Tải bản đầy đủ (.pdf) (105 trang)

Giải quyết tranh chấp trong khuôn khổ hiệp định các biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại (TRIMs)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.11 MB, 105 trang )

I HC QUC GIA H NI
KHOA LUT

CHU QUANG DUY

GIảI QUYếT TRANH CHấP
TRONG KHUÔN KHổ HIệP ĐịNH CáC BIệN PHáP ĐầU TƯ
LIÊN QUAN ĐếN THƯƠNG MạI (TRIMs)

LUN VN THC S LUT HC

H NI - 2016


I HC QUC GIA H NI
KHOA LUT

CHU QUANG DUY

GIảI QUYếT TRANH CHấP
TRONG KHUÔN KHổ HIệP ĐịNH CáC BIệN PHáP ĐầU TƯ
LIÊN QUAN ĐếN THƯƠNG MạI (TRIMs)
Chuyờn ngnh: LUT QUC T
Mó s: 60 38 01 08

LUN VN THC S LUT HC

Cỏn b hng dn khoa hc: TS. NGUYN TIN VINH

H NI - 2016



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng
tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ
công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm
bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các
môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định
của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi
có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN

Chu Quang Duy


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục ký hiệu, chữ viết tắt
Danh mục các bảng, biểu đồ
MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1
Chƣơng 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ TRANH CHẤP VÀ GIẢI
QUYẾT TRANH CHẤP LIÊN QUAN TỚI TRIMs TRONG KHUÔN
KHỔ WTO................................................................................................................. 6
1.1.

Hiệp định TRIMs ......................................................................................... 6


1.1.1.

Lịch sử ra đời ................................................................................................. 6

1.1.2.

Nội dung của Hiệp định TRIMs ..................................................................... 8

1.2.

Cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO .................................................. 14

1.2.1.

Phạm vi và đối tượng của các tranh chấp .................................................... 16

1.2.2.

Các cơ quan trong quá trình giải quyết tranh chấp ...................................... 18

1.2.3.

Quy trình thủ tục giải quyết tranh chấp ....................................................... 21

1.2.4.

Giải quyết tranh chấp không thông qua các thủ tục tố tụng ........................ 37

1.3.


Những vấn đề đặc thù trong giải quyết tranh chấp liên quan tới TRIMs ...... 39

1.3.1.

Đặc thù về nội dung giải quyết tranh chấp .................................................. 39

1.3.2.

Đặc thù về thủ tục ........................................................................................ 40

Chƣơng 2: THỰC TIỄN GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP LIÊN QUAN
TỚI HIỆP ĐINH
TRIMS VÀ KINH NGHIỆM CỦA CÁC NƢỚC ..... 42
̣
2.1.

Thực tiễn giải quyết tranh chấp liên quan tới TRIMs ........................... 42

2.1.1.

Tổng quan các vụ tranh chấp ....................................................................... 42

2.1.2.

Những vấn đề pháp lý được đưa ra giải quyết ............................................. 45

2.2.

Kinh nghiệm của các quốc gia trong giải quyết tranh chấp ......................... 57



2.2.1.

Kinh nghiệm liên quan tới quá trình giải quyết tranh chấp ......................... 57

2.2.2.

Kinh nghiệm liên quan tới TRIMs ............................................................... 59

Chƣơng 3: VẤN ĐỀ PHÒNG VÀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP LIÊN
QUAN TỚI TRIMS TẠI VIỆT NAM ...................................................... 62
3.1.

Thực tiễn tại Việt Nam .............................................................................. 62

3.1.1.

Thể chế pháp lý liên quan tới giải quyết tranh chấp quốc tế nói chung
và trong khuôn khổ WTO nói riêng ............................................................. 62

3.1.2.

Sự tham gia của Việt Nam vào cơ chế giải quyết tranh chấp ...................... 66

3.1.3.

Pháp luật Việt Nam liên quan tới TRIMs .................................................... 74

3.2.


Phƣơng hƣớng, giải pháp phòng và giải quyết tranh chấp .................... 83

3.2.1.

Hoàn thiện hệ thống pháp luật ..................................................................... 83

3.2.2.

Xây dựng và hoàn thiện thể chế ................................................................... 86

KẾT LUẬN .............................................................................................................. 91
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................... 93


DANH MỤC KÝ HIỆU, CHỮ VIẾT TẮT
Ký hiệu
viết tắt

Tiếng Việt

Tiếng Anh

DSB

Cơ quan giải quyết tranh chấp

Dispute Settlement Body

DSM


Cơ chế giải quyết tranh chấp

Dispute Settlement Mechanism

DSU

Quy tắc thủ tục giải quyết tranh chấp Dispute Settlement Understanding

EU

Liên minh Châu Âu

GATT

Hiệp định chung về Thuế quan và General Agreement on Tariffs and
Thương mại
Trade

TRIMs

Hiệp định các biện pháp đầu tư Agreement on Trade-Related
liên quan tới thương mại
Investment Measures

WTO

Tổ chức thương mại thế giới

European Union


World Trade Organization


DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU ĐỒ

Số hiệu

Tên bảng, biểu đồ

Trang

Bảng 1.1. Danh mục minh họa các biện pháp đầu tư liên quan đến
thương mại bị cấm áp dụng (TRIMs)

12

Bảng 1.2. Thời gian biểu làm việc của Ban hội thẩm

25

Bảng 2.1. Tình hình giải quyết các tranh chấp liên quan tới TRIMs

44

Biểu đồ 3.1. Số vụ tranh chấp tại WTO theo thứ tự thời gian từ năm
1995 tới năm 2015

72



MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Ngày nay, toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế là xu thế khách quan của thực
tại. Để phát triển đất nước, cũng như tăng cường vị thế của mình trên trường quốc
tế, các quốc gia trên thế giới không ngừng hợp tác, giao lưu trên mọi lĩnh vực của
đời sống như Kinh tế, Chính trị, Văn hóa – Xã hội, An ninh... Trong đó, quan hệ
Kinh tế quốc tế được hầu hết các quốc gia trên thế giới quan tâm hơn cả. Hiện nay,
trong các thiết chế Kinh tế quốc tế chúng ta cần phải nói đến Tổ chức Thương mại
Thế giới (World Trade Organization - WTO), được chính thức thành lập và đi vào
hoạt động ngày 01/01/1995 là sản phẩm của vòng đàm phán Uruguay (1986 - 1994).
Tính đến 14/7/2016 WTO có tới 163 thành viên là các quốc gia và vùng lãnh thổ
trên thế giới (thành viên mới nhất là Liberia) [67].
Việt Nam với tư cách là một quốc gia đang phát triển cũng không nằm ngoài
quy luật khách quan đó. Bằng chính sách mở cửa thị trường, hội nhập kinh tế quốc
tế, Việt Nam đã nộp đơn gia nhập WTO vào tháng 01 năm 1995 và trở thành thành
viên chính thức (ngày 11/01/2007) sau 12 năm đàm phán gia nhập. Sau khi là thành
viên của WTO, nền kinh tế nước ta đã có sự chuyển biến rõ rệt, từ một nền kinh tế
Kế hoạch hóa tập chung chúng ta đã và đang xây dựng một nền kinh tế thị trường
định hướng Xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên việc hội nhập kinh tế quốc tế nói chung và
gia nhập WTO nói riêng cũng đặt ra cho chúng ta nhiều thách thức mới trong việc
phát triển đất nước. Việt Nam đang trong giai đoạn chuyển đổi nền kinh tế. Một
mặt, cần phải khuyến khích, tạo động lực phát triển và bảo vệ các ngành sản xuất
trong nước trước nhà đầu tư nước ngoài với nguồn vốn, kỹ thuật, công nghệ tiên
tiến hơn chúng ta. Mặt khác, cần phải tạo điều kiện thuận lợi, thu hút nguồn vốn đầu
tư nước ngoài, cùng với việc hướng nguồn vốn đó để phát triển kinh tế đất nước
theo mục tiêu đã đề ra. Xét về mặt trong nước, việc tạo các điều kiện thuận lợi, ưu
đãi dành riêng cho các nhà đầu tư trong nước cùng với việc áp đặt một số biện pháp
hạn chế đối với nhà đầu tư nước ngoài là việc cần thiết để bảo vệ ngành sản xuất


