Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

Giáo dục tình yêu quê hương đất nước cho học sinh trường THPT lam kinh thông qua việc đọc hiểu các bài thơ mới

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (149.44 KB, 20 trang )

GIÁO DỤC TÌNH YÊU QUÊ HƯƠNG ĐẤT NƯỚC CHO HỌC SINH
TRƯỜNG THPT LAM KINH THÔNG QUA VIỆC ĐỌC HIỂU
CÁC BÀI THƠ MỚI.
1.
Mở đầu:
1.1. Lý do chọn đề tài:
Đất nước Việt Nam nhỏ bé nhưng ẩn chứa bao điều đặc biệt. Mỗi một vùng
quê đều mang một màu sắc riêng với những địa danh, phong tục, lễ hội độc đáo. Ở
đó còn có biết bao vị quê: Là vị mặn mòi của biển, là mùi thơm rơm rạ, là mát ngọt
bát nước chè xanh ... Những hình ảnh giản dị, thân thương ấy cứ như dòng suối
nhỏ, mát lành, là mạch nguồn nuôi dưỡng tâm hồn, tình cảm, trở thành cội nguồn
sức mạnh của mọi suy nghĩ hành động, sáng tạo trong mỗi người.
Thế hệ trẻ hôm nay đang lớn lên trong một thế giới hội nhập, thế giới của công
nghệ thông tin đa chiều, tiếp xúc với những nền văn hóa đa dạng nên nhiều học
sinh, sinh viên sống trong thế giới ảo, vô cảm trước truyền thống văn hóa dân
tộc, tình yêu quê hương, yêu gia đình ... Một bộ phận không nhỏ có lối sống
thực dụng, coi trọng giá trị vật chất, danh vọng. Họ trở nên lãnh cảm, thờ ơ
trước mọi người, mọi việc; Thờ ơ trước thời cuộc và yêu cầu phát triển của đất
nước. Trước tình hình ấy, nhiều câu hỏi được đặt ra: Phải chăng, lớp trẻ ngày
nay không có tình cảm yêu nước? Đem băn khoăn ấy hỏi nhà sử học Dương
Trung Quốc, ông khẳng định: “Lòng yêu nước của con người Việt Nam vẫn sâu
sắc, mạnh mẽ. Đã là người Việt Nam đều có lòng yêu nước. Khi có cơ hội, họ sẽ
thể hiện tình cảm đó của mình ... Vấn đề ở đây là chúng ta phải biết cách tập hợp
được lòng yêu nước, định hướng nó vào những lối phát triển đúng đắn...”
Như vậy, gia đình, nhà trường và xã hội phải đặt công tác giáo dục tình
yêu quê hương đất nước lên hàng đầu, coi đó là nhiệm vụ then chốt trong công
tác đào tạo con người.
Là một môn khoa học xã hội, giáo dục tình cảm yêu nước là một lợi thế
của môn Ngữ văn. Một bài học văn không chỉ giúp học sinh thấy cái cái hay, cái
đẹp của câu, từ, chữ nghĩa của tiếng mẹ đẻ. Quan trọng hơn, học sinh có thể
khám phá, chiêm ngưỡng những cảnh đẹp của quê hương đất nước, những giá trị


văn hóa, những truyền thống vẻ vang của dân tộc ... Từ đó thêm yêu quý, tự hào
về đất nước mình. Và thực tế, có những bài học Ngữ văn đã làm sống dậy hình
ảnh đất nước 4000 năm khí phách, hào hoa với với những con người mang tầm
vóc anh hùng, tầm vóc thời đại. Nhưng cũng có những bài học văn khô khan,
nhạt nhẽo, đơn giản chỉ cần nắm được nội dung và nghệ thuật của văn bản ...
Để góp phần vào việc nâng cao chất lượng dạy học Ngữ văn, quan trọng
hơn là giáo dục tình cảm yêu đất nước cho học sinh qua mỗi bài học, tôi xin
trình bày sáng kiến kinh nghiệm của mình về vấn đề: Giáo dục tình yêu quê
hương đất nước cho học sinh trường THPT Lam Kinh thông qua việc đọc
hiểu các bài thơ mới.
Với đề tài nghiên cứu này, tôi mong muốn sẽ góp phần vào việc giúp giáo
viên tiến hành một giờ dạy học hiệu quả hơn, học sinh yêu thích, hứng thú với
môn học hơn và đặc biệt, các em biết yêu quý, tự hào về mảnh đất mình đã sinh
ra; Giúp các em xác định lý tưởng sống đúng đắn, phát huy lòng yêu nước thông
qua các hành động cụ thế, phù hợp với hoàn cảnh.
1


1.2. Mục đích nghiên cứu:
Thông qua khảo sát sự tiếp nhận phần Thơ mới (1930 – 1945) của học
sinh để rút ra những thực trạng của việc dạy học văn nói chung, dạy các bài thơ
mới nói riêng. Từ đó:
- Giúp học sinh hiểu được khái niệm thế nào là yêu nước và truyền thống yêu
nước của dân tộc Việt Nam.
- Giúp học sinh có thêm hiểu biết về phong trào Thơ mới và tình yêu quê hương
đất nước biểu hiện trong Thơ mới.
- Nhằm giáo dục tình yêu quê hương đất nước, hình thành nhân cách cho học
sinh qua mỗi bài học.
1.3. Đối tượng nghiên cứu:
- Những thi phẩm Thơ mới trong chương trình Ngữ văn 11 – THPT.

- Học sinh các lớp 11B2, 11B5 – Trường THPT Lam Kinh – Năm học 2016 –
2017.
1.4. Phương pháp nghiên cứu:
- Phương pháp khảo sát, thống kê kết quả tiếp nhận Thơ mới 1930 – 1945 của
học sinh lớp 11 – trường THPT Lam Kinh.
- Phương pháp phân tích, so sánh, đối chiếu.
- Phương pháp nghiên cứu theo quan điểm tích hợp liên môn: Vận dụng kiến
thức của nhiều môn học có liên quan để giải quyết vấn đề.
- Phương pháp quy nạp, tổng hợp, khái quat.
2.
Nội dung:
2.1. Cơ sở lý luận:
2.1.1 Tầm quan trọng của việc giáo dục tình cảm yêu nước cho học sinh
trung học phổ thông.
2.1.1.1 Lòng yêu nước và truyền thống yêu nước của dân tộc Việt Nam:
Trong số những vấn đề cần giáo dục thế hệ trẻ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặt
lên hàng đầu vấn đề giáo dục tinh thần yêu nước, Trong năm điều Bác dạy thiếu
niên nhi đồng thì điều thứ nhất là “Yêu tổ quốc, yêu đồng bào”. Đối với thanh
niên, Bác yêu cầu “Trước hết là phải yêu tổ quốc, yêu nhân dân, phải có tinh
thần dân tộc vững chắc và tinh thần quốc tế đúng đắn”[1]. Tinh thần yêu nước,
như Bác khẳng định, là vốn quý, là sức mạnh tuyệt vời đã bao lần giúp dân tộc
ta đứng vững trước những thử thách nghiệt ngã của lịch sử.
Trong giáo dục đạo đức cho học sinh, việc giáo dục đạo đức truyền thống
của dân tộc là rất quan trọng. Những giá trị và chuẩn mực đạo đức truyền thống
của dân tộc Việt Nam được lưu giữ, truyền lại cho các thế hệ và không ngừng
được phát huy qua hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước hào hùng, oanh liệt.
Giá trị và chuẩn mực đạo đức truyền thống của cha ông ta tựu chung lại, có
những nội dung cơ bản:
Sống hòa thuận, đoàn kết, thương yêu đồng bào, đồng loại. “Thương
người như thể thương thân”, nhất là những người gặp hoạn nạn, khốn khổ. Tình

cảm mặn nồng đó thể hiện ở vô vàn hành vi ứng xử trong quan hệ cộng đồng
của người Việt Nam.
Sống thủy chung, biết ơn, tôn kính, noi gương những anh hùng, nghĩa sĩ
có công với dân, với nước. Người Việt Nam luôn hướng về tương lai nhưng
2


không bao giờ lãng quên quá khứ, quên tổ tông, không bao giờ vong ơn, bội
nghĩa. Tự ngàn đời nay, nhân dân ta luôn ghi nhớ những câu răn dạy như: “Uống
nước nhớ nguồn”, “Ăn quả nhớ kẻ trồng cây” …
Trong những chuẩn mực truyền thống đó thì yêu nước là một trong những
phẩm chất tốt đẹp nhất của con người. Nó có những biểu hiện rất đa dạng.
“Lòng yêu nước ban đầu là yêu những vật tầm thường: Yêu cái cây trồng trước
nhà, yêu cái phố nhỏ đổ ra bờ sông, yêu vị thơm chua mát của trái lê mùa thu
hay mùa cỏ thảo nguyên có hơi rượu mạnh...” (I. Ê ren bua – “Thời gian ủng hộ
chúng ta”). Yêu nước, là tự hào, tự tôn về đất nước; Là tình yêu thiên nhiên, yêu
lịch, sử, yêu giống nòi, yêu nét đẹp văn hóa, yêu tiếng nói mẹ đẻ; Yêu nước gắn
liền với lòng căm thù giặc, là ý chí quyết chiến, quyết thắng mọi kẻ thù xâm
lược; Yêu nước còn là khát vọng được cống hiến để xây dựng một đất nước
thịnh trị, trường tồn muôn thủa.
Như Bác Hồ đã từng nói: Tinh thần yêu nước là vốn quý, là sức mạnh tuyệt vời
đã bao lần giúp dân tộc ta đứng vũng trước những thử thách nghiệt ngã của lịch
sử. Người viết: “Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là một truyền thống
quý báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi tổ quốc bị xâm lăng, tinh thần ấy lại sôi
nổi, nó kết thành làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy
hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước”[2]. Tinh thần
yêu nước được hun đúc từ bao đời đã trở thành sức mạnh Việt Nam, biểu tượng
Việt Nam.
2.1.1.2. Vai trò, vị trí của thanh niên, học sinh trung học phổ thông trong
sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc.

