Tải bản đầy đủ (.doc) (39 trang)

Đường lối độc lập, tự chủ, sáng tạo trong đổi mới

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (240.8 KB, 39 trang )

Quan điểm độc lập tự chủ, sáng tạo của Đảng trong hoạch định đường lối
Đổi mới

1. Độc lập, tự chủ, sáng tạo là đòi hỏi khách quan của cách
mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng
2. Quan điểm độc lập, tự chủ, sáng tạo của Đảng ta trong hoạch
định đường lối đổi mới
2.1. Độc lập, tự chủ, sáng tạo trong đổi mới từng phần (1979-1986)
2.2. Độc lập, tự chủ, sáng tạo trong quá trình phát triển đường
lối đổi mới toàn diện (1986-2011)
3. Ý nghĩa lịch sử, hiện thực

MỞ ĐẦU


2
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là một bước ngoặt vĩ đại trong
lịch sử cách mạng nước ta. Hơn ba phần tư thế kỷ đã trôi qua từ khi
thành lập, Đảng Cộng sản Việt Nam đã dẫn dắt giai cấp công nhân và
toàn dân tộc Việt Nam vào con đường đấu tranh cách mạng và đã giành
được những thắng lợi vĩ đại, có nghĩa lịch sử thời đại.
Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng ta luôn nêu
cao tinh thần độc lập, tự chủ, sáng tạo trong việc hoạch định đường lối chiến
lược, sách lược cũng như trong tổ chức thực hiện đường lối đó. Độc lập, tự
chủ, sáng tạo không chỉ là truyền thống, mà còn là nét nổi bật thuộc về bản
lĩnh chính trị của Đảng. Bản lĩnh chính trị độc lập, tự chủ, sáng tạo biểu hiện
rõ nhất ở những lúc cách mạng gặp khó khăn, trước những bước ngoặt của
lịch sử, từ đó tạo ra cao trào cách mạng rộng khắp để đưa cách mạng Việt
Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác, hoàn thành cuộc đấu tranh giành
độc lập dân tộc, đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Đặc biệt, trong công cuộc đổi mới hiện nay, nhờ có tư duy độc lập tự


chủ, sáng tạo, Đảng ta đã có đường lối cách mạng đúng đắn, luôn luôn chủ
động, sáng tạo để đề ra những quyết sách đúng đắn, phù hợp, đưa sự nghiệp
đổi mới vượt qua những khó khăn thử thách và giành được những thành tựu
to lớn. Vì vậy, việc nghiên cứu về: “Phát huy quan điểm độc lập, tự chủ,
sáng tạo của Đảng trong hoạch định đường lối đổi mới” là vấn đề có ý
nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc.

NỘI DUNG


3
1. Độc lập, tự chủ, sáng tạo là đòi hỏi khách quan của cách mạng
Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng
Trong lịch sử mấy nghìn năm dựng nước và giữ nước, độc lập, tự chủ,
sáng tạo là một truyền thống quý báu của dân tộc Việt Nam. Một đất nước có vị
trí chiến lược quan trọng trong khu vực và thế giới, luôn là mục tiêu xâm lược
của các đế chế phong kiến nước ngoài và thực dân đế quốc; vừa luôn phải sống
trong hoàn cảnh tự nhiên khắc nghiệt... điều kiện tự nhiên và vị trí “địa chính trị”
đòi hỏi dân tộc Việt Nam phải thường xuyên nêu cao tính độc lập, tự chủ, sáng
tạo, đoàn kết kiên cường trong dựng và giữ nước. Độc lập, tự chủ, sáng tạo trở
thành truyền thống quý báu, thành bản sắc văn hoá của dân tộc Việt Nam.
Độc lập, tự chủ, sáng tạo không chỉ là truyền thống mà còn là nét nổi
bật về bản lĩnh chính trị của Đảng Cộng sản Việt nam. Đó là một bài học
xuyên suốt trong lịch sử lãnh đạo và đấu tranh của Đảng ta, một nhân tố bảo
đảm cho Đảng ta hoàn thành sứ mệnh lịch sử của đội tiên phong lãnh đạo
cách mạng nước ta. Không những vậy quan điểm độc lập, tự chủ, sáng tạo còn
là “vũ khí” giúp Đảng lãnh đạo cách mạng Việt Nam giành hết thắng lợi này
đến thắng lợi khác vượt qua mọi khó khăn thử thách.
Quan điểm Độc lập, tự chủ, sáng tạo của Đảng Cộng sản Việt Nam
không có nghĩa là sự biệt lập, đóng kín với thế giới bên ngoài, không có nghĩa

là xa rời, từ bỏ chủ nghĩa Mác- Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh mà đó là sự
trung thành và vận dụng một cách sáng tạo chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh vào điều kiện cụ thể của cách mạng Việt Nam.
Độc lập, tự chủ, sáng tạo nghĩa là tự mình chủ động, tích cực tìm tòi
nhằm khám phá phát hiện ra chân lý, đồng thời biết tiếp thu những thành tựu,
trí tuệ và kinh nghiệm quý báu của nhân loại, vận dụng sáng tạo vào thực tiễn.
Không chịu lệ thuộc, không áp dụng dập khuôn máy móc, giáo điều mô hình
của nước khác, không theo đuôi nước khác hay sự áp đặt của bất kỳ một thế
lực bên ngoài nào. Điều này đã được C.Mác và Ph.Ăngghen chỉ rõ: “Bất cứ ở


4
đâu và bất cứ nơi nào, việc áp dụng những nguyên tắc đó cũng phải tuỳ thuộc
vào hoàn cảnh lịch sử đương thời”1.
Trên cơ sở những nguyên lý của C.Mác và Ph.Ăngghen, V.I.Lênin đã kế
thừa, bổ sung, phát triển và vận dụng một cách sáng tạo vào tình hình thực tiễn
nước Nga, đưa cách mạng tháng Mười Nga đến thắng lợi. Qua đó, V.I.Lênin
cũng chỉ ra cho những người cộng sản rằng: Lý luận của C.Mác và Ph.Ăngghen
là một hệ thống mở cần phải bổ sung, phát triển, vận dụng một cách sát hợp,
V.I.Lênin chỉ rõ: “Chúng ta không hề coi lý luận của Mác như một cái gì đã
xong xuôi hẳn và bất khả xâm phạm, trái lại chúng ta tin rằng, lý luận đó chỉ đặt
nền móng cho môn khoa học mà những người chủ nghĩa xã hội cần phải phát
triển hơn nữa về mọi mặt nếu như họ không muốn lạc hậu về cuộc sống” 2.
V.I.Lênin nhấn mạnh: “Tất cả các dân tộc đều đi đến chủ nghĩa xã hội, đó là điều
không tránh khỏi, nhưng tất cả các dân tộc đều tiến tới chủ nghĩa xã hội không
phải một cách hoàn toàn giống nhau. Mỗi dân tộc sẽ đưa đặc điểm nước mình
vào hình thức này hay hình thức khác của chế độ dân chủ, vào loại này hay loại
khác của chuyên chính vô sản, vào nhịp độ này hay nhịp độ khác của việc cải tạo
xã hội chủ nghĩa đối với các mặt khác nhau của đời sống xã hội”3.
Như vậy, C.Mác, Ph.Ăngghen và V.I.Lênin là những người sáng lập ra

học thuyết cách mạng và khoa học của giai cấp vô sản; đồng thời các ông cũng
chỉ ra rất rõ ràng là đừng bao giờ coi lý luận của các ông như một “công thức
vận dụng” hay “bất khả xâm phạm”, là “chân lý tuyệt đích”… Trái lại, các ông
luôn đòi hỏi những người cộng sản phải biết vận dụng sáng tạo những nguyên
lý cơ bản đó sao cho phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh lịch sử, phù hợp với
truyền thống văn hoá từng nước, có nghĩa là những người cách mạng phải căn
cứ vào thực tiễn cách mạng của nước mình mà kế thừa, tiếp thu có chọn lọc.
Độc lập phải gắn liền với sáng tạo; phải mạnh dạn đổi mới để tiến lên, phải có
dũng khí nhìn vào sự thật.... Đó là một nghệ thuật lãnh đạo cách mạng, đòi hỏi
1

