TÓM LƯỢC
Mua bán hàng hóa là một hoạt động đã được hình thành từ lâu đời, nó xuất phát
từ nhu cầu trao đổi để thỏa mãn những mong muốn cá nhân của con người. Và ngày
nay, khi nền kinh tế ngày càng phát triển, hoạt động mua bán hàng hóa càng trở nên
phổ biến và là một trong những hoạt động thương mại chủ yếu của con người.
Trong phạm vi bài khóa luận, em sẽ tập trung đi sâu làm rõ một số vấn đề pháp
lý về hoạt động mua bán hàng hóa, và thực tế áp dụng tại Công ty Tin học Thương mại
công nghệ và tư vấn ICT – địa điểm em chọn để thực tập tốt nghiệp. Bài khóa luận
của em gồm có hai phần chính
Phần một, tập trung đi vào các vấn đề pháp lý cơ bản của pháp luật về mua bán
hàng hóa. Làm rõ một số vấn đề như hợp đồng mua bán hàng hóa là gì? Nội dung của
hợp đồng mua bán hàng hóa ra sao? Quá trình thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa
diễn ra như thế nào? Từ việc nêu ra những lý luận cơ bản sẽ là nền tảng để em thực
hiện các phần tiếp theo của bài khóa luận.
Phần hai, tập trung đi vào phân tích và đánh giá thực trạng pháp luật điều chỉnh
hoạt động mua bán hàng hóa hiện nay và thực tiễn áp dụng tại Công ty Tin học công
nghệ và Tư vấn ICT. Từ việc đánh giá tìm ra được những vấn đề còn tồn tại gây ra sự
bất cập, không phù hợp của pháp luật khi áp dụng vào thực tế. Từ đó nêu ra một số
kiến nghị để hoàn thiện hơn các quy định của pháp luật hiện hành.
LỜI CẢM ƠN
Trong suốt quá trình học tập tại Trường đại học Thương Mại nói chung và quý
trình thực hiện khóa luận tốt nghiệp nói riêng, em đã nhận được sự chỉ báo rất tận tình
từ các thầy cô trong chuyên ngành Luật Thương mại thuộc Khoa Kinh tế - Luật trường
Đại học Thương Mại.
Em xin gửi lời cảm ơn chân thành nhất tới Ban giám hiệu trường Đại học
Thương Mại, các thầy cô trong khoa Kinh tế - Luật đã tận tâm dạy bảo và dìu dắt
chúng em trong suốt bốn năm học vừa qua, giúp chúng em có được những kiến thức
1
nền tảng vững chắc nhất trước khi bước vào một môi trường mới. Và tạo điều kiện để
chúng em có thể hoàn thành khóa luận tốt nghiệp này.
Đặc biệt, em xin gửi lời cảm ơn tới cô giáo Nguyễn Thị Nguyệt – bộ môn Luật
chuyên ngành đã rất tận tình chỉ bảo và giúp đỡ em hoàn thành bài khóa luận. Do thời
gian có hạn và kiến thức còn nhiều hạn chế nên bài làm của em không khó tránh khỏi
những sai sót. Em mong nhận được sự đóng góp ý kiến từ các thầy cô để bài khóa luận
được hoàn chỉnh và giúp em có thể trau dồi được thêm vốn kiến thức về pháp luật
thương mại. Môt lần nữa em xin chân thành cảm ơn!
MỤC LỤC
DANH MỤC VIẾT TẮT
LTM Luật Thương Mại
BLDS Bộ Luật dân sự
HĐMBHH Hợp đồng mua bán hàng hóa
NĐ-CP Nghị định chính phủ
2
3
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết nghiên cứu của đề tài khóa luận
Từ hàng ngàn đời nay nhu cầu trao đổi hàng hóa giữa con người với con người
luôn là một hoạt động gắn liền với sự hình thành và phát triển xã hội. Trải qua hàng
ngàn năm với các hình thái xã hội khác nhau, hoạt động trao đổi hàng hóa ngày càng
diễn ra phổ biến và trở nên không thể thiếu trong đời sống xã hội. Ngày nay, khi xã
hội phát triển,ở mức độ văn minh cao hoạt động trao đổi hàng hóa cũng có sự chuyển
mình và khái niệm hợp đồng được hình thành nhằm xác lập và đảm bảo sư vận hành
của hàng hóa và tiền tệ. Nhất là khi xã hội ngày càng phát triển và văn minh thì việc
điều chỉnh bằng pháp luật các quan hệ hợp đồng ngày càng trở thành vấn đề cấp thiết,
cần được coi trọng và hoàn thiện.
Ở nươc ta, việc điều chỉnh các vấn đề hợp đồng bằng văn bản pháp luât đã được
áp dụng từ lâu song nó chỉ được hoàn thiện và phát triển mạnh khi nước ta bước vào
công cuộc đổi mới với nền kinh tế thị trường định hướng XHCN có sự quản lý của nhà
nước. Nhất là từ năm 2007, khi nước ta ra nhập WTO, các hoạt động trao đổi hàng
hóa, giao thương trong nước cũng như nước ngoài ngày càng phổ biến và phát triển
mạnh mẽ thì quan hệ hợp đồng mua bán hàng hóa lại càng trở nên vô cùng quan trọng.
Nó là công cụ hữu hiệu nhất để đảm bảo quyền cũng như nghĩa vụ của các bên tham
gia vào hoạt động sản xuất kinh doanh cũng như thực hiện các hoạt động trong quá
trình tồn tại và phát triển chung của doanh nghiệp. Bởi vậy em đã chọn đề tài “ Pháp
luật về hợp đồng mua bán hàng hóa và thưc tế áp dụng tại Công ty Tin học
thương mại công nghệ và tư vấn ICT” để phần nào thấy rõ đươc tầm quan trọng của
hợp đồng mua bán hàng hóa trong các doanh nghiệp hiên nay.
2. Tổng quan các công trình nghiên cứu liên quan
Đến nay đã có rất nhiều những tác giả đã nghiên cứu và đưa ra những nhận định
về những vấn đề pháp lý xoay quanh hợp đồng mua bán hàng hóa. Trong đó có thể kể
đến các công trình nghiên cứu như:
- Chế định về hợp đồng đã được đề cập trong pháp luật Việt Nam ngay từ sự ra
đời của Bộ Quốc triều hình luật năm 1483 và Bộ luật Gia Long năm 1815. Tuy nhiên,
pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hóa thực sự được định hình với các quy định của
Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế năm 1989 và đặc biệt sau đó là Bộ luật Dân sự năm 1995,
Luật Thương mại năm 2005 và Bộ luật Dân sự năm 2005.
- “Quyền tự do giao kết hợp đồng ở Việt Nam” - Th.S Hoàng Thông Anh –
Giám đốc công ty Luật hợp danh Việt Nam
- “ Hợp đồng kinh tế trong kinh doanh” – Nhiều tác giả - NXB Tài chính.
4
- “ Hợp đồng mua bán hàng hóa từ lý thuyết đến thực tiễn áp dụng tại công
ty TNHH IPC” - Luận văn của Phạm Thị Lan Phương
- “ Suy nghĩ về miễn trách nhiệm do bất khả kháng trong hợp đồng mua
bán hàng hóa quốc tế hiện nay” – Th.s Trần Văn Duy
- “Giải quyết tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa do lỗi của bên bán” -
TẠP CHÍ KIỂM SÁT SỐ 5/2005
- “ Chọn luật trong hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế” – Công ty Luật
Minh Khuê biên tập
Những công trình này đã tiếp cận ở những góc độ khác nhau của vấn đề mua bán
hàng hóa như vấn đề giao kết hợp động, thực hiện hợp đồng, xử lý vi phạm hợp đồng
mua bán hàng hóa… Tuy nhiên nhiều nội dung của hợp đồng mua bán hàng hóa chưa
được các công trình nêu trên khai thác hoặc khai thác chưa đẩy đủ như quan hệ hợp
đồng, vấn đề lựa chọn luật áp dụng và điều kiện có hiệu lực của hợp đồng. Các lĩnh
vực nghiên cứu của các công trình hầu như chỉ là một mặt của hợp đồng mua bán hàng
hóa, chứ chưa có cái nhìn tổng quát về hợp đồng mua bán hàng hóa.Hay nói một cách
khác, lĩnh vực nghiên cứu này vẫn còn tồn tại một số vấn đề đang còn tranh luận cần
tiếp tục làm rõ trong điều kiện hiện hành ở Việt Nam.
