Tải bản đầy đủ (.pdf) (106 trang)

Cách giải quyết khiếu nại về đất đai của Ủy ban nhân dân tỉnh Gia Lai (LV thạc sĩ)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1006.7 KB, 106 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
………/…………

BỘ NỘI VỤ
……/……

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

PHẠM MINH TRUNG

GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI VỀ ĐẤT ĐAI
CỦA ỦY BAN NHÂN DÂN TỈNH GIA LAI

LUẬN VĂN THẠC SĨ
LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH

ĐẮK LẮK - NĂM 2016


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
………/…………

BỘ NỘI VỤ
……/……

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

PHẠM MINH TRUNG

GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI VỀ ĐẤT ĐAI
CỦA ỦY BAN NHÂN DÂN TỈNH GIA LAI



LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH
Chuyên ngành: Luật Hiến pháp và Luật hành chính
Mã số: 60 38 01 02

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. Lê Thị Hương

ĐẮK LẮK - NĂM 2016


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu
của bản thân. Các số liệu, kết quả được trình bày
trong luận văn này là trung thực và chưa từng
được công bố trong bất kỳ luận văn nào trước
đây.

Học viên

Phạm Minh Trung


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .............................................................................................................. 1
Chương 1 .................................................................................................................. 8
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI VỀ ĐẤT ĐAI
CỦA ỦY BAN NHÂN DÂN TỈNH ........................................................................ 8
1.1. Khiếu nại về đất đai và giải quyết khiếu nại về đất đai ................................. 8
1.2. Giải quyết khiếu nại về đất đai của Ủy ban nhân dân tỉnh .......................... 26
1.3. Kinh nghiệm giải quyết khiếu nại về đất đai của một số địa phương và bài

học kinh nghiệm ................................................................................................. 37
Chương 2 ................................................................................................................ 45
TÌNH HÌNH KHIẾU NẠI VỀ ĐẤT ĐAI VÀ THỰC TRẠNG GIẢI QUYẾT
KHIẾU NẠI VỀ ĐẤT ĐAI CỦA ỦY BAN NHÂN DÂN TỈNH GIA LAI ......... 45
2.1. Tình hình khiếu nại về đất đai trên địa bàn tỉnh Gia Lai............................. 45
2.2. Thực trạng giải quyết khiếu nại về đất đai của Ủy ban nhân dân tỉnh
Gia Lai ................................................................................................................ 51
Chương 3 ................................................................................................................ 69
QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI VỀ ĐẤT
ĐAI CỦA ỦY BAN NHÂN DÂN TỈNH GIA LAI .............................................. 69
3.1. Quan điểm bảo đảm giải quyết khiếu nại về đất đai của Ủy ban nhân dân
tỉnh Gia Lai ......................................................................................................... 69
3.2. Giải pháp bảo đảm giải quyết khiếu nại về đất đai của Ủy ban nhân dân
tỉnh Gia Lai ......................................................................................................... 77
KẾT LUẬN ........................................................................................................ 93
TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................................. 95


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
- CNXH

Chủ nghĩa xã hội

- GCNQSD

Giấy chứng nhận quyền sử dụng

- UBND

Ủy ban nhân dân


- XHCN

Xã hội chủ nghĩa


DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
Bảng 2.1: Tổng hợp diện tích đất được cấp GCNQSD đất của tỉnh Gia Lai tính
đến tháng 12/2015 .................................................................................................. 46
Bảng 2.2: Tổng hợp số liệu đơn khiếu nại, tố cáo, kiến nghị liên quan đến đất
đai của tỉnh Gia Lai từ khi Luật Đất đai năm 2003 có hiệu lực đến năm 2011…. 49
Bảng 2.3: Tổng hợp số liệu đơn khiếu nại, tố cáo của tỉnh Gia Lai giai đoạn
2011-2015 .............................................................................................................. 50
Bảng 2.4: Tổng hợp số liệu đơn khiếu nại và kết quả giải quyết khiếu nại của
tỉnh Gia Lai giai đoạn 2011-2015. ......................................................................... 51
Bảng 2.5: Tổng hợp số liệu đơn khiếu nại, tố cáo liên quan đến lĩnh vực hành
chính của UBND tỉnh Gia Lai tiếp nhận giai đoạn 2011-2015. ............................ 51
Bảng 2.6: Tổng hợp số liệu đơn khiếu nại về đất đai và kết quả giải quyết
khiếu nại của UBND tỉnh Gia Lai giai đoạn 2011-2015. ...................................... 52
Bảng 2.7: Tổng hợp số liệu cán bộ, công chức, viên chức của tỉnh Gia Lai có
trình độ sau đại học tính đến ngày 30/6/2014. ....................................................... 66
Bảng 2.8: Tổng hợp số liệu công chức kiêm nhiệm làm nhiệm vụ tham mưu
giải quyết khiếu nại về đất đai cho UBND tỉnh Gia Lai........................................ 67