1


còn non trẻ. Tuy vậy, chính điều này đã tạo ra sự không công bằng giữa nhà đầu tư
trong nước với nhà đầu tư nước ngoài, vì vậy có thể sẽ vi phạm các cam kết quốc tế
về Đối xử quốc gia (National Treatment), cũng như các biện pháp hạn chế định
lượng (như yêu cầu về tỉ lệ nội địa hóa; hạn ngạch về số lượng xuất khẩu và nhập
khẩu đối với các nhà đầu tư nước ngoài...). Chính vì vậy, việc xảy ra tranh chấp liên
quan đến các biện pháp đầu tư là không thể tránh khỏi. Trong phạm vi nghiên cứu
của đề tài, sẽ đi vào tìm hiểu các tranh chấp trong khuôn khổ Hiệp định các biện
pháp đầu tư liên quan đến thương mại (Agreement on Trade Related Investment
Measures - TRIMs) của WTO.
Trong bối cảnh Việt Nam đang trong giai đoạn chuyển đổi nền kinh tế, tuy
chưa tham gia nhiều vào cơ chế giải quyết tranh chấp liên quan đến các biện pháp
đầu tư liên quan tới thương mại trong khuôn khổ Hiệp định TRIMs, không có
nghĩa là chúng ta sẽ đứng ngoài các tranh chấp đó. Để phòng ngừa và nâng cao
hiệu quả trong quá trình giải quyết tranh chấp, chúng ta cần phải tìm hiểu một số
vấn đề có liên quan: Thứ nhất, Hiệp định các biện pháp đầu tư liên quan đến
thương mại là gì?; Thứ hai, đối tượng các tranh chấp liên quan đến Hiệp định?;
Thứ ba, cơ chế để giải quyết các tranh chấp đó như thế nào?; Thứ tư, thực tiễn giải
quyết các tranh chấp liên quan đến hiệp định?; Thứ năm, thực trạng pháp luật Việt
Nam đối với các biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại?; thông qua đó có thể
rút ra được bài học kinh nghiệm cho Việt Nam. Để trả lời những câu hỏi đặt ra
trên, tôi xin chọn đề tài “Giải quyết tranh chấp trong khuôn khổ Hiệp định các
biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại (TRIMs)” làm luận văn thạc sỹ
chuyên ngành luật Quốc tế của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trước và sau khi Việt Nam chính thức gia nhập Tổ chức thương mại thế
giới - WTO, đến nay đã có rất nhiều học giả, chuyên gia về luật quốc tế nghiên
cứu về WTO cũng như tác động của việc gia nhập tổ chức này đối với Việt Nam

trong các sách chuyên khảo , các đề tài nghiên cứu khoa học , các bài viết đăng trên
tạp chí. Tuy nhiên, việc nghiên cứu đó chỉ đi vào tìm hiểu những vấ n đề chung, cơ

2


bản về cơ chế giải quyết tranh chấp tại WTO và đưa ra một số giải pháp nhằm
khắ c phu ̣c khó khăn vướng mắ c và nâng cao hiê ̣u quả trong quá trin
̀ h giải quyế t
tranh chấ p như :
- Nguyễn Tiế n Vinh, “Một số vấn đề nhìn từ góc độ tố tụng trong vụ kiện đầu
tiên của Việt Nam tại WTO” (2011), Tạp chí Nghiên cứu lập pháp 16(201), tr. 1929; “Kinh nghiê ̣m nước ngoài và viê ̣c tăng cường hiê ̣u quả tham gia của Viê ̣t Nam
vào cơ chế giải quyết tranh chấp tại Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO)” (2012),
Tạp chí Khoa học ĐHQGHN - Luật học (28), tr. 165-181; “Vai trò của các thể chế
phi nhà nước trong việc bảo đảm Việt Nam – một nước đang phát triển – hội nhập
thành công sau khi ra nhập WTO” (2013), Khoa Luật - ĐHQG Hà Nội.
- Lê Thị Hồng Hải, “Giải quyết tranh chấp thương mại trong khuôn khổ
WTO” (2009), Luận văn thạc sĩ luật Quốc tế, Khoa Luật – ĐHQGHN, Hà Nội.
- Nguyễn Thị Hồng Anh, “Cơ chế giải quyết tranh chấp trong WTO, các bài
học kinh nghiệm của một số nước và khuyến nghị đối với Việt Nam trong thời gian
tới” (2011), Luận văn thạc sĩ luật Quốc tế, Khoa Luật – ĐHQGHN, Hà Nội.
- Nguyễn Tiế n Hoàng , “Giải quyết tranh chấp trong tổ chức thương mại thế
giới và những vấn đề đặt ra đối với Việt Nam” (2012), luâ ̣n án Tiế n si ̃ bảo vệ ngày
26/4/2012, Trường Đa ̣i ho ̣c Ngoa ̣i thương.
- Nguyễn Hữu Huyên , “Nâng cao hiệu quả tham gia của Việt Nam vào cơ
chế giải quyết tranh chấp của WTO” (2015), đăng tải ta ̣i trang thông tin điê ̣n tử của
Viê ̣n nhà nước và pháp luâ ̣t;...
Hoặc những bài viết nêu ra những nội dung cơ bản của Hiệp định các biện
pháp đầu tư liên quan tơi thương mại , đồ ng thời đưa ra mô ̣t số khuyế n nghi ̣làm thế
nào để thích nghi với hiệp định như:

- Trần Quang Thắng, “Hiệp định TRIMs và sự thích nghi của Việt Nam
trong WTO” (2007), Tạp chí kinh tế và phát triển, (119).
- Nguyễn Lê Phương Anh , “Hiê ̣p đinh
̣ các biê ̣n pháp đầ u tư liên quan tới
thương ma ̣i (TRIMs) và những tác động đối với Việt Nam trong tiến trình đàm phán
gia nhâ ̣p WTO” (2004), Luâ ̣n văn Tha ̣c si,̃ trường Đa ̣i ho ̣c Ngoa ̣i thương.