C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, tập 8, Nxb CTQG, H.1995, tr.128.
V.I.Lênin, Toàn tập, tập 26, Nxb Tiến bộ, Matxcơva, 1980, tr.232.
3
V.I.Lênin, Toàn tập, tập 30, Nxb Tiến bộ, Matxcơva, 1981, tr.160.
2


5
phải hết sức mềm dẻo, linh hoạt. V.I.Lênin đã khẳng định, chúng ta phải:
“Chọn một con đường khác để đi tới đích... nếu con đường cũ, trong một thời
gian nhất định nào đó, xem ra không thích hợp nữa, không đi theo được nữa”1.
Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh tụ thiên tài của dân tộc Việt Nam, Người
trực tiếp sáng lập và rèn luyện Đảng ta. Với một trái tim đầy nhiệt huyết cách
mạng và nhãn quan chính trị sâu sắc, Người đã tiếp thu truyền thống tốt đẹp
của dân tộc, kết hợp với tinh hoa văn hóa thế giới, mà chủ nghĩa Mác- Lênin
là nguồn gốc lý luận chủ yếu và thực tiễn hoạt động của bản thân đã xây dựng
nên những luận điểm quan trọng thể hiện tinh thần độc, lập tự, sáng tạo của
mình. Trong khi nhiều nhà cách mạng châu Âu cho rằng, chỉ khi nào cách
mạng ở chính quốc thành công thì sự nghiệp giải phóng dân tộc ở các nước

thuộc địa mới có thể hoàn thành, thì Nguyễn Ái Quốc đã cho rằng, sự nghiệp
giải phóng ở các nước thuộc địa có thể chủ động dựa vào sức mình, Người chỉ
rõ con đường giải phóng dân tộc là phải nêu cao tinh thần tự lực, tự cường,
với phương châm “Đem sức ta mà tự giải phóng cho ta”2 và “muốn người ta
giúp cho thì trước mình phải tự giúp lấy mình đã” 3. Đồng thời, Chủ tịch Hồ
Chí Minh cũng hết sức phê phán tư tưởng trông chờ, ỷ lại vào bên ngoài,
Người chỉ rõ: “Một dân tộc không tự lực cánh sinh mà cứ ngồi chờ dân tộc
khác giúp đỡ thì không xứng đáng được độc lập”4.
Phát huy truyền thống dân tộc, trung thành và vận dụng sáng tạo lý luận
chủ nghĩa Mác- Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, trong quá trình lãnh đạo
cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn nêu cao quan điểm độc lập, tự chủ,
sáng tạo trong hoạch định chủ trương, đường lối lãnh đạo cách mạng, trong
phát động phong trào cách mạng… để từ đó tạo nên sức mạnh của toàn dân
tộc, bất chấp những khó khăn thử thách, bất chấp sự can thiệp, chi phối từ bên
ngoài, đem lại thắng lợi cho cách mạng. Thực tiễn cách mạng cho thấy, hoàn
1

V.I.Lênin, Toàn tập, tập 44, Nxb Tiến bộ, Matxcơva, 1978, tr.198.
Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 3, Nxb CTQG, H.2009, tr.554.
3
Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 2, Nxb CTQG, H.2009, tr.393.
4
Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 6, Nxb CTQG, H.2009, tr.522.
2


6
cảnh luôn thay đổi, nếu Đảng ta không biết sáng tạo, không đổi mới kịp thời,
khi đó sẽ không theo kịp với thời cuộc, cách mạng sẽ dậm chân tại chỗ, nhưng
sáng tạo mà không có cơ sở khoa học sẽ dẫn đến đi chệch quỹ đạo. Do vậy,

tính sáng tạo ở đây đòi hỏi phải đúng đắn, khoa học, có vậy mới đưa cách
mạng phát triển đúng hướng. Đồng thời, phải nêu cao tinh thần độc lập, tự
chủ: độc lập trong tư duy, độc lập trong lãnh đạo, chỉ đạo cách mạng, không
bị lệ thuộc vào bất cứ thế lực nào, sự can thiệp nào từ bên ngoài, có vậy
những quyết sách đưa ra mới đúng đắn, kịp thời.
Thực tiễn quá trình đấu tranh cách mạng của Đảng cho thấy, trong hơn
80 năm qua, Đảng ta luôn nêu cao tinh thần độc lập tự chủ, sáng tạo, để có
đường lối cách mạng đúng đắn, đưa cách mạng đi đến thắng lợi. Sự sáng tạo
của Đảng được thể hiện ngay trong qui luật ra đời của Đảng, đó là sự kết hợp
không chỉ có chủ nghĩa Mác- Lênin với phong trào công nhân (qui luật ra đời
chung cho các Đảng Cộng sản) mà còn thêm một yếu tố là phong trào yêu
nước. Trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, nhờ có đường lối độc lập,
tự chủ, sáng tạo, mà Đảng ta ngay từ khi mới ra đời đã có Cương lĩnh, đường
lối cách mạng đúng đắn, đưa cách mạng phát triển theo trào lưu tiến bộ nhất
của nhân loại, để cách mạng phát triển đúng hướng từ đó về sau.
Trong Cương lĩnh đầu tiên Đảng ta đã kết hợp nhuần nhuyễn quan
điểm dân tộc và giai cấp, thấm đượm tính dân tộc và thời đại với những luận
điểm sáng tạo. Trong đó, Cương lĩnh đã gắn cách mạng giải phóng dân tộc
với cách mạng vô sản, độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội. Đây là luận điểm
quan trọng nhất, có tính bao trùm, chỉ ra phương hướng cơ bản, và mục tiêu
chiến lược của cách mạng Việt Nam “chủ trương làm tư sản dân quyền cách
mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”1. Cương lĩnh của Đảng
đã khẳng định cách mạng Việt Nam là một bộ phận khăng khít của cách mạng
thế giới, đồng thời xác định tính chủ động, tích cực của cách mạng Việt Nam
trong mối quan hệ với cách mạng thế giới. Để thực hiện nhiệm vụ trung tâm
1

Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng, Toàn tập, tập 2, Nxb CTQG, H.2010, tr.2.



7
chống đế quốc, giải phóng dân tộc, Cương lĩnh chủ trương đoàn kết rộng rãi
tất cả các giai cấp cách mạng, các lực lượng tiến bộ, các cá nhân yêu nước.
Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Đảng là đội tiên phong của vô sản giai cấp,
phải thu phục cho được đại bộ phận giai cấp mình... Đảng phải thu phục cho
được đại bộ phận dân cày... Đảng phải hết sức liên lạc với tiểu tư sản, trí thức,
trung nông, Thanh niên, Tân Việt để kéo họ đi vào phe vô sản giai cấp... còn
đối với bọn phú nông, trung, tiểu địa chủ và tư bản An Nam mà chưa rõ mặt
phản cách mạng thì phải lợi dụng, ít lâu mới làm cho họ đứng trung lập” 1.
Việc tập hợp lực lượng với biên độ rộng lớn nhằm tạo sức mạnh tổng hợp để
làm cách mạng. Đứng vững trên quan điểm độc lập, tự chủ, sáng tạo, Đảng đã
đưa ra Cương lĩnh, đường lối phù hợp, sát đúng với thực tiễn cách mạng Việt
Nam. Đảng xác định con đường phát triển của cách mạng Việt Nam là sau khi
hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ sẽ thực hiện cách mạng xã hội chủ
nghĩa, bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa; xác định hai nhiệm vụ
chống đế quốc và chống phong kiến của cách mạng dân tộc, dân chủ (trước
đây gọi là cách mạng tư sản dân quyền) có mối quan hệ khăng khít nhưng
không đồng loạt ngang nhau, nhiệm vụ chống đế quốc, giải phóng dân tộc
được đặt lên hàng đầu. Sau này, Đảng nêu rõ thêm: nhiệm vụ chống phong
kiến phải thực hiện từng bước, phục tùng nhiệm vụ chống đế quốc. Từ đó Đảng
phát động được cao trào cách mạng rộng khắp, thu hút, tập hợp được đông đảo
lực lượng cách mạng, mặc dù phải đương đầu với không ít khó khăn thử thách,
song với niềm tin mãnh liệt vào phương hướng mục tiêu đã định, Đảng đã lãnh
đạo, xác định mục tiêu đấu tranh phù hợp cho từng giai đoạn, xác định đúng
đắn kẻ thù của giai cấp và của dân tộc, đó là đặt nhiệm vụ đánh đế quốc, giải
phóng dân tộc lên hàng đầu, từ đó đoàn kết, tập hợp được lực lượng cách mạng
to lớn, giành thắng lợi qua các cao trào 1930- 1931; 1936- 1939 và đặc biệt là
cao trào 1939- 1945, để đưa cách mạng tháng Tám đến thành công.