Bản đồ hành chính tỉnh Gia Lai


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài

Đất đai là tài nguyên thiên nhiên vô cùng quý giá, là tư liệu sản xuất đặc
biệt, thành phần quan trọng của môi trường sống, là địa bàn phân bổ các khu dân
cư, xây dựng các cơ sở kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh quốc phòng và là thành
quả cách mạng của cả dân tộc Việt Nam. C.Mác đã chỉ rõ: “Đất là không gian,
yếu tố cần thiết của tất thảy mọi quá trình sản xuất và mọi hoạt động của loài
người” [13; tr.473,474]. Bất kỳ quốc gia nào, nếu biết quản lý, sử dụng hợp lý
đất đai thì nguồn tài nguyên này được bảo vệ và mang lại hiệu quả, lợi ích to lớn,
thiết thực phục vụ cho mỗi con người và cả cộng đồng.
Đất đai có vai trò quan trọng như vậy nên Đảng và Nhà nước ta giành sự
quan tâm đặc biệt đến vấn đề đất đai. Chủ trương, đường lối của đảng, chính sách
pháp luật của nhà nước về đất đai được điều chỉnh cho phù hợp với sự phát triển
kinh tế - xã hội của đất nước; trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước, chính sách, pháp luật đất đai trở thành cơ sở pháp lý hết sức quan trọng huy
động nguồn lực đất đai để phát triển nền kinh tế thị trường nhiều thành phần theo
định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN). Vì vậy, quản lý nhà nước bằng pháp luật
về đất đai ngày càng hoàn thiện, đã đạt được những tiến bộ rõ rệt, hệ thống quản
lý nhà nước về đất đai được tăng cường, từng bước phân cấp và phát huy tính tự
chủ của địa phương.
Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, tình hình quản lý và sử dụng đất đai
hiện nay đang có những yếu kém. Vấn đề quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất chưa
có tính chiến lược lâu dài và ổn định hoặc thiếu tính khả thi; cơ chế quản lý về đất
đai thiếu hiệu quả; cơ quan quản lý đất đai các cấp nhìn chung còn nhiều yếu kém.
Chính vì thế tình trạng tranh chấp, khiếu nại, tố cáo về quản lý và sử dụng đất đai có
xu hướng diễn biến phức tạp. Việc giải quyết tranh chấp, khiếu nại, tố cáo còn chưa
kịp thời, thiếu hiệu quả. Những yếu kém trong công tác quản lý và sử dụng đất nói
chung cũng như những yếu kém trong giải quyết tranh chấp, khiếu nại, tố cáo về đất
1


đai nói riêng có nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân rất quan trọng từ sự hạn

chế, bất cập của chính sách, pháp luật đất đai và việc giải quyết khiếu nại về đất đai
của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Khiếu nại là một trong những quyền cơ bản của công dân được Hiến pháp
Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 ghi nhận tại Điều 30: “Mọi
người có quyền khiếu nại, tố cáo với cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền về
những việc làm trái pháp luật của cơ quan, tổ chức, cá nhân” [22; tr.7].
Thực hiện quyền khiếu nại là một trong những hình thức dân chủ trực tiếp
để nhân dân tham gia hoạt động quản lý nhà nước, quản lý xã hội, giám sát hoạt
động của các cơ quan nhà nước, công chức nhà nước. Khiếu nại là một kênh
thông tin khách quan phản ánh việc thực thi quyền lực của bộ máy nhà nước,
phản ánh tình hình thực hiện công vụ của cán bộ, công chức. Do đó, công tác giải
quyết khiếu nại không những có vai trò quan trọng trong quản lý nhà nước, mà
còn thể hiện mối quan hệ bình đẳng giữa nhà nước và công dân.
Khiếu nại đất đai là một hiện tượng xảy ra phổ biến trong xã hội; đặc biệt
khi chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường, nhà nước thực hiện cơ chế quản lý
mới bằng việc trả lại đất đai - những giá trị vốn có thì tranh chấp, khiếu nại đất đai
phát sinh có xu hướng ngày càng tăng cả về số lượng cũng như tính chất phức tạp
về mặt nội dung. Tuy nhiên, khiếu nại đất đai kéo dài với số lượng ngày càng
đông người dân tham gia thì lại là vấn đề rất đáng quan tâm, tìm hiểu nguyên
nhân nảy sinh để đề ra các biện pháp giải quyết phù hợp, nhằm “tháo ngòi nổ”
xung đột không để phát sinh trở thành “điểm nóng” gây mất ổn định chính trị,
tình hình trật tự an toàn xã hội. Tính phức tạp của khiếu nại đất đai, khiếu nại kéo
dài không chỉ bắt nguồn từ những xung đột gay gắt về lợi ích, từ hệ quả của sự
quản lý thiếu hiệu quả của cơ quan công quyền, sự bất hợp lý và thiếu đồng bộ
của hệ thống chính sách, pháp luật đất đai… mà còn do những nguyên nhân có
tính lịch sử trong quản lý và sử dụng đất đai qua các thời kỳ.

2



Gia Lai là một tỉnh miền núi biên giới nằm ở khu vực phía bắc Tây
Nguyên, được đánh giá là địa bàn có vị trí chiến lược quan trọng về chính trị, kinh
tế, quốc phòng, an ninh, với diện tích tự nhiên là 15.495,7 km2 (lớn thứ hai cả
nước); có 90 km đường biên giới giáp với Campuchia; dân số hơn 1,3 triệu người,
trong đó có hơn 44% dân số là người đồng bào dân tộc thiểu số (chủ yếu là dân
tộc Jrai, chiếm tỷ lệ 29,2% và dân tộc Bahnar, chiếm tỷ lệ 11,9%). Với đặc thù đó,
việc tìm hiểu thực trạng và tìm giải pháp để giải quyết tốt công tác khiếu nại trong
lĩnh vực đất đai ở tỉnh Gia Lai là một chuyên đề hay và cấp thiết, nó giúp cho
chúng ta có được cái nhìn tổng quát về thực tiễn giải quyết khiếu nại ở địa
phương; những bất cập giữa pháp luật hiện hành với thực tiễn; những vấn đề bức
xúc, tồn đọng trong việc giải quyết khiếu nại về đất đai ở địa phương và tìm ra
những giải pháp khắc phục.
Nhận thức những vướng mắc cần phải được chấn chỉnh, tháo gỡ cũng như
tầm quan trọng của việc giải quyết khiếu nại về đất đai nói chung và của Ủy ban
nhân dân (UBND) tỉnh Gia Lai nói riêng. Đồng thời đó cũng là những trăn trở của
tác giả được đúc kết từ thực tiễn và quá trình học tập, vì thế tôi chọn đề tài “Giải
quyết khiếu nại về đất đai của Ủy ban nhân dân tỉnh Gia Lai” làm luận văn của
mình.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn
Hiện nay theo tôi tìm hiểu và được biết thì số lươ ̣ng các công trình nghiên
cứu về công tác giải quyết khiếu nại nói chung và giải quyết khiếu nại về lĩnh vực
đất đai nói riêng đã có nhiều tác giả thực hiện. Những năm gần đây đã có nhiều
công trình khoa học được công bố liên quan đến khiếu nại và giải quyết khiếu
nại, được nghiên cứu ở nhiều góc độ khác nhau. Có thể chia các công trình thành
02 nhóm vấn đề sau:
- Các tài liệu chuyên khảo, giáo trình phục vụ nghiên cứu và giảng dạy có
đề cập đến khiếu nại và giải quyết khiếu nại như: “Đặc san tuyên truyền pháp luật
số 9”, của Hội đồng phối hợp công tác phổ biến, giáo dục pháp luật của Chính
3



