Tải bản đầy đủ (.pdf) (111 trang)

Pháp luật về chào bán chứng khoán ra công chúng ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (829 KB, 111 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
------------

HOÀNG NAM

PHÁP LUẬT VỀ CHÀO BÁN CHỨNG KHOÁN
RA CÔNG CHÚNG Ở VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2016


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
------------

HOÀNG NAM

PHÁP LUẬT VỀ CHÀO BÁN CHỨNG KHOÁN
RA CÔNG CHÚNG Ở VIỆT NAM

Chuyên ngành: Luật Kinh Tế
Mã số: 60 38 01 07

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Cán bộ hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS. LÊ THỊ THU THỦY

HÀ NỘI - 2016




LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các
kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào
khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác,
tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán
tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia
Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể
bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!

NGƢỜI CAM ĐOAN

Hoàng Nam


MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN
NGƢỜI CAM ĐOAN
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu....................................................................1
2. Tình hình nghiên cứu đề tài .................................................................................2
3. Mục tiêu và nhiệm vụ của luận văn .....................................................................3
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu .......................................................................4
5. Tính mới và những đóng góp của đề tài ..............................................................4

6. Phương pháp nghiên cứu .....................................................................................5
7. Kết cấu của luận văn ...........................................................................................5
CHƢƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN
VỀ CHÀO BÁN CHỨNG KHOÁN RA CÔNG CHÚNG .....................................6
VÀ PHÁP LUẬT VỀ CHÀO BÁN CHỨNG KHOÁN RA CÔNG CHÚNG ......6
1.1. Những vấn đề lý luận về chào bán chứng khoán ra công chúng ...................6
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm chào bán chứng khoán ra công chúng ..................6
1.1.2. Mục đích, vai trò của chào bán chứng khoán ra công chúng ...............11
1.1.3. Các hình thức chào bán chứng khoán ra công chúng ...........................15
1.1.4. Nguyên tắc chào bán chứng khoán ra công chúng ...............................24
1.1.5. Mô hình quản lý nhà nước về hoạt động chào bán chứng khoán ra công
chúng ..................................................................................................................26
1.2. Khái niệm, cấu trúc của pháp luật về chào bán chứng khoán ra công chúng
27
1.2.1. Khái niệm pháp luật về chào bán chứng khoán ra công chúng ............27
1.2.2. Cấu trúc của pháp luật về chào bán chứng khoán ra công chúng .........28
KẾT LUẬN CHƢƠNG 1 ........................................................................................32


CHƢƠNG 2
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT
CHÀO BÁN CHỨNG KHOÁN RA CÔNG CHÚNG Ở VIỆT NAM ................33
2.1. Điều kiện chào bán chứng khoán ra công chúng .........................................33
2.1.1. Điều kiện chào bán cổ phiếu ra công chúng .........................................33
2.1.2. Điều kiện chào bán trái phiếu ra công chúng .......................................34
2.1.3. Điều kiện chào bán chứng chỉ quỹ ra công chúng ................................35
2.2. Trình tự, thủ tục chào bán chứng khoán ra công chúng ..............................37
2.2.1. Đăng ký chào bán chứng khoán ra công chúng ....................................37
2.2.2. Công bố thông tin trước khi chào bán chứng khoán ra công chúng .....48

2.2.3. Phân phối chứng khoán.........................................................................53
2.3.

Chủ thể tham gia hoạt động chào bán chứng khoán ra công chúng ...........58

2.3.1. Tổ chức phát hành.................................................................................58
2.3.2. Tổ chức trung gian ................................................................................59
2.3.3. Nhà đầu tư .............................................................................................60
2.4.

Bảo lãnh chào bán chứng khoán ra công chúng .........................................63

2.5.

Chào bán chứng khoán của doanh nghiệp việt nam tại nước ngoài ...........67

KẾT LUẬN CHƢƠNG 2 ........................................................................................70
CHƢƠNG 3
PHƢƠNG HƢỚNG VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ
NHẰM HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT
VỀ CHÀO BÁN CHỨNG KHOÁN RA CÔNG CHÚNG Ở VIỆT NAM .........71
3.1. Phương hướng hoàn thiện pháp luật về chào bán chứng khoán ra công
chúng ở việt nam ...................................................................................................71
3.2.

Kiến nghị hoàn thiện pháp luật về chào bán chứng khoán ra công chúng ở

việt nam .................................................................................................................74
3.2.1. Kiến nghị về mô hình quản lý nhà nước đối với hoạt động chào bán
chứng khoán ra công chúng ...............................................................................74

3.2.2. Kiến nghị về điều kiện chào bán chứng khoán ra công chúng .............77


3.2.3. Kiến nghị về trình tự, thủ tục chào bán chứng khoán ra công chúng ...77
3.2.3. Kiến nghị về chủ thể tham gia hoạt động chào bán chứng khoán ra
công chúng .........................................................................................................82
3.2.4. Kiến nghị về bảo lãnh phát hành chứng khoán ra công chúng .............84
3.2.5. Kiến nghị về chào bán sản phẩm chứng khoán mới và chào bán chứng
khoán của doanh nghiệp Việt Nam ở nước ngoài .............................................85
3.3. Kiến nghị khác ................................................................................................87
KẾT LUẬN CHƢƠNG 3 ........................................................................................88
KẾT LUẬN ..............................................................................................................89
TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................................................91


DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT
1. Tiếng Việt
CK: Chứng khoán
CKH: Chứng khoán hóa
UBCK: Ủy ban Chứng khoán
UBCKNN: Ủy ban Chứng khoán Nhà nước
Đại hội đồng cổ đông: ĐHĐCĐ
Hội đồng Quản trị: HĐQT
Hội đồng thành viên: HĐTV
CTCP: Công ty Cổ phần
TNHH: Trách nhiệm hữu hạn
CTCK: Công ty chứng khoán
NH: Ngân hàng
NHĐT: Ngân hàng Đầu tư
NHTM: Ngân hàng Thương mại

TMCP: Thương mại cổ phần
NHNN: Ngân hàng Nhà nước
NHNNVN: Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
TSĐB: Tài sản đảm bảo
TCTD: Tổ chức tín dụng
TTCK: Thị trường Chứng khoán
NĐTNN: Nhà đầu tư nước ngoài
SGDCK: Sở giao dịch chứng khoán
CKPS: Chứng khoán phái sinh
TTCKPS: Thị trường chứng khoán phái sinh
VAMC: Công ty quản lý tài sản Việt Nam