Học sinh trung học phổ thông là thời kỳ đầu của lứa tuổi thanh niên, là lớp
người trẻ tuổi, có hoài bão, ước mơ và luôn khát khao hướng tới lý tưởng sống
cao đẹp. Đó là lứa tuổi có sức khỏe, trí lực dồi dào, ham hiểu biết, tự thể nghiệm
mình. Lứa tuổi có tính nhạy cảm với cái mới và cái đẹp, cái tiến bộ. Họ là lớp
người đại biểu cho tương lai của đất nước.
Học sinh THPT là một bộ phận thanh niên được giáo dục trong nhà
trường, được cả xã hội quan tâm chăm sóc, đào tạo bài bản, có mục đích trở
thành lực lượng lao động và quản lý xã hội; Là đội dự bị, nguồn lực chủ chốt
của đội ngũ trí thức, văn nghệ sĩ tương lai. Các em chính là lực lượng nòng cốt
đóng góp trí tuệ và sức lực cho sự thành công của sự nghiệp CNH, HĐH đất
nước. Sự phát triển lâu dài của xã hội phụ thuộc rất nhiều vào lứa tuổi này. Tại
Nghị quyết Hội nghị lần thứ 4 BCH trung ương Đảng (Khóa VII) đã nêu: “Sự
nghiệp đổi mới có thành công hay không, đất nước bước vào thế kỷ XXI có xứng
đáng trong cộng đồng quốc tế hay không, cách mạng Việt Nam có vững bước
trên con đường xã hội chủ nghĩa hay không, phần lớn tùy thuộc vào lực lượng
thanh niên, vào việc bồi dưỡng, rèn luyện thanh niên.
Tóm lại, trong công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc, thanh niên, học
sinh THPT có vai trò, vị trí hết sức quan trọng. Vì thế, Đảng và toàn dân ta phải
chăm lo bồi dưỡng, đào tạo thế hệ trẻ thành những con người vừa hồng vừa
chuyên xứng đáng là người chủ tương lại của nước nhà. Giáo dục lòng yêu nước
cho học sinh là không chỉ trang bị cho thế hệ trẻ những kiến thức cơ bản về lịch
sử dân tộc và thế giới mà mục đích lớn nhất là giáo dục chủ nghĩa yêu nước, các
3


giá trị truyền thống và cách mạng, góp phần xây dựng nhân cách, bản lĩnh con
người, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc.
2.1.1.3. Vai trò của môn Ngữ văn trong việc giáo dục tình cảm yêu nước
cho học sinh THPT.
Ngữ văn là một bộ môn khoa học gồm nhiều phân môn: Tiếng Việt, Đọc

văn, Làm văn. Mỗi phân môn đảm nhận một trọng trách trong việc cung cấp
kiến thức và rèn luyện kỹ năng thực hành giao tiếp bằng tiếng Việt cho học sinh.
Qua tiết học văn, học sinh không những trau dồi kiến thức, kỹ năng thực hành
tiếng Việt, làm văn, cảm thụ văn chương mà còn bồi dưỡng tư tưởng đạo đức,
rèn luyện nhân cách, hình thành và phát triển tinh thần yêu nước.
Giáo dục lòng yêu nước cho học sinh qua tiết học Ngữ văn trước hết là giáo
dục cho các em lòng yêu tiếng Việt, tiếng mẹ đẻ của dân tộc mình. Có nhận thức
rõ về tiếng Việt – Đó là nguồn tài sản vô giá gắn liền với vận mệnh đất nước. Từ
đó, có ý thức giữ gìn và phát triển tiếng nói dân tộc để bảo vệ đất nước.
Đặc biệt hơn , thông qua các tác phẩm văn học, học sinh thấy được vẻ
đẹp tâm hồn, nhân cách, khát vọng của cha ông. Các em hiểu biết rõ hơn, sâu
hơn về cuộc sống xung quanh và thậm chí chính bản thân mình. Từ cuộc đời,
tình cảm yêu nước của người khác, mỗi học sinh có thể tự liên hệ, so sánh, đối
chiếu để hiểu bản thân và tự hoàn thiện bản thân.
Giáo dục lòng yêu nước cho học sinh phải bắt đầu từ việc giáo dục cho
các em nhận thức được tình yêu quê hương , đất nước, ý thức xã hội chủ nghĩa
gắn chặt với nhau tạo nên sức mạnh của con người Việt Nam trong thời đại mới.
Một học sinh biết tự hào về dân tộc, nguồn gốc của mình, sẽ là một học sinh ít
làm điều sai trái hơn. Một học sinh biết ơn những người đã khai khẩn, bảo vệ và
vun đắp không gian em đang sống, từng con đường em đi, từng cuốn sách em
đang đọc sẽ là một đứa trẻ giàu lòng vị tha, nhân ái và sâu sắc.
Giáo dục bằng văn học hoàn toàn khác với những nguyên tắc áp đặt của
pháp luật hay những lời giáo huấn trực tiếp trong những bài giảng về đạo đức,
giáo dục công dân, lịch sử hay giáo dục quốc phòng. Văn học giáo dục con
người bằng con đường đi từ cảm xúc đến nhận thức, bằng cái thật, cái đúng, cái
đẹp, của những hình tượng sinh động, đầy sức thuyết phục. Có lẽ vì thế tác dụng
giáo dục của văn học không phải ngay lập tức mà dần dần thấm sâu nhưng rất
bền. Nó gợi ra những cảm nghĩ sâu xa về cuộc đời, con người, đất nước; Nó
gián tiếp đưa ra những bài học, những đề nghị về cách sống. Với những khả
năng ấy, văn học không chỉ có khả năng giúp con người biết cảm nhận và rung

động tinh tế, sâu sắc trước mọi vẻ đẹp của cuộc đời, hướng họ đến chân, thiện,
mỹ mà văn học còn góp phần hoàn thiện nhẫn cách con người, hướng họ đến
những hành động cụ thể, thiết thực vì một cuộc đời ngày càng tốt đẹp hơn.
Riêng với Thơ mới – Đã từng có một thời ta coi đó là tiếng nói tình cảm
cá nhân ủy mị, tiêu cực. Là những tư tưởng thoát ly thực tế, Là lời rên xiết đắng
cay của những con người không tìm thấy lý tưởng của cuộc đời. Tuy nhiên, cùng
với những thành quả đổi mới đất nước, những tác giả, tác phẩm văn học lãng
mạn được nhìn nhận khách quan,công bằng và trên tinh thần nhân văn. Chúng ta
không thể phủ nhận được rằng, trong Thơ mới, tình yêu quê hương đất nước
được thể hiện rất cảm động, thiết, giản dị mà sâu sắc. Và việc truyền bá, thưởng
4


thức những tác phẩm văn học lãng mạn cũng là một cách giáo dục lòng yêu
nước cho thế hệ trẻ hôm nay.
2.1.1.4. Ý nghĩa của việc giáo dục tinh thần yêu nước cho học sinh, thanh
niên:
Từ nhận thức về vị trí, vai trò của học sinh, thanh niên đối với công cuộc
bảo về và dựng xây đất nước, nhận thấy rằng, việc giáo dục tình yêu quê hương
đất nước cho các em có ý nghĩa vô cùng to lớn: Hình thành ở các em lòng mến
yêu, tự hào, gắn bó với quê hương. Từ đó, giác ngộ cho học sinh mục tiêu, lý
tưởng của Đảng, lập trường cách mạng, nâng cao bản lĩnh chính trị, lòng trung
thành với Đảng, với tổ quốc và nhân dân. Đây là yêu cầu quan trọng hàng đầu
và là phẩm chất cơ bản nhất của một người Việt Nam yêu nước.
Giáo dục tình cảm yêu nước là giúp cho học sinh có khả năng ứng phó
thông minh với những mưu đồ “diễn biến hòa bình” của chủ nghĩa đế quốc;
Chiến thắng mọi cám dỗ của tiền tài, danh vọng … nâng cao tinh thần cảnh giác
cách mạng, sẵn sàng đập tan mọi âm mưu phá hoại của kẻ địch.
Giáo dục tình cảm yêu nước cho học sinh là để cho các em thấy được nỗi
nhục của một đất nước nghèo nàn, lạc hậu, từ đó quyết tâm xây dựng một đất

nước giàu mạnh; Giúp các em kiên định, vững vàng với lý tưởng mình đã chọn,
có ý chí, bản lĩnh vượt qua mọi khó khăn, gian khổ để hoàn thành mọi nhiệm vụ.
Bên cạnh đó còn củng cố khối đoàn kết , tương thân, tương ái ở thế hệ trẻ để tạo
ra nguồn sức mạnh chung cho cả dân tộc.
Như vậy, giáo dục tình yêu quê hương đất nước cho thế hệ trẻ là nhằm
phát huy nội lực, phát huy tối đa nhân tố con người, chính điều này đóng một
vai trò quan trọng góp phần tạo nên sức mạnh chính trị - tinh thần của đất nước
trong thời kỳ hội nhập hôm nay. Và đây đã được xác định là cả một sự nghiệp
lớn của Đảng ta, cần có sự tham gia, chung sức, chung lòng của toàn hệ thống
chính trị - xã hội, toàn dân, mà nòng cốt là từng gia đình (tế bào của xã hội), nhà
trường, thầy cô. Bản thân từng học sinh cũng phải tự xác định trách nhiệm của
mình đối với gia đình, đối với xã hội thì chắc chắn sự nghiệp giáo dục trong
tương lai sẽ gặt hái được những thành tựu xứng đáng với lòng tin của nhân dân.
2.1.2. Thơ mới - Tiếng nói mới của cái tôi cá nhân mang tâm sự yêu nước
thầm kín.
2.1.2.1. Đôi nét về phong trào Thơ mới:
Đầu thập niên 30 của thế kỷ XX, văn hóa Việt Nam diễn ra một cuộc vận
động đổi mới thơ ca mạnh mẽ với sự xuất hiện một làn sóng thơ mới với cá tính
sáng tác độc đáo. Cuộc canh tân này đi vào lịch sử văn học với tên gọi Phong
trào Thơ Mới.
Vượt ra khỏi quỹ đạo của văn chương trung đại Phương Đông, bỏ qua
những quan điểm, tư tưởng nghệ thuật trung Hoa cổ và kiểu sáng tác ước lệ có
tính phi ngã, từ chối chất liệu chữ Hán, chữ Nôm và những quy phạm quá chặt
chẽ của hình thức văn chương trung đại, nền văn học Việt Nam hiện đại những
năm đầu thế kỷ đã chuyển động một cách mạnh mẽ về phía trước. Trong bước
tiến ấy, phong trào Thơ mới – Một cuộc cách mạng về thi ca về mặt danh chính
ngôn thuận có thể được đánh dấu ngày 10/03/1932 khi Phan Khôi in bài thơ
“Tình già” trên tờ “Phụ nữ Tân văn” – Bài thơ có ý nghĩa mở ra một lối thoát,
5