phủ (2009); “Hiệu quả pháp luật về giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân ở
Việt Nam”, Nxb Chính trị - Hành chính Hà Nội (2012); “Cơ chế bảo đảm và bảo
vệ quyền con người”, của GS.TS. Võ Khánh Vinh - Viện khoa học xã hội Việt
Nam; "Giải đáp Luật hành chính Việt Nam, Chương XIX", của TS. Phạm Hồng
Thái và TS. Đinh Văn Mậu, Nxb. thành phố Hồ Chí Minh (1996); "Giáo trình
Luật hành chính Việt Nam, Chương XXI, Chương XXII", của Đại học Quốc gia Hà
Nội, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội (2005); "Tìm hiểu pháp luật về khiếu nại, tố
cáo", của PGS.TS Phạm Hồng Thái (Chủ biên), Nxb thành phố Hồ Chí Minh
(2003).
- Luận văn và Luận án tốt nghiệp như: “Giải quyết khiếu nại đất đai trên
địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc hiện nay”, Luận văn Thạc sỹ quản lý công của Nguyễn
Thị Thúy Hằng; “Giải quyết khiếu nại hành chính trong lĩnh vực quản lý nhà
nước về đất đai ở nước ta hiện nay”, Luận văn Thạc sĩ quản lý hành chính công
của Trương Tiến Dũng; “Một số giải pháp nhằm tăng cường hiệu quả công tác
giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân”, Luận văn Thạc sỹ luật học của Phạm
Văn Long; “Giải quyết khiếu nại về đất đai trên địa bàn thành phố Buôn Ma
Thuột, tỉnh Đắk Lắk”, Luận văn Thạc sỹ quản lý hành chính công của Nguyễn
Quang Huy; “Giải quyết khiếu nại, tố cáo của Thanh tra tỉnh Đắk Lắk”, Luận
văn Thạc sỹ quản lý công của Vũ Văn Hưng; “Bảo đảm pháp lý thực hiện quyền
khiếu nại hành chính của công dân ở nước ta hiện nay”, Luận án Tiến sỹ của
nghiên cứu sinh Nguyễn Tuấn Khanh; "Tăng cường hiệu lực của pháp luật trong
việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân Việt Nam hiện nay", Luận án Tiến
sĩ luật học của Nguyễn Thế Thuấn.
Mỗi công trình nghiên cứu chọn cách tiếp cận ở những góc độ khác nhau.
Mặt khác, công tác giải quyết khiếu nại ở các địa phương khác nhau và trong
những giai đoạn khác nhau sẽ có những đặc thù khác nhau. Tuy nhiên, cho đến
nay chưa có một công trình nào đi sâu nghiên cứu và phân tích thực trạng giải
quyết khiếu nại về lĩnh vực đất đai của UBND tỉnh Gia Lai. Vì vậy, việc nghiên
4



cứu đề tài “Giải quyết khiếu nại về đất đai của Ủy ban nhân dân tỉnh Gia Lai” là
không trùng lặp.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
- Mục đích:
Thông qua hệ thống cơ sở lý luận, cơ sở pháp lý về giải quyết khiếu nại
trong lĩnh vực đất đai và thực trạng giải quyết khiếu nại về đất đai của UBND tỉnh
Gia Lai, luận văn đề xuất một số giải pháp nhằm bảo đảm giải quyết khiếu nại về
đất đai của UBND tỉnh Gia Lai trong giai đoạn tiếp theo.
- Nhiệm vụ:
Để hoàn thành mục đích nêu trên, luận văn tập trung giải quyết các nhiệm
vụ:
- Làm sáng tỏ những nội dung lý luận, pháp lý về khiếu nại và giải quyết
khiếu nại trong lĩnh vực đất đai; quan điểm của đảng, nhà nước đối với khiếu nại
và giải quyết khiếu nại trong lĩnh vực đất đai của công dân trong thời kỳ đổi mới.
- Đánh giá thực trạng giải quyết khiếu nại trong lĩnh vực đất đai của UBND
tỉnh Gia Lai thời gian qua, chỉ ra những kết quả đã đạt được, những mặt tồn tại,
hạn chế và những nguyên nhân chủ yếu.
- Đề xuất các giải pháp cơ bản nhằm bảo đảm giải quyết khiếu nại về đất
đai của UBND tỉnh Gia Lai hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
- Đối tượng nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là công tác giải quyết khiếu nại về đất
đai của UBND tỉnh Gia Lai.
- Phạm vi nghiên cứu:
Luận văn nghiên cứu hoạt động giải quyết khiếu nại về đất đai trong phạm
vi những vấn đề được quy định trong Luật Khiếu nại, Luật Đất đai và một số văn
bản pháp luật liên quan đến đất đai.


5


Với mục đích đặt ra của đề tài, luận văn chỉ tập trung nghiên cứu sâu việc
giải quyết khiếu nại về đất đai của UBND tỉnh Gia Lai trong giai đoạn từ năm
2011 đến năm 2015.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
- Phương pháp luận:
Luận văn được thực hiện trên cơ sở vận dụng những lý luận cơ bản của chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; hệ thống văn bản quy phạm pháp luật
hiện hành và tham khảo các công trình khoa học và bài viết của các tác giả có liên
quan.
- Phương pháp nghiên cứu:
Trong quá trình nghiên cứu, luận văn đã sử dụng các phương pháp nghiên
cứu cụ thể như: phương pháp nghiên cứu tài liệu; phương pháp phân tích, tổng
hợp; phương pháp tổng kết kinh nghiệm thực tiễn; phương pháp thống kê; phương
pháp so sánh.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Về lý luận:
Đây là công trình đầu tiên nghiên cứu, làm rõ các vấn đề chung về khiếu
nại, giải quyết khiếu nại, khái niệm, trình tự thủ tục của khiếu nại và giải quyết
khiếu nại trong lĩnh vực đất đai; xác định các yếu tố ảnh hưởng đến tình hình
khiếu nại, giải quyết khiếu nại trong lĩnh vực đất đai của UBND tỉnh Gia Lai.
- Về thực tiễn: Qua phân tích, đánh giá thực trạng công tác giải quyết khiếu
nại về đất đai của UBND tỉnh Gia Lai, luận văn đánh giá thực trạng khiếu nại và
giải quyết khiếu nại trong lĩnh vực đất đai của UBND tỉnh Gia Lai; nhận diện,
phân tích nguyên nhân dẫn đến tình trạng khiếu nại trong quản lý và sử dụng đất;
những tồn tại, hạn chế trong công tác giải quyết. Từ đó, đề xuất giải pháp nhằm
làm giảm các nguy cơ phát sinh khiếu nại và nâng cao trách nhiệm giải quyết
khiếu nại trong quản lý và sử dụng đất thuộc thẩm quyền của UBND tỉnh Gia Lai