2. Tiếng Anh
Từ viết tắt

Thuật ngữ tiếng Anh

Nghĩa Tiếng Việt

Security

Chứng khoán

Securities Act of 1933

Luật Chứng khoán Hoa Kỳ năm
1933

Public Offering


Chào bán chứng khoán ra công
chúng

Private Placement

Chào bán chứng khoán riêng lẻ

IPO

Initial Public Offering

Chào bán lần đầu ra công chúng

PO

Primary Offering

Chào bán thêm chứng khoán ra công
chúng

IOSCO

Stock

Cổ phiếu

Bond

Trái phiếu


Investment Unit

Chứng chỉ quỹ đầu tư

The International

Tổ chức quốc tế các Ủy ban chứng

Organization of Securities

khoán

Commission
CKH

ABS

Securitization / Securitisation

Chứng khoán hóa

Civil Law

Hệ thống Luật thành văn

Common Law

Hệ thống Luật chung


Asset-backed Securities

Chứng khoán dựa trên tài sản tài
chính.

SPV

Originator

Bên khởi tạo tài sản

Obligator

Bên có nghĩa vụ thanh toán

Special Purpose Vehicle

Pháp nhân đặc biệt / tổ chức có mục
đích đặc biệt

SPE

Special Purpose Entity

Pháp nhân đặc biệt / tổ chức có mục
đích đặc biệt


CRA


Investor

Nhà Đầu Tư

Servicer

Tổ chức quản lý tài sản

Underwriter

Tổ chức bảo lãnh phát hành

Credit Rating Agency

Tổ chức định mức tín nhiệm / Doanh
nghiệp xếp hạng tín nhiệm

Credit Enhancement

Tăng cường khả năng tín dụng

CDS

Credit Default Swap

Hợp đồng hoán đổi rủi ro tín dụng

SEC

Securities and Exchange


Ủy ban Chứng khoán và thị trường

Commission

Chứng khoán (Mỹ)

MSCI

Morgan Stanley Capital
International

OECD

Organization for Economic

Tổ chức Hợp tác & Phát triển Kinh

Co-operation and

tế

Development
MBS

Mortgage Backed Securities

Chứng khoán liên quan tới các
khoản cho vay thế chấp mua nhà


CDO

Collateralised Debt

Chứng khoán có các danh mục rủi ro

Obligations

tính dụng làm tài sản đảm bảo


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Ngày 20/7/2000 đánh dấu việc thị trường chứng khoán Việt Nam chính thức
đi vào hoạt động với sự kiện khai trương hoạt động của Trung Tâm giao dịch chứng
khoán thành phố Hồ Chí Minh. Từ đó tới nay, thị trường chứng khoán đã phát triển
liên tục và đạt được nhiều thành tựu quan trọng, đáp ứng được yêu cầu Chính phủ
đề ra là “đảm bảo thị trường hoạt động hiệu quả và trở thành kênh huy động vốn
trung và dài hạn quan trọng của nền kinh tế”[83,tr.2]. Thị trường chứng khoán nay
đã trở thành kênh huy động vốn quan trọng, vốn hóa thị trường đạt mức 1.360.000
tỷ đồng, tương đương 34,5% GDP[97,tr.2]. Sự thành công của thị trường chứng
khoán ngày hôm nay là kết quả của nhiều yếu tố, trong đó ngay từ khi mới thành lập
thị trường chứng khoán Việt Nam đã có cơ quan quản lý nhà nước và các quy định
pháp luật điều chỉnh.
Từ khi ban hành Luật Chứng khoán số 70/2006/QH11 cho tới nay, một loạt
các văn bản bổ sung và hướng dẫn được ban hành đã và đang không ngừng hoàn
thiện khung pháp luật điều chỉnh về hoạt động chào bán chứng khoán. Tuy nhiên,
hoạt động chào bán chứng khoán vẫn còn là lĩnh vực mới và gây ra không ít lúng
túng cho cơ quan quản lý nhà nước khi ban hành các quy định về điều kiện phát
hành, trình tự thủ tục chào bán, bảo lãnh phát hành v.v.. Chính sự lỏng lẻo, không

thống nhất của các quy định hiện hành về vấn đề này đã dẫn tới tình trạng không ít
tổ chức phát hành đã vi phạm pháp luật về chào bán chứng khoán ra công chúng
như né tránh việc niêm yết chứng khoán trên thị trường tập trung, công bố thông tin
không đầy đủ ra công chúng... Bởi vậy, việc nghiên cứu pháp luật trong hoạt động
này là rất cần thiết để từ đó kiến nghị những thay đổi, sửa đổi, bổ sung các quy định
hiện hành nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư và đảm bảo các
yêu cầu mà Chính phủ đã đề ra đối với thị trường chứng khoán.
Trong bối cảnh đó, tôi lựa chọn đề tài “Pháp luật về chào bán chứng
khoán ra công chúng ở Việt Nam” để nghiên cứu vì những lý do sau:

1


Thứ nhất, mong muốn được nghiên cứu một cách có hệ thống và đầy đủ các
quy định hiện hành liên quan tới hoạt động chào bán chứng khoán ra công chứng.
Thứ hai, đề tài này nhằm mục đích đánh giá thực trạng pháp luật về hoạt
động chào bán chứng khoán ra công chúng ở Việt Nam và giải quyết các vấn đề
pháp lý phát sinh trong thời gian qua.
Thứ ba, thông qua việc tham khảo pháp luật các nước tiên tiến trên thế giới
như Mỹ, Đức, Anh sẽ giúp nước ta tiếp thu đươc những kinh nghiệm quý báu trong
việc hoàn thiện pháp luật về hoạt động chào bán chứng khoán ra công chứng.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong vòng 10 năm sau khi Luật Chứng khoán được ban hành, hoạt động
chào bán chứng khoán ra công chúng ở Việt Nam đã được nghiên cứu trong khá
nhiều luận văn, bài viết, công trình nghiên cứu khoa học như:
-

Đề tài “Pháp luật về phát hành chứng khoán công ty ở Việt Nam” của tác
giả Nguyễn Minh Hiếu (2008).


-

Đề tài “Một số vấn đề pháp lý về chào bán chứng khoán ra công chúng theo
pháp luật Việt Nam và pháp luật một số nước” của tác giả Phạm Thị Thanh
Hương (2010).

-

Đề tài “Pháp luật về hoạt động công bố thông tin của tổ chức phát hành
chứng khoán ở Việt Nam” của tác giả Phạm Thị Thùy Trang (2015).

