cung cấp hàng không đáp ứng được yêu cầu của người mua thì mọi mục
tiêu khác cũng không thực hiện được, họ giao hàng không đúng thời gian cam kết thì
sẽ chậm chễ giao hàng và phạt hợp đồng nên sẽ ảnh hưởng tới giá bán.
Thứ ba là nguyên vật liệu, nhân tố này cũng ảnh hưởng trực tiếp đến quy trình
thực hiện hợp đồng, mà đặc biệt là chất lượng hàng hoá, do một lý do nào đó mà
nguyên liệu thiếu hay bị hỏng sẽ làm giảm chất lượng hàng, chậm tiến độ sản xuất và
không hoàn thành số lượng cho ngày giao hàng.
Thứ tư là nguồn lực của doanh nghiệp, nhân tố này ảnh hưởng lớn đến hợp đồng
nói chung và hợp đồng mua bán hàng hóa nói riêng, nó có thể tác động trực tiêp đến
25


×