3


Có thể thấy rằng giải quyết tranh chấp liên quan tới Hiệp định các biện pháp
đầ u tư liên quan tới thương ma ̣i (TRIMs) là đề tài mới ít được nghiên cứu tại V iê ̣t
Nam. Không chỉ ở Viê ̣t Nam , vấ n đề này cũng hiế m khi đươ ̣c quan tâm trong giới
học thuật quốc tế , ngoài những công trình nghiên cứu về cơ chế giải quyết tranh
chấ p ta ̣i WTO , vấ n đề giải quyế t tranh châp liên quan tới TRIMs cũ

ng it́ đươ ̣c đề

câ ̣p tới, chỉ có những bài viết nghiên cứu về việc các quốc gia thành viên sử dụng
TRIMs như thế nào, và những hạn chế bất cập trong việc thực hiện như:
- Rabiu Ado, Local content policy and the WTO Rules of Traderelated
Investment Measures (TRIMs): the Pros and Cons

(2013), đăng trên ta ̣p chí

International Journal of Business and Management Studies, UK.
- Oliver Morrissey, Investment and Competition Policy in the WTO: Issues
for Developing Countries (2002), đăng trên ta ̣p chí Development Policy Review , tâ ̣p
20, số 1, trang 63–73.
Chính vì vậy, có thể thấy đề tài “giải quyết tranh chấp trong khuôn khổ Hiệp

đinh
̣ các biê ̣n pháp đầ u tư liên quan tới thương ma ̣i (TRIMs)” là mô ̣t trong những đề
tài tuy không mới nhưng la ̣i ít đươ ̣c quan tâm, đề cập cho tới thời điểm hiện tại.
3. Mục tiêu nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Rút ra được những kinh nghiệm cho Việt Nam, nâng cao hiệu quả việc giải
quyết tranh chấp trong khuôn khổ WTO nói chung và các tranh chấp liên quan tới
các biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại nói riêng.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Góp phần bổ sung và làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn của việc giải quyết
tranh chấp trong khuôn khổ WTO nói chung và Hiệp định TRIMs nói riêng;
- Đánh giá kết quả việc giải quyết tranh chấp liên quan đến TRIMs;
- Rút ra những kinh nghiệm, đưa ra những giải pháp mà Việt Nam cần làm
để phòng ngừa rủi ro, giải quyết có hiệu quả các tranh chấp đó.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Quy định về các biện pháp đầu tư liên quan đến thương

4


mại; cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO; các vụ việc liên quan đến các biện pháp
đầu tư liên quan tới thương mại trong khuôn khổ Hiệp định TRIMs – WTO.
- Phạm vi nghiên cứu: trong khuôn khổ Hiệp định các biện pháp đầu tư liên
quan đến thương (TRIMs) – WTO; Thời gian từ khi tổ chức thương mại thế giới ra
đời tới thời điểm hoàn thành luận văn.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm đường lối của Đảng cộng sản Việt Nam và nhà
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam liên quan đến các vấn đề nghiên cứu.
Đồng thời Luận văn cũng sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như: thống

kê, tổng hợp, so sánh, phân tích…
6. Tính mới và những đóng góp của đề tài
- Đánh giá một cách tổng quát tình hình giải quyết tranh chấp đối với các
biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại của WTO trong thời gian qua;
- Làm rõ một số hạn chế, tác động đối với Việt Nam khi tham gia vào giải
quyết các tranh chấp;
- Một số kiến nghị mang tính giải pháp nhằm nâng cao nâng cao hiệu quả
giải quyết tranh chấp, phòng ngừa rủi ro có thể xảy ra khi tham gia giải quyết các
tranh chấp và hướng đi cho Việt Nam trong thời kỳ hô ̣i nhâ ̣p quố c tế .
7. Bố cục của Luận văn
Luận văn ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, bao
gồm 3 Chương:
Chương 1:

Những vấn đề cơ bản về tranh chấp và giải quyết tranh chấp
liên quan tới TRIMs trong khuôn khổ WTO.

Chương 2:

Thực tiễn giải quyết tranh chấp liên quan tới Hiê ̣p đinh
̣ TRIMs
và kinh nghiệm của các nước.

Chương 3:

Vấn đề phòng và giải quyết tranh chấp liên quan tới TRIMs tại
Việt Nam.

5



Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ TRANH CHẤP VÀ GIẢI QUYẾT
TRANH CHẤP LIÊN QUAN TỚI TRIMs TRONG KHUÔN KHỔ WTO
1.1. Hiệp định TRIMs
1.1.1. Lịch sử ra đời
Hiệp định các biện pháp đầu tư liên quan tới thương mại (TRIMs) nằm trong
4 phụ lục của Hiệp định về việc Thành lập Tổ chức thương mại thế giới được ký kết
tại Marrakesh, Maroc vào ngày 15/04/1994 (đây là kết quả của vòng đàm phán
Uruguay, đánh dấu sự ra đời của tổ chức thương mại thế giới – WTO).
Sau khi xem xét các hoạt động của Hiệp định GATT liên quan đến các biện
pháp đầu tư có thể làm hạn chế hoặc bóp méo tự do hóa thương mại, các quốc gia
thành viên đồng ý rằng cần phải đàm phán, xây dựng thêm những quy định cần
thiết, thích hợp nhằm loại bỏ các biện pháp đầu tư có ảnh hưởng xấu đến thương
mại, tại Tuyên bố Punta del Este (vòng đàm phán Uruguay). Hiê ̣p đinh TRIMs với
vai trò mong muố n thúc đẩy, mở rộng sự tự do hoá thương mại, tạo thuận lợi cho
việc luân chuyển nguồn vốn đầu tư qua biên giới quốc tế, với mục đích tạo ra sự
tăng trưởng kinh tế cho các thành viên, đặc biệt là các Thành viên đang phát triển,
đồng thời phải bảo đảm sự cạnh tranh tự do, công bằng. Hiệp định TRIMs cho rằng
một số biện pháp đầu tư nhất định có thể sẽ làm ảnh hưởng xấu và bóp méo sự tự do
hóa thương mại, vì vậy TRIMs quy định các thành viên không được sử dụng các
biện pháp phân biệt đối xử đối với hàng hóa nước ngoài, cũng như việc áp đặt các
biện pháp hạn chế định lượng liên quan tới hàng hóa trong quá trình luân chuyển
qua biên giới.
Trước khi vòng đàm phán Uruguay ra đời, các mối liên kết giữa đầu tư và
thương mại ít được quan tâm trong khuôn khổ GATT. Tại Hiến chương Havana
năm 1948, cũng đã có một chương quy định về đầu tư nước ngoài, tuy nhiên Hiến
chương này đã không được phê chuẩn và chỉ có một số chính sách về thương mại
được đưa vào Hiệp định chung về thuế quan và thương mại – GATT. Cho tới năm