“một tiếng chuông cảnh tỉnh làng thơ giữa lúc đang triền miên trong cõi
chết”[3]. Từ đó, qua những chặng đường đấu tranh bằng cả lý luận và thực tiễn
sáng tạo với một loạt các tên tuổi sáng chói đã khiến phong trào Thơ mới trưởng
thành và giành chiến thắng hoàn toàn trước thơ cũ: Thế Lữ, Lưu Trọng Lư,
Nguyễn Nhược Pháp rồi đến Xuân Diệu, Huy Cận, Chế Lan Viên, Nguyễn Bính,
Hàn Mặc Tử … cùng một loạt các tác giả khác đã tạo nên một dàn hợp ca với
nhiều cung bậc độc đáo.
Khuynh hướng chung của thời kỳ Thơ mới là khuynh hướng lãng mạn, là
lý tưởng thẩm mỹ của cái “tôi” tác giả, thẩm mỹ hóa cuộc sống rối ren, tơi bời
của xã hội thực dân nửa phong kiến và là tâm trạng buồn sầu, u uất, lạc lõng
giữa dòng đời.
Đặc điểm nổi bật của phong trào Thơ mới là sự khẳng định cái tôi cá
nhân. Cái tôi với tư cách là một bản thể, một đối tượng nhận thức và phản ánh
của thơ ca đã xuất hiện như một tất yếu văn học. Thơ mới còn mang một nỗi
buồn, nỗi cô đơn sâu sắc, đó là nỗi buồn thế hệ, nỗi buồn của thời đại mất nước
tan nhà, nỗi buồn của những thanh niên trí thức không tìm thấy lý tưởng của
cuộc đời. Và vì bất mãn trước thực tại xã hội, các nhà thơ mới tìm đến thiên
nhiên và tình yêu như là một sự giải thoát. Ở đó, họ gửi gắm những tâm sự u ẩn
của mình, ở đó, họ thể hiện những khát khao mộng tưởng đẹp đẽ, và ở đó họ
cũng giãi bày tình cảm yêu nước kín đáo và thiết tha của những người dân mất
nước.
Chương trình Ngữ văn lớp 11 THPT dành 7 tiết để học các bài thơ mới:
“Vội vàng” – Xuân Diệu; “Tràng giang” – Huy Cận”; “Đây thôn Vĩ Dạ” – Hàn
Mặc Tử; Đọc thêm “Chiều xuân” – Anh Thơ; “Tương tư” – Nguyễn Bính và 2
tiết học bài nghị luận về Thơ mới “Một thời đại trong thi ca” – Hoài Thanh. Đó
là một thời lượng không nhỏ, đòi hỏi người giáo viên không chỉ hướng dẫn cho
học sinh khám phá, tìm hiểu cái hay, cái đẹp trong mỗi thi phẩm thơ mới. Quan
trọng hơn là từ chiều sâu của những thi phẩm đó, hình thành cho học sinh những
phẩm chất nhân văn, trong đó có tình yêu quê hương đất nước.

2.1.2.2. Tình yêu quê hương đất nước biểu hiện trong Thơ mới.
Đã có một thời, trong xã hội chúng ta quan niệm một cách đơn giản về
lòng yêu quê hương chỉ gắn liền với tình cảm công dân, ý thức trách nhiệm với
tổ quốc. Vì vậy, những bài thơ lãng mạn trong phong trào Thơ mới được xem là
tiếng nói tình cảm cá nhân ủy mị, tiêu cực. tuy nhiên, cùng với những thành quả
đổi mới đất nước, những tác phẩm lãng mạn được đưa vào chương trình học phổ
thông. Tiếp xúc với các tác phẩm của Xuân Diệu, Huy Cận, Hàn Mặc Tử,
Nguyễn Bính, Anh Thơ … chúng ta chợt nhận ra: Lòng yêu quê hương đất nước
có nội dung phong phú hơn nhiều.
Có thể thấy, Thơ mới là sự bứt phá ngoạn mục của thơ Việt Nam hồi đầu
thế kỷ XX để giã từ phạm trù văn học trung đại, gia nhập vào quỹ đạo văn học
hiện đại, là tiếng nói giải phóng cái tôi cá nhân – cá thể, một cái tôi nội cảm, cái
tôi sáng tạo. Những bài thơ gắn với tiếng nói cá nhân vẫn ẩn bên trong một tình
cảm yêu nước kín đáo, bộc lộ qua tình yêu con người, cảnh vật quê hương. Hình
ảnh quê hương đất nước hiện lên trong những thi phẩm ấy đã đem lại rung cảm
cho bao thế hệ. Một ngôi làng nhỏ, xinh xắn, yên bình đi vào nỗi nhớ, gắn kết ân
6


tình với xứ Huế trong “Đây thôn Vĩ Dạ” của Hàn Mặc Tử, làm ta yêu hơn cái
trong trẻo của nắng hàng cau, cái huyền ảo của bến sông trăng, cái bâng khuâng
sương khói mờ nhân ảnh của mảnh đất cố đô. Không gian của buổi chiều thu
cho đôi lứa tìm nhau trong “Thơ duyên” – Xuân Diệu cũng khiến ta cảm nhận
sắc thái thiên nhiên hòa hợp, quấn quít trên cây cỏ, chim muông, trên con đường
nhỏ nhỏ, sắc nắng trở chiều … Ta ngỡ ngàng khi phát hiện những vui buồn của
con người gửi cả vào trong sắc thái của mùa thu trong “Đây mùa thu tới”. Một
rặng liễu rủ, một sắc áo mơ phai, “nàng trăng tự ngẩn ngơ” … mùa thu thật quen
nhưng cũng thật lạ hiện lên qua hồn thơ say đắm của Xuân Diệu. Quê hương còn
hiện lên qua nỗi buồn mang tầm vóc vũ trụ của chàng thi sĩ Huy Cận – đứng trên
mảnh đất quê hương mà vẫn cảm thấy thiếu quê hương. Quê hương đẹp giản dị

trong “Chiều xuân” của Anh Thơ với bãi cỏ xanh, đàn bò hiền lành, mưa xuân
nhẹ nhẹ và những cô gái trẻ trung, gợi cảm … Tình yêu quê hương đất nước của
các nhà thơ mới được biểu hiện rất sinh động, cụ thể, phong phú. Đó là:
- Tình yêu quê hương thể hiện trong nỗi buồn của người dân mất nước:
Thơ mới là tiếng nói mới của cái tôi cá nhân, cái tôi sáng tạo xuất phát từ
mối quan hệ bất hòa trước thực tại trên cả hai phương diện: Nhân sinh và thẩm
mỹ. Nói đến cái tôi cá nhân là nói đến sự cô đơn. Biểu hiện thường trực của cô
đơn là nỗi buồn. Thơ mới ngập tràn nỗi buồn.
Nếu như văn trung đại có sự điều tiết rất lớn của lý trí, cái tôi cộng đồng
nên nỗi buồn ít được bộc lộ trực tiếp mà ẩn hiện sau ngôn từ, nấp sau cảnh vật,
thì Thơ mới không như vậy, nó để nỗi buồn ngang nhiên xuất lộ: Hôm nay trời
nhẹ lên cao / Tôi buồn không hiểu vì sao tôi buồn (Xuân Diệu). Nó thường hằng:
Với tôi, tất cả đều vô nghĩa / tất cả không ngoài nghĩa khổ đau. (Chế Lan Viên).
Nó dai dẳng: Tai nương nước giọt mái nhà / Nghe trời nặng nặng, nghe ta buồn
buồn. (Huy Cận)…
Nỗi buồn chất chứa trong Thơ mới có nguyên nhân trước hết là do bản
chất người nghệ sĩ, nhất là nghệ sĩ lãng mạn. Cơ chế văn chương lãng mạn là cái
tôi cô đơn – một trạng thái cảm xúc – tinh thần không được chia sẻ và không
chia sẻ được. Cô đơn là điều kiện sáng tạo, là phẩm chất nghệ sĩ, phẩm chất tài
năng lớn.\
Một nguyên nhân khác là các nhà thơ mới coi cái buồn, cái đau là một
phạm trù mỹ học. cái buồn đã thấm sâu vào quan niệm thẩm mỹ của các nhà thơ.
Huy Cận quan niệm: “Cái đẹp bao giờ cũng hơi buồn”, với Hồ Dzếnh thì:
“Tình mất vui khi đã vẹn câu thề / Đời chỉ đẹp những khi còn dang dở” …
Nỗi buồn Thơ mới vừa nằm trong quan niệm lại vừa là kết quả của sự tác
động ngoại cảnh. Cái tôi lý tưởng của thơ mới khi va đập thực tế nghiệt ngã của
thời đại – xã hội thực dân phong kiến – đã mất phương hướng, mất chỗ bấu víu,
đành phổ nỗi buồn vào thơ. Đâu đâu cũng bàng bạc nỗi buồn, đúng như Hoài
Thanh đã viết: “Đời chúng ta nằm trong vòng chữ tôi. Mất bề rộng ta đi tìm bề
sâu. Nhưng càng đi sâu càng lạnh. Ta thoát lên tiên cùng Thế Lữ, ta phiêu lưu

trong trường tình cùng Lưu Trọng Lư, ta điên cuồng với Hàn Mặc Tử, Chế Lan
Viên, ta đắm say cùng xuân Diệu. Nhưng động tiên đã khép, tình yêu không bền,
điên cuồng rồi tỉnh, say đắm vẫn bơ vơ. Ta ngơ ngẩn buồn trở về hồn ta cùng
Huy Cận”[4].
7