-

“Tài liệu Hội nghị triển khai nhiệm vụ phát triển thị trường chứng khoán
năm 2016” của Ủy ban Chứng khoán Nhà nước (2016).

-

Bài viết “Cơ chế chào bán chứng khoán ra công chúng dựa trên công bố
thông tin đầy đủ” của tạp chí Chứng khoán Việt Nam (2015).
Tuy nhiên, nội dung nghiên cứu của các đề tài này đều không nghiên cứu

một cách đầy đủ, toàn diện và có hệ thống các vấn đề đã và đang phát sinh của hoạt
động chào bán chứng khoán ra công chúng, nhất là trong tình hình các văn bản pháp
luật mới về hoạt động chào bán chứng khoán ra công chúng được ban hành để sửa
đổi và hoàn thiện nội dung của pháp luật về chào bán chứng khoán ra công chúng.
Trong khi đề tài “Một số vấn đề pháp lý về chào bán chứng khoán ra công chúng

2



theo pháp luật Việt Nam và pháp luật một số nước” tập trung vào việc so sánh cụ
thể một số quy định về chào bán chứng khoán ra công chúng của Việt Nam và một
số nước trên thế giới thì đề tài “Pháp luật về hoạt động công bố thông tin của tổ
chức phát hành chứng khoán ở Việt Nam” cũng chỉ tập trung vào quy định về công
bố thông tin của tổ chức phát hành, còn đề tài “Pháp luật về phát hành chứng
khoán công ty ở Việt Nam” tuy đã nghiên cứu có hệ thống các quy định của pháp
luật về chào bán chứng khoán bao gồm cả chào bán chứng khoán ra công chúng và
chào bán riêng lẻ nhưng lại chưa nghiên cứu nhiều vấn đề mới phát sinh trong thực
tiễn những năm gần đây như chào bán các sản phẩm chứng khoán phái sinh hay
chào bán cổ phiếu dưới mệnh giá v.v..
Xuất phát từ thực tế nói trên, tôi chọn đề tài “Pháp luật về chào bán chứng
khoán ra công chúng ở Việt Nam” để làm luận văn tốt nghiệp nhằm giúp người đọc
có cái nhìn tổng quan hơn các quy định hiện hành về hoạt động chào bán chứng
khoán ra công chúng, thấy được các bất cập của các văn bản pháp luật và xin đề
xuất một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật trong hoạt động này.
3. Mục tiêu và nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục tiêu của luận văn
Trên cơ sở nghiên cứu một cách có hệ thống và toàn diện về pháp luật chào
bán chứng khoán ra công chúng, luận văn xác định những vấn đề còn bất cập của
pháp luật về chào bán chứng khoán ra công chúng và thực tiễn áp dụng tại Việt
Nam, từ đó có thể đề xuất những giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về chào bán
chứng khoán ra công chúng ở Việt Nam.
3.2. Nhiệm vụ của luận văn
Để đạt được mục tiêu nói trên, luận văn đưa ra những nhiệm vụ cụ thể sau:
-

Phân tích những vấn đề lý luận về chào bán chứng khoán ra công chúng và

pháp luật về chào bán chứng khoán ra công chúng.

-

So sánh các quy định về chào bán chứng khoán ra công chúng ở Việt Nam và

trên thế giới.

3


-

Xác định các vấn đề pháp lý nảy sinh trong quá trình áp dụng các quy định

pháp luật vào thực tế và những vấn đề pháp lý mà pháp luật chưa điều chỉnh về hoạt
động chào bán chứng khoán ra công chúng.
-

Trên cơ sở thực tiễn pháp luật hiện hành về hoạt động chào bán chứng khoán

ra công chúng, đưa ra các giải pháp nhằm hoàn thiện hệ thống các quy định pháp
luật cho hoạt động này.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là các quy định hiện hành của pháp luật
điều chỉ nh hoạt động chào bán chứng khoán ra công chúng và các vấn đề pháp lý
phát sinh trong thực tiễn áp dụng pháp luật.
Về phạm vi nghiên cứu, luận văn đi sâu vào tìm hiểu quy định pháp luật về
chào bán chứng khoán ra công chúng, thực trạng áp dụng pháp luật về chào bán
chứng khoán ra công chúng tại Việt Nam. Đồng thời, luận văn cũng nghiên cứu, tìm
hiểu về quy định pháp luật về hoạt động chào bán chứng khoán ra công chúng của
các nước Mỹ, Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc để học hỏi kinh nghiệm hoàn thiện

pháp luật Việt nam.
5. Tính mới và những đóng góp của đề tài
Đề tài “Pháp luật về chào bán chứng khoán ra công chúng ở Việt Nam”
sẽ nghiên cứu và đề xuất giải pháp cho các vấn đề còn vướng mắc trong hoạt động
chào bán chứng khoán ra công chúng, bao gồm:
Thứ nhất , nghiên cứu những vấn đề lý lu ận cơ bản về hoạt động chào bán
chứng khoán ra công chúng và pháp luật về hoạt động chào bán chứng khoán ra
công chúng. Luận văn nêu và phân tích khái niệm cơ bản về chào bán chứng khoán
ra công chúng và pháp luật về chào bán chứng khoán ra công chúng...
Thứ hai, đối chiếu các quy định của pháp luật hiện hành với thực tiễn áp
dụng cũng như so sánh với quy định tại các nước để tìm ra các vấn đề pháp lý còn
vướng mắc trong hoạt động chào bán chứng khoán ra công chúng, có thể kể tới như
chào bán cổ phiếu dưới mệnh giá, công bố thông tin bằng tiếng Anh, xử lý vi phạm
pháp luật trong hoạt động chào bán chứng khoán ra công chúng... Đồng thời tìm

4


hiểu các vấn đề pháp lý chưa được pháp luật điều chỉnh như chào bán các sản phẩm
chứng chỉ quỹ đầu tư mạo hiểm, chứng khoán phái sinh (quyền chọn, hợp đồng
hoán đổi), chứng khoán hóa v.v..
Thứ ba, luận văn đưa ra các giải pháp giải quyết các vấn đề pháp lý còn
vướng mắc hoặc còn thiếu để hoàn thiện pháp luật về hoạt động chào bán chứng
khoán ra công chúng ở Việt Nam. Các giải pháp chủ yếu mà luận văn đưa ra tập
trung vào việc chuyển đổi mô hình quản lý nhà nước đối với hoạt động chào bán
chứng khoán ra công chúng, hoàn thiện hệ thống công bố thông tin, thành lập tổ
chức định mức tín nhiệm.
6. Phƣơng pháp nghiên cứu
Trong quá trình tiếp cận và giải quyết những vấn đề mà luận văn đặt ra , tôi
đã sử dụng phương pháp biện chứng duy vật của chủ nghiã Mác