1


Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 3, Nxb CTQG, H.2009, tr.3.


8
Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, khi Đảng ta mới 15
tuổi và ta chỉ có khoảng hơn 5000 đảng viên, đã thể hiện sâu sắc sự lãnh đạo
sáng suốt, kiên quyết, kịp thời và nhạy cảm về chính trị; đồng thời, thể hiện
nổi bật bản lĩnh chính trị, tinh thần độc lập, tự chủ, sáng tạo của Đảng ta và
Chủ tịch Hồ Chí Minh trong xác định mục tiêu, hình thức và phương pháp
đấu tranh, nhằm phát huy cao nhất sức mạnh của toàn dân tộc với việc chớp
lấy thời cơ “ngàn năm có một”.
Trong những năm 1945-1946, với sự nhạy cảm đặc biệt về chính trị và
tinh thần độc lập, tự chủ, sáng tạo tuyệt vời cùng với trình độ trí tuệ của Đảng
ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đem đến thành công với sách lược lợi dụng
mâu thuẫn trong hàng ngũ kẻ thù, từng bước đập tan âm mưu và thủ đoạn
thâm độc của chúng, làm tan rã bọn tay sai phản động trong nước. Với tinh
thần độc lập, tự chủ, sáng tạo Đảng ta đã dựa chắc vào dân, phát huy tinh thần
làm chủ đất nước của nhân dân, đưa đất nước vượt qua tình thế hiểm nghèo,
củng cố và giữ vững chính quyền cách mạng; triệt để lợi dụng mâu thuẫn nội
bộ kẻ thù, chĩa mũi nhọn của cách mạng vào kẻ thù chính, hoà hoãn với lực
lượng có thể hoà hoãn được; góp sức đưa dân tộc ta vượt qua tình thế “ngàn
cân treo sợi tóc”; đồng thời tranh thủ thời gian tương đối hoà bình để xây
dựng lực lượng mọi mặt chuẩn bị cho toàn quốc kháng chiến.
Trong cuộc kháng chiến chống Pháp, nhờ quán triệt tinh thần độc lập,
tự chủ, sáng tạo, Đảng đã đưa ra đường lối đấu tranh đúng đắn: đường lối
kháng chiến toàn dân, toàn diện, lâu dài, dựa vào sức mình là chính; vừa
kháng chiến vừa kiến quốc, xây dựng lực lượng. Cũng nhờ tinh thần độc lập,
tự chủ, sáng tạo mà Đảng ta đã giải quyết đúng đắn các mối quan hệ, vừa
tranh thủ được sự giúp đỡ của bạn bè quốc tế, vừa không phụ thuộc vào sự chỉ

đạo của họ, để đưa cuộc kháng chiến đến thắng lợi.
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của dân tộc, ở điều kiện
hoàn cảnh nước ta: miền Bắc hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân
dân, miền Nam còn nằm trong ách đô hộ của đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai, với
tinh thần độc lập, tự chủ, sáng tạo, Đảng ta đã đề ra đường lối tiến hành đồng


9
thời hai chiến lược cách mạng. Tuy hai miền thực hiện hai chiến lược cách
mạng khác nhau, song hai chiến lược lại có quan hệ chặt chẽ với nhau, cùng
thực hiện một mục tiêu chung, giải quyết mối quan hệ hậu phương và tiền
tuyến khi cả nước có chiến tranh: vì giải phóng miền Nam phải bảo vệ và xây
dựng miền Bắc và để bảo vệ, xây dựng miền Bắc phải đánh thắng giặc Mỹ ở
miền Nam. Trong quá trình Đảng đề ra đường lối kháng chiến và thực tiễn
lãnh đạo cuộc chiến tranh nhân dân chống Mỹ cứu nước, chúng ta đã nhận
được sự giúp đỡ, ủng hộ cả về vật chất và tinh thần của các nước xã hội chủ
nghĩa anh em và bạn bè quốc tế. Song trên thực tế, một số nước anh em không
hoàn toàn đồng ý với đường lối chống Mỹ cứu nước của Đảng và nhân dân ta.
Có nước cho rằng ta không nên đồng thời tiến hành cùng một lúc cả hai chiến
lược cách mạng ở hai miền Nam- Bắc mà chỉ nên lãnh đạo một chiến lược cách
mạng hoặc là cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân hoặc là cách mạng xã hội
chủ nghĩa, với tư tưởng “trường kỳ mai phục”. Có nước cho rằng chúng ta
không nên đối đầu với Mỹ vì cuộc chiến không cân sức giữa ta và Mỹ, khuyên
ta không nên đánh Mỹ “sợ một đốm lửa có thể thiêu cháy cả một cánh rừng”…
nhưng Đảng ta vẫn quyết tâm đánh Mỹ và thắng Mỹ. Đảng ta đã sáng tạo ra
đường lối chiến tranh nhân dân, tạo nên sức mạnh tổng hợp vô địch, đập tan
mọi âm mưu và các chiến lược chiến tranh của kẻ thù, giành thắng lợi lịch sử
vào mùa xuân năm 1975, cả nước độc lập, thống nhất đi lên chủ nghĩa xã hội.
Đánh giá nguyên nhân thắng lợi và bài học kinh nghiệm của cuộc kháng chiến
chống Mĩ cứu nước, Đảng ta chỉ rõ: “Thắng lợi vĩ đại của sự nghiệp chống Mỹ,

cứu nước của nhân dân ta trước hết là thắng lợi của đường lối chính trị, đường
lối quân sự độc lập, tự chủ, đúng đắn và sáng tạo của Đảng ta” 1.
Như vậy, độc lập, tự chủ, sáng tạo luôn là đòi hỏi khách quan của cách
mạng Việt Nam và là tư tưởng xuyên suốt của Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí
Minh trong lãnh đạo, chỉ đạo cách mạng Việt Nam: Từ độc lập, tự chủ, sáng
tạo trong tìm con đường cứu nước, đến độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường, sáng
1

Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng, Toàn tập, tập 37, Nxb CTQG, H.2004, tr.469.