Thơ mới là thơ của những điệu cảm xúc buồn, song có thể quy về ba
dạng thức chính. Khi cái tôi đối diện với toàn cõi nhân gian (cả không gian và
thời gian), cá nhân nhận ra mình chỉ là hạt bụi nhỏ nhoi, nhận ra tình trạng lênh
đênh, phù du của phận người thì nảy ra mối sầu nhân thế - nỗi buồn phổ biến
của cái tôi lãng mạn, của thơ lãng mạn – tiêu biểu là Huy Cận – Một chiếc linh
hồn nhỏ, mang mang thiên cổ sầu.
Nỗi buồn trong thơ Hàn Mặc Tử là hành trình của cái tôi “đau thương”
trong cõi nhân gian mòn mỏi kiếm tìm, hoài vọng một tình yêu trần thế. Càng về
sau, nỗi cô đơn, buồn đau càng trở nên quằn quại, tuyệt vọng.
Nguyễn Bính thì nghiền ngẫm nỗi bi phẫn của một cái tôi lỡ dở trong biến
thiên thời cuộc. Ông tự nhận mình là “kiếp con chim lìa đàn”, ra đi “dan díu với
kinh thành” nhưng đơn côi, thất vọng giữa phố thị … Cái tôi trôi dạt ấy đành tìm
về với “thời trước” trong mộng tưởng, nhưng trên con đường về “chân quê” xa
lắc, những Thôn Đoài, Thôn Đông, làng Vân, làng Đặng cũng mờ mịt xa.
Cái buồn trong Thơ mới là cái buồn đẹp, thanh khiết và tích cực vì đó là
cái buồn của những tâm hồn chưa khô héo, chưa lạnh nhạt, thờ ơ, phó mặc trước
cuộc đời chung, buồn vì thời thế. Nỗi buồn thể hiện tình yêu với cuộc đời, với
đất nước.
- Tình yêu đất nước thể hiện qua tình yêu thiên nhiên say đắm, nồng nàn.
Miêu tả thiên nhiên, ca ngợi núi sông hùng vĩ, thể hiện các đề tài “phong,
hoa, tuyết, nguyệt” là di sản của thơ phương Đông. Nhưng chỉ khi Thơ mới ra
đời, với sự vươn lên thoát khỏi những gò bó, ràng buộc của xã hội, thay đổi
quan điểm thẩm mỹ, cách nhìn, cách nghĩ, phá bỏ hệ thống ước lệ cổ điển của

thi pháp văn học trung đại, quê hương và con người Việt Nam mới được nhìn
theo đúng sự gần gũi và chân thật của nó.
Thiên nhiên trong Thơ mới không tập trung, hạn định theo một số đề tài
nhất định mà mở rộng, phổ quát với nhiều không gian, nhiều hình tượng. Có
trăng, có hoa, có mùa xuân, mùa thu, có phố thị, có nông thôn … Và mỗi nhà
thơ lại có sự phát hiện, khám phá rất riêng về những hình tượng này: Tản Đà tìm
đến trăng để thoát tục, chạy trốn cuộc đời: Đêm thu buồn lắm chị Hằng ơi / Trần
thế em nay chán nửa rồi… ; Hàn Mặc Tử mơ về bến sông trăng với niểm hoài
vọng kín đáo về một mối tình chưa hẹn ước: Thuyền ai đậu bến sông trăng đó /
Có chở trăng về kịp tối nay …; Với quan niệm tương giao và tâm hồn tinh tế,
Xuân Diệu tạo nên những thơ trăng thật đẹp: “Trăng nhập vào dây cung nguyệt
lạnh / Hớp bóng trăng đầy miệng nhỏ xinh”; Không miêu tả “trăng mờ, trăng
ngẩn ngơ”, “trăng lả lơi” như một số thi nhân khác,Thế Lữ tả trăng ở chốn rừng
thiêng. Phong cảnh ấy thật hùng tráng, lãng mạn bởi hình tượng “Nào đâu
những đêm vàng bên bò suối / Ta say mối đứng uống ánh trăng tan” .
Hình tượng mùa xuân trong Thơ mới cũng vậy. Có những mùa xuân tươi
tắn đậm đà sắc quê trong thơ của Hàn Mặc Tử: “Trong làn nắng ửng, khói mơ
tan / Đôi mái nhà gianh lấm tấm vàng / Sột soạt gió trêu tà áo biếc / Trên giàn
thiên lý bóng xuân sang … ; Có những mùa xuân hồng hào, tình tứ, nồng căng
nhựa sống trong thơ Xuân Diệu: Của ong bướm, này đây tuần tháng mật / Này
đây hoa của đồng nội xanh rì / … Và này đây, ánh sáng chớp hàng mi / Mỗi
buổi sáng thần vui hằng gõ cửa / Tháng giêng ngon như một cặp môi gần … ;
8


Nhưng cũng có những mùa xuân buồn chán, bi quan trong cảm nhận của Chế
Lan Viên: Tôi có chờ đâu, có đợi đâu / Đem chi xuân đến, gợi thêm sầu / Với
tôi, tất cả đều vô nghĩa / tất cả không ngoài nghĩa khổ đau …
Quê hương chúng ta vốn có vẻ đẹp dân dã, bình dị nhưng không kém phần
quyến rũ, mê say, thiêng liêng, cao cả. Vẻ đẹp đó không ở đâu xa mà nằm ngay

quanh ta, ngay trong những phút giây hiện tại. quê hương với những ngôi làng
nhỏ bé, xinh xắn, những hàng cau lấp loáng trong ánh ban mai, những dòng
sông đỏ nặng phù sa, những bãi mía, nương dâu, những con đê làng, gốc đa, bến
nước … Muôn màu, muôn sắc, Thơ mới đã gợi lên được nét đẹp của thiên nhiên
quê hương thật đẹp và gợi cảm. Qua hình ảnh thiên nhiên, các thi nhân ca ngợi
vẻ đẹp của giang sơn tổ quốc, nói được nỗi đau của con người thiếu quê hương
ngay trên mảnh đất chôn rau cắt rốn của mình.
-Tình yêu đất nước thể hiện qua tình yêu cuộc đời, yêu con người tha thiết.
Con người Việt Nam vốn bình dị, đôn hậu, khỏe khắn, trẻ trung. Các nhà
thơ của phong trào Thơ mới hầu hết đều miêu tả con người với những phẩm chất
đó. Nếu như thơ ca cổ lấy thiên nhiên làm chuẩn mực cho cái đẹp, thì các nhà
thơ mới lại lấy chuẩn mực từ con người. Con người trong Thơ mới hiện ra rất rõ
nét, chân thật, không bị che lấp bởi cảnh vật thiên nhiên như thơ xưa. Đây là con
người trong thơ Xuân Diệu: Ta muốn ôm
Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn:
Ta muốn riết mây đưa và gió lượn,
Ta muốn say cánh bướm với tình yêu …
… Hỡi xuân hồng … ta muốn cắn vào ngươi!
Con người là chủ thể của thiên nhiên, bộc lộ khát khao mãnh liệt, hăm hở
trong sự khát thèm vô biên trước cuộc sống căng tràn, muốn tận hưởng cuộc đời
bằng tất cả mọi giác quan, muốn cháy lên để sống có ý nghĩa trong từng phút,
từng giây.
Cũng có lúc, con người xuất hiện cùng nỗi buồn: Ít nhiều thiếu nữ buồn
không nói / Tựa cửa nhìn xa nghĩ ngợi gì. Buồn mà rất thơ. Nỗi buồn từ thiên
nhiên lan tỏa sang con người, khiến cho con người muốn gần nhau hơn, hòa
hợp, hữu tình cùng cảnh vật. Con người trong thơ Xuân Diệu thể hiện rất rõ sự
thay đổi quan điểm thẩm mĩ của nhà thơ, ông đưa con người vào bức tranh thiên
nhiên để tôn thêm vẻ đẹp của quê hương đất nước.
Hàn Mặc Tử lại khác, ông say đắm vẻ đẹp con người Việt nam vì bóng
hình của một người con gái Huế dịu dàng, thanh thoát: Mơ khách đường xa,

khách đường xa / Áo em trắng quá nhìn không ra / ở đây sương khói mờ nhân
ảnh / Ai biết tình ai có đậm đà. Chất tình của con người ở đây nhiều hơn chất
hình. Bóng áo trắng của em đã trở thành một điểm sáng, mà cái “điểm sáng” ấy
trong tâm hồn con người không dễ ai cũng có thể khám phá ra được. Người Việt
Nam là vậy, e ấp, kín đáo, dịu dàng hầu như đã trở thành bản chất, không phơi
bày ra ngoài lộ liễu. Chính vì thế, khi miêu tả con người, các nhà thơ thường
khai thác vẻ đẹp ở chiều sâu tâm hồn hơn là đẹp nhan sắc bên ngoài.
Điều này, ta cũng bắt gặp trong thơ Nguyễn Bính – nhà thơ của thôn quê
Việt Nam. Con người trong thơ ông được phác họa và miêu tả với nét đẹp rất
quê mùa, trong sáng, dịu dàng, thanh khiết. Đó là những cô thiếu nữ chân quê
9


hồn hậu, chưa vương vấn bụi đời: “Em là con gái trong khung cửi / Dệt lụa
quanh năm với mẹ già / Lòng trẻ còn như cây lụa trắng / Mẹ thời chưa bán chợ
đường xa … Vẻ đẹp ấy chỉ có ở con người Việt Nam, và Nguyễn Bính đã cố
công khai thác, miêu tả theo cách của mình để góp vào thơ mới cách nhìn riêng
về con người Việt Nam, quê hương Việt Nam thân thiết.
Qua những thi phẩm Thơ mới, ta thấy quê hương và con người Việt Nam
hiện lên gần gũi, chân thực, sống động và gợi cảm. Vẻ đẹp ấy khiến ta hiểu thêm
và yêu thêm quê hương, đất nước mình.
- Tình yêu quê hương trong Thơ mới thể hiện trong tình yêu đối với
những làng quê truyền thống.
Thi ca Việt nam trước đó đã bao lần miêu tả vẻ đẹp của phong cảnh làng
quê. Song về cơ bản, hầu hết những bức tranh quê trong thơ cổ điển nặng tính
ước lệ nên màu sắc dân tộc còn mờ nhạt. Ngay cả Nguyễn Khuyến được Xuân
Diệu coi là “nhà thơ của làng cảnh Việt Nam” thì màu sắc dân tộc trong những
bức tranh quê của ông cũng chưa thật đậm đà, rõ nét. Phải đến Thơ mới, phong
cảnh làng quê mới thực sự “đậm đà phong vị quê hương” (Hoài Thanh). Con
đường làng trong thơ Huy Cận không còn xa lạ với “dặm liễu sương sa”, “ngàn