3. Xác lập và tuyên bố vấn đề nghiên cứu
Ngày nay, hoạt động thương mại đang diễn ra ngày càng sôi nổi hơn với đa dạng
các hình thức sở hữu, cũng như hình thức kinh doanh của các doanh nghiệp. Đặc biệt
là mua bán hàng hoá, đó là hoạt động chính trong thương mại, là cầu nối giữa sản xuất
và tiêu dùng và không chỉ giới hạn ở phạm vi mỗi quốc gia mà còn mở rộng ra cả các
quốc gia khác nhau trên toàn thế giới
Hợp đồng mua bán hàng hóa là hoạt động mà hầu hết các nhà kinh doanh đều
phải thực hiện trong quá trình tồn tại và phát triển. Song song với đó việc kí kết các
hợp đồng phải tuân thủ theo đúng các quy định của pháp luật mới có thể giúp gắn chặt
các mối quan hệ hợp tác, bảo vệ quyền và lợi ích hơp pháp của các bên, đồng thời tăng
cường hiệu quả quản lí kinh tế của nhà nước trong nền kinh tế.
Với sư ra đời của các đạo luật về vấn đề nêu trên, quy định về pháp luật hợp
đồng hiện nay đã khá đầy đủ và có hệ thống. Tuy nhiên bên cạnh đó vẫn không thể
tránh khỏi những thiếu sót trong việc thực hiện các chính sách về kí kết cũng như thực
hiện hợp đồng. Vẫn còn đó những vấn đề cần phải bàn luận và đưa ra các giải pháp
nhằm tối đa hóa hiệu quả trong quá trình kí kết hợp đồng mua bán hàng hóa. Bài khóa
luận “Pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hóa và thưc tế áp dụng tại Công ty
Tin học thương mại công nghệ và tư vấn ICT” của em dưới đây sẽ trình bày một
5
cách khái quát về tình hình hệ thống pháp luật hiện hành về vấn đề nêu trên cũng như
thực tiễn đang được áp dụng tại Công ty tin học Thương mại công nghệ và tư vấn ICT.
Do kiến thức cũng như kinh nghiệm còn hạn hẹn, thời gian nghiên cứu không lâu
nên trong bài khóa luận này em xin phép được trình bày một cách khái quát và cơ bản
nhất các vấn đề được nêu ra. Bài viết sẽ khó tránh khỏi những thiếu sót. Em mong
nhận được sự phản hồi cũng như ý kiến đóng góp của các thầy cô giáo.
Em xin chân thành cảm ơn!
4. Đối tượng, mục tiêu và phạm vi nghiên cứu
4.1 Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng được nghiên cứu sẽ bao gồm:
- Các đạo luật có liên quan đến các vấn đề kí kết cũng như quá trình thực hiện
hoạt động qua bán hàng hóa.
- Đồng thời đi nghiên cứu những vấn đề về hợp đồng mua bán hàng hóa được
nảy sinh trong thực tế để có thể phản ánh một cách rõ ràng và chính xác nhất những gì
đã làm được và những gì còn tồn tại trong quá trình áp dụng pháp luật hợp đồng vào
thưc tiễn các tình huống xảy ra.
4.2 Mục tiêu nghiên cứu
- Làm sáng tỏ về mặt lý luận sự cần thiết phải có một hệ thống pháp luật thống
nhất và chặt chẽ để quản lí hoạt đông mua bán và trao đổi hàng hóa trong bối cảnh
nước ta đã ra nhập WTO, sư hội nhập kinh tế đứng trước rất nhiều cơ hội và thánh
thức.
- Phản ánh thực trạng tình hình pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hóa hiện
nay ở nước ta. Tìm ra những ưu điểm đồng thời nhìn nhận lại những điểm còn hạn chế
trong hệ thống pháp luật hiện hành.
- Nêu lên thực trạng áp dụng pháp luật trong hoạt động mua bán hàng hóa của
Công ty Tin học thương mại công nghệ và tư vấn ICT.
- Những thuận lợi và khó khăn của doanh nghiệp trong quá trình áp dụng pháp
luật về hợp đồng mua bán hàng hóa. Từ đó đề xuất những giải pháp để giải quyết các
vấn đề phát sinh trong quá trình hoạt động.
4.3 Phạm vi nghiên cứu
- Bài khóa luận tập trung nghiên cứu những lí luận cơ bản và các quy định hiện
hành về hợp đồng mua bán hàng hóa trong các văn bản pháp luật Việt Nam như: Luật
Thương Mại 2005, Luật Dân sự 2005…
- Không gian: Thực tế áp dụng vấn đề trên tại Công ty Tin học thương mại và
công nghệ ICT trong những năm vừa qua
6
Với việc giới hạn phạm vi nghiên cứu trên sẽ ta giúp dễ dàng hơn trong việc xác
định vấn đề nghiên cứu đồng thời chỉ rõ đề tài, tập trung nghiên cứu và phân tích nhằm
đưa ra những nhận định khách quan, phân tích, đánh giá để tìm ra những giải pháp
giúp hoàn thiện pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hóa.
5. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu khóa luận chủ yếu dựa vào phương pháp duy vật biện
chứng và duy vật lịch sử, phương pháp thống kê, phương pháp so sánh để nghiên cứu.
Trong quá trình nghiên cứu có sự kết hợp giữa lý thuyết và thực tiễn thông qua điều
tra, khảo sát,… từ đó đánh giá bản chất của hiện tượng.
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu: Chủ yếu là nghiên cứu các văn bản Quy
phạm pháp luật trong mua bán hàng hóa như: Luật Thương mại 2005, Luật Dân sự
2005.
- Phương pháp so sánh, đối chiếu thông tin: xem xét tính tương thích của các quy
định về pháp luật về mua bán hàng hóa ở Việt Nam với các quy định trong các điều
ước quốc tế mà Việt Nam tham gia
- Phương pháp phân tích tình huống và lựa chọn giải pháp: phân tích, đánh giá
những tình huống phát sinh trong thực tiễn và đưa ra một số kiến nghị, đề xuất liên
quan tới quy định pháp luật về mua bán hàng hóa nhằm hoàn thiện pháp luật về vấn đề
nêu trên.
- Phương pháp thu thập số liệu, thống kê, phân tích, đối chiếu: làm sáng tỏ thực
trạng áp dụng pháp luật về mua bán hàng hóa tại Việt Nam hiện nay. Việc thu thập số
liệu được sử dụng chủ yếu, các nguồn dữ liệu được thu thập từ các tạp chí nghiên cứu,
báo cáo.
Dù là sử dụng phương pháp nào để xây dựng các nội dung của đề tài thì các
phương pháp nghiên cứu vẫn được thực hiện trên nền tảng của triết học và logic như:
chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử; chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh, các quan điểm của Đảng và Nhà nước và dựa trên các văn bản pháp luật
hiên hành như Luật Thương Mại 2005, Luật Dân sư 2005, Công Ước Viên 1980
6. Kết cấu khóa luận tốt nghiệp
Ngoài phần mở đầu và kết luận kết cấu khóa luận tốt nghiệp trên bao gồm 3 phần chính:
Chương 1: Lý luận cơ bản về pháp luật điều chỉnh giao kết hợp đồng mua bán
hàng hóa.
Chương 2: Thực trạng pháp luật điều chỉnh việc giao kết hợp đồng mua bán
hàng hóa và thực tiễn áp dụng.
Chương 3: Một số giải pháp hoàn thiện hệ thống pháp luật về hoạt động giao
kết hợp đồng mua bán hàng hóa.
7
CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ PHÁP LUẬT ĐIỀU CHỈNH GIAO KẾT
HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA
1.1 Khái quát về hoạt động mua bán hàng hóa
1.1.1 Khái niệm về hợp đồng mua bán hàng hóa
1.1.1.1 Khái niệm về mua bán hàng hóa.
a. Khái niệm về mua bán hàng hóa
- Trước hết ta cần hiểu hàng hóa là sản phẩm của lao động để thỏa mãi nhu cầu
nào đó của con người thông qua mua ban và trao đổi. Hàng hóa có thể ở dạng hữu hình
như: sắt, thép, quần áo, đồ ăn; cũng có thể ở dạng vô hình như: các loại hình dịch vụ,
giao thông vận tải Nhưng dù ở hình thức nào đi nữa thì hàng hóa đều phải đảm bảo
các thuộc tính đó là phải đảm bảo có giá trị và có giá trị sử dụng.
- Dưới góc độ Triết học, mua bán hàng hóa là hoạt động đã được diễn ra từ rất
lâu. Việc trao đổi các sản phẩm do tự mình tạo ra đã xuất hiện cùng với sự ra đời của
sản xuất hàng hoá (nhưng lúc đầu chỉ mang tính giản, thô sơ theo công thức hàng-hàng
(H-H) nghĩa là hàng hoá chỉ được thực hiện dưới hình thức trao đổi hiện vật. Đến khi
tiền tệ làm phương tiện lưu thông xuất hiện công thức của trao đổi đó là hàng-tiền-
hàng (H-T-H) và đó chính là quá trình lưu thông hàng hoá. Vậy lưu thông hàng hoá
gồm hai giai đoạn là giai đoạn Hàng-Tiền (H-T) và giai đoạn Tiền-Hàng (T-H). trong
giai đoạn hàng hoá được chuyển từ hình thái hiện vật sang hình thái giá trị, đó chính là
việc bán hàng. Thực chất bán hàng là sự chuyển hoá hình thái giá trị của hàng hoá từ
hàng sang tiền (H-T) nhằm thoả mãn nhu cầu của khách hàng về một giá trị sử dụng
nhất định, là khâu cuối cùng có tính chất quyết định của quá trình hoạt động sản xuất
kinh doanh.