10
tạo trong lãnh đạo đấu tranh giành và giữ chính quyền; trong kháng chiến
chống Pháp và chống Mỹ. Tinh thần độc lập, tự chủ, sáng tạo đó không chỉ
dừng lại ở thắng lợi của nhiệm vụ giải phóng dân tộc mà những giá trị to lớn
của tinh thần đó là ở chỗ nó tiếp tục được toả sáng trong công cuộc xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam hiện nay. Đó là sự nghiệp đổi mới tìm tòi con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội dưới sự lãnh đạo của Đảng.
2. Quan điểm độc lập, tự chủ, sáng tạo của Đảng ta trong hoạch
định đường lối đổi mới
Sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước của Đảng ta được đánh dấu từ
bước ngoặt lịch sử của Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (12/1986). Đây
là Đại hội đánh dấu bước chuyển quan trọng trong quá trình tiến lên của
cách mạng nước ta, là bước ngoặc lịch sử trên con đường xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam. Đổi mới là tất yếu khách quan, là yêu cầu bức
thiết của nước ta, đổi mới là cuộc cách mạng sâu sắc, toàn diện và triệt để
trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội: kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội,
quốc phòng an ninh... Đây là cuộc đấu tranh giai cấp, đấu tranh dân tộc gay
go phức tạp, có ý nghĩa sống còn đối với Đảng và đối với chủ nghĩa xã hội.
Đây cũng là cuộc đấu tranh giữa cái mới và cái cũ, giữa tiến bộ và lạc hậu

diễn ra trên các lĩnh vực trong từng tổ chức và từng con người. Trong công
cuộc đổi mới, nhiều vấn đề mới mẻ đặt ra kể cả về lý luận cũng như thực
tiễn cần được giải quyết, chúng ta vừa đổi mới, vừa tổng kết, rút kinh
nghiệm, từng bước tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, từng bước hoàn thiện
đường lối đổi mới, sao cho đi đúng qui luật khách quan, phát triển vững
chắc cho cách mạng. Sự nghiệp đổi mới mà Đảng và nhân dân ta tiến hành
làm biến đổi toàn diện trên đất nước ta, sự nghiệp đó hoàn toàn không có
khuôn mẫu sẵn, lại đang trong quá trình phát triển. Do đó, trong công cuộc
đổi mới đòi hỏi Đảng ta phải phát huy quan điểm độc lập, tự chủ, sáng tạo
để đưa công cuộc đổi mới đi lên, giành thắng lợi.


11
2.1. Độc lập, tự chủ, sáng tạo trong đổi mới từng phần (1979-1986)
Sau đại thắng mùa xuân năm 1975 cả nước bước vào thời kỳ mới: thời
kỳ xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt
Nam xã hội chủ nghĩa. Đây cũng là thời kỳ Đảng ta tiếp tục phát huy truyền
thống độc lập, tự chủ, sáng tạo trong hoạch định đường lối xây dựng và bảo
vệ chủ nghĩa xã hội trên phạm vi cả nước.
Khi bước vào công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, trong những năm
đầu, Đảng ta do còn những bỡ ngỡ, lúng túng, nên không tránh khỏi những
vấp váp, sai lầm: lý luận chưa bắt kịp với tình hình thực tế, sai lầm trong khâu
tổ chức thực hiện vừa tả khuynh, vừa hữu khuynh. Đặc biệt, cơ chế quản lý
không phù hợp, cộng với tư tưởng chủ quan duy ý chí, từ đó làm cho đất nước
rơi vào khủng hoảng kinh tế- xã hội nghiêm trọng. Trong thời kỳ này, nền
kinh tế của chúng ta chủ yếu là sản xuất nhỏ, lại chịu ảnh hưởng nặng nề của
chiến tranh. Đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng trong chiến tranh cơ bản có
bản lĩnh chính trị vững vàng, có phẩm chất đạo đức trong sáng, sẵn sàng hy
sinh vì nền độc lập tự do của dân tộc, vì chủ nghĩa xã hội. Tuy nhiên, trình độ
văn hoá, khoa học kỹ thuật, chuyên môn nghiệp vụ còn có những hạn chế

nhất định, chưa đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ cách mạng trong giai đoạn
mới. Mặt khác, cơ chế tập trung quan liêu bao cấp chỉ phù hợp điều kiện đất
nước có chiến tranh, đến nay không còn phù hợp nữa, trở thành lực cản đối
với sự phát triển của đất nước. Trong đường lối lãnh đạo đất nước, Đảng ta
gộp mục tiêu và biện pháp làm một, mà trong đó lại không có mục tiêu cụ thể.
Chính vì vậy, trong quá trình đưa nghị quyết vào cuộc sống lại làm cho đất
nước lâm vào khủng hoảng kinh tế- xã hội, sản xuất trì trệ, năng xuất, chất
lượng hiệu quả thấp, giá cả thị trường tăng, đời sống nhân dân gặp nhiều khó
khăn, lòng tin của nhân dân vào Đảng bị giảm sút, nếu kéo dài sẽ dẫn đến
những hậu quả hết sức nghiêm trọng.
Trước tình hình đó, một lần nữa bản lĩnh chính trị, tinh thần độc lập, tự
chủ, sáng tạo của Đảng được phát huy một cách cao độ. Đảng ta đã kịp thời


12
nhận rõ khuyết điểm là đã kéo dài quá lâu cơ chế tập trung quan liêu bao cấp,
từng bước tìm tòi những biện pháp khắc phục những khuyết điểm ấy. Hội
nghị Trung ương lần thứ 6 khóa IV (8/1979) là hội nghị quan trọng thể hiện
rõ tinh thần độc lập, tự chủ, sáng tạo, là bước đột phá trên con đường tìm
kiếm, tìm tòi đổi mới con đường xây dựng xã hội chủ nghĩa. Hội nghị đã đưa
ra tư tưởng cơ bản quan trọng là “làm cho sản xuất bung ra” nghĩa là phải
phát triển sản xuất, lấy lợi ích kinh tế làm đòn bẩy để thúc đẩy sản xuất phát
triển. Đảng ta chủ trương sử dụng các thành phần kinh tế ngoài kinh tế quốc
doanh, đây là các thành phần kinh tế mà trước kia ta không chấp nhận; chủ
trương đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, chuyển nền kinh tế tập trung quan liêu
bao cấp sang cơ chế hạch toán kinh doanh, đó là quá trình Đảng tiến hành đổi
mới từng phần, từng lĩnh vực riêng lẻ. Bước đột phá ban đầu đó có ý nghĩa
hết sức quan trọng, mở ra hướng đi cụ thể, đúng đắn cho cách mạng Việt
Nam. Nghị quyết Trung ương 6 (8/1979) như “luồng sinh khí tốt lành thổi vào
cuộc sống”, xã hội Việt Nam bắt đầu khởi sắc và có những chuyển biến tích

cực. Đây cũng là Nghị quyết mang tính đột phá mở ra hướng tiếp cận mới về
chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội là phải chấp nhận: nền
kinh tế nhiều thành phần; kinh tế thị trường; quan tâm đến lợi ích người lao
động… Trong thực tiễn Nghị quyết Trung ương 6 đã đi vào cuộc sống với sự
ra đời của hàng trăm xí nghiệp tư nhân, nhất là ở các thành phố lớn và đã giải
quyết được một phần cuộc sống… Tuy nhiên, Nghị quyết Trung ương 6 còn có
những hạn chế, những giải pháp mà Hội nghị nêu ra chưa đủ sức tháo gỡ khó
khăn. Sau một thời gian thực hiện lại xuất hiện những khó khăn mới: Sản xuất
bung ra nhưng không đúng hướng; hàng lậu, hàng giả xuất hiện nhiều; giá cả
ngày càng cao… Trước tình hình đó, Hội nghị lần thứ 9 Ban Chấp hành Trung
ương khoá IV (12/1980) đã họp, bàn về phương hướng nhiệm vụ kinh tế- xã hội
năm 1981. Hội nghị nhận định: Nghị quyết Hội nghị lần thứ 6 khoá IV (8/1979)
và một số Nghị quyết, chỉ thị của Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã bước đầu tạo ra
khí thế mới cho nền kinh tế quốc dân. Tuy nhiên, những khuyết điểm trong quản