trong thời gian tới.
6


Luận văn có thể cung cấp cho đội ngũ báo cáo viên, tuyên truyền viên và
cán bộ, nhân dân trên địa bàn tỉnh một số hiểu biết cơ bản về thực trạng khiếu nại
và giải quyết khiếu nại về đất đai theo quy định của pháp luật hiện hành, qua đó
tạo điều kiện tốt hơn cho việc tuyên truyền, phổ biến và vận động cán bộ, nhân
dân chấp hành pháp luật về lĩnh vực này.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo, luận
văn được kết cấu thành 3 chương, bao gồm:
Chương 1: Cơ sở lý luận và pháp lý giải quyết khiếu nại về đất đai của Ủy
ban nhân dân tỉnh.
Chương 2: Tình hình khiếu nại và thực trạng giải quyết khiếu nại về đất đai
của Ủy ban nhân dân tỉnh Gia Lai.
Chương 3: Quan điểm và giải pháp bảo đảm giải quyết khiếu nại về đất đai
của Ủy ban nhân dân tỉnh Gia Lai.

7


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ GIẢI QUYẾT
KHIẾU NẠI VỀ ĐẤT ĐAI CỦA ỦY BAN NHÂN DÂN TỈNH
1.1. Khiếu nại về đất đai và giải quyết khiếu nại về đất đai
1.1.1. Quan niệm về khiếu nại và khiếu nại về đất đai
1.1.1.1. Khiếu nại và quyền khiếu nại của công dân
Nhà nước ra đời trở thành công cụ bạo lực của giai cấp thống trị, thông qua
việc sử dụng nhà nước, giai cấp thống trị đã điều hòa được những mâu thuẫn giai

cấp trong xã hội, bảo vệ được quyền lợi của giai cấp mình. Tuy nhiên, bất kì nhà
nước nào muốn tồn tại và phát triển đều phải an dân và ổn định xã hội. Bởi, nếu
không có dân thì cũng không có nhà nước. Do vậy, trong hoạt động của mình,
mọi nhà nước đều có những quy định trong luật việc bảo vệ công dân của mình.
Về phía người dân, dù người có hiểu biết cao đến hiểu biết thấp đều nhận thức
rằng: dưới sự bảo hộ của nhà nước thì mọi quyền lợi của mình mới được bảo đảm,
được bảo vệ. Song, do bản chất của mỗi kiểu nhà nước khác nhau nên mức độ bảo
hộ cũng có khác nhau. Mặt khác, bản thân nhà nước cũng luôn mong muốn bộ
máy do mình lập ra, trong đó có đội ngũ quan chức nhà nước phải tuân thủ sự
điều khiển, quản lý của nhà nước, không muốn bất kì ai, tổ chức nào trong bộ máy
nhà nước lại phá vỡ những quy định (pháp luật) mà nhà nước đã đặt ra. Thế
nhưng, trong thực tiễn, từ nhiều lý do khác nhau, chẳng hạn, từ sự chi phối của lợi
ích, của tình cảm hay từ sự yếu kém trong quản lý mà một bộ phận nào đó đã vô
tình hoặc cố ý làm sai, thậm chí vi phạm nghiêm trọng những quy định của pháp
luật, làm thiệt hại đến lợi ích của nhà nước, quyền lợi hợp pháp của công dân, tổ
chức, xã hội. Những sai lầm, vi phạm đó rất khó giữ kín. Ở góc độ khác, mỗi công
dân trong hoạt động thực tiễn của mình, dù ít, dù nhiều đều có quan hệ với bộ
máy chính quyền nhà nước, với tổ chức xã hội và các công dân khác. Trong các
quan hệ đó, có lúc, có nơi với nhiều lý do khác nhau, những người trong bộ máy

8


công quyền cũng đã vi phạm đến lợi ích hợp pháp của công dân, và như vậy xuất
hiện khiếu nại.
Trong đời sống xã hội, khi quyền, lợi ích hợp pháp của công dân bị xâm
phạm từ phía các cơ quan nhà nước, người dân có quyền khiếu nại các cơ quan
nhà nước để đòi lại sự công bằng cho bản thân, đó là lẽ đương nhiên mà bất kỳ
người nào, thời đại nào cũng hiểu. Trong xã hội cũ, những hành vi vi phạm pháp
luật, trái đạo đức xã hội có một số người cho qua, bởi họ không tin vào sự phân