6


1955, các bên tham gia GATT đã thông qua Nghị quyết về đầu tư phát triển kinh tế
quốc tế, trong đó các vấn đề về đầu tư được đề cập tới đặc biệt là việc bảo vệ các
nhà đầu tư nước ngoài, bằng việc kêu gọi các nước ký kết các hiệp định song
phương trong đó có điều khoản bảo đảm, bảo vệ tài sản cho nhà đầu tư nước ngoài.
Có thể thấy rằng sự ra đời của Hiệp định TRIMs gắn liền với nhiều cuộc
tranh luận của các thành viên phát triển và thành viên đang phát triển, chủ yếu liên
quan tới những hạn chế hoặc lợi ích có được khi sử dụng TRIMs. Một mặt, thành
viên phát triển cho rằng TRIMs cần phải được loại bỏ bởi vì có những ảnh hưởng
không tốt đến thương mại quốc tế, làm ảnh hưởng tiêu cực tới xuất nhập khẩu. Các
thành viên phát triển, đều là các nước có nền công nghiệp tiên tiến, với nhiều công
ty đa quốc gia, hàng hóa của họ vươn tới các thị trường trên toàn thế giới. Mặt khác,
thành viên đang phát triển lập luận rằng, cần thiết phải sử dụng một số biện pháp
nhằm định hướng nguồn đầu tư nước ngoài cho phù hợp với mục tiêu phát triển
kinh tế đất nước, tránh sự độc quyền từ các sản phẩm của thành viên phát triển.
Thật vậy, sự phát triển quan trọng nhất đối với đầu tư trong giai đoạn trước khi
vòng đàm phán Uruguay đó là phán quyết của cơ quan giải quyết tranh chấp trong vụ
việc liên quan tới Hoa Kỳ và Canada. Bị đơn: Canada – Các biện pháp hành chính
của Luật Đầu tư nước ngoài (Administration of the Foreign Investment Review Act –
FIRA). Đây là một vụ tranh chấp trong khuôn khổ GATT, Hoa Kỳ cho rằng Canada
đã áp đặt một số điều kiện đối với nhà đầu tư nước ngoài để được phê duyệt các dự
án đầu tư. Thông qua các thỏa thuận hoặc yêu cầu gắn liền với việc sử dụng một số
sản phẩm trong nước (yêu cầu nội địa hóa) và việc xuất khẩu phải đạt tỷ lệ nhất định
hoặc tỷ lệ phần trăm theo sản lượng (yêu cầu thực hiện xuất khẩu). Báo cáo của cơ
quan giải quyết tranh chấp kết luận rằng yêu cầu nội địa hóa của Canada không phù
hợp với nghĩa vụ đối xử quốc gia theo Điều III: 4 của GATT; nhưng yêu cầu về hoạt
động xuất khẩu không trái với nghĩa vụ của GATT. Quyết định của Hội đồng xét xử
quan trọng ở chỗ nó khẳng định rằng việc áp đặt cũng như sử dụng các biện pháp

phân biệt đối xử hàng hóa nhập khẩu với hàng hóa trong nước là vi phạm nghĩa vụ
theo GATT. Đồng thời, kết luận của ban hội thẩm khẳng định các yêu cầu thực hiện

7


xuất khẩu không nằm trong phạm vi của GATT. Vòng đàm phán Uruguay về các
biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại đã được đánh dấu bởi sự bất đồng mạnh
mẽ giữa các thành viên trong phạm vi và tính chất của các nguyên tắc. Trong khi một
số nước phát triển đã đề xuất quy định rằng cần phải loại bỏ một loạt các biện pháp
yêu cầu về tỉ lệ nội địa hóa bởi vì không phù hợp với Điều III của GATT, ngược lại
nhiều nước thành viên đang phát triển phản đối điều này.
Tuy nhiên các thỏa thuận sau này về cơ bản đã được giới hạn trong việc giải
thích và làm rõ việc áp dụng các biện pháp đầu tư liên quan tới thương mại theo quy
định của GATT trong phạm vi Điều III đối xử quốc gia đối với hàng hóa nhập khẩu
và Điều XI các hạn chế định lượng đối với hàng nhập khẩu hoặc xuất khẩu. Chính vì
vâ ̣y, Hiê ̣p định TRIMs luôn có mối quan hệ mật thiết , gắn bó v ới Hiê ̣p định GATT
(trong pha ̣m vi Điề u III và Điề u XI). Khi viê ̣n dẫn quy định của Hiệp định TRIMs,
các bên không thể không c ăn cứ vào quy định của Hiê ̣p định GATT. Ngược la ̣i để
làm rõ hơn nô ̣i dung của GATT (trong pha ̣m vi Điề u III và Điề u XI) các bên cần phải
dẫn chiế u tới quy định của TRIMs để giải thích và làm rõ quy định của GATT.
1.1.2. Nội dung của Hiệp định TRIMs
Như đã trình bày ở trên, TRIMs về cơ bản là một Hiệp định nhằm mục đích
giải thích và làm rõ về việc áp dụng các biện pháp đầu tư liên quan tới thương mại
trong phạm vi Điều III và Điều XI của GATT 1994. Vì vậy, nội dung của TRIMs
khá ngắn gọn, bao gồm 09 Điều khoản quy định về việc thực hiện TRIMs và một
phụ lục bao gồm danh mục minh họa các biện pháp không phù hợp với nguyên tắc
đối xử quốc gia tại Điều III và hạn chế định lượng tại Điều XI của GATT 1994,
nhằm tạo ra sự bình đẳng, không phân biệt đối xử đối với nhà đầu tư nước ngoài.
Phạm vi áp dụng

Phạm vi áp dụng của TRIMs “chỉ áp dụng đối các biện pháp đầu tư liên quan
tới thương mại hàng hóa” [55, Điều 1]. Vì vậy, có thể thấy rằng TRIMs chỉ áp dụng
đối với hàng hóa, không áp dụng cho dịch vụ.
Hiệp định TRIMs không quy định cụ thể thế nào là “các biện phá đầu tư liên
quan tới thương mại” bởi vậy trong quá trình giải quyết tranh chấp, Ban hội thẩm sẽ