- Lênin, dựa trên

đường lối quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về chính sách kinh tế - xã hội và các
nội dung khác có liên quan. Trong những trường hợp cụ thể, tôi kết hợp sử dụng các
phương pháp nghiên cứu phù hợp như thống kê, so sánh, tổng hợp, phân tích…
nhằm kết hợp nhuần nhuyễn giữa kiến thức lý luận và thực tiễn để góp phần làm
sáng tỏ những vấn đề cần nghiên cứu.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, Luận văn được
kết cấu gồm ba chương như sau:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về chào bán chứng khoán ra công chúng và
pháp luật về chào bán chứng khoán ra công chúng.
Chương 2: Thực trạng pháp luật chào bán chứng khoán ra công chúng ở Việt
Nam.
Chương 3: Phương hướng và một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về
chào bán chứng khoán ra công chúng ở việt nam.

5


CHƢƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN
VỀ CHÀO BÁN CHỨNG KHOÁN RA CÔNG CHÚNG
VÀ PHÁP LUẬT VỀ CHÀO BÁN CHỨNG KHOÁN RA CÔNG CHÚNG
1.1. Những vấn đề lý luận về chào bán chứng khoán ra công chúng
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm chào bán chứng khoán ra công chúng
1.1.1.1. Khái niệm chào bán chứng khoán ra công chúng
Chứng khoán lần đầu tiên xuất hiện ở Châu Âu vào giữa thế kỷ XV tại
Bruges (Bỉ). Tại các thành phố trung tâm buôn bán ở Châu Âu, các thương gia

thường tụ tập tại các quán cà phê để trao đổi việc mua bán các vât phẩm hàng hóa.
Lúc đầu chỉ một nhóm nhỏ, dần dần sau đó tăng dần và hình thành một khu chợ
riêng. Cuối thế kỷ XV, để thuận tiện hơn cho việc làm ăn, khu chợ trở thành “thị
trường” với việc họ thống nhất các quy ước. Phiên chợ đầu tiên được diễn ra vào
năm 1453 tại tư dinh của một thương gia người Bỉ tên là Van De Buerzo. Đến năm
1531 chợ này chuyển về Artwerpas và phát triển sôi động. Đến giữa thế kỷ XVI,
một quan đại thần của Anh Quốc đã đến quan sát và quay về nước để thiết lập một
thị trường mậu dịch tại London, nơi mà sau này được gọi là Sở giao dịch chứng
khoán London. Ngày nay, thị trường chứng khoán (TTCK) đã xuất hiện và phát
triển trên khắp thế giới, trong đó có thể kể đến những thị trường chứng khoán
(TTCK) lớn nhất như TTCK New York (Mỹ), TTCK Tokyo (Nhật), TTCK
Frankfurt (Đức), TTCK London (Anh)...
Ở Việt Nam, cụm từ chứng khoán đã xuất hiện khá lâu ngay từ thời Pháp
thuộc do hiện tượng du nhập của các mô hình tổ chức kinh tế từ Pháp, Anh và sau
đó là Hoa Kỳ[28,tr.8]. Tùy từng quốc gia, việc định nghĩa về chứng khoán có thể
khác nhau. Theo Black Law’s Dictionary, chứng khoán (security) được hiểu là công
cụ chứng minh quyền sở hữu công ty (ví dụ như cổ phiếu), mối quan hệ chủ nợ đối
với công ty hoặc Chính phủ (ví dụ như trái phiếu) hoặc các quyền khác của người
nắm giữ (ví dụ như quyền chọn - option)[110,tr.1112]. Trong khi đó, tại phần 2(a)

6


Luật Chứng khoán Hoa Kỳ năm 1933 (Securities Act of 1933) lại định nghĩa chứng
khoán theo nghĩa rộng “được hiểu là mọi loại giấy tờ, cổ phiếu, cổ phiếu quỹ, chứng
khoán tương lai, hợp đồng hoán đổi, trái phiếu, giấy nợ, bằng chứng về công nợ,
chứng nhận về quyền lợi hoặc sự tham gia vào bất cứ thỏa thuận chia sẻ lợi nhuận
nào, chứng chỉ tín thác-thế chấp, đăng ký hoặc chứng nhận thành lập tổ chức, cổ
phiếu chuyển đổi, hợp đồng đầu tư, chứng nhận quyền biểu quyết, chứng nhận đặt
cọc đối với chứng khoán, lợi ích không thể phân chia (đối với dầu, khí hay bất cứ

quyền đối với khoán sản khác), mọi quyền mua, bán, hợp đồng chứng khoán hai
chiều, quyền chọn hoặc đặc quyền đối với chứng khoán, chứng nhận tiền gửi, hoặc
nhóm các chỉ số hoặc chỉ số chứng khoán (bao gồm bất kỳ lợi ích liên quan hoặc
dựa trên cơ sở các giá trị đó), hoặc bất cứ quyền mua, bán, hoặc đồng chứng khoán
hai chiều, quyền chọn hoặc đặc quyền về chứng khoán quốc gia liên quan tới ngoại
tệ, hoặc, nói chung là mọi lợi ích và công cụ nào được hiểu là chứng khoán, hoặc
bất cứ chứng nhận lợi ích hay sự tham gia, kể cả tạm thời, dưới dạng giấy biên
nhận, giấy bảo lãnh, hay chứng quyền, quyền mua hay quyền đặt mua những công
cụ nói trên”[119,Phần 2(a)]. Tóm lại, có thể hiểu chứng khoán là công cụ pháp lý
do một tổ chức phát hành theo quy định của pháp luật để ghi nhận quyền tài sản và
các lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư[96,tr.6-7].
Từ định nghĩa về chứng khoán, chúng ta có thể hiểu chào bán chứng khoán
là hoạt động chào bán chứng khoán để thu hút vốn nhằm thỏa mãn nhu cầu về vốn
của chủ thể chào bán[96,tr.53]. Có hai phương thức phát hành chứng khoán chủ yếu
là: Chào bán chứng khoán ra công chúng (public offering) và chào bán chứng khoán
riêng lẻ (private placement). Chào bán chứng khoán riêng lẻ là việc tổ chức phát
hành chào bán chứng khoán cho dưới một trăm nhà đầu tư, không kể nhà đầu tư
chứng khoán chuyên nghiệp và không sử dụng phương tiện thông tin đại chúng
hoặc internet (Điều 6 Luật Chứng khoán). Hay có thể nói, chào bán chứng khoán
riêng lẻ là hoạt động chào bán chứng khoán của tổ chức phát hành cho các khách
hàng đặc biệt, thường là các nhà đầu tư có tổ chức[96,tr.60]. Do chào bán chứng