xử công bằng của nhà nước. Nhưng cũng có không ít người với trách nhiệm công
dân đã dũng cảm ra khiếu nại hành vi sai trái đó để bảo vệ lợi ích nhà nước, quyền
và lợi ích hợp pháp của bản thân, tập thể và xã hội. Chính vì lẽ đó mà khiếu nại
xuất hiện trong xã hội có giai cấp, có nhà nước là một tất yếu khách quan.
Về mặt tâm lý, khiếu nại xuất hiện trong ý chí chủ quan của người đi khiếu
nại. Trước hết những hành vi, hiện tượng vi phạm đó tác động vào nhận thức của
người ta và chỉ khi người ta thấy ức chế, cần giải tỏa bằng cách bày tỏ với cơ quan
nào đó để hy vọng được giải quyết thì họ mới yên lòng. Yếu tố tâm lý này cũng
lớn dần theo thời gian nếu như những khiếu nại đó không được xem xét giải quyết
kịp thời. Tuy nhiên, trong nhận thức của mỗi người, do trình độ bản thân, nhãn
quan, tư duy về vấn đề mà có người cho là vi phạm trầm trọng, có người cho là
không vi phạm. Mặt khác, nhiều trường hợp do không ở trong hoàn cảnh cụ thể
nên có người không hiểu được bản chất vấn đề, mới thấy hiện tượng đã suy luận
ra bản chất theo tư duy cá nhân của mình. Trong xã hội có người nhút nhát, ngại
va chạm, thậm chí đúng là lợi ích của mình bị vi phạm nhưng cũng không dám lên
tiếng phản đối. Ngược lại, cũng có những người luôn tưởng rằng, cho rằng mọi
người đều sai, lợi ích của mình đã bị xâm phạm. Chính vì vậy mà khiếu nại còn là
yếu tố tâm lý của con người.
Theo Đại từ điển Tiếng Việt, “khiếu nại” được hiểu là: “thắc mắc, đề nghị
xem lại những kết luận, quyết định do cấp có thẩm quyền đã chuẩn y”. [28;
tr.904].
9


Theo Từ điển Giải thích thuật ngữ Luật học thì “khiếu nại” là: Những đề
nghị của công dân, cơ quan, tổ chức với cơ quan nhà nước hoặc người có chức vụ
về sự vi phạm hoặc cho là vi phạm quyền và lợi ích chính đáng của họ; khiếu nại
được thể hiện dưới hình thức viết hoặc trình bày miệng. Nếu là khiếu nại viết thì
đơn khiếu nại phải được ký bởi chính người có quyền hoặc lợi ích bị vi phạm
hoặc người giám hộ của người đó, trong đó ghi rõ họ, tên, địa chỉ (hoặc nơi công

tác, học tập) [53; tr.3].
Dưới góc độ chính trị - pháp lý, khiếu nại là một trong những quyền cơ bản
của công dân được Hiến pháp, pháp luật quy định và bảo đảm thực hiện bởi bộ
máy nhà nước. Ở nước ta, từ năm 1959, Hiến pháp đã chính thức ghi nhận quyền
khiếu nại, tố cáo là một trong những quyền cơ bản của công dân. Cụ thể, Điều 29
Hiến pháp 1959 quy định: “Công dân nước Việt Nam dân chủ cộng hòa có quyền
khiếu nại và tố cáo bất kỳ cơ quan nào của nhà nước về những việc làm vi phạm
pháp luật của cán bộ, nhân viên cơ quan nhà nước. Các khiếu nại, tố cáo cần
phải được xem xét và giải quyết nhanh chóng. Người bị thiệt hại do những việc
làm trái pháp luật gây ra có quyền được bồi thường” [18; tr.7].
Theo thời gian, các quy định về quyền khiếu nại của công dân ngày càng
được hoàn thiện. Nếu như Hiến pháp 1959 chỉ quy định “Công dân… có quyền
khiếu nại và tố cáo bất kỳ cơ quan nào của nhà nước về những việc làm vi phạm
pháp luật của cán bộ, nhân viên cơ quan nhà nước…”, thì Hiến pháp 1980, Hiến
pháp 1992, Hiến pháp (sửa đổi) 2013 đã mở rộng phạm vi quyền khiếu nại của
công dân, đó là công dân có quyền khiếu nại và tố cáo những việc làm trái pháp
luật của “cơ quan, tổ chức, cá nhân”. Ngoài ra, Hiến pháp 1992, Hiến pháp (sửa
đổi) 2013 còn quy định rõ ràng, cụ thể hơn về vấn đề khiếu nại; theo đó, Hiến
pháp các giai đoạn trước quy định công dân được khiếu nại ở “bất cứ cơ quan
nhà nước nào” thì Hiến pháp 1992 quy định: “Công dân có quyền khiếu nại,
quyền tố cáo với cơ quan nhà nước có thẩm quyền” [21; tr.16], Hiến pháp (sửa
đổi) 2013 quy định: “Mọi người có quyền khiếu nại, tố cáo với cơ quan, tổ chức,
10


cá nhân có thẩm quyền” [22; tr.7]. Điều buộc cơ quan nhà nước phải có sự phân
định rõ ràng thẩm quyền giải quyết khiếu nại của công dân theo từng ngành, từng
cấp một cách có hệ thống.
Như vậy, có thể khẳng định rằng quyền khiếu nại là một trong những quyền
cơ bản của công dân được ghi nhận trong Hiến pháp; là một trong những phương

tiện để công dân, tổ chức sử dụng để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình;
là “quyền để bảo vệ quyền”, là phương tiện đấu tranh để đảm bảo các quyền khác
của công dân. Mặt khác, khiếu nại còn được coi là công cụ để công dân, tổ chức
giám sát việc thực thi quyền lực nhà nước của các cơ quan nhà nước. Thông qua
khiếu nại và giải quyết khiếu nại, nhà nước kiểm tra, giám sát hoạt động của bộ
máy nhà nước và hoàn thiện hoạt động quản lý của mình. Có thể nói, khiếu nại và
giải quyết khiếu nại là chính là cầu nối giữa công dân với Đảng, Nhà nước.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng dặn: “Đồng bào có oan ức mới khiếu nại
hoặc vì chưa hiểu rõ chính sách của Đảng và Chính phủ mà khiếu nại. Ta phải
giải quyết nhanh, tốt thì đồng bào thấy rõ Đảng và Chính phủ quan tâm đến
quyền và lợi ích của họ, do đó mối quan hệ giữa Nhân dân với Đảng và Chính
phủ càng được tốt hơn”.
Tóm lại, pháp luật về khiếu nại nước ta không ngừng phát triển, hoàn thiện
về cả nội dung và hình thức. Đặc biệt, trong công cuộc đẩy mạnh cải cách nền
hành chính thì việc đẩy mạnh công tác giải quyết khiếu nại của công dân và hoàn
thiện các chính sách, văn bản pháp luật về công tác giải quyết khiếu nại là cơ sở
quan trọng để hoàn thiện hệ thống pháp luật, góp phần vào công cuộc xây dựng
Nhà nước pháp quyền XHCN.
1.1.1.2. Khái niệm và đặc điểm khiếu nại về đất đai
a) Khái niệm khiếu nại về đất đai
Đất đai là tài sản của tự nhiên, có trước lao động và cùng với quá trình lịch
sử phát triển kinh tế - xã hội, đất đai là điều kiện lao động. Đất đai đóng vai trò
quyết định cho sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người. Nếu không có đất đai
11