8


có một phần đưa ra những phân tích, đánh giá liệu các biện pháp mà các bên đưa ra
có phải là “biện pháp đầu tư liên quan tới thương mại” hay không.
Ví dụ, Báo cáo của Ban hội thẩm trong vụ việc liên quan tới Indonesia – Các
biện pháp ảnh hưởng tới ngành công nghiệp ô tô. Ban hội thẩm nhận định, “Các biện
pháp đầu tư” mà Indonesia sử dụng nhằm mục đích khuyến khích sự phát triển năng
lực ngành sản xuất ô tô và sản xuất các loại phù tùng tại Indonesia. Gắn liền với mục
tiêu này là những biện pháp tác động đáng kể tới đầu tư trong ngành công nghiệp sản
xuất ô tô, nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh; khuyến khích sự phát triển của ngành
công nghiệp ô tô và các ngành công nghiệp phụ trợ trong nước (sản xuất linh kiện ô
tô); khuyến khích việc chuyển giao công nghệ, góp phần tạo việc làm trên diện rộng;
tăng tỉ lệ nội địa hóa. Ban hội thẩm nhấn mạnh rằng, họ không đưa ra một định nghĩa
cụ thể nào về đầu tư mà chỉ xem xét cách thức mà các vấn đề được đề cập có liên
quan tới đầu tư như thế nào. Ban hội thẩm cũng cho rằng các biện pháp trên dù không
do cơ quan chức năng có thẩm quyền về đầu tư quy định (theo lập luận của
Indonesia) nhưng vẫn được coi là các biện pháp liên quan tới đầu tư [60, tr. 342].
Như vậy, có thể thấy rằng “các biện pháp đầu tư” trong trường hợp này có
thể là những yêu cầu, hoặc những biện pháp pháp lý, biện pháp hành chính (các
cách thức) được sử dụng có tác động và làm ảnh hưởng tới đầu tư nước ngoài, nó có
thể không do cơ quan có thẩm quyền về đầu tư quyết định.
Tiếp theo, thuật ngữ “liên quan tới thương mại” được hiểu là nếu các biện
pháp trên được sử dụng làm ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp sự luân chuyển hàng

hóa qua biên giới (ví dụ: áp đặt hạn ngạch xuất khẩu, nhập khẩu; yêu cầu cân đối tỉ
lệ hàng hóa xuất nhập khẩu; hoặc cụ thể như yêu cầu tỷ lệ nội địa hóa, đồng nghĩa
với việc thành viên đó đã ưu tiên sử dụng các sản phẩm trong nước), vì vậy các biện
pháp này ảnh hưởng tới thương mại đặc biệt là hàng hóa.
Tóm lại, có thể hiểu rằng “các biện pháp đầu tư liên quan tới thương mại” là
những yêu cầu, biện pháp có tác động, làm ảnh hưởng tiêu cực tới thương mại hàng
hóa, tới đầu tư nước ngoài, tới sự luân chuyển hàng hóa qua biên giới. Làm phương
hại tới lợi ích của các quốc gia thành viên theo các hiệp định có liên quan.

9


Nguyên tắc đối xử quốc gia và quy định về hạn chế định lƣợng
Điều 2.1 của TRIMs quy định rằng “các quốc gia thành viên không được
sử dụng TRIMs trái với quy định tại Điều III và Điều XI của GATT 1994”. Các
biện pháp này được làm rõ thông qua một danh sách các biện pháp minh họa tại
phụ lục của TRIMs [55, Điều 2.2], bao gồm những biện pháp mang tính bắt buộc
hoặc được thực thi thông qua luật trong nước hoặc các quyết định mang tính
hành chính hoặc các điều kiện mà chỉ khi tuân thủ những điều kiện này mới được
hưởng một ưu đãi nào đó.
Điều III của GATT quy định về nguyên tắc đối xử quốc gia về thuế và các
quy tắc trong nước, chủ yếu đề cập tới vấn đề mua hoặc sử dụng các sản phẩm của
doanh nghiệp. Theo đó các sản phẩm nhập khẩu từ lãnh thổ của bất kỳ một bên ký
kết nào vào lãnh thổ của bất kỳ bên ký kết khác sẽ được hưởng đãi ngộ không kém
phần thuận lợi hơn sự đãi ngộ dành cho sản phẩm tương tự ở trong nước về mặt luật
pháp, quy tắc và các quy định tác động đến bán hàng, chào bán, mua, chuyên chở,
phân phối hoặc sử dụng hàng trên thị trường nội địa; bao gồm cả việc áp đặt các
khoản thuế và phí cao hơn đối với các sản phẩm tương tự trên thị trường nội địa; áp
dụng một cách trực tiếp hoặc gián tiếp yêu cầu sử dụng các sản phẩm trong nước,
yêu cầu đạt được tỉ lệ nội địa hóa nhất định.

Tuy nhiên nguyên tắc này đòi hỏi cần một số yếu tố sau:
- Các sản phẩm được nhập khẩu, và có “các sản phẩm tương tự” ở trong nước;
- Các biện pháp có thể là “luật, quy định, quyết định hành chính hoặc yêu cầu
tác động đến bán hàng, chào bán, mua, vận chuyển, phân phối hoặc sử dụng”; và
- Các sản phẩm nhập khẩu bị đối xử “kém thuận lợi” hơn sự đối xử dành cho
các sản phẩm nội địa.
Khoản 1 (a) của Danh mục minh họa [55, phụ lục] bao gồm các nội dung về
yêu cầu của địa phương: yêu cầu mua hoặc sử dụng hàng hóa bởi một doanh nghiệp
nội địa hoặc hàng hóa có xuất xứ từ nguồn nước (yêu cầu tỉ lệ nội địa hóa); trong
khi Khoản 1 (b) bao gồm yêu cầu về cân bằng thương mại, trong đó việc hạn chế
mua (theo giá trị) hoặc sử dụng các sản phẩm nhập khẩu của doanh nghiệp phải
tương đương với số lượng hoặc giá trị sản phẩm nội địa mà doanh nghiệp này xuất

10


khẩu. Cả hai trường hợp trên, nhằm giải thích rõ hơn Điều III: 4 của Hiệp định
GATT 1994, kết quả của các biện pháp trên làm cho các sản phẩm nhập khẩu (được
mua hoặc được sử dụng bởi doanh nghiệp) bị đối xử với điều kiện kém thuận lợi
hơn so với các sản phẩm trong nước (được mua hoặc sử dụng bởi doanh nghiệp).
Điều XI của GATT quy định về hạn chế định lượng, liên quan tới việc nhập khẩu
hoặc xuất khẩu hàng hóa của doanh nghiệp, trong đó các thành viên không được áp dụng
các biện pháp nhằm vào việc hạn chế xuất khẩu hoặc nhập khẩu hàng hóa từ lãnh thổ quốc
gia này tới lãnh thổ quốc gia khác, ví dụ như: cấm nhập khẩu hoặc chỉ được nhập khẩu
trong những trường hợp được quy định (Prohibition); áp dụng hạn ngạch đối với hàng hóa,
có thể là: hạn ngạch toàn cầu, hạn ngạch phân bổ theo quốc gia hoặc hạn ngạch song
phương (Quota); yêu cầu giấy phép nhập khẩu hoặc xuất khẩu không tự động (Nonautomatic licensing); áp dụng mức giá tối thiểu gây ra hạn chế về định lượng (Minimum
price); yêu cầu “tự nguyện” hạn chế xuất khẩu ("Voluntary" export restraint)…
Đoạn 2 (a) của Danh mục minh họa bao gồm các biện pháp hạn chế nhập
khẩu các sản phẩm của doanh nghiệp, được sử dụng để sản xuất các sản phẩm (hoặc