- Dưới góc độ Kinh tế thương mại, theo Khoản 8 điều 3 L TM 2005: “Mua bán
hàng hóa là hoạt động thương mại, theo đó bên bán có nghĩa vụ giao hàng, chuyển
quyền sở hữu hàng hóa cho bên mua và nhận thanh toán, bên mua có nghĩa vụ thanh
toán cho bên bán và nhận hàng và quyền sở hữu hàng hóa theo thỏa thuận”. Ta có thể
hiểu mua bán hàng hóa là sự đầu tư tiền của, công sức của một cá nhân hay một tổ
chức vào việc trao đổi hàng hóa để kiếm lời. Đó là hoạt động cốt lõi để doanh nghiệp
có thể duy trì và phát triển. Hoạt động này không những tạo ra dòng tiền luân chuyển
thường xuyên cho doanh nghiệp mà còn là cơ sở để doanh nghiệp có thể đảm bảo bộ
máy hoạt động được diễn ra tục nhờ nguồn doanh thu mà việc mua bán hàng hóa mang
lại, đồng mở ra các cơ hội kinh doanh mới với các bạn hàng mới. Về cơ bản hoạt động
8
mua bán hàng hóa được diễn ra dưới hai hình thức chủ yếu đó là mua bán hàng hóa
trong nước và mua bán hàng hóa quốc tế.
Trong bài nghiên cứu này em sẽ tập trung đi sâu nghiên cứu vào hoạt động mua
bán hàng hóa dưới góc độ kinh tế thương mại, được điều chỉnh bởi hệ thống các văn
bản pháp luật Thương mại hiện hành.
- Đặc điểm của hoạt động mua bán hàng hóa
Thứ nhất, chủ thể của hành vi mua bán hàng hóa là bất cứ cá nhân, tổ chức, đơn
vị kinh doanh nào có nhu cầu về hàng hóa. Mỗi cá nhân, tổ chức đều có quyền thực
hiện hành vi mua bán hàng hóa với cá nhân, tổ chức nào khác trong khuôn khổ năng
lực pháp lý và năng lực hành vi của họ không phân biệt về địa lý hay thành phần kinh
tế. Hoạt động mua bán hàng hóa luôn được hình thành bởi tối thiểu hai bên tham gia là
bên mua và bên bán. Bên bán là chủ sở hữu ban đầu của hàng hóa, bên mua là bên
mong muốn và có nhu cầu sở hữu hàng hóa. Trong hoat động mua bán hàng hóa cũng
có thể xuất hiện bên thứ ba là trung gian giữa bên mua và bên bán. Trung gian này có
thể là bên cung cấp kho hàng, bên vận chuyển hoặc nhà phân phối của bên bán…
Hàng hóa sẽ được chuyển giao từ bên bán sang bên mua sau khi có sự thỏa thuận và
bên mua trao cho bên bán một lượng giá trị tương đương với giá trị của hàng hóa đó.
Theo quy định của LTM, hoạt động mua bán hàng hóa phải phát sinh giữa hai
bên là thương nhân với nhau hoặc ít nhất một bên là thương nhân. Như vậy chủ thể
của hoạt động mua bán hàng hóa là thương nhân, cá nhân, tổ chức hoạt động có liên
quan đến thương mại hoặc cá nhân hoạt động thương mại một cách độc lập, thường
xuyên không phải đăng kí kinh doanh. Trong quan hệ mua bán hàng hóa ở nước ta
hiện nay ít nhất một bên phải là thương nhân có nghĩa là các cá nhân, tổ chức phải có
đầy đủ các điều kiện của một thương nhân còn bên kia có thể là thương nhân hoặc
không phải là thương nhân nhưng phải có đầy đủ năng lực hành vi dân sự theo quy
định của pháp luật.
Thứ hai, đối tượng của quan hệ mua bán hàng hóa: Đối tượng trong hoạt động
mua bán hàng hóa luôn phải đảm bảo hai điều kiện đó là giá trị và giá trị sử dụng.
Theo quy định của Luật Thương mại hàng hóa được quy định tại khoản 2 điều 3 LTM
2005 bao gồm: “ Tất cả các loại động sản, kể cả là hình thành trong tương lai; những
vật gắn liền với đất đai”. Theo quy định của LTM 2005 thì hàng hóa đươc hiểu ở nghĩa
9
khá hẹp, nó chỉ bao gồm vật chất ở dưới dạng nhất định và được pháp luật quy định cụ
thể.
Thứ ba, phân loại mua bán hàng hóa
Mua bán hàng hóa trong nước là quá trình mua bán trao đổi hàng hóa không có
sự dịch chuyển qua biên giới quốc gia hoặc vào khu vực hải quan riêng biệt có quy chế
riêng như khu chế xuất hoặc khu ngoại quan.
Mua bán hàng hóa quốc tế, được thực hiện dưới các hình thức:
- Xuất khẩu: Xuất khẩu hàng hóa làviệc hàng hóa được đưa ra khỏi lãnh thổ Việt
Nam hoặc đưa vào khu vực đặc biệt nằm trên lãnh thổ Việt Nam được coi là khu vực
hải quan riêng theo quy định của pháp luật.
- Nhập khẩu: Nhập khẩu hàng hóa là việc hàng hóa được đưa vào lãnh thổ Việt
Nam từ nước ngoài hoặc từ khu vực đặc biệt nằm trên lãnh thổ Việt Nam được coi là
khu vực hải quan riêng theo quy định của pháp luật.
- Tạm nhập, tái xuất: Tạm nhập, tái xuất hàng hóa là việc hàng hóa đựơc đưa từ
nước ngoài hoặc từ những khu vực đặc biệt nằm trên lãnh thổ Việt Nam được coi là
khu vực hải quan riêng theo quy định của pháp luật vào Việt Nam, có làm thủ tục nhập
khẩu vào Việt Nam và làm thủ tục xuất khẩu chính hàng hóa đó ra khỏi Việt Nam.
- Tạm xuất, tái nhập: Tạm xuất, tái nhập hàng hóa là việc hàng hóa được đưa ra
nước ngoài hoặc đưa vào các khu vực đặc biệt nằm trên lãnh thổ Việt Nam được coi là
khu vực hải quan riêng theo quy định của pháp luật, có làm thủ tục xuất khẩu ra khỏi
Việt Nam và làm thủ tục nhập khẩu lại chính hàng hóa đó vào Việt Nam.
- Chuyển khẩu: Chuyển khẩu hàng hóa là việc mua hàng hóa từ một nước, vùng
lãnh thổ để bán sang một nước, vùng lãnh thổ ngoài lãnh thổ Việt Nam mà không làm
thủ tục xuất khẩu ra khỏi Việt Nam.
Trong phạm vi bài nghiên cứu này sẽ chỉ đi sâu vào hoạt động mua bán hàng hóa
trong nước.
1.1.1.2 Khái niệm về hợp đồng mua bán hàng hóa
10
a. Lịch sử của hợp đồng mua bán hàng hóa
Khi xã hội mới hình thành đã xuất hiện khái niệm về phân công lao động. Đó là
sự chuyên môn hóa sản xuất, phân chia lao động xã hội ra thành các ngành, các lĩnh
vực sản xuất khác nhau. Phân công lao động xã hội là cơ sở, là tiền đề của sản xuất
hàng hóa. Phân công lao động xã hội càng phát triển, thì sản xuất và trao đổi hàng hóa
càng mở rộng hơn, đa dạng hơn. Do sự phân công lao động xã hội nên việc trao đổi
sản phẩm trở thành tất yếu. Khi có phân công lao động xã hội, mỗi người chỉ sản xuất
một hoặc một vài thứ sản phẩm nhất định, những nhu cầu của cuộc sống đòi hỏi họ
phải có nhiều loại sản phẩm khác nhau. Do đó, họ cần đến sản phẩm của nhau, buộc
phải trao đổi với nhau, sự chuyên môn hóa sản xuất đồng thời làm cho năng suất lao
động tăng lên, sản phẩm thặng dư ngày càng nhiều nên càng thúc đẩy sự trao đổi sản
phẩm. Sự tách biệt tương đối về mặt kinh tế giữa những người sản xuất dẫn đến người
này muốn tiêu dùng sản phẩm lao động của người khác cần phải thông qua trao đổi,
mua bán.