thì rõ ràng không có bất kỳ một ngành sản xuất nào, cũng như không thể có sự tồn
tại của loài người. Đất đai là một trong những tài nguyên vô cùng quý giá của con
người, điều kiện sống cho động vật, thực vật và con người trên trái đất. Đất đai
tham gia vào tất cả các hoạt động của đời sống kinh tế, xã hội. Đất đai là địa

điểm, là cơ sở của các thành phố, làng mạc, các công trình công nghiệp, giao
thông và các công trình, dự án khác.
Vai trò của đất đai càng lớn hơn khi dân số ngày càng đông, nhu cầu dùng
đất làm nơi cư trú, làm tư liệu sản xuất, phát triển kinh tế - xã hội… Vì vậy, hiện
nay đất đai là vấn đề quan tâm chung của toàn xã hội, là vấn đề bức xúc nhất đối
với người dân, do liên quan đến lợi ích của từng cá nhân, cũng như tổ chức và
cộng đồng xã hội, đồng thời là lĩnh vực xảy ra nhiều tranh chấp, khiếu nại nhất.
Hiện nay, trong hệ thống pháp luật Việt Nam chưa có quy định chung
thống nhất về thuật ngữ khiếu nại đất đai. Theo quy định tại Khoản 1, Điều 2,
Luật Khiếu nại năm 2011, thì: “Khiếu nại là việc công dân, cơ quan, tổ chức hoặc
cán bộ, công chức theo thủ tục do Luật này quy định, đề nghị cơ quan, tổ chức, cá
nhân có thẩm quyền xem xét lại quyết định hành chính, hành vi hành chính của cơ
quan hành chính nhà nước, của người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính
nhà nước hoặc quyết định kỷ luật cán bộ, công chức khi có căn cứ cho rằng quyết
định hoặc hành vi đó là trái pháp luật, xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của
mình” [39; tr.1]. Theo quy định tại Điều 204 Luật Đất đai năm 2013 thì: Người sử
dụng đất, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến sử dụng đất có quyền
khiếu nại, khởi kiện quyết định hành chính hoặc hành vi hành chính về quản lý
đất đai [44; tr.119,120].
Trên cơ sở Luật Khiếu nại năm 2011, Luật Đất đai năm 2013 và các văn
bản hường dẫn thi hành, thì khái niệm khiếu nại đất đai được hiểu như sau: Việc
công dân, cơ quan, tổ chức hoặc cán bộ, công chức đề nghị cơ quan, tổ chức, cá
nhân có thẩm quyền xem xét lại quyết định hành chính, hành vi hành chính của cơ
quan hành chính nhà nước, của người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính
12


nhà nước trong quản lý đất đai khi có căn cứ cho rằng quyết định hoặc hành vi đó
là trái pháp luật, xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của mình.
b) Đặc điểm khiếu nại về đất đai

Là một hiện tượng xã hội nên khiếu nại có thể xảy ra ở nhiều lĩnh vực của
đời sống xã hội. Trong lĩnh vực quản lý hành chính nhà nước, quyền khiếu nại
của công dân là quyền khiếu nại hành chính. Khiếu nại về đất đai là một dạng đặc
biệt của khiếu nại hành chính, nên bên cạnh những đặc điểm chung của khiếu nại
hành chính, khiếu nại về đất đai còn mang những đặc trưng riêng khác với các
khiếu nại thuộc các lĩnh vực khác.
Xuất phát từ quan niệm khiếu nại về đất đai có thể nhận thấy chủ thể,
khách thể và đối tượng phát sinh trong quan hệ khiếu nại đất đai:
- Chủ thể khiếu nại về đất đai chỉ có thể là chủ thể của quyền quản lý và
quyền sử dụng đất, mà không phải là chủ thể của quyền sở hữu đất đai. Quyền sử
dụng đất của các chủ thể được xác lập dựa trên quyết định giao đất, cho thuê đất
của nhà nước, được nhà nước cho phép nhận chuyển nhượng từ các chủ thể khác
hoặc được nhà nước công nhận quyền sử dụng đất hợp pháp đối với diện tích đất
đang sử dụng. Như vậy, chủ thể của khiếu nại về đất đai là các tổ chức, hộ gia
đình, cá nhân tham gia với tư cách là người quản lý hoặc người sử dụng đất.
Theo Điều 5, Luật Đất đai 2013 thì người sử dụng đất được xác định gồm
07 nhóm đối tượng [44; tr.3,4]:
Thứ nhất, các tổ chức trong nước bao gồm cơ quan nhà nước, tổ chức chính
trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã
hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp, tổ chức kinh tế, tổ chức kinh tế - xã hội, tổ chức
sự nghiệp công, đơn vị vũ trang nhân dân và các tổ chức khác theo quy định của
Chính phủ được nhà nước giao đất, cho thuê đất hoặc công nhận quyền sử dụng
đất; tổ chức kinh tế nhận chuyển quyền sử dụng đất;
Thứ hai, hộ gia đình, cá nhân trong nước được nhà nước giao đất, cho thuê
đất hoặc công nhận quyền sử dụng đất, nhận chuyển quyền sử dụng đất;
13