mai gió cuốn” mà gần gũi, thân thiết như bất cứ con đường nào của mỗi làng
quê Việt nam: “Đường trong làng hoa dại với mùi rơm”. Dòng sông của Anh
Thơ không ngập một màu tuyết trắng của Đường thi mà đúng là sông quê Việt
Nam với: “Mưa đổ bụi êm trên bến vắng / Đò biếng lười nằm mặc nước sông
trôi…Những sớm bình minh làng quê trong Thơ mới cũng thơm hương đồng đất
Việt Nam với “nắng hàng cau, nắng mới lên / Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
/ Lá trúc che ngang mặt chữ điền … Màu sắc Việt Nam trong những bức tranh
quê ấy không chỉ thể hiện ở những gì nghe được, nhìn thấy mà còn ở những cái
không thể nhìn ra, chỉ có thể cảm được: Không khí, thần thái, linh hồn của quê
hương, làng mạc. Anh Thơ, Đoàn Văn Cừ, Huy Cận … đều có những câu thơ,
bài thơ quê đặc sắc, gợi được cái hồn quê, tình quê đậm đà. Đặc biệt nhất vẫn là
Nguyễn Bính. Cho dù ông miêu tả cảnh quê hay mượn cảnh đẻ ký thác một nỗi
niềm, một tâm trạng thì thơ ông đều có khả năng thức dậy, ngân vang một hồn
quê xưa cũ: “Lợn không nuôi đặc ao bèo / Giầu không dây chẳng buồn leo vào
giàn / Giếng thơi mưa ngập nước tràn / Ba gian đầy cả ba gian nắng chiều …
Tình cảm dân tộc của thi sĩ Thơ mới còn được thể hiện sâu sắc trong việc khám
phá vẻ đẹp tâm hồn, phẩm chất của người dân quê, nhất là vẻ đẹp truyền thống ở
những người phụ nữ nông thôn. Họ là điểm hội tụ, kết tinh cho bao nét đẹp
truyền thống của con người Việt Nam. Nét đẹp quan trọng và nổi bật hơn cả ở
người phụ nữ nông thôn là phẩm chất chịu thương chịu khó, tần tảo đảm đang và
vị tha hết mình. Với họ, hạnh phúc, ý nghĩa của cuộc sống là được yêu thương,
được hy sinh vì gia đình, vì chồng con: “Mẹ tôi tóc bạc da mồi / Thắt lưng buộc
bụng một thời nuôi con …(Nguyễn Bính).
Bài thơ “Đường về quê mẹ” của Đoàn Văn Cừ lại rất thành công khi khắc
họa vẻ đẹp của người phụ nữ nơi làng quê ở một phương diện khác. Hình ảnh “u
tôi” mang nét đẹp truyền thống từ trang phục “Thúng cắp bên hông, nón đội
đầu / Khuyên vàng yếm thắm áo the nâu” đến phẩm chất thảo hiền, tần tảo sớm
khuya tận hiến cho chồng con. Với “u tôi” và nhiều người phụ nữ truyền thống
10



Việt Nam thì “dẫu phải theo chồng thân phận gái / Đường về quê mẹ vẫn không
quên” … vẻ đẹp tâm hồn người dân quê, nhất là vẻ đẹp của người phụ nữ đã
góp phần làm cho vẻ đẹp Việt Nam, tính cách Việt Nam tỏa sáng trong thơ.
Nặng tình với dân tộc, thi sĩ Thơ mới còn đặc biệt thiết tha, trân trọng vẻ đẹp
trong sinh hoạt văn hóa làng quê để từ đó, Thơ mới có hẳn một không gian văn
hóa làng quê. Các thi sĩ say sưa viết và viết đầy gợi cảm về ngày “hội làng”,
“hội cheo”, “hội chùa”, những đám cưới mùa xuân … rồi cảnh ngày Tết mồng
năm, Rằm tháng tám, “lễ vào hè” … Đặc biệt là tết Nguyên đán – Thơ mới có
hẳn một chùm thơ phong phú về đề tài này: “Chợ tết”, “Năm mới”, “Tết quê
bà”. (Đoàn Văn Cừ), “Chiều ba mươi tết”, “Đêm ba mươi tết”, “Ngày tết” (Anh
Thơ), “Xuân tha hương”, “Tết của tôi” (Nguyễn Bính) … Với bao phong tục cổ
truyền đẹp đẽ ấy, Têt với người dân quê thực sự là một sự kiện trọng đại, thiêng
liêng. Vì thế, khi phải xa quê khi tết đến, xuân về, mỗi người Việt Nam luôn
khắc khoải sống với tâm trạng nhớ da diết “Lênh đênh tóc rối cỏ bồng / Chiều
ba mươi tết ai không nhớ nhà” …
Có thể nói, chưa bao giờ trong thi ca trước đó, vẻ đẹp của văn hóa làng,
phong tục tập quán cha ông lại được miêu tả chân thực, sống động, phong phú
và hấp dẫn như trong Thơ mới. Chính ở những bài thơ hiện đại mà vẫn mang
phong vị chân quê này, những giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc được lưu
giữ, bảo tồn, và ở đó, những thi sĩ lãng mạn cũng thể hiện niềm tự hào, tình yêu
tha thiết của mình đối với quê hương, đất nước.
- Tình yêu quê hương đất nước trong Thơ mới thể hiện trong tình yêu
Tiếng Việt.
Thơ mới là một cuộc cách mạng trong thơ ca. Chưa bao giờ trên thi đàn
thơ Việt Nam lại có sự xôn xao, náo nức đến vậy. Tiếng Việt được thăng hoa với
những nỗi niềm cảm xúc mới mẻ, táo bạo, rạo rực vô cùng. Nhà phê bình Hoài
Thanh đã từng nhận xét: “Họ yêu vô cùng thứ tiếng trong mấy mươi thế kỷ đã
chia sẻ vui buồn với cha ông. Họ dồn tình yêu quê hương trong tình yêu Tiếng
Việt”[5].

“Họ” ở đây là các nhà thơ mới như Thế Lữ, Huy Thông, Huy Cận, Xuân
Diệu, Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử … Đó là thế hệ nhà thơ lãng mạn đang sống
và sáng tác trong thời kỳ nước ta bị thực dân Pháp đô hộ. trong hoàn cảnh đất
nước lúc bấy giờ, có nhiều cách thể hiện lòng yêu nước . Có người đi theo con
đường cách mạng, chấp nhận “dấn thân vô là phải chịu tù đày / Là gươm kề cổ,
súng kề tai / là thân sống chỉ coi còn một nửa” … Chấp nhận xả thân mình,
“Quyết tử cho tổ quốc quyết sinh”. Có người lựa chọn con đường thơ ca, văn
nghệ, gửi gắm hồn mình vào tiếng Việt. Và nếu các nhà thơ cách mạng dùng
tiếng Việt như một thứ vũ khí “mỗi vần thơ bom đạn phá cường quyền” thì thi sĩ
lãng mạn không như vậy. Với họ, tiếng Việt đã gói trọn vong hồn dân tộc bao
thế hệ. Vận mệnh dân tộc gắn bó với vận mệnh tiếng Việt. họ dùng tiếng nói dân
tộc để sáng tác thơ , duy trì tiếng nói và các thể thơ mang hồn cốt dân tộc. Qua
thơ, họ ngợi ca thiên nhiên đất nước, ngợi ca những giá trị văn hóa truyền thống
và cũng qua thơ, họ gửi gắm nỗi buồn mất nước.
Tiếng Việt là tiếng nói của dân tộc ta, đã hình thành lâu đời, chảy theo
dòng máu của nhân dân ta. Trải qua bao thăng trầm lịch sử, tiếng Việt ngày càng
11


giàu đẹp, thể hiện sức sống mãnh liệt vô cùng: … “Chưa chữ viết đã vẹn tròn
tiếng nói / Vầng trăng cao, đêm cá lặn sao mờ / Ôi tiếng Việt như bùn và như
lụa. / Óng tre ngà và mềm mại như tơ”[6] …
Chưa thể trở thành chiến sĩ cách mạng, nhà thơ cách mạng, các nhà thơ
mới đã dùng tiếng Việt để sáng tác thơ ca như là một cách giữ gìn, kế thừa và
tôn vinh di sản văn hóa dân tộc. Qua thơ, họ đã phát triển, đổi mới ngôn từ , làm
cho tiếng Việt trở nên phong phú, trong sáng, tinh tế và hiện đại. Trong khi văn
học trung đại sáng tác bằng chữ Hán, chữ Nôm và dùng các thể thơ Đường luật,
cáo, phú … thì các nhà thơ mới làm thơ bằng tiếng Việt, tôn vinh chữ quốc ngữ,
tôn vinh các thể thơ truyền thống như Lục bát, thơ bốn chữ, năm chữ … Họ coi
tiếng nói cha ông là hương hỏa quý giá , mang hồn thiêng dân tộc, nên đã trau

chuốt từ ngữ, hình ảnh để thể hiện ý tưởng.
Nhờ đổi mới về hình thức nghệ thuật, ngôn từ, câu chữ, hình ảnh, nhịp
điệu, các biện pháp tu từ … các nhà thơ mới đã thể hiện sinh động trong thơ
những hình ảnh, cảnh sắc, thần thái của cảnh trí non sông. Từ tiếng Việt mà
những hình ảnh “Của ong bướm, này đây tuần tháng mật / Này đây hoa của
đồng nội xanh rì, / Này đây lá của cành tơ phơ phất, / Của yến anh, này đây
khúc tình si” … Hoặc “ Nhà em có một giàu giầu / Nhà anh có một hàng cau
liên phòng” … trở nên cụ thể, sống động, gợi cảm chứ không ước lệ, chung
chung như trong thơ cổ nữa. Đấy là hình ảnh của quê hương, đất nước Việt
Nam, hiện lên bằng chính ngôn ngữ, tiếng nói của con người Việt Nam. Không
chỉ vậy, tiếng Việt còn có thể gợi lên những khát vọng mãnh liệt của con người
Việt Nam hôm nay – khát vọng sống nhiệt tình, cháy bỏng, có ý nghĩa trong
từng phút, từng giây của cuộc đời: “Ta muốn ôm … cả sự sống mới bắt đầu mơn
mởn / Ta muốn riết mây đưa và gió lượn. / Ta muốn say cánh bướm với tình yêu
… Có thể thấy, Thơ mới đã trau dồi tiếng Việt, làm cho ngôn ngữ thơ Việt Nam
uyển chuyển, hiện đại, mượt mà, chứa đựng nhiều năng lượng trữ tình. Đó cũng
là cách thi nhân ta gửi gắm tình cảm yêu nước thầm kín mà thiết tha của mình.
Từ Thơ mới, ta chợt hiểu ra yêu quê hương trước hết là phải là yêu
thương gắn bó với mảnh đất – con người quê hương, biết rung động trước những
vẻ đẹp của quê hương đất nước, vui buồn với vận mệnh dân tộc. Tình yêu quê
hương bắt đầu từ những điều nhỏ nhặt hàng ngày, những tình cảm đôi lứa, sự
gắn bó với gia đình, làng quê. Đó là tình cảm trong sáng nhất, cao cả và góp
phần làm thanh lọc tâm hồn con người. Đó cũng là tình cảm gắn kết cá nhân với
cộng đồng, tạo nên sự đồng cảm, sự lắng đọng sâu sắc và thường trực trong trái
tim con người. Chính sự gắn kết ấy làm nên sức mạnh đoàn kết dân tộc, thành ý
chí bất khuất, sức mạnh chiến đấu, quyết tâm bảo vệ đất nước, đánh đuổi ngoại
xâm, xây dựng đất nước đàng hoàng, to đẹp hơn.
2.2. Thực trạng vấn đề:
Trong các nhà trường hiện nay, việc dạy phần đọc hiểu văn học rất
được chú trọng vì đây là nội dung chính có trong bài thi THPT Quốc gia của học