Trải qua quá trình hình thành và phát triển, xã hội ngày càng văn minh và hiện
đại hơn. Ban đầu, khi việc mua bán trao đổi hàng hóa vẫn còn ở thời kỳ manh nha,
việc hình thành hợp đồng chủ yếu được thực hiện dưới dạng lời nói, dựa sự tin tưởng
với đối phương. Nhưng càng về sau do sự tác động của nhiều yếu tố chính trị và xã
hội…, việc thiết lâp quan hệ mua bán trao đổi khách quan đòi hỏi những bằng chứng,
chứng cớ để đảm bảo quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia. Do đó HĐMBHH bằng
văn bản được hình thành và duy trì cho đến tận ngày nay và trở nên không thể thiếu
trong quá trình thiết lập các quan hệ thương mại. Ngày nay, hợp đồng là công cụ pháp
lý quan trọng và phổ biến để con người thực hiện các giao dịch nhằm thỏa mãn hầu hết
mọi nhu cầu trong đời sống xã hội. Tuy vậy, trong lịch sử lập pháp của nhân loại, để
tìm ra được một thuật ngữ chính xác, như thuật ngữ “hợp đồng” đang được sử dụng
trong pháp luật nhiều quốc gia ngày nay, là việc không mấy dễ dàng.
“ Nhiều luật gia cho rằng thuật ngữ “hợp đồng” (contractus) được hình thành từ
động từ “contrahere” trong tiếng La-tinh, có nghĩa là “ràng buộc”, và xuất hiện lần đầu
tiên ở La Mã vào khoảng thế kỷ V – IV trước công nguyên (“TCN”) . Ban đầu, người
La Mã cũng không có khái niệm chung “contractus” mà sử dụng các thuật ngữ riêng
biệt để chỉ các hợp đồng cụ thể phổ biến như mua bán (sponsio), vay mượn (mutuum),
gửi giữ (depositum), ủy thác (mandatum)… Mãi đến thời của luật gia La-be-ôn (thế kỷ
1 sau công nguyên), người La Mã mới chính thức sử dụng thuật ngữ “contractus”
trong luật, và quan hệ hợp đồng được pháp luật công nhận và bảo vệ dưới thời
11
Justinnian . Sau này, pháp luật các nước phương Tây đã kế thừa và phát triển quan
niệm pháp lý từ thời La Mã và đã sử dụng chính thức thuật ngữ “hợp đồng”, mà trong
tiếng Anh được viết là “contract”, và trong tiếng Pháp là “contrat”.
Ở Việt Nam, trong thực tế đời sống, có nhiều thuật ngữ khác nhau được sử dụng
để chỉ về hợp đồng như: khế ước, giao kèo, văn tự, văn khế, cam kết, tờ giao ước, tờ
ưng thuận, chấp thuận…Trong cổ luật, dựa vào các cứ liệu lịch sử còn lại cho đến
ngày nay, thuật ngữ “văn tự” hay “văn khế” , hay “mua”, “bán”, “cho”, “cầm” đã được
sử dụng khá sớm, trong Bộ Quốc triều Hình luật. Sau này, thuật ngữ “khế ước” mới
được sử dụng chính thức trong Sắc lệnh ngày 21/7/1925 (được sửa đổi bởi Sắc lệnh
ngày 23/11/1926 và Sắc lệnh ngày 06/9/1927) ở Nam phần thuộc Pháp, trong Bộ Dân
luật Bắc 1931, và trong Bộ Dân luật Trung 1936 – 1939. Thuật ngữ “khế ước” cũng
được sử dụng trong Sắc lệnh 97/SL của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, được Hồ
Chủ tịch ký ban hành ngày 22/5/1950 (Điều 13). Ngoài ra, thuật ngữ “khế ước”cũng
được sử dụng trong Bộ Dân luật 1972 của chế độ Việt Nam Cộng hòa ở miền Nam
nước ta trước 30/4/1975 (Điều 653). Không chỉ có vậy, trong Bộ Dân luật Bắc 1931,
Bộ Dân luật Trung 1936 - 1939 và Bộ Dân luật Sài Gòn 1972 còn sử dụng thuật ngữ
“hiệp ước”, trong đó nhà làm luật xem “khế ước” là một “hiệp ước” hoặc đồng nhất
giữa “khế ước” với “hiệp ước” .
Các văn bản pháp luật hiện hành của nhà nước ta không còn sử dụng thuật ngữ
“khế ước” hay “hiệp ước” như trước đây mà sử dụng các thuật ngữ có tính “chức
năng”, “công cụ”như hợp đồng dân sự, hợp đồng lao động, hợp đồng thương mại. Đây
là điểm cá biệt bởi trong pháp luật của nhiều nước, người ta chỉ sử dụng thuật ngữ
“hợp đồng” nói chung, chứ không sử dụng các thuật ngữ HĐDS, HĐTM, HĐLĐ…
một cách cụ thể như pháp luật Việt Nam. Ngoài việc chọn “hợp đồng” làm thuật ngữ
pháp lý chính thức trong các văn bản pháp luật, các luật gia cũng quan tâm tới việc
làm rõ nội hàm của khái niệm “hợp đồng”. Một chuyên gia đã nhận xét, hợp đồng
“dường như là một trong những hiện tượng có thể nhận thức được rất dễ dàng nhưng
thật khó khăn để có thể đưa ra được một định nghĩa về nó ”.
Luật Thương mại năm 2005, mặc dù không đưa ra khái niệm về HĐTM mà chỉ
có các quy định áp dụng đối với hợp đồng mua bán hàng hóa, hợp đồng dịch vụ, hợp
đồng dịch vụ khuyến mại, hợp đồng dịch vụ quảng cáo khuyến mại…Tuy nhiên đặc
trưng dễ nhận thấy trong các quy định về HĐTM trong LTM là những quy định này
cũng gần giống những quy định áp dụng trong các hợp đồng kinh tế (theo PLHĐKT),
HĐDS (theo BLDS). Bao gồm các đặc điểm:
12
1. Có sự thỏa thuận giữa các chủ thể với nhau.
2. Nhằm thực hiện các hoạt động thương mại.
3. Làm phát sinh quyền và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ hợp đồng.
Nói tóm lại, dù được quy định trong các văn bản pháp lý khác nhau, nhưng ở góc
độ khái quát nhất, hợp đồng mua bán hàng hóa vẫn được xem là sự thỏa thuận về trao
đổi giữa các chủ thể nhằm xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền và nghĩa vụ trong
quan hệ thương mại. Các chủ thể tham gia hợp đồng cùng các quyền và nghĩa vụ phát
sinh từ hợp đồng đều được pháp luật ghi nhận và điều chỉnh.”
“ Theo Sơ lược pháp luật về hợp đồng của Việt Nam – Hội đồng phối hợp
công tác, phổ biến pháp luật giáo dục trung ương”
b. Định nghĩa về hợp đồng mua bán hàng hóa
Quan hệ mua bán hàng hóa đươc thực hiện dựa trên việc xác lập hợp đồng mua
bán hàng hóa. Hợp đồng mua bán hàng hóa có bản chất pháp lý chung là hợp đồng, là
sự thỏa thuận nhằm xác lập, thay đổi hay chấm dứt quyền và nghĩa vụ trong mua bán.
Dù trong Luật Thương mai không định nghĩa thế nào là hợp đồng mua bán hàng hóa
xong có thể xác định bản chất pháp lý của hợp đồng mua bán hàng hóa được dựa trên
cơ sở là hợp đồng Dân sự về tài sản. Do đó ta có thể thể hiểu hợp đồng mua bán hàng
hóa là sự thỏa thuận của các chủ thể trong quan hệ mua bán theo quy định của LTM
để thực hiện hoạt động trên.
- Theo BLDS 2005, hợp đồng mua bán tài sản là sự thỏa thuận giữa các bên, theo
đó bên bán có nghĩa vụ giao tài sản cho bên mua và nhận tiền, còn bên mua có nghĩa
vụ nhận tài sản và trả tiền cho bên bán. Hàng hóa được hiểu là động sản, kể cả động
sản hình thành trong tương lai, và các vật gắn liền với đất. Như vậy, hàng hóa thuộc tài
sản và có phạm vi hẹp hơn tài sản. Từ đó cho thấy, hợp đồng mua bán hàng hóa trong
thương mại một dạng cụ thể của hợp đồng mua bán tài sản. Điểm phân biệt giữa hợp
đồng mua bán hàng hóa trong thương mại và hợp đồng mua bán tài sản khác là: đối
tượng hàng hóa, và mục đích sinh lời.
- Căn cứ vào yếu tố chủ thể, đối tượng, nơi xác lập và thực hiện hợp đồng, hợp
mua bán hàng hóa được chia thành hợp đồng mua bán hàng hóa trong nước và hợp
đồng mua bán hàng hóa có yếu tố nước ngoài ( hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế).