Thứ ba, cộng đồng dân cư gồm cộng đồng người Việt Nam sinh sống trên
cùng địa bàn thôn, làng, ấp, bản, buôn, phum, sóc và các điểm dân cư tương tự có

cùng phong tục, tập quán hoặc có chung dòng họ được nhà nước giao đất hoặc
công nhận quyền sử dụng đất;
Thứ tư, cơ sở tôn giáo gồm chùa, nhà thờ, thánh thất, thánh đường, tu viện,
trường đào tạo riêng của tôn giáo, trụ sở của tổ chức tôn giáo và các cơ sở khác
của tôn giáo được nhà nước công nhận quyền sử dụng đất hoặc giao đất;
Thứ năm, tổ chức nước ngoài có chức năng ngoại giao gồm cơ quan đại
diện ngoại giao, cơ quan lãnh sự, cơ quan đại diện khác của nước ngoài có chức
năng ngoại giao được Chính phủ Việt Nam thừa nhận; cơ quan đại diện của tổ
chức thuộc Liên hợp quốc, cơ quan hoặc tổ chức liên chính phủ, cơ quan đại diện
của tổ chức liên chính phủ được Nhà nước Việt Nam cho thuê đất;
Thứ sáu, người Việt Nam định cư ở nước ngoài về đầu tư, hoạt động văn
hóa, hoạt động khoa học thường xuyên hoặc về sống ổn định tại Việt Nam được
Nhà nước Việt Nam giao đất, cho thuê đất, được mua nhà ở gắn liền với quyền sử
dụng đất ở;
Thứ bảy, tổ chức, cá nhân nước ngoài đầu tư vào Việt Nam theo pháp luật
về đầu tư được Nhà nước Việt Nam cho thuê đất.
- Khách thể của khiếu nại về đất đai là sự bảo đảm của nhà nước đối với
quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, cơ quan, tổ chức.
- Đối tượng của khiếu nại về đất đai là các quyết định hành chính hoặc
hành vi hành chính về quản lý đất đai của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền
trong thực hiện quyền hạn và trách nhiệm đại diện chủ sở hữu toàn dân về đất đai.
Tuy nhiên, không phải tất cả các quyết định hành chính, hành vi hành chính trong
quản lý và sử dụng đất đai đều là đối tượng của khiếu nại về đất đai. Qua nghiên
cứu các quy định của pháp luật về khiếu nại hành chính nói chung và khiếu nại về
đất đai nói riêng, thì đối tượng khiếu nại về đất đai được xác định như sau:

14


Quyết định hành chính là văn bản do cơ quan hành chính nhà nước hoặc

người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước ban hành để quyết định
về một vấn đề cụ thể trong hoạt động quản lý hành chính nhà nước được áp dụng
một lần đối với một hoặc một số đối tượng cụ thể.
Như vậy, quyết định hành chính về đất đai là những quyết định bằng văn
bản do các cơ quan hành chính nhà nước hoặc người có thẩm quyền trong cơ quan
hành chính nhà nước ban hành trong hoạt động quản lý nhà nước về đất đai, được
áp dụng một lần đối với một hoặc một số đối tượng cụ thể về một vấn đề cụ thể,
như: quyết định giao đất, cho thuê đất, thu hồi đất, trưng dụng đất, cho phép
chuyển mục đích sử dụng đất; quyết định bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà
nước thu hồi đất; cấp hoặc thu hồi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (GCNQSD
đất); quyết định gia hạn thời hạn sử dụng đất; quyết định giải quyết khiếu nại hay
xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai.
Hành vi hành chính là hành vi của cơ quan hành chính nhà nước, của người
có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước thực hiện hoặc không thực
hiện nhiệm vụ, công vụ theo quy định của pháp luật [39; tr.2].
Khác với quyết định hành chính phải được thể hiện bằng văn bản, thì hành
vi hành chính trong lĩnh vực đất đai được biểu hiện bằng hành động hoặc không
hành động của cán bộ, công chức có thẩm quyền liên quan đến đất đai, tức không
thực hiện nhiệm vụ của mình theo quy định pháp luật, qua đó xâm phạm tới
quyền, lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân thì vẫn là đối tượng khiếu
nại hành chính.
Những trường hợp sau bị xem là vi phạm Luật Đất đai [9; tr.87,88]:
Vi phạm quy định về hồ sơ và mốc địa giới hành chính bao gồm các hành vi
sau: Làm sai lệch sơ đồ vị trí, bảng tọa độ, biên bản bàn giao mốc địa giới hành
chính; cắm mốc địa giới hành chính sai vị trí trên thực địa.
Vi phạm quy định về quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất bao gồm các hành vi
sau: Không tổ chức lập, điều chỉnh quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất kịp thời theo
15



quy định; không thực hiện đúng quy định về tổ chức lấy ý kiến nhân dân trong
quá trình lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất; không công bố quy hoạch, kế
hoạch sử dụng đất; không công bố việc điều chỉnh hoặc hủy bỏ việc thu hồi hoặc
chuyển mục đích đối với phần diện tích đất ghi trong kế hoạch sử dụng đất mà sau
03 năm chưa có quyết định thu hồi đất hoặc chưa được phép chuyển mục đích sử
dụng đất; không báo cáo thực hiện quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất.
Vi phạm quy định về giao đất, cho thuê đất, chuyển mục đích sử dụng đất
bao gồm các hành vi sau: Giao đất, giao lại đất, cho thuê đất không đúng vị trí và
diện tích đất trên thực địa; giao đất, giao lại đất, cho thuê đất, cho phép chuyển
mục đích sử dụng đất không đúng thẩm quyền, không đúng đối tượng, không phù
hợp với kế hoạch sử dụng đất hàng năm cấp huyện đã được cơ quan nhà nước có
thẩm quyền phê duyệt; giao lại đất, cho thuê đất trong khu công nghệ cao, khu
kinh tế, cảng hàng không, sân bay dân dụng không phù hợp với quy hoạch xây
dựng đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt.
Vi phạm quy định về thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư bao gồm
các hành vi sau: Không thông báo trước cho người có đất bị thu hồi theo quy định
tại Điều 67 của Luật Đất đai; không công khai phương án bồi thường, hỗ trợ, tái
định cư. Không thực hiện đúng quy định về tổ chức lấy ý kiến đối với phương án
bồi thường, hỗ trợ, tái định cư. Thực hiện bồi thường, hỗ trợ, tái định cư không
đúng đối tượng, diện tích, mức bồi thường, hỗ trợ, tái định cư cho người có đất
thu hồi; làm sai lệch hồ sơ thu hồi đất; xác định sai vị trí và diện tích đất bị thu hồi
trên thực địa. Thu hồi đất không đúng thẩm quyền; không đúng đối tượng; không
đúng với quy hoạch sử dụng đất, kế hoạch sử dụng đất đã được cơ quan nhà nước
có thẩm quyền phê duyệt.
Vi phạm quy định về trưng dụng đất bao gồm các hành vi sau: Thực hiện
bồi thường không đúng đối tượng, diện tích, mức bồi thường, thời hạn bồi thường
cho người có đất bị trưng dụng; trưng dụng đất không đúng các trường hợp quy
định tại Khoản 1, Điều 72 của Luật Đất đai.
16