sinh lớp 12. Tuy nhiên, khi tiếp cận các tác phẩm văn học, giáo viên chỉ chủ yếu
hướng dẫn học sinh tìm hiểu giá trị nội dung và những đặc sắc nghệ thuật của
tác phẩm văn chương mà ít khi chú ý đến nhu cầu, khát vọng, đặc điểm tâm,
sinh lý của học trò, từ đó lồng ghép tích hợp giáo dục tình cảm, kỹ năng sống
12


cho các em. Học sinh thì thờ ơ, thậm chí còn chán học văn, các em thích xem
phim, nghe ca nhạc nước ngoài hơn là đọc các tác phẩm văn học thấm đẫm tinh
thần nhân văn.
Nguyên nhân dẫn đến thực trạng này là bởi thực tế thời gian lên lớp rất
hạn chế. Mỗi tiết học 45 phút với các trình tự các bước lên lớp đầy đủ sẽ không
đảm bảo thời gian dạy nội dung của bài học cho nên, giáo viên thường bỏ qua việc
dạy tích hợp giáo dục tình cảm và kỹ năng sống cho học sinh. Một nguyên nhân
khác nữa là do sự phát triển của khoa học kỹ thuật, sự bùng nổ của công nghệ
thông tin, sự giao thoa, hội nhập giữa các nền văn hóa … đã làm xuất hiện nhiều
phương tiện và cách thức giải trí hiện đại, phù hợp với sự năng động của giới trẻ.
Trong khi đó, văn học là một môn nghệ thuật xây dựng hình tượng bằng hệ thống
ngôn từ. Những hình tượng ấy không có đường nét, sắc mầu, không có âm thanh,
ánh sáng để nhìn thấy, nghe thấy, cảm nhận thấy ngay bằng mắt, bằng tay … Hình
tượng văn học phải được cảm nhận bằng trí tưởng tượng, bằng những rung động
của tâm hồn, những thổn thức của con tim. Những hình tượng ấy chỉ được nhìn
thấy khi người ta trăn trở, quan tâm đến những vấn đề nhân bản của cuộc sống …
tất cả những điều này, dường như không phù hợp với đa số giới trẻ.
Thực tiễn việc dạy học Thơ mới ở trường THPT hiện nay cũng có nhiều điều
đáng bàn: Giáo viên chỉ thiên về khai thác từ ngữ, hình ảnh thơ mà chưa hướng dẫn
học sinh tìm hiểu nhân vật trữ tình, cái tôi trữ tình; Chưa hướng dẫn học sinh tìm ra
mạch cảm xúc, cao trào cảm xúc trong từng nhà thơ; Ít chú ý đến quan niệm nghệ
thuật và nhân sinh trong thơ mới. Việc hướng dẫn học sinh học bài ở nhà vẫn nặng
nề về hình thức, giáo viên chưa chú ý đến việc xây dựng hệ thống câu hỏi chuẩn bị

bài, ngay cả khâu kiểm tra bài trên lớp cũng chỉ dừng lại ở chỗ bắt học sinh tái hiện
lại kiến thức do thầy đã dạy ở bài trước hay yêu cầu học sinh thuộc lòng bài thơ …
Và vấn đề then chốt là học sinh chưa được phát huy tính tích cực trong học tập.
Làm việc theo lối mòn, tư duy theo những điều đã cũ … Hiệu quả bài dậy chưa
cao. Cũng vì thế mà tình cảm nhân văn chưa được xác định rõ.
Trong những năm học trước, chúng tôi đã làm một cuộc điều tra kết quả
tiếp nhận Thơ mới của học sinh một số lớp 11 – Trường THPT Lam Kinh. Quá
trình điều tra cho thấy đa số học sinh không có cảm hứng gì khi đọc Thơ mới.
Nhiều em không thuộc thơ, viết bài về Thơ mới với tình cảm hời hợt ..
2.3 Các giải pháp:
2.3.1. Khơi gợi hứng thú từ các giờ học văn bằng cách sử dụng các phương
pháp dạy học tích cực: Tạo tâm thế chủ động học tập, Sử dụng công nghệ
thông tin, tạo điểm nhấn bằng những lời bình hay, kiến thức sâu rộng …
Bộ môn ngữ văn hiện nay ít hấp dẫn đối với học sinh là vì những vấn đề
mà tác phẩm đặt ra không hiển thị ngay bằng hình ảnh, đường nét, sắc màu, âm
thanh mà ản sau câu chữ, lời văn. Trong khi đa số học sinh rất hiếu động, ít tập
trung tư duy, không nghiền ngẫm, chiêm nghiệm … Bởi thế, để truyền thụ
thành công ý tưởng trong một tác phẩm văn học, đầu tiên là phải tạo tâm thế chủ
động, hứng thú cho người học.
Tạo tâm thế thực chất là việc giáo viên tạo cho học sinh một tư thế vững
vàng, một tâm lý thoải mái, một niềm say mê, hứng thú khi tiếp cận một tác
phẩm văn học cụ thể. Tôi đã tạo ra sự hứng thú ấy bằng nhiều cách:
13


- Sử dụng lời vào bài hấp dẫn: Vì văn học là một môn nghệ thuật. học văn là
học cách khám phá cái đẹp của tự nhiên, cái đẹp của xã hội, của con người, nên
không chỉ dùng lý trí mà quan trọng hơn là phải giúp các em cảm nhận được vẻ
đẹp ấy bằng tâm hồn và rung động của con tim.
Giới thiệu bài mới hấp dẫn sẽ tạo ra một tâm thế nhập cuộc cho học sinh

đi vào tìm hiểu và chiếm lĩnh nội dung kiến thức bài học. Lời vào bài càng hấp
dẫn, mới mẻ, sáng tạo, càng có khả năng đánh thức xúc cảm thẩm mỹ và hứng
thú ở học sinh.Và đây là cách giới thiệu các bài Thơ mới:
+ Bài thơ “Vội vàng” – Xuân Diệu: Trong “Thi nhân Việt Nam”, nhà phê bình
Hoài Thanh nhạn xét về Xuân Diệu thật sâu sắc và chí lý: “Đó là nhà thơ mới
nhất trong các nhà thơ mới … Thơ Xuân Diệu là ngồn sống dào dạt chưa từng
có ở chốn nước non lặng lẽ này. Xuân Diệu say đắm tình yêu, say đắm cảnh
trời, sống vội vàng cuống quýt, muốn tận hưởng cuộc đời ngắn ngủi của mình.
Khi vui cũng như khi buồn, người đều nồng nàn tha thiết”[7].Nhận xét ây sẽ
được chứng minh đầy thuyết phục ở bài thơ “Vội vàng”.
+ Bài thơ “Tràng giang” – Huy Cận: Không biết tự bao giờ, hình ảnh những con
sông đã đi vào cuộc đời, đến tâm hồn mỗi con người sống trên xứ sở bốn nghìn
năm ruộng đồng sông nước và từ đó đi vào thơ ca, nhạc họa. Có một bài thơ về
sông mà lại gợi thức những nỗi niềm nhung nhớ quê hương của người con xa xứ
… đó là “Tràng giang”…
+ Bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ”: Ai cũng biết, Huế là một xứ xở mộng mơ, trữ tình. Huế
cổ kính với những đền đài, thành quách, Huế thâm nghiêm với những lăng tẩm, chùa
chiển, Huế dịu dàng với những điệu hò sông nước. Huế yên bình với những ngôi
làng xinh xắn, Huế mơ màng, huyền ảo với sông Hương … Bài thơ “Đây thôn Vĩ
Dạ” sẽ đưa ta đến Huế để chiêm ngưỡng cảnh sắc vẻ đẹp của con người nơi đây.
- Đọc diễn cảm, giảng bài hấp dẫn: Đầu tiên là phải đọc đúng chính tả, (thực
sự khắc phục nhược điểm người Thanh Hóa để phân biệt đúng dấu hỏi / ngã),
đọc truyền cảm, ngắt nhịp chính xác
Đọc bài thơ “Vội vàng”: Mạnh mẽ, dồn dập, dứt khoát ở đoạn đầu. Phần
giữa giọng trầm buồn, day dứt, tiếc nuối. Phần kết đọc nhanh, hối hả, gấp gáp,
với xúc cảm dâng trào.
Đọc bài “Tràng giang”: Da diết, trầm lắng, dư ba …
Khi giảng bài, cũng nên thay đổi giọng nói linh hoạt, phù hợp với nội
dung tác phẩm. tránh ngữ điệu trầm trầm, đều đều, buồn tẻ.
- Thu hút sự chú ý của học sinh bằng kiến thức sâu rộng, phong phú, sâu

sắc. Đây chính yếu tố quan trọng vào bậc nhất để tạo thiện cảm với các em học
sinh. Muốn làm được điều này, tôi đã phải tìm tòi, học hỏi, không ngừng nâng
cao trình độ hiểu biết và chuyên môn.
- Hỗ trợ bài giảng bằng đồ dùng dạy học hoặc ứng dụng công nghệ thông tin.
Do đặc điểm tâm sinh lý, lứa tuổi, học sinh THPT rất nhạy cảm với cái mới,
thích khám phá, tìm hiểu cái lạ. Những hình ảnh trực quan về phong cảnh, danh
lam, đất nước, con người nếu được trình chiếu trên màn hình sẽ giúp các em dễ tiếp
nhận và hiểu biết hơn. Nhờ có công nghệ thông tin, sẽ có những hình ảnh sinh
động, hấp dẫn về tác giả, tác phẩm, chi tiết về bài học. Bởi vậy, tôi đã lựa chọn
những hình ảnh phù hợp để học sinh tận mắt chiêm ngưỡng vẻ đẹp của quê hương.
14