13
Về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế, nó không được định nghĩa trong LTM 2005,
nhưng qua quy định tại Điều 758 BLDS 2005 về quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài,
có thể suy ra rằng một hợp đồng được coi là hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế khi
có một trong các yếu tố sau:
- Căn cứ vào yếu tố chủ thể, HĐ được giao kết bởi các bên không cùng quốc
tịch.
- Căn cứ vào yếu tố đối tượng, hàng hóa là đối tượng của hợp đồng đang tồn tại ở
nước ngoài.
- Căn cứ vào nơi xác lập và thực hiện hợp đồng, hợp đồng được giao kết ở nước
ngoài và có thể được thực hiện ở nước mình hay nước thứ ba.
- Điều cần chú ý ở HĐ mua bán hàng hóa quốc tế là các bên tham gia giao kết
hợp đồng sẽ rất dễ gặp phải các rủi ro đặc thù như xung đột pháp luật, do quá trình vận
chuyển, thanh toán, thực thi cam kết hợp đồng. Vì vậy, các bên cần thỏa thuận và soạn
thảo ra một bản hợp đồng chi tiết. Khoản 2 Điều 27 LTM quy định rằng HĐ mua bán
hàng hóa quốc tế phải được lập thành văn bản.
Hợp đồng mua bán hàng hóa là một hợp đồng có tính chất đặc thù, bản chất của
nó là giao một tài sản và đổi lại một số tiền có giá trị tương ứng. Nếu không có đặc
trưng ấy thì hợp đồng sẽ không thể trở thành một hợp đồng mua bán hàng hóa. Mua
bán hàng hóa là một hợp đồng song vụ, nó phát sinh quyền và nghĩa vụ giữa các bên
tham gia, cụ thể ở đây là bên mua và bên bán. Đó là một hợp đồng chuyển giao quyền
sở hữu tài sản có đền bù, khác với hợp đồng tặng cho vì hợp đồng tặng cho là một hợp
đồng chuyển giao quyền sở hữu không có đền bù. Cùng với đó, hợp đồng mua bán
hàng hóa còn phải là một hợp đồng ưng thuận, chỉ đi đến kết quả cuối cùng là hoạt
động chuyển giao quyền sở hữu tài sản khi đạt được sự thỏa thuận của các bên về
những quyền và nghĩa vụ cơ bản được ghi trong nội dung chủ yếu của hợp đồng.
“ Trong một số trường hợp ngoại lệ, đối với một số hơp đồng mua bán có đối
tượng là những tài sản có giá trị lớn và phải đăng ký quyền sở hữu, luật Việt Nam hiện
hành có những quy định riêng về hình thức giao kết và trong điều kiện của những
trường hợp đó mua bán được coi là một hợp đồng trọng thức”
Theo nguồn “ Trung tâm học liệu ĐH Cần Thơ”
14
Có thể thấy rằng hợp đồng mua bán hàng hóa trong hoạt động thương mại là một
dạng của hoạt động mua bán tài sản. Một hợp đồng mua bán có thể thỏa thuận về hoạt
động mua bán ở hiện tại hoặc hoạt động mua bán có thể có ở một thời điểm nào đó
trong tương lai. Vào bất cứ thời điểm nào, một người mua bằng tiền hoặc bằng một
phương tiện thanh toán hàng hóa khác và nhận quyền sở hữu hàng hóa từ người khác
thì sẽ hình thành nên quan hệ hợp đồng mua bán hàng hóa. Căn cứ vào các yếu tố: chủ
thể, đối tượng, thời gian, địa điểm sẽ được phân chia thành hợp đồng mua bán hàng
hóa trong nước và hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế.
b. Đặc điểm của hợp đồng mua bán hàng hóa
- Chủ thể
Hợp đồng mua bán hàng hóa được thiết lập giữa các chủ thể chủ yếu là thương
nhân. Theo quy định tại Khoản 1- Điều 6 LTM 2005: “ Thương nhân bao gồm tổ chức
kinh tế được thành lập hợp pháp, cá nhân hoạt động thương mại một cách đôc lập và
thường xuyên và có đăng ký kinh doanh” . Thương nhân trong chủ thể của hợp đồng
mua bán hàng hóa có thể là người Việt Nam hoăc người nước ngoài ( trong hợp đồng
mua bán hàng hóa quốc tế). Ngoài chủ thể là thương nhân ra, các cá nhân, tổ chức
không phải là thương nhân cũng được tham gia và là chủ thể hợp đồng mua bán hàng
hóa.
- Hình thức của hợp đồng
Hợp đồng mua bán hàng hóa có thể thực hiện bằng bất cứ cách thức nào mà hai
bên cảm thấy thuận tiện và hợp lí nhất để dẫn đến sự thỏa thuận và mua bán hàng hóa.
Hợp đồng có thẻ được thể hiện bằng lời nói, văn bản hoặc bằng hành vi cụ thể giữa
các bên. Trong một số trường hợp nhất định, pháp luật bắt buộc các bên phải thưc hiện
hành vi giao kết dưới hình thức văn bản. Trong LTM 2005 cũng đã quy định rõ điều
này “ Hợp đồng mua bán hàng hóa được thể hiện bằng lời nói, bằng văn bản hoăc
bằng hành vi cụ thể. Đối với các loại hợp đồng mua bán hàng hóa mà pháp luật quy
định phải được lập thành văn bản thì phải tuân theo các quy định đó”. Có thể kể đến
hơp đồng mua bán hàng hóa quốc tế, đó là hợp đồng bắt buộc phải đươc thực hiện
dưới dạng văn bản. Theo khoản 15- điều 3 và khoản 2 –điều 27 LTM 2005 thì hợp
đồng mua bán hàng hóa bắt buộc phải được thực hiện dưới dạng văn bản hoặc bằng
hình thức khác có giá trị pháp lý tương đương như: điện báo, TELEX, FAX, thông
điệp dữ liệu…
15
- Đối tượng của hợp đồng mua bán hàng hóa
Đối tượng của hợp đồng mua bán hàng hóa là hàng hóa. Nếu hiểu theo nghĩa
thông thường hàng hóa là những sản phẩm lao động do con người tạo ra nhằm mục
đích thỏa mãu nhu cầu của con người. Nhưng theo quy định của pháp luật Việt Nam
tại khoản 2- điều 3 LTM 2005:
“ Hàng hóa bao gồm:
- Tất cả các động sản, kể cả động sản hình thành trong tương lai
- Những vật gắn liền với đất đai.”
Như vậy, có thể thấy đối tượng hàng hóa mà pháp luật Việt Nam quy định bao
gồm: các động sản được lưu thông trên thị trường hoặc bất động sản có thể kể đến
như: nhà cửa, đất đai, ruộng vườn… Các động sản hoặc bất động sản có thể là đã hình
thành hoăc sẽ hình thành trong tương lai đều được coi là hàng hóa. Khái niệm này tuy
đã khắc phục được một số những bất cập trong quy định về hàng hóa của LTM 1997
khi quy định hàng hóa bao gồm: máy móc, thiết bị, nguyên liệu, nhiên liệu, vật liệu,
hàng tiêu dùng, các động sản khác được lưu thông trên thị trường, nhà ở dưới hình
thức cho thuê hoăc mua bán nhưng vẫn là khá hẹp so với định nghĩa chung về hàng
hóa, đôi khi làm hạn chế đi các đối tượng hàng hóa được phép lưu thông trên thị
trường.
- Nội dung hợp đồng mua bán hàng hóa
Nội dung của hợp đồng mua bán hàng hóa thể hiện quyền và nghĩa vụ các bên
trong quan hệ mua bán hàng hóa, theo đó bên bán có nghĩa vụ giao hàng, chuyển
quyền sở hữu hàng hóa cho bên mua và nhận tiền, còn bên mua có nghĩa vụ nhận hàng
hóa và trả tiền cho bên bán. Hành vi mua bán của các bên trong hợp đồng mua bán
hàng hóa là hành vi có tính chất thương mại và nhằm mục đích sinh lời.
Hợp đồng mua bán hàng hóa mang đặc điểm của hợp đồng mua bán tài sản đó là
sự chuyển giao quyền sử dụng, quyền sở hữu và quyền định đoạt. Khác với hợp đồng
cho thuê tài sản chỉ chuyển giao quyền sử dụng chứ không chuyển giao quyền sở hữu
và quyền định đoạt. Quyền sở hữu và quyền định đoạt vẫn thuộc về người có tài sản
đem đi cho thuê.
16
Đồng thời hợp đồng mua bán hàng hóa cũng khác với hợp đồng tặng cho tài sản.