để lắp ráp, ví dụ: ô tô, xe máy, các loại thiết bị máy móc khác…). Việc hạn chế này
thường được xác định theo số lượng hoặc giá trị xuất khẩu của doanh nghiệp (các
sản phẩm được sản xuất trong nước của doanh nghiệp). Có thể thấy rằng có sự
giống nhau về khái niệm giữa khoản này và khoản 1 (b) của Danh mục minh họa
trong đó cả hai đều hướng tới biện pháp cân bằng thương mại. Sự khác biệt là,
khoản 1 (b) với những biện pháp nội bộ ảnh hưởng đến các sản phẩm sau khi đã
được nhập khẩu, trong khi khoản 2 (a) là các biện pháp ảnh hưởng đến việc nhập
khẩu sản phẩm trong quá trình luân chuyển qua biên giới.
Các biện pháp xác định tại khoản 2 (b) của danh mục minh họa liên quan đến
việc hạn chế nhập khẩu trong các hình thức yêu cầu về ngoại hối (việc tiếp cận
nguồn ngoại tệ trong việc nhập khẩu). Doanh nghiệp nhập khẩu các sản phẩm để sử
dụng hoặc để sản xuất bị giới hạn bằng cách hạn chế việc tiếp cận nguồn ngoại tệ để
trao đổi, phải tỉ lệ với giá trị các nguồn thu ngoại tệ của doanh nghiệp này.
Cuối cùng, mục 2 (c) bao gồm các biện pháp liên quan đến hạn chế về xuất
khẩu hoặc bán để xuất khẩu của doanh nghiệp, được quy định dưới hình thức các

11


sản phẩm cụ thể, hoặc khối lượng hoặc giá trị sản phẩm, cần phải tỷ lệ với khối
lượng giá trị sản xuất trong nước của doanh nghiệp.
Bảng 1.1. Danh mục minh họa các biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại bị
cấm áp dụng (TRIMs)
Nhóm các biện pháp
Những yêu cầu về hàm lượng nội
địa
Những yêu cầu về sản xuất
Những yêu cầu bắt buộc về loại
sản phẩm


Những yêu cầu về chuyển giao
công nghệ

Những yêu cầu về việc chuyển
giao quyền sử dụng bằng sáng
chế (li-xăng)
Những hạn chế về sản xuất
Những yêu cầu về cân đối thương
mại

Ví dụ minh họa
Yêu cầu doanh nghiệp phải sử dụng một tỷ lệ
nhất định nguyên liệu đầu vào có xuất xứ trong
nước hoặc từ các nguồn nội địa
Yêu cầu một số loại sản phẩm phải được sản
xuất trong nước
Yêu cầu nhà đầu tư phải cung cấp cho những thị
trường nhất định một hoặc một số sản phẩm
được chỉ định hoặc được sản xuất/cung cấp bởi
một nhà sản xuất/cung cấp nhất định
Yêu cầu phải chuyển giao bắt buộc một số loại
công nghệ nhất định (không theo các điều kiện
thương mại thông thường) và/hoặc yêu cầu các
loại hoặc mức độ nghiên cứu và phát triển phải
được thực hiện ở nước nhận đầu tư
Quy định buộc nhà đầu tư phải chuyển giao
công nghệ tương tự hoặc không liên quan đến
công nghệ mà họ đang sử dụng tại nước đầu tư
cho doanh nghiệp tại nước nhận đầu tư
Quy định cấm doanh nghiệp không được sản

xuất một số sản phẩm hoặc loại sản phẩm nhất
định ở nước nhận đầu tư
Yêu cầu doanh nghiệp phải bảo đảm khối lượng
hoặc trị giá sản phẩm nhập khẩu tương đương
với khối lượng, trị giá sản phẩm xuất khẩu

Yêu cầu doanh nghiệp phải bảo đảm rằng khối
Những yêu cầu về tiêu thụ trong
lượng hoặc trị giá sản phẩm tiêu thụ trong nước
nước
tương đương với sản phẩm xuất khẩu
Những yêu cầu về xuất khẩu
Yêu cầu tỷ lệ xuất khẩu tối thiểu
Những hạn chế về chuyển lợi Hạn chế quyền của nhà đầu tư trong việc chuyển
nhuận ra nước ngoài
lợi nhuận thu được từ đầu tư về nước
Những yêu cầu về tỷ lệ vốn trong Ấn định một tỷ lệ nhất định vốn của doanh
nước
nghiệp phải do nhà đầu tư trong nước nắm giữ
(Nguồn: />
12


Ngoại lệ của Hiệp định TRIMs
Điều 3 của Hiệp định TRIMs quy định rằng, tất cả các trường hợp ngoại lệ
theo GATT 1994 được áp dụng một cách thích hợp với các quy định của Hiệp định
TRIMs. Ngoài những ngoại lệ quy định bởi GATT 1994, các thành viên có thể sử
dụng TRIMs trong các trường hợp quy định tại Điều 4 (quy định đối với các nước
đang phát triển) hoặc Điều 5 (trong thời kỳ quá độ, chuyển tiếp). Vì TRIMs chỉ
được áp dụng cho hàng hóa không áp dụng cho dịch vụ, nên một số biện pháp

không trực tiếp điều tiết hàng hóa hoặc nhập khẩu hàng hóa có thể được sử dụng.
Theo Điều 4 của TRIMs cho phép các nước đang phát triển có thể tạm thời
không thực hiên các nghĩa vụ của Hiệp định TRIMs, cùng với quy định tại Điều
XVIII GATT 1994 về hỗ trợ của Nhà nước cho việc phát triển kinh tế và các quy
định có liên quan của WTO về biện pháp tự vệ trong cân bằng cán cân thanh toán.
Điều 5 của TRIMs quy định về việc thông báo và thỏa thuận thời hạn chuyển
tiếp. Các thành viên phải có nghĩa vụ thông báo cho Hội đồng thương mại hàng hóa,
tất cả các biện pháp không phù hợp với TRIMs, trong vòng 90 ngày kể từ khi
TRIMs có hiệu lực. Mẫu Thông báo này được Hội đồng thương mại hàng hóa đưa
ra và thống nhất áp dụng. Đồng thời các thành viên này phải loại bỏ các biện pháp
đã thông báo trên trong thời gian là hai (02) năm đối với các thành viên phát triển,
và năm (05) năm đối với các thành viên đang phát triển, và thời hạn là bẩy (07) năm
đối với các thành viên kém phát triển, kể từ khi hiệp định có hiệu lực, khoảng thời
gian này có thể được Hội đồng thương mại hàng hóa xem xét, kéo dài đối với các
thành viên đang phát triển và thành viên kém phát triển. Đối với các quốc gia trở
thành thành viên của WTO (trừ các quốc gia phát triển) sau khi TRIMs có hiệu lực
cũng được áp dụng thời gian thông báo và thời kỳ quá độ giống với các thành viên
trước đó, kể từ ngày gia nhập, nhưng không được xem xét kéo dài thời gian chuyển
tiếp. Trong thời kỳ chuyển tiếp, các thành viên không được sửa đổi các biện pháp đã
thông báo, theo hướng tăng thêm mức độ không phù hợp với TRIMs. Thêm vào đó,
các biện pháp đã được sử dụng trong thời gian ít hơn 180 ngày kể từ khi TRIMs có
hiệu lực, sẽ không được hưởng thời gian chuyển tiếp.