7


khoán riêng lẻ không thuộc phạm vi nghiên cứu nên luận văn sẽ tập trung nghiên
cứu vào phương thức chào bán chứng khoán ra công chúng.
Trên thế giới cụm từ “Chào bán chứng khoán ra công chúng” (public
offering) được định nghĩa tương đối khác nhau giữa các quốc gia. Tại Mỹ, chào bán
chứng khoán ra công chúng không hề được định nghĩa trong Luật Chứng khoán

năm 1933 (Securities Act of 1933) mà cũng không được tòa án Mỹ định
nghĩa[28,tr.52]. Tuy nhiên, theo Ủy ban Chứng khoán và thị trường chứng khoán
Mỹ (Securities and Exchange Commission gọi tắt là SEC) đã định nghĩa chào bán
chứng khoán ra công chúng được hiểu là hoạt động chào bán chứng khoán trong đó
tất cả những người được phát hành cần được bảo vệ thông qua việc đăng ký chào
bán của tổ chức phát hành với cơ quan quản lý chứng khoán[109]. Như vậy, chào
bán chứng khoán ra công chúng phân biệt với chào bán chứng khoán riêng lẻ ở việc
phải đăng ký chào bán với cơ quan quản lý có thẩm quyền trước khi thực hiện phân
phối chứng khoán. Tại Trung Quốc, chào bán chứng khoán được hiểu là những đợt
chào bán đáp ứng các điều kiện theo luật định và phải được báo cáo với cơ quan
quản lý chứng khoán trực thuộc Hội đồng Nhà nước để xem xét, xác minh và phê
chuẩn[118,Điều 10]. So với Mỹ, chào bán chứng khoán ra công chúng ở Trung
Quốc không chỉ yêu cầu đăng ký chào bán mà còn yêu cầu các điều kiện để thực
hiện chào bán chứng khoán ra công chúng.
Theo cuốn từ điển thuật ngữ pháp lý nổi tiếng của Mỹ Black’s Law
Dictionary, chào bán chứng khoán ra công chúng là hoạt động chào bán chứng
khoán rộng rãi cho công chúng đầu tư[110,tr.1112]. Theo bách khoa toàn thư mở
Wikipedia, chào bán chứng khoán ra công chúng là việc chào bán chứng khoán của
một công ty hoặc một tổ chức tương tự tới công chúng[120].
Tại Việt Nam, quan điểm một số học giả cho rằng: chào bán chứng khoán ra
công chúng là hoạt động chào bán của doanh nghiệp đủ điều kiện nhằm hướng tới
số đông nhà đầu tư[54,tr.74].
Có nhiều cách định nghĩa khác nhau về chào bán chứng khoán ra công chúng
và khó có thể khẳng định định nghĩa nào chuẩn mực hơn do mỗi quốc gia, nhà

8


nghiên cứu đều có những cách hiểu khác nhau. Tuy nhiên, căn cứ theo Khoản 12
Điều 6 Luật Chứng khoán của Việt Nam có thể định nghĩa chào bán chứng khoán

ra công chúng là việc chào bán chứng khoán theo một trong các phương thức sau
đây:
a) Thông qua phương tiện thông tin đại chúng, kể cả Internet;
b) Chào bán chứng khoán cho từ một trăm nhà đầu tư trở lên, không kể nhà
đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp;
c) Chào bán cho một số lượng nhà đầu tư không xác định.
1.1.1.2. Đặc điểm của chào bán chứng khoán ra công chúng
Từ các định nghĩa về chào bán chứng khoán ra công chúng đã nêu ở trên rút
ra một số đặc điểm của chào bán chứng khoán ra công chúng như sau:
Thứ nhất, việc chào bán chứng khoán ra công chúng chỉ được thực hiện sau
khi tổ chức phát hành đã đăng ký chào bán với cơ quan nhà nước có thẩm quyền
quản lý thị trường chứng khoán. Theo pháp luật Việt Nam, tổ chức phải hành thực
hiện chào bán chứng khoán ra công chúng phải đăng ký với Ủy ban Chứng khoán
nhà nước (gọi tắt là UBCKNN) (Điều13 Luật Chứng khoán). Đặc thù của hàng hóa
trên thị trường chứng khoán là sự tách rời giá trị thực của chứng khoán ra khỏi bản
thân chứng khoán[28,tr.367]. Bởi vậy, việc chào bán chứng khoán ra công chúng rất
dễ xảy ra các hành vi lừa đảo, lũng đoạn, giả mạo thông tin và hoạt động kiếm lời
không chính đáng khác. Khi có các hành vi tiêu cực trên xảy ra sẽ gây thiệt hại lớn
cho cá nhân, tổ chức và cả thị trường bởi tính chất đại chúng của hoạt động chào
bán chứng khoán kể trên. Từ bài học thực tiễn của các nước trên thế giới trong việc
để TTCK phát triển một cách tự phát, việc thành lập các cơ quan quản lý nhà nước
về thị trường chứng khoán là cần thiết. Các cơ quan này quản lý và giám sát thị
trường chứng khoán thông qua việc thực thi các đạo luật về chứng khoán và thị
trường chứng khoán[28,tr.367].
Thứ hai, trên thế giới việc chào bán chứng khoán thường được tiến hành
thông qua tổ chức trung gian là các công ty bảo lãnh phát hành hoặc đại lý phát
hành chứng khoán. Bảo lãnh phát hành chứng khoán là việc tổ chức bảo lãnh giúp