Hợp đồng mua bán hàng hóa là hợp đồng song vụ, mang tính đền bù. Giá của hàng
hóa luôn được xác định cụ thể . Việc chuyển quyền sở hữu hàng hóa luôn kèm theo
yêu cầu đền bù tương ứng với giá trị hàng hóa theo thỏa thuận, qua đó thể hiện quyền
và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ mua bán, bên bán có nghĩa vụ giao hàng,
chuyển quyền sở hữu hàng hóa cho bên mua và nhận tiền; bên mua có nghĩa vụ nhận
hàng hóa và trả tiền cho bên bán. Mục đích thông thường của các bên là lợi nhuận.
Trong khi đó ở hợp đồng tặng cho tài sản, bên tặng cho tài sản giao tài sản và giao
quyền sở hữu tài sản cho bên được tặng cho mà không cần thiết lập bất cứ một yêu cầu
đền bù nào.
- Việc pháp luật quy định nội dung của hợp đồng mua bán hướng các bên tập
trung vào thỏa thuận các nội dung quan trọng của hợp đồng, tạo điều kiện thuận lợi để
thực hiện và phòng ngừa các tranh chấp có thể xảy ra trong quá trình thực hiện hợp
đồng. Một hợp đồng mua bán hàng hóa thông thường phải chứa đựng sự thỏa thuận về
đối tượng, chất lượng, giá cả, phương thức thanh toán, thời hạn và địa điểm nhận giao
hàng.
- Trong quan hệ mua bán hàng hóa, các bên không chỉ bị ràng buộc bởi những
điều khoản đã thỏa thuận với nhau mà còn chịu sự ràng buộc bởi những quy định của
pháp luật, tức là những điều khoản pháp luật có quy định nhưng các bên không thỏa
thuận trong hợp đồng. Và các quy định được các bên quy định trong hợp đồng không
được trái với pháp luật hiện hành đang điều chỉnh.
1.1.2 Vai trò của hợp đồng mua bán hàng hóa
Nước ta hiện nay đang trong thời kì chuyển đổi sang kinh tế thị trường, nhiều
hoạt động thương mại mới bắt đầu phát sinh. Đặc biêt khi chúng ta trở thành thành
viên của WTO, cơ hội buôn bán và giao thương với nước ngoài ngày càng được mở
rộng, cũng chính vì lý do đó, hoạt động mua bán và trao đổi hàng hóa trở nên phổ biến
dưới nhiều hình thức đa dang hơn. Các hợp đồng mua bán hàng hóa ngày càng nhiều
và có vai trò quan trọng.
- Hợp đồng mua bán hàng hóa là phương tiện pháp lí tạo điều kiện cho các bên
thương nhân trao đổi hàng hóa nhằm thỏa mãn nhu cầu sản xuất kinh doanh. Các hoạt
động mua bán trao đổi hàng hóa đều phải thực hiện dưới những quy định pháp lý của
pháp luật ban hành nhằm đảm bảo một cách công bằng nhất giữa quyền và nghĩa vụ
17
các bên tham gia, hạn chế tối đa những mâu thuẫn, tranh chấp có thể xảy ra trong quá
trình thực hiện hợp đồng. Trong nền kinh tế nhiều thành phần như hiện nay, giao kết
hợp đồng mua bán hàng hóa phản ảnh mối quan hệ giữa các đơn vị kinh tế thuộc các
thành phần kinh tế khác nhau. Từ đó tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế khá
nhau cùng nhau hợp tác, tồn tại và phát triển, góp phần phát triển nền văn minh kinh tế
và nâng cao đời sống vật chất cho nhân dân.
- Hợp đồng mua bán hàng hóa là sự giằng buộc giữa các bên khi tham gia vào
hoạt động thương mại nói chung và hoạt động mua bán hàng hóa nói riêng. Việc tạo
hợp đồng mua bán hàng hóa sẽ buộc các bên tham gia phải có trách nhiệm đối với mỗi
hành vi, lời nói của mình, nếu vi phạm một trong các nội dung được nêu ra trong hợp
đồng các bên sẽ bị xử lý theo những chế tài được quy định của pháp luật hiện hành do
khi đó đã thiết lập mối quan hệ giữa các bên với nhau về nhiều vấn đề như: Quyền tài
sản, chi phí, quyền lợi, nghĩa vụ…các bên buộc phải có nghĩa vụ và trách nhiệm với
đối phương trong suốt quá quá trình thực hiện hợp đồng.
- Hợp đồng mua bán hàng hóa là căn cứ để giải quyết những tranh chấp có thể
phát sinh trong quá trình thực hiện hoạt động mua bán trao đổi hàng hóa. Khi hai bên
đã cùng thỏa thuận để đi đến ký kết hợp đồng, tức là đã có sự thống nhất ý chí giữa
các bên dựa trên nguyên tắc bình đẳng, tự do và tự nguyện trong khuôn khổ pháp luât
cho phép. Hợp đồng sau khi ký kế được in làm hai bản, mỗi bên giữ một bản. Nếu
trong quá trình thực hiện các giao dịch nhằm thõa mãn nhu cầu các bên, trường hợp
xảy ra tranh chấp, hợp đồng mua bán hàng hóa chính là căn cứ quan trọng và chủ yếu
để đối chiếu tránh nhiệm, nghĩa vụ cũng như quyền lợi của các bên tham gia, đảm bảo
tối đa sự công bằng giữa các bên. Đồng thời là căn cứ xác định những chế tài xử phạt
đối với bên vi phạm.
Tóm lại, hợp đồng mua bán hàng hóa là một công cụ giúp cho quá trình mua bán
trao đổi hàng hóa được diễn ra một cách thuận lợi và dễ dàng, là căn cứ giúp cho các
bên tham gia có thể nhận biết rõ được vai trò của mình trong quá trình thực hiện hợp
đồng.
1.2 Khái quát về pháp luật điều chỉnh hợp đồng mua bán hàng hóa
1.2.1 Hệ thống các văn bản pháp luật hiện hành điều chỉnh hoạt động mua
bán hàng hóa
18
Hợp đồng mua bán hàng hóa là một loại hợp đồng trong thương mại nên đối với
các hoạt động mua bán hàng hóa trong nước, trước hết nó chịu sự điều chỉnh trực tiếp
của luật chuyên ngành là LTM 2005. Nhưng để xác định bản chất pháp lý về hợp đồng
mua bán hàng hóa trong thương mại thì đều cần dựa trên cơ sở quy định của BLDS
2005 về hợp đồng mua bán tài sản, nên hợp đồng mua bán hàng hóa còn chịu sự điều
chỉnh của BLDS 2005.
Như vậy, với hợp đồng mua bán hàng hóa, LTM 2005 đóng vai trò là luật riêng
áp dụng, BLDS 2005 là luật chung áp dụng. Trình tự áp dụng luật được tuân theo quy
định chung, áp dụng luật riêng trước, nếu luật riêng không có những quy định có liên
quan thì sẽ áp dụng đến Luật chung tức là áp dụng LTM trước, khi LTM không quy
định những vấn đề có liên quan thì mới áp dung BLDS.
Bên cạnh LTM và BLDS là hai văn bản pháp luật chính điều chỉnh hoạt động
mua bán hàng hóa trong nước thì hợp đồng mua bán hàng hóa còn chịu sự điều chỉnh
của nhiều Nghị định, Thông tư như là:
- Nghị định số 43/2009/NĐ-CP ngày 7/5/2009 của Chính phủ về sửa đổi, bổ
sungdanh mục hàng hoá, dịch vụ cấm kinh doanh của Nghị định 59/2006/NĐ-CP
- Nghị định số 54/2009/NĐ-CP ngày 05/06/2009 của Chính phủ Quy định về xử
phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực tiêu chuẩn, đo lường và chất lượng sản phẩm,
hàng hoá.
- Nghị định 187/2013/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành Luật Thương mại mua
bán hàng hóa quốc tế và các hoạt động đại lý mua, bán gia công và quá cảnh hàng hóa
với nước ngoài.
…
Đối với các hoạt động mua bán bán hàng hóa có yếu tố nước ngoài. Bên cạnh
luật quốc gia, các chủ thể còn phải chịu sự điều chỉnh của các điều ước quốc tế mà
điển hình là Công ước Viên 1980, các tập quán quốc tế khác về thương mại và hàng
hải.
Theo Khoản 1 – Điều 6 Luật ký kết gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế năm
2005 về Điều ước quốc tế và quy định của pháp luật trong nước
“ 1. Trong trường hợp văn bản quy phạm pháp luật và điều ước quốc tế mà Cộng
hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên có quy định khác nhau về cùng một vấn
đề thì áp dụng quy định của điều ước quốc tế.”
Như vậy, nếu như trong trường hợp pháp luật Việt Nam và điều ước quốc tế cùng
quy định một vấn đề thì điều ước quốc tế sẽ được ưu tiên áp dụng trước.