13
lý kinh tế, quản lý xã hội chậm được sửa chữa, nhiều chỉ tiêu kế hoạch đạt thấp,
xuất nhập khẩu còn mất cân đối nghiêm trọng. Hội nghị chủ trương chuyển
mạnh sang phương thức hoạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa, mở rộng việc
thực hiện và hoàn thiện các hình thức khoán sản phẩm trong nông nghiệp, mở
rộng việc trả lương theo sản phẩm khoán.
Thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ 9 và kịp thời phát huy những
nhân tố tích cực, khắc phục các nhược điểm, ngày 31/1/1981, Ban Bí thư ra chỉ
thị số 100-CT/TW về cải tiến công tác khoán, mở rộng khoán sản phẩm đến
nhóm lao động và người lao động trong hợp tác xã nông nghiệp (gọi tắt là Chỉ
thị 100). Chỉ thị đã tạo ra động lực phát triển mới trong sản xuất nông nghiệp.
“Khoán” trong nông nghiệp là một bước phát triển trong tư duy kinh tế nông
nghiệp của Đảng, vì đó là hình thức quản lý, tổ chức kinh doanh có lợi và từ đó
quan niệm về hợp tác xã cũng cần phải thay đổi. Đây cũng chính là quá trình

tìm tòi, thử nghiệm thể hiện quan điểm độc lập, tự chủ, sáng tạo của Đảng ta.
Trong lĩnh vực công nghiệp, ngày 21/1/1981 Hội đồng Bộ trưởng ban hành
Quyết định 25/CP cho phép các xí nghiệp thực hiện kế hoạch ba phần, trong đó có
một kế hoạch xí nghiệp tự ký hợp đồng để đáp ứng nhu cầu của thị trường, lần
đầu tiên cho phép hình thành yếu tố thị trường trong khuôn khổ kế hoạch hoá.
Đây là tư duy mới về kinh tế của Đảng với các doanh nghiệp Nhà nước.
Trên lĩnh vực lưu thông phân phối, ngày 23/6/1980 Bộ Chính trị ra nghị
quyết 26-NQ/TW về cải tiến công tác phân phối lưu thông nhằm khuyến khích
sản xuất phát triển, lưu thông tiền tệ phù hợp và phân phối hợp lý, tạo tiền đề
cần thiết, từng bước xoá bỏ chế độ cung cấp tem phiếu.
Những cố gắng tìm tòi, những chủ trương chính sách đổi mới của Đảng
ta thời kỳ này có ý nghĩa rất quan trọng, nó đã giải quyết được phần nào vấn
đề nóng bỏng có tính chất tình thế vượt qua những khó khăn thử thách trước
mắt và mở ra một hướng đi đúng đắn trong tư duy đổi mới của Đảng. Nhưng
trong quá trình thực hiện đã bộc lộ những hạn chế của chính sách đổi mới đó,
điều đó chứng tỏ những chủ trương, chính sách đổi mới của Đảng thời kỳ này


14
chưa đáp ứng được yêu cầu thực tiễn đang đặt ra. Những chủ trương, biện
pháp đổi mới thời kỳ này là những giải pháp mang tính tình thế, nhằm tháo gỡ
những khó khăn trước mắt mà Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V của Đảng
(3/1982) đã đánh giá một cách đúng đắn những thành tựu có ý nghĩa chiến
lược trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của nhân dân ta, đồng thời chỉ ra
những tồn tại, yếu kém, những vấn đề gay gắt phải tháo gỡ: sản xuất chậm
phát triển, dân số tăng nhanh, thu nhập quốc dân chưa đảm bảo được nhu cầu
tiêu dùng xã hội; chênh lệch giữa thu và chi, giữa xuất khẩu và nhập khẩu còn
hạn chế… Đại hội chỉ rõ: “Chúng ta chưa thấy hết những khó khăn, phức tạp
của con đường đi lên chủ nghĩa xã hội từ một nên kinh tế mà sản xuất nhỏ còn
phổ biến; thấy chưa hết quy mô của những đảo lộn kinh tế và xã hội sau cuộc

chiến tranh lâu dài; thấy chưa hết khó khăn, phức tạp trong việc khắc phục
những yếu kém của chúng ta về quản lý kinh tế xã hội; lường chưa hết những
diễn biến có mặt không thuận lợi trong tình hình thế giới. Do đó, chúng ta đã
quá chủ quan, nóng vội đề ra một số chỉ tiêu quá lớn về quy mô và quá cao về
tốc độ ”1. Đại hội đã đề ra những nội dung chính của công nghiệp hoá xã hội
chủ nghĩa là: “Tập trung sức phát triển mạnh nông nghiệp, coi nông nghiệp là
mặt trận hàng đầu, đưa nông nghiệp tiến lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, ra
sức đẩy mạnh sản xuất hàng tiêu dùng và tiếp tục xây dựng một số ngành công
nghiệp nặng quan trọng, kết hợp công nghiệp, nông nghiệp, hàng tiêu dùng và
công nghiệp nặng trong cơ cấu công nông nghiệp hợp lý” 2. Đại hội đã bổ sung,
phát triển lý luận về con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, xác định
hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội là: “Một là, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội; Hai là, sẵn
sàng chiến đấu, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa”3.
Với tinh thần độc lập, tự chủ, sáng tạo, trải qua một thời gian tìm tòi khảo
nghiệm, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V của Đảng ta đã thể hiện sự đổi mới
1

Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng, Toàn tập, tập 43, Nxb CTQG, H.2004, tr.50.
Đảng Cộng sản Việt Nam, Diễn văn khai mạc Đại hội đại biểu Toàn quốc lần thứ V, Nxb ST, H.1982, tr.62-63.
3
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng, Toàn tập, tập 43, Nxb CTQG, H.2004, tr.52.
2


15
rõ ràng trong nhận thức: Nhận thức lại về thời kỳ quá độ, sự phân kỳ thời kỳ quá
độ, chặng đường đầu tiên về thời kỳ quá độ; khẳng định nền kinh tế nước ta hiện
nay còn tồn tại nhiều thành phần kinh tế. Trong nhận thức của Đảng về thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội còn tồn tại nhiều thành phần kinh tế là thực tại khách

quan, nhưng trong chỉ đạo, tổ chức thực hiện, Đảng ta lại mắc phải tư tưởng chủ
quan nóng vội, muốn đốt cháy giai đoạn chưa được khắc phục.
Sau đại hội V, Đảng có 11 Hội nghị Trung ương, nhưng phần lớn các
hội nghị đều tập trung giải quyết các vấn đề kinh tế- xã hội. Tuy nhiên, đời
sống nhân dân còn gặp nhiều khó khăn, đất nước chưa ra khỏi khủng hoảng
kinh tế- xã hội, thực tế nảy sinh nhiều khó khăn mới tưởng chừng khó có thể
vượt qua. Đặc biệt, sau Nghị quyết Trung ương 8 khoá V (1985) chúng ta tổ
chức thực hiện mắc phải những khuyết điểm, làm cho giá cả tăng nhanh, lạm
phát ở mức độ khó kiểm soát. Hàng loạt nhà máy không có việc làm, công
nhân không có lương, quần chúng một số nơi tỏ ra hoang mang, dao động về
con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, niềm tin của nhân dân đối với Đảng bị mai
một. Bên cạnh đó Mỹ tiếp tục bao vây cấm vận, sự giúp đỡ của Liên xô, các
nước Đông Âu giảm nhanh làm cho nền kinh tế nước ta tiếp tục xấu đi. Đứng
trước tình hình đó, Đảng đã kịp thời đề ra đường lối đổi mới toàn diện, đồng
bộ, triệt để trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, nhưng có trọng tâm,
trọng điểm để từng bước tháo gỡ khó khăn, đưa đất nước thoát khỏi khủng
hoảng, vững bước trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Như vậy, giai đoạn 1979- 1986 là thời kỳ mô hình cũ được mở rộng trong
cả nước, những sai lầm của mô hình ấy là trở lực lớn đối với sự phát triển, đẩy
cuộc khủng hoảng kinh tế- xã hội đến mức gay gắt. Đây cũng là thời kỳ mà tư
duy mới về kinh tế được hình thành và phát triển trên cơ sở nguồn gốc từ thực
tiễn và xã hội Việt Nam. Chính từ cuộc sống đòi hỏi trí tuệ của toàn Đảng, toàn
dân phải tư duy phân tích tình hình, làm rõ nguyên nhân và vạch ra các giải pháp
để thay đổi mô hình cũ, từng bước xây dựng mô hình mới. Để khắc phục tình
trạng khủng hoảng kinh tế- xã hội, không thể đơn giản chỉ thực hiện những cải