9



tổ chức phát hành thực hiện các thủ tục trước khi chào bán chứng khoán, nhận mua
một phần hay toàn bộ chứng khoán của tổ chức phát hành để bán lại hoặc mua số
chứng khoán còn lại chưa được phân phối hết. Tương tự, đại lý phát hành chứng
khoán là các công ty chứng khoán, tổ chức tín dụng, tổ chức tín dụng phi ngân hàng
nhận bán chứng khoán cho tổ chức phát hành trên cơ sở thỏa thuận hoặc thông qua
tổ chức bảo lãnh phát hành. Việc chào bán chứng khoán ra công chúng có khả năng
làm tăng uy tín của công ty phát hành và đem lại nhiều thuận lợi cho công ty trong
kinh doanh cũng như trong huy động vốn sau này[96,tr.58]. Bởi vậy, các tổ chức
phát hành thường lựa chọn một đơn vị trung gian có khả năng, chuyên môn và kinh
nghiệm trong hoạt động chào bán chứng khoán ra công chúng nhằm đảm bảo khả
năng thành công của các đợt chào bán chứng khoán, nhất là đối với những đợt chào
bán lần đầu ra công chúng (IPO) mà không tự tiến hành phân phối.
Thứ ba, việc chào bán được thực hiện trên phạm vi lớn, thu hút số lượng lớn
nhà đầu tư (đến từ trong và ngoài nước và không chỉ nhà đầu tư có tổ chức mà buộc
phải có cả nhà đầu tư cá nhân) bỏ vốn để mua chứng khoán được chào bán trong
đợt chào bán. Đó là do bản chất về mặt kinh tế của chào bán chứng khoán ra công
chúng là công khai gọi vốn từ công chúng[28,tr.57]. Công chúng ở đây được hiểu là
tất cả những chủ thể có khả năng đầu tư, bao gồm nhà đầu tư cá nhân và tổ chức,
nhà đầu tư trong nước và ngoài nước. Ngược lại, việc mở rộng phạm vi kêu gọi nhà
đầu tư sẽ đảm bảo khả năng thành công của đợt chào bán chứng khoán.
Thứ tư, tổng giá trị chứng khoán chào bán thường phải đạt tới mức độ nhất
định, nhằm tập trung được lượng vốn lớn, giúp tổ chức phát hành thực hiện được dự
án mở rộng quy mô kinh doanh hoặc đầu tư mới[96,tr.56]. Bản thân các nhà đầu tư
cần được đảm bảo rằng số vốn họ bỏ ra sẽ thu được lợi nhuận. Do đó, tổ chức phát
hành cần phải chứng minh được phương án sản xuất kinh doanh khả thi và có khả
năng sinh lợi. Các phương án sản xuất kinh doanh như vậy thường sẽ đòi hỏi một
lượng vốn khá lớn. Bên cạnh đó, việc tổ chức phát hành chứng khoán ra công chúng
đòi hỏi thời gian chuẩn bị và các khoản chi phí không nhỏ như chi phí bảo lãnh phát
hành chứng khoán, chi phí tư vấn... Bởi vậy, tổng giá trị chứng khoán chào bán phải


10


đạt giá trị tương đối lớn để bù đắp được các chi phí bỏ ra cũng như khi thực hiện
các phương án đề ra. Hay nói cách khác, tổng giá trị chào bán ít nhất phải bằng số
vốn dự tính theo phương án sản xuất cộng với chi phí bỏ ra để tiến hành chào bán
cùng một khoản chi phí dự phòng.
1.1.2. Mục đích, vai trò của chào bán chứng khoán ra công chúng
1.1.2.1. Mục đích của chào bán chứng khoán ra công chúng
Chào bán chứng khoán ra công chúng nhằm huy động vốn cho các chủ
thể phát hành chứng khoán. Thông qua chào bán chứng khoán ra công chúng, các
công ty có thể tăng quy mô vốn với chi phí vốn thấp hơn so với vay thương mại.
Các công ty - tổ chức phát hành có thể dễ dàng huy động vốn mà không bị giới hạn
về điều kiện thế chấp và quy mô huy động vốn. Thêm nữa, việc chào bán cổ phiếu
còn góp phần làm tăng năng lực tài chính của tổ chức phát hành. Có thể nói, chào
bán chứng khoán ra công chúng là một trong những kênh huy động vốn cho doanh
nghiệp mang lại hiệu quả cao nhất.
Chào bán chứng khoán ra công chúng là điều kiện quan trọng để tham
gia niêm yết trên thị trường tập trung. Theo quy định của pháp luật, chứng khoán
của các công ty đã chào bán ra công chúng được phép niêm yết trên Sở giao dịch
nếu đáp ứng được điều kiện niêm yết (Điều 40 Luật Chứng khoán). Đó là do chứng
khoán chào bán ra công chúng đã phải đạt yêu cầu tối thiểu về vốn và hiệu quả hoạt
động nên thường được thị trường đánh giá cao[47,tr.53]. Các tiêu chuẩn về việc
niêm yết trên Sở giao dịch chứng khoán sẽ do Chính phủ quy định về điều kiện, hồ
sơ, thủ tục niêm yết (Khoản 3 Điều 40).
Chào bán chứng khoán ra công chúng nhằm tăng hiệu quả hoạt động của
doanh nghiệp. Báo cáo tài chính là một phần quan trọng trong hồ sơ đăng ký chào
bán chứng khoán ra công chúng. Báo cáo tài chính năm phải được kiểm toán bởi tổ
chức kiểm toán được chấp thuận (Khoản 3 Điều 16). Như vậy, chào bán chứng

khoán ra công chúng làm tăng chất lượng và độ chính xác của các báo cáo của công
ty. Điều này sẽ tạo sức ép lên các công ty phải hoạt động hiệu quả và hình thành cơ
chế giám sát của cơ quan quản lý nhà nước đối với hoạt động của công ty sau

11


đó[47,tr.54]. Ngoài ra, với việc giành một lượng cổ phần nhất định để phát hành
cho nhân viên sẽ giúp công ty duy trì được một độ ngũ nhân viên giỏi và có động
lực gắn bó với công ty, một khi họ đã trở thành cổ đông và được hưởng lãi dựa trên
kết quả hoạt động kinh doanh.
Chào bán chứng khoán ra công chúng nhằm nâng cao uy tín, quảng bá
hình ảnh. Theo thông lệ quốc tế, chào bán chứng khoán ra công chúng thường gắn
liền với mục tiêu niêm yết trên thị trường chứng khoán tập trung. Khi đơn vị đã
tham gia thị trường chứng khoán tập trung, các thông tin liên quan tới hoạt động,
kết quả sản xuất kinh doanh sẽ thường xuyên xuất hiện miễn phí trên các phương
tiện thông tin đại chúng. Vị thế của công ty sẽ được quảng bá và nâng cao[47,tr.54].
Điều đó cho phép hàng hóa và dịch vụ của đơn vị chiếm được thị phần lớn hơn, tiếp
cận với những nguồn vốn lớn hơn, “rẻ” hơn và đa dạng hơn. Tuy nhiên, đối với
trường hợp công ty hoạt động yếu kém cũng sẽ dẫn tới uy tín của công ty bị giảm
sút. Bởi vậy, song song với việc quảng bá hình ảnh trước công chúng, việc nâng cao
năng lực cạnh tranh để duy trì công ty kinh doanh có lãi là một mục tiêu trọng tâm.
Chào bán chứng khoán ra công chúng nhằm giảm chi phí tiếp cận vốn.
Chi phí phát hành chứng khoán cho công chúng khá cao, bao gồm các chi phí tư
vấn phát hành, bảo lãnh phát hành, tư vấn pháp luật, in ấn, kiểm toán, chi phí công
bố thông tin và niêm yết... Tuy nhiên, lợi ích đem lại của hoạt động chào bán chứng
khoán ra công chúng là rất lớn. Trước hết, với việc tạo dựng được hình ảnh đẹp qua
đợt chào bán đầu tiên, công ty sẽ nhanh chóng và ít tốn kém hơn trong việc huy
động vốn ở những lần chào bán sau đó. Tiếp theo, với việc các khách hàng và nhà
cung ứng của công ty thường sẽ mua cổ phần, công ty sẽ có được thuận lợi lớn