13


Tại tuyên bố Bộ trưởng Hồng Kông, ngày 18/12/2005, Hội đồng thương mại
hàng hóa đã quyết định kéo dài thời hạn cho giai đoạn chuyển tiếp mới đối với các
nước kém phát triển là bẩy (07) năm đến ngày 18/12/2012, các nước này cũng có
thể đưa ra các biện pháp mới trong vòng hai (02) năm và không được áp dụng quá

năm (05) năm, tuyên bố cũng nêu ra rằng, các biện pháp không phù hợp với TRIMs
sẽ được loại bỏ vào năm 2020. Các thành viên phải cam kết thực hiện nghĩa vụ về
minh bạch hóa đối với thông báo tại Điều X của GATT 1994 [55, Điều 6], các
thành viên phải thông báo tới Ban thư ký các biện pháp (TRIMs) đã được áp dụng
và Ban thư ký sẽ tổng hợp công bố các thông báo đó trong một tài liệu duy nhất.
Theo Hiệp định, Ủy ban về các biện pháp đầu tư liên quan tới thương mại sẽ
được thành lập như một diễn đàn kinh tế để kiểm tra hoạt động thực hiện hiệp định
đồng thời có nghĩa vụ báo cáo định kỳ, hàng năm cho Hội đồng thương mại hàng
hóa. Ủy ban sẽ để ngỏ cho tất cả các Thành viên tham gia, Ủy ban có Chủ tịch và
Phó Chủ tịch và sẽ họp ít nhất mỗi năm một lần và họp trong trường hợp có yêu cầu
của bất kỳ Thành viên nào [55, Điều 7].
Tham vấn giải quyết tranh chấp
Thủ tục giải quyết tranh chấp nói chung của WTO, sẽ được áp dụng đối với
các tranh chấp phát sinh từ Hiệp định [55, Điều 8].
Đánh giá của Hội đồng Thương mại Hàng hóa. Không quá năm (05) năm, kể
từ ngày có hiệu lực của Hiệp định WTO, Hội đồng Thương mại Hàng hóa sẽ xem
xét hoạt động của Hiệp định và khi thích hợp, sẽ đề xuất hội nghị Bộ trưởng về việc
sửa đổi hiệp định. Trong quá trình rà soát, Hội đồng Thương mại Hàng hóa sẽ xem
xét liệu Hiệp định cần bổ sung quy định về chính sách đầu tư và chính sách cạnh
tranh hay không [55, Điều 9].
1.2. Cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO
Được hình thành trên cơ sở Nghị định thư về các nguyên tắc và thủ tục giải
quyết tranh chấp (Dispute Settlement Understanding - DSU), Phụ lục 02 Hiệp định
Marrakesh thành lập WTO, cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO (Dispute
Settlement Mechanism - DSM) là một trong những thành công cơ bản của Vòng

14


đàm phán Uruguay dẫn đến sự ra đời của Tổ chức thương mại thế giới WTO. Cho

đến thời điểm hiện tại, hoạt động của DSM được đánh giá là thành công nổi trội của
WTO. Tham gia vào DSM cho phép các nước thành viên bảo vệ các chính sách,
biện pháp và lợi ích thương mại của mình, đấu tranh chống lại vi phạm của các
nước thành viên trong WTO. Việc sử dụng DSM là biểu hiện của sự tham gia, hội
nhập đầy đủ và hiệu quả vào hệ thống thương mại đa biên của WTO đối với các
quốc gia thành viên [43].
DSM là sự kế thừa các quy định về giải quyết tranh chấp đã từng phát huy
tác dụng tích cực trong lịch sử gần nửa thế kỷ của GATT 1947. Rút kinh nghiệm từ
những bất cập trong cơ chế cũ, một số cải tiến căn bản về thủ tục đã được đưa vào,
trong đó quy định chi tiết hơn các giai đoạn khác nhau trong quá trình giải quyết
tranh chấp, cùng với đó là việc áp dụng mốc thời hạn cụ thể cho mỗi giai đoạn
nhằm nhanh chóng, kịp thời giải quyết các tranh chấp. Có thể thấy điểm thay đổi
quan trọng nhất của DSM đó là nguyên tắc đồng thuận nghịch hay đồng thuận phủ
quyết (negative consensus) trong việc việc thành lập Ban hội thẩm (Panel); thông
qua Báo cáo của Panel và Báo cáo của cơ quan phúc thẩm, nhằm ngăn chặn các bên
tham gia tranh chấp cố gắng trì hoãn việc thành lập Panel, thông qua Báo cáo, gây
ảnh hưởng tới thời gian xem xét vụ việc (điều này thường xảy ra đối với các cơ chế
giải quyết tranh chấp khác). Từ đó, góp phần không nhỏ trong việc nâng cao hiệu
quả của cơ chế giải quyết tranh chấp, cũng như tăng cường tính ràng buộc của các
hiệp định trong WTO.
Mục tiêu căn bản của cơ chế giải quyết tranh chấp trong WTO là nhằm “đạt
được một giải pháp tích cực được đưa ra khi phát sinh tranh chấp”, đồng thời ưu
tiên những “giải pháp được các bên cùng thỏa thuận chấp thuận và phù hợp với các
Hiệp định liên quan”. Xét ở mức độ rộng hơn, DSM nhằm cung cấp các thủ tục
quyết tranh chấp đa phương thay thế cho các hành động đơn phương của các quốc
gia thành viên vốn tồn tại nhiều nguy cơ bất đồng, gây trì trệ và làm xáo trộn sự vận
hành chung của các quy tắc thương mại quốc tế.