16
cách mang tính giải pháp, mà tất yếu phải đổi mới toàn diện, đồng bộ, mà bắt
đầu từ đổi mới tư duy, trước hết là tư duy kinh tế để đi lên một mô hình mới về

xây dựng chủ nghĩa xã hội Việt Nam trong thời đại mới.
2.2. Độc lập, tự chủ, sáng tạo trong quá trình phát triển đường lối
đổi mới toàn diện (1986-2011)
Vào giữa những năm 80 của thế kỷ XX, thế giới đang không ngừng đổi
thay dưới ảnh hưởng mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ,
chủ nghĩa tư bản hiện đại do khai thác và tận dụng được những thành tựu của
cuộc cách mạng đó nên đã và đang tiếp tục phát triển. Trong khi đó, chủ nghĩa
xã hội xét trên quy mô quốc tế lại đang chịu những tổn thất và thử thách nặng
nề do nhiều nước xã hội chủ nghĩa lâm vào khủng hoảng nghiêm trọng. Ở
nước ta, ngay trong chặng đường đầu của thời kỳ quá độ, xã hội vẫn chưa ra
khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế- xã hội từ bên trong, lại đồng thời chịu những
ảnh hưởng và tác động không thuận lợi do cuộc khủng hoảng từ bên ngoài dội
vào. Trước tình hình đó, Đảng ta với bản lĩnh chính trị vững vàng, với tư duy
độc lập, tự chủ, sáng tạo, đã nắm bắt đúng tình hình cách mạng thế giới và
trong nước, kịp thời rút ra những bài học quý qua cải tổ, cải cách để đề ra
đường lối đổi mới toàn diện đất nước.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI (12/1986) với thái độ “nhìn thẳng
vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật” 1 đã chỉ ra những nguyên
nhân, nhược điểm của những khó khăn trong lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng:
“Những sai lầm nói trên là những sai lầm nghiêm trọng và kéo dài về những
chủ trương và những chính sách lớn, sai lầm về chỉ đạo chiến lược và tổ chức
thực hiện”2. Từ đó, Đảng ta khẳng định: “Chỉ có đổi mới thấy đúng, thấy hết
sự thật, thấy những nhân tố mới để phát huy, những sai lầm để sửa chữa” 3.
Đại hội đã xác định những quan điểm chỉ đạo trong sự nghiệp đổi mới, đó là:

1

Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng, Toàn tập, tập 47, Nxb CTQG, H.2006, tr.346.
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb Sự thật, H.1987, tr.26.
3

Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb Sự thật, H.1987, tr26-27.
2


17
Một là: “Đổi mới đang là yêu cầu bức thiết của sự nghiệp cách mạng, là
vấn đề có ý nghĩa sống còn”4 đối với cách mạng Việt Nam lúc này. Công cuộc
đổi mới do những nhân tố bên trong và nhân tố bên ngoài đòi hỏi, trong đó
những nhân tố bên trong giữ vai trò quyết định, những nhân tố bên ngoài giữ
vai trò quan trọng nhằm thúc đẩy quá trình đổi mới ở nước ta phát triển nhanh
hơn, chỉ có đổi mới chúng ta mới phát triển được.
Hai là: Đổi mới không có nghĩa là phủ nhận những thành tựu đã đạt
được, phủ nhận những quy luật phổ biến của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã
hội, phủ nhận đường lối đúng đắn đã được xác định, trái lại chính là bổ sung,
phát triển, làm phong phú những thành tựu đã đạt được và áp dụng một cách
sáng tạo vào thực tiễn đời sống. Đổi mới bao hàm cả nhận thức lại, có sự kế
thừa, phát triển những thành tựu, kinh nghiệm trong quá khứ. Đây vừa là
nhiệm vụ cấp bách, vừa là nhiệm vụ lâu dài mang tính chiến lược trong mọi
lĩnh vực hoạt động của Đảng và Nhà nước ta.
Ba là: Đổi mới phải toàn diện, đồng bộ và triệt để nhưng phải có hình
thức và cách làm phù hợp, biết lựa chọn đúng trọng tâm, trọng điểm. Xuất
phát từ tình hình thực tiễn của cách mạng Việt Nam, Đảng chủ trương lấy đổi
mới kinh tế làm trọng tâm, lấy ổn định chính trị làm tiền đề. Đồng thời với
đổi mới kinh tế từng bước đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của hệ
thống chính trị, phát huy ngày càng tốt hơn quyền làm chủ và năng động sáng
tạo của nhân dân trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội.
Hai quá trình đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị, có mối quan hệ mật thiết
với nhau, làm điều kiện, tiền đề cho nhau phát triển.
Trên quan điểm độc lập, tự chủ, sáng tạo, Đại hội đã phân tích đặc
điểm tình hình thế giới, trong nước đã hoạch định đường lối đổi mới, bắt đấu

từ đổi mới tư duy lý luận. Đại hội VI đã quyết định những nội dung quan
trọng trong đường lối đổi mới: Đổi mới cơ cấu kinh tế, thực hiện chính sách
phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần trong suốt thời kỳ quá độ. Đổi
4

Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb Sự thật, H.1987, tr.124.


18
mới cơ chế quản lý, xoá bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, chuyển sang
hạch toán kinh doanh, chú trọng sản xuất... Đổi mới hoạt động đối ngoại
chuyển sang hoạt động kinh tế đối ngoại, thu hút vốn đầu tư của nước ngoài.
Trong nhiệm vụ và chính sách đối ngoại của Đảng, nhà nước ta đã hết sức chú
trọng đến kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, phấn đấu giữ vững
hoà bình ở Đông Dương góp phần giữ vững hoà bình ở Đông Nam Á và trên
thế giới, tăng cường quan hệ đặc biệt với ba nước Đông Dương, tăng cường
quan hệ với Liên Xô và các nước trong cộng đồng xã hội chủ nghĩa... Đổi mới
trên lĩnh vực xây dựng và phát triển Đảng để Đảng phát triển ngang tầm với
những nhiệm vụ của giai đoạn mới, đáp ứng được yêu cầu trong việc giải quyết
những vấn đề kinh tế- xã hội, trong phong cách lãnh đạo và cả trong việc rèn
luyện phẩm chất cán bộ, đảng viên. Chăm lo xây dựng Đảng vững mạnh về
chính trị, tư tưởng, tổ chức, để từ đó tác động quyết định đến sự phát triển của
cách mạng nước ta. Đổi mới công tác quốc phòng an ninh, xây dựng lực lượng
quân đội mạnh đề bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Đổi mới kinh tế
là nhiệm cơ bản, là nhiệm vụ trung tâm, đổi mới chính trị phải làm đồng thời
nhưng phải thận trọng, có bước đi vững chắc. Tăng trưởng kinh tế phải đi đôi
với công bằng xã hội, phát triển văn hoá, giáo dục, khoa học, y tế, xây dựng
môi trường sinh thái. Coi nhiệm vụ chỉnh đốn Đảng, nâng cao chất lượng lãnh
đạo của Đảng ngang tầm nhiệm vụ chính trị là vấn đề then chốt…
Sau đại hội VI, Đảng tiếp tục cụ thể hoá, bổ sung phát triển đường lối