Dạy bài “Vội vàng”, tôi chọn lựa những bức ảnh về mùa xuân tươi đẹp, có
ánh nắng, có đồng cỏ xanh, có sắc hoa, ong bướm …
Dạy “Tràng giang”: Chọn hình ảnh những dòng sông lớn mênh mang,
khoáng đạt, những ngọn núi hùng vĩ, những cánh đồng bát ngát …
Với “Đây thôn Vĩ Dạ” – Lựa chọn hình ảnh làng quê yên bình, dòng sông
Hương thơ mộng …
Qua những bức tranh sinh động ấy, học sinh tận mắt thấy vẻ đẹp của quê
hương mình từ đó thêm tự hào, yêu quý quê hương.
2.3.2. Tích hợp cùng các môn học: Lịch sử, địa lý, giáo dục công dân để
khơi gợi lòng yêu nước và trách nhiệm của thế hệ trẻ.
Qua quá trình giảng dạy ngữ văn nhiều năm ở trường phổ thông, bản thân
tôi rút ra một kinh nghiệm mà tôi cho rằng rất quý: Khi sử dụng kiến thức lịch
sử, địa lý vào bài giảng văn, học sinh sẽ chăm chú lắng nghe và tỏ ra rất hào
hứng, sôi nổi. các em phát biểu, tranh luận nhiều, giờ học hấp dẫn hơn. Mức độ
hiểu biết và tiếp thu bài của học sinh tốt hơn, hiệu quả giáo dục kỹ năng sống, lý
tưởng sống cho học sinh cao hơn.
Dạy bài thơ “Vội vàng”: Tôi dùng kiến thức văn hóa để giúp học sinh

thấy được nét đặc biệt trong quan niệm thẩm mỹ và nhân sinh của Xuân Diệu:
Trong khi những bạn thơ cùng thời với ông bế tắc, chán nản với cuộc đời, Xuân
Diệu vẫn nhìn thấy những cái đẹp, cái vui của cuộc sống trần thế; Trong khi các
bậc tiền bối lấy thiên nhiên làm thước đo chuẩn mực của cái đẹp thì Xuân Diệu
cho rằng chỉ có con người giữa tuổi xuân và tình yêu mới là sản phẩm kỳ diệu
nhất của tạo hóa, con người là đẹp nhất trên thế gian … và vì thế, Xuân Diệu đã
cổ vũ cho cách sống mạnh mẽ, nhiệt tình, sống quyết liệt và có ý nghĩa trong
từng phút giây của cuộc đời.
Với bài thơ “Tràng giang”, tôi giới thiệu, gợi mở cho học sinh dùng kiến
thức địa lý, văn hóa để tìm hiểu về sông Hồng ở phía bắc, sông Thâm, sông La ở
dải đất miền trung, dòng Trường giang của đất nước Trung Quốc; Bằng kiến
thức lịch sử, giúp học sinh hiểu được cuộc sống của nhân dân ta ở các làng quê
xưa, hiểu được bi kịch của dân tộc nói chung, bi kịch của người trí thức nói
riêng trong hoàn cảnh mất nước.
“Đây thôn Vĩ Dạ” – Bài thơ viết về một địa danh nổi tiếng, về một nỗi
lòng của một người đặc biệt. Giáo viên có thể dùng kiến thức Lịch sử, văn hóa
giúp học sinh có thêm hiểu biết về mảnh đất cố đô, nơi chứng kiến những sự
kiện lịch sử bi hùng của dân tộc, nơi lưu giữ những di sản văn hóa quý báu của
nhân loại. Kiến thức văn hóa giúp các em nhận thấy nét đặc trưng của làng quê
xứ Huế: Ngôi nhà nhỏ ẩn mình trong vườn cây ăn trái xum xuê, đặc trung con
người xứ Huế: E ấp, dịu dàng, kín đáo…; Kiến thức địa lý giúp các em thấy
được nét đẹp trong không gian mờ ảo khói sương,trong dòng chảy lững lờ,
khoan thai của Hương giang …
Trong các bài thơ “Chiều xuân”, “Tương tư”, ta cũng có thể gợi ý cho học
sinh tìm hiểu bối cảnh không gian làng quê xưa bằng các kiến thức lịch sử, địa
lý, văn hóa … Bằng sự tích hợp ấy, học sinh buộc phải tư duy, liên hệ nhiều hơn,
bắt buộc các em phải động não. Việc làm đó cũng kích thích các em lòng ham
học hỏi, tìm hiểu để hiểu rõ hơn về quê hương đất nước mình.
15



2.3.3. Dùng phương pháp đàm thoại, liên hệ, so sánh để học sinh cảm nhận
được vẻ đẹp của quê hương, từ đó biết yên mến, tự hào về mảnh đất mình
đã sinh ra.
Đàm thoại là phương pháp mà giáo viên căn cứ vào nội dung bài học khéo
léo đạt ra câu hỏi để học sinh căn cứ vào kiến thức đã có kết hợp với sự hướng
dẫn của giáo viên qua các thiết bị giảng dạy để làm sáng tỏ vấn đề.
Trong khi đàm thoại, khuyến khích học sinh tư duy, liên tưởng, tưởng tượng về
những vẻ đẹp mà bài thơ thể hiện, vẻ đẹp của quê hương mình, tình cảm của thi
nhân đối với đất nước, tình cảm của bản thân đối với quê hương.
Bên cạnh những câu hỏi hướng dẫn học sinh tìm hiểu nội dung, nghệ thuật
của tác phẩm, tôi đặt thêm các câu hỏi:
- Em hình dung như thế nào về vườn xuân, thiên đường trong “Vội vàng”?
- Hình ảnh “Tuần tháng mật”, “Ánh sáng chớp hàng mi”, “Tháng giêng
ngon như một cặp môi gần” được hiểu như thế nào?
- Cuộc đời trần thế trong thơ Xuân Diệu rất hấp dẫn. Còn trong đôi mắt của em?
- Lý tưởng sống của em và thanh niên ngày nay là gì?
+ Em hình dung như thế nào về bức tranh “Tràng giang”?, thôn Vĩ?
+ Hình ảnh làng quê xưa trong tưởng tượng của em?
+ Hình ảnh quê hương em có nét gì tương đồng với những bức tranh em vừa
chiêm ngưỡng trong “Tràng giang”, “Đây thôn Vĩ Dạ”, “Chiều xuân”? ...
+ Em cảm nhận được gì về nỗi lòng tác giả thể hiện qua mỗi bài thơ?
+ Tình cảm của em đối với quê hương mình?
+ Em sẽ làm gì để xây dựng cho quê hương đẹp hơn? ...
Bằng việc sử dụng các câu hỏi gợi mở và khuyến khích học sinh liên tưởng với
quê hương mình, tôi nhận thấy các em rất hứng thú, sôi nổi bàn luận, vì thế giờ
học rất sôi nổi và việc lồng ghép giáo dục ý thức công dân trở nên nhẹ nhàng,
hiệu quả hơn.
2.3.4. Dẫn dắt, phân tích để học sinh nhận thức về vẻ đẹp của ngôn ngữ
tiếng Việt – Tiếng nói của dân tộc Việt – nơi các nhà thơ mới gửi gắm tình

yêu nước thầm kín.
Ngôn từ là yếu tố thứ nhất của văn học. Sáng tạo, tiếp nhận văn học nói
chung và Thơ mới nói riêng không thể thiếu yếu tố này.
Trong dòng chảy của thơ ca Việt Nam, phong trào Thơ mới là một hiện tượng
độc đáo, đặc sắc. Trên hành trình sáng tạo, các nhà thơ mới đã đạt được những thành
công rực rỡ, đặt nền móng vững chắc cho công cuộc hiện đại hóa thơ Việt Nam. Thơ
mới được coi là cuộc “cách mạng thi ca” (Hoài Thanh) vĩ đại của thế kỷ XX. Song đó
không phải là cuộc cải tạo theo kiểu bỏ cũ thay mới. Các nhà thơ mới bằng tài năng
sáng tạo phi thường đã tạo nên mạch nối giữa thơ ca hiện đại với thơ ca truyền thống,
với mạch nguồn dân tộc. Điều đó được chứng minh bằng sự xuất hiện và trường tồn
của dòng Thơ mới mang phong vị dân gian với những tên tuổi: Anh Thơ, Bàng Bá
Lân, Đoàn Văn Cừ … Đặc biệt, sự hiện diện của thi sĩ “chân quê” Nguyễn Bính khiến
thơ mới trở thành nơi thăng hoa và kết tinh hồn quê, tình quê bằng chất liệu ngôn từ và
lối diễn đạt mang đậm chất chân quê. Đó cũng là cách các thi nhân lãng mạn gửi gắm
nỗi niềm nhớ thương đất nước, quê hương.
16