1.2.2 Một số nội dung cơ bản của pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hóa
19
1.2.2.1 Giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa
Giao kết HĐMBHH có thể hiểu là quá trình bày tỏ, thống nhất ý chí giữa các bên
theo hình thức, nội dung, nguyên tắc, trình tự nhất định được pháp luật thừa nhận
nhằm xác lập quyền và nghĩa vụ giữa các bên tham gia trong quá trình mua bán trao
đổi hàng hóa để thỏa mãn nhu cầu của các chủ thể tham gia.
- Xuất phát từ nguyên tắc tự do trong hợp đồng, pháp luật không giới hạn các
điều khoản mà các bên tham gia thỏa thuận với nhau. Pháp luật chỉ quy định nội dung
chủ yếu của hợp đồng hoặc các điều khoản mang tính khuyến nghị để định hướng cho
các bên trong việc thỏa thuận. Điều 402/BLDS 2005 cũng chỉ quy định các bên có thể
thỏa thuận mà không đòi hỏi phải thỏa thuận những nội dung chủ yếu nào, mặc dù nội
dung chủ yếu của HĐMBHH có thể xác định được dựa trên những quy định mang tính
khuyến nghị, định hướng của pháp luật, thói quen và tâp quán thương mại, nhưng
trong điều kiện nhận thức của nhà kinh doanh còn nhiều hạn chế thì điều này tiềm ẩn
những nguy cơ pháp lý, những tranh chấp trong hoạt động mua bán hàng hóa .
- Nội dung của giao kết HĐMBHH trước hết là những điều khoản do các bên
thỏa thuận. Các bên có quyền quyết định những nội dung của hợp đồng, bởi vì các
quyền và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ hợp đồng phát sinh chủ yếu từ những
điều khoản mà các bên đã thỏa thuận trước đó. Vì vậy khi sự thỏa thuận giữa các bên
các điều khoản hợp đồng cảng rõ bao nhiêu thì càng thuận lợi trong việc thực hiện hơp
đồng bấy nhiêu. Măc dù nội dung của hợp đồng do các bên thỏa thuận, nhưng các bên
không những chỉ chịu sự giằng buộc về các điều khoản mà các bên thỏa thuận còn
chịu sự giằng buộc bởi các quy định của pháp luật.
Chủ thể của hợp đồng mua bán hàng hóa
- Chủ thể là thương nhân: Xác định một thỏa thuận phải có là một HĐMBHH
hay không thì việc trước tiên là phải xác định một bên trong quan hê hợp đồng đó có
phải là tư nhân hay không, sau đó mới xét đến đối tượng của hợp đồng. Thương nhân
bao gồm các tổ chức kinh tế được thành lập hợp pháp, cá nhân hoạt động thương mại
một cách thường xuyên, độc lập và có đăng kí kinh doanh.
Thương nhân là cá nhân: Để được công nhận là thương nhân thì một cá nhân
phải có năng lực hành vi dân sự đầy đủ theo quy định của pháp luật và hoạt động
thương mại một cách độc lập, thường xuyên như một nghề nghiệp. Cá nhân có thể trở
20
thành thương nhân ngay cả khi hoạt động thương mại một cách độc lập thường xuyên
như một nghề nghiệp mà chưa có đăng kí kinh doanh. Thương nhân là cá nhân sẽ bao
gồm: Cá nhân kinh doanh, doanh nghiệp tư nhân, công ty hợp doanh.
Thương nhân là tổ chức : Doanh nghiệp nhà nước, hợp tác xã, Công ty trách
nhiệm hữu hạn, Công ty cổ phần, Công ty có vốn đầu tư nước ngoài, các tổ chức kinh
tế khác có đủ điều kiện theo quy định là thương nhân
Chủ thể không là thương nhân: Nếu căn cứ vào mục đích sinh lợi, thì trong rất
nhiều trường hợp tổ chức, cá nhân không phải là thương nhân cũng được coi là chủ
của hợp đồng với thương nhân. Nghĩa là môt bên của hợp đồng là cá nhân, tổ chức
hoạt động thương mại độc lập và thường xuyên, còn bên kia là chủ thể không cần điều
kiên nói trên.
Đối tượng của hợp đồng mua bán hàng hóa: Trong mua bán hàng hóa, đối tượng
của hợp đồng là hàng hóa, đây là điều khoản cơ bản mà khi thiếu nó hợp đồng mua
bán hàng hóa không thể hình thành được do người ta không thể hình dung các bên
tham gia hợp đồng nhằm mục đích gì, trao đổi cái gì.
Số lượng hàng hóa: Điều khoản về số lượng hàng hóa xác định về mặt lượng đối
với đối tượng của hợp đồng. Các bên có thể thỏa thuận và ghi trong hợp đồng về một
số lượng hàng hóa cụ thể hoặc số lượng được xác định bằng đơn vị đo lường theo tập
quán thương mại như: chiếc, bộ, tá, mét, mét vuông, mét khối hay một đơn vị nào khác
tùy theo đặc tính của hàng hóa.
Chất lượng hàng hóa: Chất lượng hàng hóa giúp xác định chính xác đối tượng
của hợp đồng, cái mà người mua biết được tường tận những yêu cầu về tính năng, tắc
dụng, quy cách, kích thước, hiệu suất, hiệu quả… xác định cụ thể chất lượng của sản
phẩm thường cũng là cơ sở để xác định giá cả một cách chính xác nhất. …Hàng đúng
chất lượng phải đảm bảo đúng chất lượng, bao bì đóng gói, quy cách, chủng loại của
sản phẩm theo tiêu chuẩn hoặc theo sự thỏa thuận của các bên. Để đảm bảo chất lượng
hàng hóa cá bên nên tiến hành kiểm tra hàng hóa trước khi giao hàng.
Giá cả hàng hóa: Các bên có quyền tự thỏa thuận về giá cả và phải được ghi cụ
thể trong hợp đồng hoặc nếu không ghi cụ thể thì phải có phương hướng xác định rõ
giá cả, vì đây là điều khoản quan trọng trong các cuộc thương lượng để đi đến kí kết
21
hợp đồng. Để mang lại lợi ích cho cả 2 bên, các bên cũng có thể thỏa thuận với nhau,
lựa chọn hình thức giảm giá phù hợp ghi trong hợp đồng.
1.2.2.2 Thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa
Sau khi đã thỏa thuận và đi đến thống nhất về những điều khoản được ghi nhận
trong hợp đồng mua bán hàng hóa, các bên tham gia sẽ tiến hành thực hiện hợp đồng
để tiến tới mục đích cuối cùng là sinh lợi cho bên bán và thỏa mãn nhu cầu cho bên
mua.
- Giao nhận hàng hóa
Bên bán phải giao hàng hóa phù hợp với quy định của hợp đồng, trong các hợp
đồng mua bán hàng hóa các bên thường có thỏa thuận với nhau về các điều kiện đi
kèm theo việc giao hàng thỏa thuận về điều kiện giao nhận hàng hóa nhằm mục đích
xác định trách nhiệm và chi phí giao hàng của các bên. Ngoài ra trong mua bán hàng
hóa việc mua hàng còn được gắn liền với việc giao nhận các giấy tờ liên quan. Nếu hai
bên không có sự thỏa thuận thì bên bán có nghĩa vụ giao hàng kèm theo các giấy tờ có
liên quan.
Các bên có thể thỏa thuận về địa điểm, thời hạn và phương thức giao hàng tùy
theo tính chất của hàng hóa trong hợp đồng. Bên bán có nghĩa vụ giao hàng, bên mua
có nghĩa vụ nhận hàng theo đúng thỏa thuân trong hợp đồng.
- Chất lượng hàng hóa
Bên bán có nghĩa vụ giao hàng hóa đúng theo quy định về chất lượng mà hai bên
đã thỏa thuận trước đó cho bên mua.
Để đảm bảo mục đích của hợp đồng được thực hiện một cách tốt nhất, nếu các
bên có thỏa thuận để bên mua hoặc đại diện bên mua tiến hành kiểm tra hàng hóa
trước khi giao hàng thì bên bán phải đảm bảo cho bên mua có điều kiện kiểm tra hàng
hóa. Trong trường hợp bên mua không tiến hành kiểm tra thì bên bán có quyền được
giao hàng theo quy định của hợp đồng. Bên bán phải chịu tránh nhiệm về những khiếm
khuyết của hàng hóa mà bên mua đã kiểm tra, phát hiện thấy và những khiếm khuyến
bên bán biết mà không thông báo cho bên mua. Tuy nhiên bên bán sẽ không phải chịu
trách nhiệm về những khiếm khuyết bên mua biết hoặc có nghĩa vụ phải biết mà không
thông báo cho bên bán trong thời hạn hợp lý sau khi tiến hành kiểm tra hàng hóa
22
- Thanh toán
Thanh toán tiền hàng là một nghĩa vụ quan trọng mà bên mua phải thực hiện đối
với bên bán. Người bán và người mua có thể sử dụng những biện pháp rằng buộc chặt
chẽ nhằm đảm bảo việc thanh toán được thực hiên đầy đủ và đúng hạn theo thỏa thuận
trong hợp đồng. Bên mua có nghĩa vụ thanh toán và nhận hàng theo thỏa thuận. Các
bên phải thỏa thuận về phương thức, thời điểm và thời hạn thanh toán. Khi đó bên mua
phải tuân thủ theo phương thức thanh toán và thực hiện thanh toán đúng trình tự, thủ
tục theo thỏa thuận và các quy định của pháp luật.