đổi mới, chỉ đạo từng bước thực hiện đường lối. Ngày 15/4/1988, Bộ chính trị
ra Nghị quyết 10 về đổi mới quản lý kinh tế nông nghiệp, giao quyền sử dụng
đất lâu dài cho các hộ nông dân và hình thành đơn vị kinh tế hộ. Ngày
29/3/1989, Hội nghị Trung ương 6 khoá VI đề ra những chủ trương, chính
sách cụ thể để phát triển mạnh mẽ các thành phần kinh tế và đề ra 5 nguyên
tắc chỉ đạo công cuộc đổi mới. Những quyết định quan trọng đó đã thúc đẩy
kinh tế phát triển, vượt qua thách thức do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng ở
các nước xã hội chủ nghĩa Liên Xô và Đông Âu, bảo đảm công cuộc đổi mới


19
phát triển đúng hướng. Năm 1989, nhờ “khoán 10” mà nông nghiệp có bước
nhảy vọt, không những ta đảm bảo đủ lương thực mà còn có dự trữ và xuất
khẩu gạo đứng thứ ba trên thế giới. Lạm phát từ 774,4% năm 1986 giảm
xuống còn 67,1% năm 1991. Nền kinh tế có những bước chuyển biến tích cực,
bước đầu hình thành nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế
thị trường có sự quản lý của Nhà nước.
Đại hội VI của Đảng đánh dấu một bước ngoặt trong sự nghiệp quá độ
lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta và quá trình phát triển đường lối đổi mới của
Đảng, sự chuyển biến quan trọng trong nhận thức về tư duy đổi mới, nhất là
tư duy kinh tế. Từ đổi mới từng phần, riêng lẻ, mười năm (1976- 1986) vừa
làm vừa tổng kết thực tiễn, rút kinh nghiệm về lý luận, giương cao ngọn cờ
độc lập, tự chủ, sáng tạo, Đảng đã xác định đường lối đổi mới toàn diện, đồng
bộ và triệt để, Đảng đã kết hợp chặt chẽ ngay từ đầu đổi mới kinh tế với đổi
mới chính trị, lấy đổi mới kinh tế là trọng tâm, đồng thời từng bước đổi mới
chính trị. Đảng ta đã căn cứ vào những điều kiện cụ thể, lựa chọn những bước
đi, hình thức và cách làm phù hợp, từng bước tháo gỡ khó khăn, đưa đất nước
ra khỏi khủng hoảng kinh tế- xã hội, tạo tiền đề cho bước phát triển mới, đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hoá đất nước. Đường lối đó thể hiện rõ quan
điểm độc lập, tự chủ, sáng tạo của Đảng, hoàn toàn phù hợp với quy luật, thời

đại và thực tiễn ở Việt Nam. Đồng thời nó cũng thể hiện rõ bản lĩnh chính trị,
trí tuệ của Đảng, sự phát triển tư duy của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đây
chính là căn cứ vững chắc nhất đập tan những luận điệu xuyên tạc cho rằng:
Đổi mới ở Việt Nam là sự “sao chép” hay là “theo đuôi” nước ngoài mà trực
tiếp là Liên Xô, Trung Quốc; đổi mới ở Việt Nam là sự “ăn may”. Hay có
quan điểm cho rằng Việt Nam vào cuối những năm 80 của thế kỷ XX không
có dấu hiệu khủng hoảng, do vậy không cần phải tiến hành đổi mới. Đó là
những quan điểm sai trái nhằm phủ định hay hạ thấp vai trò lãnh đạo của
Đảng, phủ nhận đường lối đổi mới ở nước ta. Đổi mới ở nước ta là kết quả
thử nghiệm tìm tòi, đúc kết từ “lòng dân, ý Đảng”. Có thể nói qua gần 10 năm


20
gặp nhiều khó khăn, trở ngại và phải trải qua thực tiễn để kiểm nghiệm, có cả
sai lầm, vấp váp, nhưng với tinh thần độc lập, tự chủ, sáng tạo Đảng đã tìm
cách tháo gỡ khó khăn, đưa đất nước phát triển đi lên.
Sau Đại hội VI, Đảng ta đã có nhiều Nghị quyết quan trọng, đặc biệt tại
Hội nghị Trung ương 6 (tháng 3/1989) đã tiếp tục khắc phục những hạn chế của
Đại hội VI và bổ sung, khẳng định: tính chất lâu dài của kinh tế nhiều thành
phần; hình thành cơ chế thị trường thống nhất toàn quốc. Hội nghị cũng chỉ ra 5
nguyên tắc cơ bản chỉ đạo đổi mới: Một là, đổi mới không phải là thay đổi mục
tiêu xã hội chủ nghĩa; Hai là, đổi mới không được xa rời chủ nghĩa Mác- Lênin;
Ba là, đổi mới phải nhằm tăng cường chuyên chính vô sản; Bốn là, xây dựng
nền dân chủ xã hội chủ nghĩa vừa là mục tiêu vừa là động lực của sự nghiệp xây
dựng chủ nghĩa xã hội; Năm là, phải kết hợp chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa
tế xã hội chủ nghĩa, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại.
Giữ vững ngọn cờ độc lập, tự chủ, sáng tạo trên cơ sở chủ nghĩa MácLênin và tư tưởng Hồ Chí Minh trong quá trình hoạch định đường lối lãnh đạo
đất nước, không rập khuôn, bắt trước các nước về cách thức tiến hành đường
lối đổi mới, đồng thời từ kinh nghiệm cải tổ, cải cách của các nước xã hội chủ
nghĩa trên thế giới cho thấy, nếu xa rời nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa xã

hội khoa học, phủ định những thành tựu của chủ nghĩa xã hội, phủ định chủ
nghĩa Mác- Lênin, hạ thấp đi đến vô hiệu hoá vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng
sản, buông lỏng quản lý các phương tiện thông tin đại chúng, để kẻ địch lợi
dụng, tự do truyền bá các quan điểm sai trái, thì công cuộc đổi mới sẽ mất
phương hướng, lâm vào khủng hoảng kinh tế- xã hội.
Thực tiễn vào những năm cuối thế kỷ XX, công cuộc đổi mới của Đảng
và nhân dân ta đã giành nhiều thắng lợi có ý nghĩa quan trọng. Song, tình hình
thế giới tiếp tục diễn biến phức tạp, chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và các
nước Đông Âu sụp đổ. Tình hình đó tác động sâu sắc đến cán bộ, đảng viên và
nhân dân ta, đã có những biểu hiện hoài nghi, dao động về chủ nghĩa xã hội,
thậm trí có người muốn “đi con đường khác”. Đồng thời, chủ nghĩa đế quốc và


21
các thế lực thù địch tìm mọi thủ đoạn thâm độc để chống phá các nước xã hội
chủ nghĩa còn lại, trong đó chúng coi Việt Nam là một trọng điểm.
Trong bối cảnh đó, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng
(6/1991) đã đánh dấu bước hình thành cơ bản quan niệm về chủ nghĩa xã hội
và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, báo cáo chính trị của Đại hội
chỉ rõ: “Với trí tuệ đóng góp của toàn Đảng, toàn dân, quan niệm về chủ
nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta có thể hình thành
những nét chủ yếu”1.
Đại hội đã đánh giá 5 năm đổi mới và xác định Cương lĩnh xây dựng
đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội và Chiến lược ổn định và
phát triển kinh tế- xã hội đến năm 2000. Đại hội xác định Cương lĩnh là yêu
cầu khách quan, Cương lĩnh cùng các văn kiện khác là nền tảng lý luận để
tiếp tục đưa sự nghiệp đổi mới phát triển theo con đường xã hội chủ nghĩa.
Nội dung Cương lĩnh đề cập việc tổng kết quá trình lãnh đạo cách mạng và
rút ra 5 bài học kinh nghiệm lớn của cách mạng Việt Nam. Cương lĩnh khẳng
định tính tất yếu và điều kiện đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, khẳng định

hệ thống chính trị và vai trò lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị. Đặc
biệt, Cương lĩnh đã xác định quan niệm đúng về chủ nghĩa xã hội và con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Cương lĩnh khẳng định: “Nước ta
quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản từ một xã hội vốn là thuộc
địa, nửa phong kiến, lực lượng sản xuất thấp... Xã hội xã hội chủ nghĩa mà
nhân dân ta xây dựng là một xã hội: Do nhân dân lao động làm chủ; có một nền
kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu
về các tư liệu sản xuất chủ yếu; có nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân
tộc; con người được giải phóng khỏi áp bức bóc lột, bất công, làm theo năng
lực, hưởng theo lao động, có cuộc sống tự do, ấm no, hạnh phúc, có điều kiện
phát triển toàn diện cá nhân; các dân tộc trong nước bình đẳng giúp đỡ lẫn nhau
cùng tiến bộ; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân tất cả các nước trên
1

Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nxb Sự thật, H.1991, tr.110-111.