15



1.2.1. Phạm vi và đối tượng của các tranh chấp
Phạm vi áp dụng
DSM áp dụng cho tất cả các tranh chấp theo các hiệp định có liên quan của
WTO được liệt kê trong Phụ lục 1 của DSU [56, Điều 1.1]. Bằng việc áp dụng
chung, thống nhất cho tất cả các hiệp định có liên quan, DSU đã loại bỏ việc các
nước tự ý thỏa thuận các quy định về giải quyết tranh chấp riêng biệt trong việc ký
kết các hiệp định. Tuy nhiên, DSU cũng áp dụng một số quy tắc thủ tục bổ sung tại
các hiệp định có liên quan trong Phụ lục 2 của DSU [56, Điều 1.2]. Đây là những
quy định cụ thể mang tính chất đặc thù riêng biệt của các tranh chấp theo các hiệp
định cụ thể, và các quy định này chỉ được áp dụng trong các trường hợp riêng biệt
với mức độ cụ thể được xác định. Thông thường, trong mỗi vụ tranh chấp các bên
thường viện dẫn quy định của nhiều Hiệp định có liên quan.
WTO là tổ chức thương mại quốc tế liên chính phủ. Vì vậy, chủ thể tham gia
vào quá trình giải quyết tranh chấp phải là Chính phủ của các nước thành viên WTO
(có thể tham gia với tư cách là bên nguyên đơn hoặc bên bị đơn hoặc là bên thứ ba
trong vụ tranh chấp). Ban Thư ký WTO, các nước quan sát viên của WTO, các tổ
chức quốc tế khác, và các chính phủ khu vực hoặc địa phương không có quyền khởi
kiện, tham gia giải quyết tranh chấp.
Điều này cũng đồng nghĩa với việc các cá nhân, tổ chức không thể tham gia
với tư cách là một bên trong vụ tranh chấp, mặc dù họ (các doanh nghiệp, nhà nhập
khẩu, xuất khẩu) thường xuyên là những người chịu ảnh hưởng trực tiếp từ những
biện pháp bị cáo buộc vi phạm. Tuy nhiên, chính họ lại là những nhân tố gây ảnh
hưởng thậm chí là gây áp lực đến Chính phủ nước thành viên nhằm khởi xướng vụ
tranh chấp.
Trên thực tế, các quốc gia cũng đã thông qua các quy định trong nước về
quyền lợi, nghĩa vụ của các tổ chức, cá nhân trong việc khởi kiện các vụ tranh chấp
thương mại quốc tế. Theo đó, các Doanh nghiệp có thể kiến nghị Chính phủ khởi
xướng một vụ kiện trong WTO nhằm bảo vệ quyền và lợi ích của mình.


16


Đối tượng của tranh chấp
Cơ quan giải quyết tranh chấp có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp giữa
các thành viên phát sinh từ bất kỳ Hiệp định có liên quan của WTO.
Một yêu cầu khiếu nại có thể dựa trên một điều khoản cấm các hành động
nhất định (hành động) (ví dụ Điều XI của GATT cấm hoặc hạn chế xuất khẩu) như
ban hành các điều luật, quy định, quyết định làm cản trở việc xuất khẩu hàng hóa từ
quốc gia thành viên này đến quốc gia thành viên khác thông qua các hình thức khác
nhau (như hạn ngạch) và gây ra thiệt hại thực tế cho các nước thành viên. Không
hành động như vậy có thể sẽ không vi phạm quy định.
Trong những tình huống khác nhau, theo Hiệp định WTO quy định không
cấm các hành vi nhất định, nhưng thay vào đó, đòi hỏi các thành viên phải có hành
động tích cực. Ví dụ điển hình như Hiệp định về các khía cạnh liên quan tới thương
mại của quyền sở hữu trí tuệ (TRIPS), yêu cầu các thành viên phải thực hiện các
biện pháp bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ, phải có những hành động tích cực bằng cách
thông qua và áp dụng các biện pháp bảo vệ các quyền trên. Việc không thực hiện
(không hành động) hoặc thực hiện không đầy đủ, các nghĩa vụ có thể là căn cứ để
khởi xướng một vụ tranh chấp.
Theo nguyên tắc chung, chỉ có những biện pháp (bao gồm hành động hoặc
không hành động) của Chính phủ mới có thể là đối tượng của một vụ tranh chấp
trong WTO. Các biện pháp trên có thể làm phát sinh các khiếu nại quy định tại Điều
XXIII. 1 của GATT 1994 như:
- Khiếu kiện có vi phạm (violation complaint): khiếu kiện phát sinh khi một
quốc gia thành viên không thực hiện các nghĩa vụ của mình theo quy định tại Hiệp
định, trong trường hợp này thiệt hại được suy đoán là đương nhiên ;
- Khiếu kiện không vi phạm (non-violation complaint): là loại khiếu kiện phát
sinh khi một quốc gia ban hành một biện pháp thương mại gây thiệt hại (làm mất
hay phương hại) đến lợi ích mà quốc gia khiếu kiện có được từ Hiệp định hoặc cản

trở việc thực hiện một trong các mục tiêu của Hiệp định, điều này không phụ thuộc
vào việc biện pháp đó có vi phạm Hiệp định hay không;

17


- Khiếu kiện dựa trên “sự tồn tại một tình huống khác” (“situation” complaint):
trong trường hợp này, quốc gia khiếu kiện phải chứng minh về thiệt hại mà mình phải
chịu hoặc trở ngại gây ra đối với việc đạt được một mục tiêu của Hiệp định.
Theo pháp luật quốc tế thì nhà nước sẽ chịu trách nhiệm cho tất cả hoạt động
của Chính phủ, các ngành, chính quyền địa phương, hoặc trong phạm vi lãnh thổ
của quốc gia thành viên. Vì vậy, các biện pháp hành chính do chính quyền địa
phương, hoặc vùng lãnh thổ của nước thành viên ban hành cũng có thể được viện
dẫn trong một vụ tranh chấp [56, Điều 22.9].
Không chỉ những biện pháp đã được ban hành và có hiệu lực mà các biện
pháp có hiệu lực trong tương lai của các thành viên cũng có thể là đối tượng của
khiếu nại. Các biện pháp này đã được cơ quan có thẩm quyền thông qua, trên thực
tế nó sẽ có hiệu lực trong tương lai, và cũng không quá sớm để ngăn ngừa những
biện pháp đó làm ảnh hưởng tới quyền và lợi ích của các thành viên, bởi vì các quy
định có hiệu lực trong tương lai cũng sẽ ảnh hưởng tới các bên tham gia vào thị
trường thông qua việc chuẩn bị để thích ứng với những quy định mới.
1.2.2. Các cơ quan trong quá trình giải quyết tranh chấp
Thủ tục giải quyết tranh chấp trong WTO được thực hiện bởi các cơ quan
khác nhau, mỗi cơ quan có chức năng riêng biệt, tạo nên tính độc lập trong hoạt
động đánh giá, xem xét, giải thích pháp luật và thông qua quyết định của DSM.
Cơ quan giải quyết tranh chấp (Dispute Settlement Body – DSB)
Cơ quan này thực chất là Đại Hội đồng WTO, bao gồm đại diện của tất cả
các quốc gia thành viên. DSB chịu trách nhiệm quản lý, giám sát toàn bộ quá trình
giải quyết tranh chấp: có quyền thành lập Ban hội thẩm, thông qua Báo cáo của Ban
hội thẩm và của Cơ quan phúc thẩm, giám sát việc thi hành các quyết định, khuyến

nghị giải quyết tranh chấp, cho phép đình chỉ thực hiện nhượng bộ và các nghĩa vụ
(trả đũa) khi các thành viên không tuân thủ phán quyết. Tuy nhiên, DSB chỉ là cơ
quan thông qua quyết định, không trực tiếp thực hiện việc xem xét giải quyết tranh
chấp. Các quyết định của DSB dựa trên nguyên tắc đồng thuận nghịch (đồng thuận
phủ quyết). Chủ tịch của DSB được bầu ra từ đại diện thường trực của các quốc gia

18


×