trong việc mua nguyên liệu và tiêu thụ sản phẩm.
1.1.2.2. Vai trò của chào bán chứng khoán ra công chúng.
Chào bán chứng khoán ra công chúng là một kênh huy động vốn có nhiều ưu
thế so với kênh huy động vốn thông qua vay vốn tại ngân hàng thương mại, công ty
tài chính, công ty cho thuê tài chính hay tài trợ tín dụng xuất khẩu (export credit).
Điều này được thể hiện rõ nét ở vai trò của hoạt động này.

12


Đối với nền kinh tế và xã hội, chào bán chứng khoán ra công chúng sẽ đem
lại nguồn vốn cần thiết để thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội. Bởi mục đích của
doanh nghiệp khi chào bán chứng khoán ra công chúng là để huy động từ xã hội
một lượng vốn lớn để thực hiện các dự án đầu tư phát triển hay mở rộng sản xuất
kinh doanh. Nếu tạm gạt bỏ khía cạnh pháp lý sang một bên, chào bán chứng khoán
ra công chúng là công khai gọi vốn từ công chúng, gồm các nhà đầu tư cá nhân và
tổ chức, trên phạm vi rộng, từ trong và ngoài nước[96,tr.57]. Điều đó đồng nghĩa
với việc góp phần vào công cuộc xây dựng đất nước, tạo thêm việc làm cho người
lao động và đóng góp vào ngân sách một khoản thuế doanh nghiệp.
Đối với thị trường chứng khoán, chào bán chứng khoán ra công chúng là
một hoạt động rất quan trọng ảnh hưởng trực tiếp tới sự tồn tại và phát triển của thị
trường chứng khoán. Thị trường chứng khoán bao gồm thị trường sơ cấp (primary
market) - là nơi mua bán chứng khoán mới chào bán và thị trường thứ cấp
(secondary market) - là nơi giao dịch chứng khoán đã được chào bán trên thị trường
sơ cấp. Hai thị trường này có mối quan hệ tác động qua lại lẫn nhau, thị trường sơ
cấp là cơ sở của thị trường thứ cấp và thị trường thứ cấp tạo ra động lực cho sự phát
triển của thị trường sơ cấp. Chứng khoán sau khi được chào bán ra công chúng
thường được giao dịch rộng rãi, có thế mua đi bán lại dễ dàng, nghĩa là đã tạo ra
tính thanh khoản cho thị trường thứ cấp. Khi đó, thị trường chứng khoán mới có thể
phát huy vai trò là một kênh huy động và phân bổ nguồn vốn chủ yếu của nền kinh

tế. Ngoài ra, việc thu hút một nguồn lực lớn từ xã hội thông qua hoạt động chào bán
chứng khoán ra công chúng sẽ tạo ra một thị trường chứng khoán đủ lớn mạnh để
giảm bớt sự phụ thuộc của các doanh nghiệp vào nguồn vốn tín dụng của các Ngân
hàng thương mại và các định chế tài chính khác.
Đối với tổ chức phát hành là doanh nghiệp thì chào bán chứng khoán ra
công chúng là một kênh huy động vốn quan trọng giúp doanh nghiệp giải quyết nhu
cầu về vốn mà tránh được việc phụ thuộc quá nhiều vào vốn tín dụng của các định
chế tài chính. Về bản chất, hoạt động này cho phép doanh nghiệp trực tiếp huy động
vốn từ các cá nhân và tổ chức đang có lượng tiền nhàn rỗi mà không cần thông qua

13


các khâu trung gian trong việc huy động. Không có chào bán chứng khoán, các
doanh nghiệp sẽ phải vay vốn ngân hàng mà về bản chất, các khoản tín dụng ngân
hàng cấp cho doanh nghiệp lại được huy động từ chính các chủ thể có lượng tiền
nhàn rỗi kể trên. Điều đó có nghĩa là việc huy động vốn “trực tiếp” từ công chúng
có thể sẽ đem lại chi phí thấp hơn so với việc huy động vốn “gián tiếp” từ công
chúng thông qua hệ thống ngân hàng thương mại, các công ty tài chính, công ty cho
thuê tài chính v.v...
Hơn nữa, chào bán chứng khoán ra công chúng cũng sẽ đem lại cho doanh
nghiệp các nguồn vốn dài hạn và ổn định hơn so với nguồn vốn doanh nghiệp vay
từ ngân hàng[28,tr.51]. Nguyên nhân là do mục đích nắm chứng khoán của nhà đầu
tư là đầu tư dài hạn, tối thiểu trên 5 năm thậm chí từ 15 tới 25 năm. Ví dụ: đối với
việc chào bán chứng khoán là cổ phiếu sẽ không ràng buộc các doanh nghiệp trách
nhiệm hoàn trả các cổ đông phần vốn mà họ đã góp; ngay cả với việc chào bán trái
phiếu thì thời hạn hoàn trả vốn vay cũng rất dài và thường thời hạn này từ 5 năm trở
lên. Thực tế, việc vay vốn từ ngân hàng có rất nhiều điểm hạn chế như thời hạn vay
vốn ngắn (thường dưới 5 năm), bắt buộc phải có tài sản thế chấp hoặc bảo lãnh của
bên thứ ba đồng thời doanh nghiệp phải chịu áp lực trả nợ từ phía ngân hàng. Rõ

ràng, chào bán chứng khoán ra công chúng đã thể hiện là một kênh huy động vốn
linh hoạt và hiệu quả hơn so với việc vay vốn từ ngân hàng.
Thêm vào đó, chào bán chứng khoán ra công chúng còn có thể làm tăng giá
trị của doanh nghiệp. Sau khi chào bán chứng khoán ra công chúng, tính thanh
khoản của chứng khoán thường sẽ tăng lên cùng với uy tín của công ty khiến cho
giá bán chứng khoán trên thị trường tăng. Khi đó, giá trị thực của công ty sẽ được
xác định bởi số lượng và giá chứng khoán được giao dịch trên thị trường. Việc này
sẽ rất có lợi cho cổ đông khi xác định giá trị cổ phiếu của mình cũng như tạo tiền đề
cho hoạt động mua bán và sát nhập (M&A) diễn ra sôi động.