Vi phạm quy định về quản lý đất do được nhà nước giao để quản lý bao
gồm các hành vi sau: Để xảy ra tình trạng người được pháp luật cho phép sử dụng
đất tạm thời mà sử dụng đất sai mục đích; sử dụng đất sai mục đích; để đất bị lấn,
bị chiếm, bị thất thoát.
Vi phạm quy định về thực hiện trình tự, thủ tục hành chính trong quản lý và
sử dụng đất bao gồm các hành vi sau: Không nhận hồ sơ đã hợp lệ, đầy đủ, không
hướng dẫn cụ thể khi tiếp nhận hồ sơ, gây phiền hà đối với người nộp hồ sơ, nhận
hồ sơ mà không ghi vào sổ theo dõi; tự đặt ra các thủ tục hành chính ngoài quy
định chung, gây phiền hà đối với người xin làm các thủ tục hành chính; giải quyết
thủ tục hành chính không đúng trình tự quy định, trì hoãn việc giao các loại giấy
tờ đã được cơ quan có thẩm quyền ký cho người xin làm thủ tục hành chính; giải
quyết thủ tục hành chính chậm so với thời hạn quy định; từ chối thực hiện hoặc
không thực hiện thủ tục hành chính mà theo quy định của pháp luật về đất đai đã
đủ điều kiện để thực hiện; thực hiện thủ tục hành chính không đúng thẩm quyền;
quyết định, ghi ý kiến hoặc xác nhận vào hồ sơ không đúng quy định gây thiệt hại
hoặc tạo điều kiện cho người xin làm thủ tục hành chính gây thiệt hại cho nhà
nước, tổ chức và công dân; làm mất, làm hư hại, làm sai lệch nội dung hồ sơ.
- Cơ quan có thẩm quyền hoặc người có thẩm quyền trong cơ quan hành
chính là các cơ quan nhà nước thực hiện quyền hạn và trách nhiệm đại diện chủ
sở hữu toàn dân về đất đai, bao gồm: các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc
Chính phủ và UBND các cấp; Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Thủ
trưởng cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch UBND các cấp và các cá nhân có thẩm
quyền tại các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và UBND các cấp.
1.1.1.3. Các loại khiếu nại về đất đai
Nội dung khiếu nại về đất đai rất đa dạng và phức tạp. Theo đó, hoạt động
quản lý và sử dụng đất trong nền kinh tế thị trường diễn ra rất đa dạng, phong phú
với việc sử dụng đất vào nhiều mục đích khác nhau, với diện tích, nhu cầu sử
dụng khác nhau. Trong nền kinh tế thị trường, việc quản lý và sử dụng đất không
17



đơn thuần chỉ là việc quản lý và sử dụng một tư liệu sản xuất; đất đai đã trở thành
một loại hàng hóa đặc biệt, có giá trị thương mại, giá đất lại biến động theo quy
luật cung cầu trên thị trường, nên việc quản lý và sử dụng nó không đơn thuần chỉ
là việc khai thác giá trị sử dụng mà còn bao gồm cả giá trị sinh lời của đất (thông
qua các hành vi kinh doanh quyền sử dụng đất). Tất nhiên, khi nội dung quản lý
và sử dụng đất phong phú và phức tạp hơn thì những mâu thuẫn, bất đồng xung
quanh việc quản lý, sử dụng đất đai cũng trở nên gay gắt và trầm trọng hơn.
Nội dung khiếu nại về đất đai của các tổ chức, cá nhân rất đa dạng, phức
tạp, nhưng chủ yếu tập trung vào các vấn đề sau:
- Khiếu nại về thu hồi đất, bồi thường giải phóng mặt bằng, bố trí tái định
cư. Để thực hiện chính sách phát triển kinh tế - xã hội, nhà nước đã tiến hành thu
hồi đất, giải phóng mặt bằng phục vụ cho các dự án. Tuy nhiên, vấn đề bồi thường
và hỗ trợ, tiến hành tái định cư cho những đối tượng bị thu hồi đất ở nhiều địa
phương gặp không ít khó khăn, vướng mắc; tập trung chủ yếu ở 02 dạng sau:
+ Khiếu nại việc nhà nước thu hồi đất, bồi thường, giải phóng mặt bằng
trước khi có Luật Đất đai năm 2003. Các vụ việc khiếu nại này thường đã được
các ngành, các cấp giải quyết nhiều lần nhưng công dân vẫn tiếp tục khiếu nại.
Phần lớn những trường hợp này người dân có bị thiệt thòi do chính sách bồi
thường khi nhà nước thu hồi đất, song chưa giải quyết thỏa đáng hoặc do có sai
phạm trong quá trình thu hồi đất giải phóng mặt bằng, nay khiếu nại đòi bồi
thường theo giá mới.
+ Khiếu nại việc nhà nước thu hồi đất, bồi thường, giải phóng mặt bằng
trước để làm các dự án sau khi có Luật Đất đai năm 2003. Sau khi có Luật Đất đai
năm 2003 và các Nghị định hướng dẫn thi hành Luật, chính sách bồi thường khi
nhà nước thu hồi đất có sự thay đổi đáng kể theo hướng có lợi cho người có đất bị
thu hồi. Tuy nhiên, do quá trình thực hiện, nhiều địa phương định giá thấp hơn so
với giá thị trường hoặc nhiều trường hợp không vận dụng thực hiện quy định về
thỏa thuận mức giá bồi thường giữa người có đất bị thu hồi với người được giao

18


×