Trường hợp người mua vi phạm quy định này sẽ dẫn đến việc phải gánh vác
trách nhiệm về vật chất. Trong trường hợp bên mua chậm thanh toán tiền hàng thì phải
trả lãi trên số tiền chậm trả đó. Khi người mua vi phạm nghĩa vụ thanh toán người bán
cũng có thể sử dụng các quy định tại điều 308, 312,321 LTM 2005 để tạm ngừng việc
giao hàng, đình chỉ việc thực hiện hợp đồng hoặc hủy hợp đồng.
- Chế tài áp dụng đối với việc vi phạm HĐMBHH
Buộc thực hiện đúng hợp đồng: Là việc bên bị vi phạm yêu cầu bên vi phạm
thực hiện đúng những quy định trong hợp đồng hoặc sử dụng các biện pháp khác để
hợp đồng được thực hiện và bên vi phạm phải chịu chi phí phát sinh.
Phạt vi pham : Là việc bên bị vi phạm yêu cầu bên vi phạm trả một khoản tiền
phạt do vi phạm hợp đồng nếu trong hợp đồng có thỏa thuận trừ những trường hợp
miễn trách nhiệm được quy định tại điều 294 – LTM 2005. Phạm vi phạm chỉ xảy ra
nếu có thỏa thuận về vấn đề này trong hợp đồng. Mức phạt đối với vi phạm nghĩa vụ
hợp đồng hoặc tổng mức phạt đối với hành vi vi phạm do các bên thỏa thuận trong hợp
đồng tuy nhiên không được quá 8% giá trị phần nghĩa vụ hợp đồng bị vi phạm. Trừ
trường hợp quy định tại điều 266 – LTM.
Bồi thường thiệt hại Là việc bên vi phạm phải bồi thường những tổn thất do vi
phạm hợp đồng thương mại gây ra. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại phát sinh khi có
đầy đủ các yếu tố sau đây: Có thiệt hại thực tế, hàng vi vi phạm hợp đồng là nguyên
nhân trực tiếp gây ra thiệt hại. Bên yêu cầu bồi thường thiệt hại phải chứng minh được
tổn thất, mức độ tổn thất do hành vi vi phạm gây ra và khoản lợi bên bị vi phạm đáng
lẽ có được nếu không có hành vi vi phạm.
23
Tạm ngừng thực hiên hợp đồng Là việc một bên tạm ngừng không thực hiện
nghĩa vụ trong hợp đồng thuộc một trong các trường hợp: Xảy ra hành vi vi phạm mà
các bên đã thỏa thuận là điều kiện để tạm ngừng việc thực hiện hợp đồng; Một bên vi
phạm cơ bản nghĩa vụ của hợp đồng. Khi hợp đồng bị tạm ngừng thực hiện thì hợp
đồng vẫn còn hiệu lực. Bên bị vi phạm có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại theo quy
định của pháp luật.
Hủy bỏ hợp đồng Bao gồm hủy bỏ một phần hoặc hủy bỏ toàn bộ nội dung hợp
đồng. Hủy bỏ toàn bộ hợp đồng là việc bãi bỏ tất cả những nội dung đã thỏa thuận
trong hợp đồng. Hủy bỏ một phần hợp đồng là việc bãi bỏ một phần nghĩa vụ được
quy định trong hơp đồng, phần còn lại vẫn có hiệu lực. Hủy boe hợp đồng được áp
dụng khi xảy ra hành vi vi phạm mà các bên đã thỏa thuận là điều kiện để hủy hợp
đồng hoặc một bên vi phạm cơ bản nghĩa vụ hợp đồng. Sau khi hủy bỏ hợp đồng các
bên không còn phải thực hiện nghĩa vụ đã thỏa thuận trong hợp đồng trừ các quyền và
nghĩa vụ sau khi hủy bỏ hợp đồng và về giải quyết tranh chấp. Các bên có quyền đòi
lại lợi ích do việc đã thực hiện phần nghĩa vụ của mình theo hợp đồng.
1.2.2.3 Giải quyết tranh chấp trong hợp đồng mua bán hàng hóa
Một nguyên tắc giải quyết chung khi xảy ra tranh chấp thương mại là ưu tiên
hàng đầu cho việc hòa giải giữa các bên, chỉ khi các bên không thương lượng được do
mẫu thuẫn về lợi ích thì lúc đó các bên mới lựa chon con đường giải quyết khác do
pháp luật Việt Nam hiện hành quy định. Nếu trong HĐMBHH không quy định hình
thức bắt buộc phải áp dụng khi có tranh chấp xảy ra trong thực hiện hợp đồng thì các
bên có thể lựa chọn con đường giải quyết sau được quy định tại Điều 317- LTM 2005
Thương lượng trực tiếp là việc các bên đương sự cùng nhau trao đổi, đấu tranh,
nhân nhượng và thỏa thuận giải quyết tranh chấp. Thương lượng trực tiếp có thể tiến
hành bằng cách 2 bên gặp nhau để thỏa thuận, thương lượng hoặc một bên gửi đơn
khiếu nại cho bên kia và bên kia trả lời đơn khiếu nại.
Hòa giải là phương pháp giải quyết tranh chấp giữa các bên đương sự thông qua
người thứ ba gọi là hòa giải viên. Hòa giải viên đóng vai trò là người trung gian, tiến
hành họp kín với riêng từng bên hoặc họp chung với cả hai bên để hiểu kỹ nội dung
tranh chấp, lý giải phân tích cho các bên thấy rõ lợi ích của mình và lợi ích của bên kia
nhằm giúp các bên tìm ra một giải pháp tốt nhất giải quyết tranh chấp một cách hợp lý,
hợp tình.
24
Trọng tài là một cơ chế giải quyết tranh chấp ngoài khuôn khổ tòa án, theo đó
các bên lựa chọn đưa vụ tranh chấp cho người thứ ba trung lập giải quyết. Trọng tài
chỉ có thẩm quyền giải quyết tranh chấp khi chính bản thân các bên có liên quan tôn
trọng và thừa nhận quyền phán quyết của nó. Tranh chấp được giải quyết bằng trọng
tài nếu trước hoặc sau khi xảy ra tranh chấp các bên có thỏa thuận trọng tài. Quyết
định của trọng tài là chung thẩm, các bên phải thi hành, trừ trường hợp tòa án hủy
quyết định của trọng tài theo quy định của pháp luật. Trong trường hợp vụ tranh chấp
đã có thỏa thuận trọng tài, nếu một bên khởi kiện tại tòa án thì tòa án phải từ chối thụ
lý, trừ trường hợp thỏa thuận trọng tài vô hiệu. Thỏa thuận trọng tài phải được lập
bằng văn bản
Tòa án, việc giải quyết các tranh chấp còn được tiến hành bằng cách đi kiện ra
tòa án, người có quyền lợi bị vi phạm sau khi thương lượng không thành công hoặc bỏ
qua bước thương lượng, có thể đi kiện ra tòa để nhờ tòa án xét xử tranh chấp nhằm bảo
vệ quyền lợi cho mình. Từ đó có thể gọi đi kiện là phương pháp giải quyết tranh chấp
bằng xét xử tại tòa án. Thời hiệu khởi kiện đối với các tranh chấp thương mại là hai
năm kể từ thời điểm quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm pham theo Điều 319 LTM
2005.
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT ĐIỀU CHỈNH VIỆC GIAO KẾT
HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA VÀ THỰC TIÊN ÁP DỤNG TẠI CÔNG
TY TIN HỌC THƯƠNG MẠI CÔNG NGHỆ VÀ TƯ VẤN ICT
2.1 Thực trạng các quy phạm pháp luật điều chỉnh điều kiện có hiệu lực của
hợp đồng mua bán hàng hóa
Luật thương mại không quy định cụ thể các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng
mua bán hàng hóa. Hợp đồng mua bán hàng hóa là một loại hợp đồng dân sự mang
tính chất đặc thù của hợp đồng mua bán tài sản nên nó cũng cần đảm bảo những điều
kiện có hiệu lực của hợp đồng mua bán tài sản. Theo quy định tại điều 405 BLDS
25