14


1.1.3. Các hình thức chào bán chứng khoán ra công chúng
Chào bán chứng khoán ra công chúng có hai hình thức: chào bán lần đầu ra
công chúng (Initial public offering gọi tắt là IPO) và chào bán thêm chứng khoán
ra công chúng (Primary offering gọi tắt là PO) (Điều 11 Luật Chứng khoán)
(1) Chào bán lần đầu ra công chúng (IPO) thường được các công ty mới
thành lập hay các công ty có quy mô nhỏ sử dụng khi muốn tăng vốn để mở rộng
sản xuất kinh doanh. Ngoài ra, IPO cũng là cách thức thường được các công ty phi
đại chúng (Công ty trách nhiệm hữu hạn, doanh nghiệp tư nhân hoặc công ty cổ
phần) để chuyển đổi thành công ty đại chúng để có thêm cơ hội huy động vốn từ
các nhà đầu tư nhằm phục vụ mục đích kinh doanh của mình.
(2) Chào bán thêm chứng khoán ra công chúng (PO) là hoạt động chào bán
chứng khoán bổ sung của công ty đại chúng (sau khi thực hiện đợt chào bán lần đầu
ra công chúng - IPO). Các công ty đại chúng sử dụng hình thức này khi muốn tăng
vốn điều lệ (chào bán cổ phiếu) hoặc vốn tự có (chào bán trái phiếu) trong quá trình
mở rộng kinh doanh hoặc thực hiện một dự án kinh doanh cần nhiều vốn mà ở thời
điểm hiện tại, nguồn vốn sẵn có của công ty không đủ khả năng đáp ứng nhu cầu
kinh doanh đó[96,tr.57].

Bên cạnh đó, căn cứ vào loại chứng khoán được phát hành có thể chia chào
bán chứng khoán ra công chúng làm ba loại: chào bán cổ phiếu ra công chúng,
chào bán trái phiếu ra công chúng và chào bán chứng chỉ quỹ ra công chúng
(Điều 12 Luật Chứng khoán). Ngoài ba loại hình thức chào bán chứng khoán cơ bản
nêu trên, từ nửa sau của thế kỷ trước trên thế giới đã xuất hiện thêm hình thức chào
bán sản phẩm chứng khoán mới.
Sản phẩm chứng khoán mới (hay còn gọi là các sáng tài chính - financial
engineering) được định nghĩa là các chứng khoán được tạo lập bằng cách áp dụng
các phương pháp chuyên biệt, đặc biệt là từ toán tài chính (mathematical finance)
và thuật toán tài chính (computational finance) trong việc ứng dụng vào lĩnh vực tài
chính[120]. Tại Mỹ, các Ngân hàng đầu tư là chủ thể tiên phong trong việc phát
triển các sáng tạo tài chính. Những sáng tạo tài chính nổi bật nhất trong vài thập kỷ

15


gần đây là các sản phẩm chứng khoán phái sinh (CKPS) và sản phẩm chứng khoán
hóa (CKH).
1.1.3.1. Chứng khoán phái sinh
Ở Việt Nam, chứng khoán phái sinh (Derivatives) và thị trường chứng khoán
phái sinh (TTCKPS) là vấn đề hoàn toàn mới. TTCK phái sinh là một thi trường tài
chính bậc cao, nhiều nước trên thế giới đã vận hành từ lâu, nhưng ở Việt Nam vẫn
chưa hình thành TTCKPS. Việc đưa chứng khoán phái sinh thành hàng hóa quy
chuẩn của thị trường niêm yết là bước cần thiết nhằm đa dạng hóa sản phẩm trên thị
trường, tạo ra công cụ đáp ứng yêu cầu phòng ngừa rủi ro cũng như mục tiêu tìm
kiếm lợi nhuận của các nhà đầu tư. Điều này cũng sẽ thúc đẩy hoạt động chào bán
chứng khoán ra công chúng bởi một TTCK sôi động, phát triển bền vững, giá cổ
phiếu ở mức cao là một động lực để các công ty chào bán chứng khoán nhằm huy
động vốn, thậm chí các doanh nghiệp còn có thể vay vốn từ các nguồn vốn giá rẻ
mà không cần để ý tới đồng ngoại tệ hay lãi suất bằng việc sử dụng các sản phẩm

hoán đổi ngoại tệ hay hoán đổi lãi suất[126].
Để xúc tiến các bước chuẩn bị thành lập TTCKPS VIệt Nam, ngày
05/05/2015 Chính phủ đã ban hành Nghị định số 42/2015/NĐ-CP về chứng khoán
phái sinh và TTCK phái sinh. Nghị định đã nêu rõ những vấn đề cơ bản về chứng
khoán phái sinh cũng như mô hình tổ chức TTCKPS tại Việt Nam, bao gồm các đối
tượng sau:
-

Bộ Tài chính và UBCKNN, với tư cách là cơ quan quản lý trực tiếp, được

quyền cấp giấy phép cho các hoạt động kinh doanh, giao dịch CKPS cũng như cho
các sản phẩm phái sinh niêm yết tại SGDCK;
-

Sở giao dịch chứng khoán (cụ thể là SGDCK Hà Nội - HNX) là nơi thiết kế

sản phẩm CKPS và thực hiện niêm yết, tổ chức giao dịch các sản phẩm đó sau khi
được cơ quan có thẩm quyền chấp thuận;
-

Trung tâm lưu ký chứng khoán (cụ thể là Trung tâm lưu ký chứng khoán Việt

Nam - VSD) sẽ thực hiện chức năng dịch vụ bù trừ và thanh toán cho các giao
dịch CKPS theo cơ chế đối tác bù trừ trung tâm (Central Clearing Counterparty -

16


×