Trong quá trình dạy, tôi đã hướng dẫn học sinh tìm hiểu và thưởng thức vẻ đẹp
của quê hương trong bài thơ “Tương tư” – Nguyễn Bính. Vẻ đẹp chân quê trong bài
thơ này không chỉ ở cách sử dụng thể loại lục bát cùng những hình ảnh quen thuộc,
biện pháp so sánh truyền thống mà còn ở cách kết cấu “có hậu” ở cuối bài thơ.
Ngôn từ trong bài thơ mộc mạc, khiêm nhường, khiến lời nói bóng gió trở
nên tinh tế và cũng rõ ràng, mạch lạc: Tương tư, hờn trách, ước mong … để tỏ
tình. Lấy không gian quê để thổ lộ tâm sự, cảnh sắc gần gũi với những miền quê
Bắc Bộ: Con đò, dòng sông, mái đình, bến nước … bài thơ phảng phất không
gian lãng mạn nhưng rất bình dị, thân quen. Bằng cách sử dụng lời ăn tiếng nói
mang phong vị dân gian, nhà thơ đã gìn giữ hồn cốt cha ông, lưu giữ bản sắc văn
hóa dân tộc và truyền cho mai sau tình yêu, niểm tự hào về đất nước.
Thơ mới không chỉ lưu giữ phong vị, hồn cốt dân gian, mà còn tiếp thu,

sáng tạo ngôn ngữ thơ trữ tình trung đại. Các nhà thơ mới đã tiếp nhận tinh thần
đổi mới này từ Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương, Cao Bá Quát … và làm cho ngôn
ngữ thơ ca dịch chuyển gần hơn với ngôn ngữ truyền thống, gần hơn nữa với lời
ăn tiếng nói của nhân dân. Dạy “Tràng giang”, tôi gợi mở, hướng dẫn cho học
sinh thấy được điều này. “Tràng giang” là bài thơ mang đậm phong vị cổ điển từ
thi hứng, cảm xúc chủ đạo, hình ảnh thiên nhiên, con người, cách sử dụng ngôn
ngữ … “Tràng giang” cũng đậm chất hiện đại. Cái mới mẻ, sáng tạo này nằm
trên chính những yếu tố truyền thống của thơ ca trung đại.
Nhan đề “Tràng giang” mang sắc màu cổ kính, xa xưa, gợi liên tưởng về
sông Trường Giang đầy ắp những dữ liệu văn hóa, thi ca. Nhưng với việc đổi
mới, sáng tạo biến “Trường” thành “Tràng”, dòng sông ấy đã mang sắc màu dân
tộc và hiện đại – dòng sông dài, rộng của quê hương Việt Nam, dòng sông
mang nỗi niềm của con người Việt Nam …
Bên cạnh những hình ảnh, cách nói ước lệ, bóng gió, cầu kỳ, “Tràng
giang” còn có những hình ảnh, những cách nói giản dị, thô ráp, mang hơi thở
đời thường. “Củi một cành khô lạc mấy dòng” - Câu thơ đã tạo ra được nỗi ám
ảnh về thân phận con người nhỏ bé, cô đơn, vô nghĩa, lạc loài trên dòng đời vô
tận – đó cũng là nỗi niềm của con người sống trong thời đại mất nước đầu thế
kỷ; Sự sáng tạo trong cách diễn đạt: “Nắng xuống, trời lên sâu chót vót” khiến
không gian vũ trụ mở rộng đến tận cùng, vô biên. Đất trời, sông nước dài, rộng,
cao, sâu thăm thẳm, diệu vợi, vì thế mà sự sống càng mong manh, nhỏ bé …
Đặc biệt nhất trong “Tràng giang” là sự sáng tạo tứ thơ Đường của Thôi
Hiệu. Nhà thơ mới mượn ý thơ của người xưa và dùng cách nói của mình để
trực tiếp bộc lộ tình cảm nhớ quê, nhớ nước. “Không khói hoàng hôn cũng nhớ
nhà” - Lời thơ giản dị như một lời tâm sự, giản đơn, mộc mạc mà da diết, sâu
xa đến vô cùng. Tiếp thu thơ phương Đông nhưng Thơ mới đã thoát khỏi sự
mực thước, đoan trang, u trầm của thơ phương Đông để tạo cho ngôn từ một
dáng vẻ trẻ trung, hiện đại.
Thơ mới đã góp phần căn bản cải tạo thơ tiếng Việt. Ngôn từ thơ mới là
phương diện thể hiện đậm nét dấu ấn dân tộc. Điều đáng nói là ngay cả những

nhà thơ đã khoác lên mình bộ y phục tân kỳ của phương Tây hiện đại vẫn giữ
được cái cốt cách phong nhã của điệu thơ Việt Nam. Sự gặp gỡ giữa tư duy
17


hiện đại phương Tây và tư duy truyền thống phương Đông đã chứng tỏ rằng:
Mọi sự cách tân văn học chân chính đều phải cắm rễ rất sâu vào quá khứ.
Giáo viên phải chỉ cho học sinh thấy được vẻ đẹp của Thơ mới là vẻ đẹp của
cuộc đời với những rung động, sự xôn xao của con tim gắn với cách nhìn, cách
diễn đạt mới mẻ về thế giới. Với cái nhìn tinh thế, nhạy cảm, với những đôi mắt
trẻ trung, tươi non, biếc rờn ngơ ngác, các thi sĩ lãng mạn đã tạo ra một thế giới
ngôn từ rất lạ: Hơn một loài hoa đã rụng cành / trong vườn sắc đỏ giủa màu xanh
– “Đây mùa thu tới”; Nắng xuống, trời lên sâu chót vót / Sông dài trời rộng bến
cô liêu – “Tràng giang”; Ta muốn ôm ... Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi –
“Vội vàng” ... Sử dụng ngôn ngữ truyền thống, yêu quý, gìn giữ, phát huy tiếng
nói của mẹ đẻ, bảo tồn, sáng tạo và làm phong phú tiếng nói của dân tộc mình
chính là cách các thơ mới thể hiện tình yêu đối với đất nước, quê hương.
2.3.5. Cho học sinh viết bài hoặc vẽ tranh về bài học, về quê hương của mình.
“Quê hương trong lòng tôi” là cuộc thi đơn giản nhưng thực sự có ý
nghĩa mà người giáo viên dạy văn nên tổ chức để học sinh tham gia. Từ những
tác phẩm văn học viết về quê hương, từ tình cảm thầm kín mà thiết tha của các
nhà thơ lãng mạn, hãy đánh thức yêu quê hương trong mỗi học sinh bằng cách
khuyến khích các em viết, vẽ, hát về quê hương mình.
Tại trường THPT Lam Kinh, chúng tôi đã thực hiện dự án này và học sinh
tham gia rất hào hứng, nhiệt tình. Qua các bài viết, các bức tranh em vẽ, quê
hương của mỗi người hiện lên thật đẹp. Quê hương là tuổi thơ, là những kỷ niệm
ngọt ngào, êm ả; Quê hương có những phong cảnh thiên nhiên đẹp, có di tích lịch
sử, có không gian riêng tư của mỗi người; Quê hương có tổ tiên, ông bà cha mẹ,
là bến bờ bình an, hạnh phúc … Cuộc thi đã giúp các em xích lại gần nhau hơn,
có thêm hiểu biết về những vùng quê đất nước, có chung niềm đồng cảm, mến

yêu, tự hào về quê mình, có chung lý tưởng xây đắp, bảo vệ giang sơn, tổ quốc.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm:
Sau khi áp dụng các biện pháp trên, tôi thấy hiệu quả học tập ở học sinh
được nâng cao rõ rệt. Các em nhiệt tình học tập, nhiệt tình thuộc lòng nhiều bài
thơ mới. Chất lượng bài viết về quê hương rất tốt, nhiều bức tranh vẽ về quê
hương rất sinh động. Quan trọng hơn là qua mỗi tác phẩm, các em đều thể hiện
rõ tình cảm mến yêu, tự hào về đất nước, quê hương mình.
Nhìn vào bảng thống kê kết quả học tập của các lớp 11A1, 11A5 năm học
2015 - 2016 và hai lớp 11B2, 11B5 năm học 2016 – 2017 (Sau khi áp dụng
SKKN), ta sẽ thấy rõ điều này.
- Về tình cảm đối với các bài Thơ mới và khả năng học thuộc lòng bài thơ.
Lớp

Sĩ số

Thích học

Không thích

Thuộc thơ

Không thuộc

11A1

45

20 – 44,4%

25 – 55,6%


17 – 33,8%

28 – 62,25

11A5

46

24 – 52,2%

22 – 47,8%

23 – 50%

23 – 50%

11B2

42

36 – 85,7%

06 – 14,3%

40 – 95,2%

02 – 4,8%

11B5


42

37 – 88,1%

05 – 11,9%

42 – 100%

0 – 0%
18


-

Về chất lượng viết bài “Quê hương trong lòng tôi”

Lớp
11A1
11A5
11B2
11B5

Sĩ số
Giỏi
Khá
T. Bình
Yếu
45
02 – 4,4%

14 – 31,1%
22 – 48,9%
07 – 15,6%
46
04 – 8,7%
14 – 30,4%
20 – 43,5%
08 – 17,4%
42
08 – 19%
1 5 – 35,7% 17 – 40,5%
02 – 4,8%
42
07 – 16,7%
18 – 42,9%
15 – 35,7%
02 – 4,8%
Kết quả trên cho thấy, học sinh hai lớp 11B2, 11B5, khi áp dụng SKKN
này, có chất lượng học tập tốt hơn.
3 . KẾT LUẬN:
Dạy học Ngữ văn là lao động nghệ thuật – Hình thái lao động rất nghiêm túc
và khổ hạnh. Người thầy dạy văn là người mở đường, khơi nguồn sáng tri thức,
đồng thời cũng là người truyền lửa – Ngọn lửa của tình yêu, niềm tin vào các giá
trị nhân văn vững bền. Thành công của mỗi giờ dạy văn không chỉ là giúp học
sinh hiểu rõ cái hay, cái đẹp về nội dung, hình thưc tác phẩm, quan trọng hơn là
phải định hướng nhân cách, thẩm mỹ và hành động để các em biết sống có ý
nghĩa cho cuộc đời. Muốn làm được vậy, người giáo viên phải có tình yêu đối
với con người và cuộc sống, tình yêu đất nước, quê hương; Không ngừng học
tập, nâng cao trình độ hiểu biết, kiến thức chuyên môn; Sử dụng linh hoạt các
phương pháp dạy học để tạo hứng thú cho học sinh; Luôn kết hợp học tập với

thực hành; tích hợp nhưng không được phép lạm dụng kiến thức Lịch sử, Địa
lý, GDCD và cả ứng dụng CNTT vào bài dạy.
Trên đây là một số bài học kinh nghiệm của bản thân tôi rút ra từ quá trình dạy
học văn để giáo dục tình cảm yêu nước. Giống như một bài tập lớn, chắc chắn
còn nhiều thiếu sót, rất mong được đồng nghiệp góp ý.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Xác nhận của nhà trường

Thọ Xuân ngày 20/05/2017
Tôi xin cam đoan đây là SKKN do mình viêt,
Không sao chép nội dung của người khác.

Nguyễn Thị Thảo

19


TÀI LIỆU THAM KHẢO:
[1]. Bài nói chuyện của Bác Hồ tại buổi lễ khai mạc trường Đại học nhân
dân Việt Nam – Ngày 19/01/1955.
[2]. Báo cáo chính trị trị của Hồ Chí Minh tại Đại hội đại biểu toàn quốc
lần II của Đảng Lao động Việt Nam – Tháng 2/1951.
[3]. Phụ nữ Tân Văn số 153 – Tháng 6/1932.
[4], [5],[7]. Thi nhân Việt Nam – Hoài Thanh – Hoài Chân – NXBVH
2008.
[6]. Tiếng Việt – Lưu Quang Vũ.

20




×