22
thế giới”2. Như vậy, cho tới năm 1991, khi kinh tế thị trường đã được Đảng ta
sử dụng như một công cụ hữu hiệu để phát triển kinh tế, Đảng vẫn nhất quán
trong sự lựa chọn và khẳng định con đường phát triển của nước ta chỉ có thể là
con đường xã hội chủ nghĩa, là quá độ tới chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư
bản chủ nghĩa, bởi lẽ, đó là sự đảm bảo chắc chắn nhất cho độc lập dân tộc, cho
sự phát triển bền vững của xã hội nhằm thực hiện quyền được sống trong độc
lập tự do, hạnh phúc của nhân dân lao động.
Trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc cần nắm
vững phương hướng cơ bản sau:
Một là, xây dựng Nhà nước xã hội chủ nghĩa, Nhà nước của nhân dân,
do nhân dân, vì nhân dân, lấy liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông
dân và tầng lớp trí thức làm nền tảng do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Thực hiện

đầy đủ quyền dân chủ của nhân dân, giữ nguyên kỷ cương xã hội, chuyên
chính với mọi hành động xâm phạm lợi ích Tổ quốc và của nhân dân.
Hai là, phát triển lực lượng sản xuất, công nghiệp hóa đất nước theo
hướng hiện đại gắn liền với phát triển một nền nông nghiệp toàn diện là
nhiệm vụ trung tâm nhằm từng bước xây dựng cơ sở vật chất- kỹ thuật của
chủ nghĩa xã hội, không ngừng nâng cao năng suất lao động xã hội và cải
thiện đời sống nhân dân.
Ba là, phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất, thiết lập từng
bước quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa từ thấp đến cao với sự đa dạng về
hình thức sở hữu. Phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định
hướng xã hội chủ nghĩa, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của
Nhà nước. Kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng
của nền kinh tế quốc dân. Thực hiện nhiều hình thức phân phối, lấy phân phối
theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế là chủ yếu.
Bốn là, tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa trên lĩnh vực tư tưởng và
văn hóa làm cho thế giới quan Mác - Lênin và tư tưởng, đạo đức Hồ Chí
2

Đảng Cộng sản Việt Nam, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ, Nxb Sự thật, H.1991, tr.8.


23
Minh giữ vị trí chủ đạo trong đời sống tinh thần xã hội. Kế thừa và phát huy
những truyền thống văn hóa tốt đẹp của tất cả các dân tộc trong nước, tiếp thu
những tinh hoa văn hóa nhân loại, xây dựng một xã hội dân chủ, văn minh, vì
lợi ích chân chính và phẩm giá con người, với trình độ tri thức, đạo đức, thể
lực và thẩm mỹ ngày càng cao. Chống tư tưởng, văn hóa phản tiến bộ, trái với
những truyền thống tốt đẹp của dân tộc và những giá trị cao quý của loài
người, trái với phương hướng đi lên chủ nghĩa xã hội.
Năm là, thực hiện chính sách đại đoàn kết dân tộc, củng cố và mở rộng

Mặt trận dân tộc thống nhất, tập hợp mọi lực lượng phấn đấu vì sự nghiệp dân
giàu, nước mạnh. Thực hiện chính sách đối ngoại hoà bình, hợp tác và hữu
nghị với tất cả các nước; trung thành với chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công
nhân, đoàn kết với các nước xã hội chủ nghĩa, với tất cả các lực lượng đấu
tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới.
Sáu là, xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc là hai nhiệm vụ
chiến lược của cách mạng Việt Nam. Trong khi đặt lên hàng đầu nhiệm vụ
xây dựng đất nước, nhân dân ta luôn luôn nâng cao cảnh giác, củng cố quốc
phòng, bảo vệ an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, bảo vệ Tổ quốc và các
thành quả cách mạng.
Bảy là, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng và
tổ chức ngang tầm nhiệm vụ, bảo đảm cho Đảng làm tròn trách nhiệm lãnh
đạo sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
Như vậy, Cương lĩnh đã nêu rõ quan niệm của Đảng ta về chủ nghĩa xã
hội mà nhân dân ta xây dựng với 6 đặc trưng và con đường đi lên chủ nghĩa
xã hội ở nước ta (7 phương hướng ). Đó là sự tổng kết thành tựu tư duy của
Đảng ta về chủ nghĩa xã hội. Đồng thời, nó cũng thể hiện rõ bản lĩnh chính trị,
tinh thần độc lập, tự chủ, sự phát triển tư duy của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Sau đó các nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương và Bộ chính trị
tiếp tục bổ sung, phát triển và cụ thể hoá các quan điểm, phương hướng cơ
bản nêu trong Cương lĩnh và Chiến lược. Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa


24
nhiệm kỳ của Đảng, khoá VII (1/1994) đã đề ra những biện pháp đẩy mạnh
thực hiện công cuộc đổi mới, đồng thời chỉ ra 4 nguy cơ lớn đối với cách
mạng nước ta đó là: nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế; nguy cơ đi chệch
hướng xã hội chủ nghĩa; nạn tham nhũng, tệ quan liêu; âm mưu hành động
“Diễn biến hoà bình” của các thế lực thù địch.
Đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng (6/1996), trên cơ

sở phân tích, đánh giá kết quả 10 năm đổi mới đã rút ra kết luận: nước ta đã ra
khỏi khủng hoảng kinh tế- xã hội, cơ bản hoàn thành nhiệm vụ của chặng
đường đầu tiên của thời kỳ quá độ, đất nước chuyển sang thời kỳ mới- thời kỳ
đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Đến Đại hội VIII, sự vững
mạnh về tư duy lý luận của Đảng về xây dựng nền kinh tế thị trường xã hội đã
được thể hiện rõ ràng. Biểu hiện cụ thể là thừa nhận sự tồn tại khách quan của
kinh tế thị trường trong các chế độ xã hội khác nhau. Đảng đưa ra kết luận
mới, rất quan trọng là: “sản xuất hàng hóa không đối lập với chủ nghĩa xã hội,
mà là thành tựu phát triển của nền văn minh nhân loại, tồn tại khách quan, cần
thiết cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và cả khi chủ nghĩa xã hội đã
được xây dựng”1. Nhận thức mới này về chủ nghĩa xã hội và kinh tế của chủ
nghĩa xã hội là sự vượt lên nhận thức cũ, giáo điều trước đây với sự kỳ thị,
xem thường sản xuất hàng hoá, quy luật giá trị, quan hệ thị trường, cơ chế thị
trường; nó chứng minh tính đúng đắn của chính sách sử dụng đúng đắn các
thành phần kinh tế do đại hội VI đề ra. Đồng thời, Đại hội VIII tiếp tục khẳng
định: “Con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta ngày càng được xác định
rõ hơn. Xét trên tổng thể, việc hoạch định và thực hiện đường lối đổi mới
những năm qua về cơ bản là đúng đắn, đúng định hướng xã hội chủ nghĩa”2.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng (4/2001) diễn ra vào
thời điểm có ý nghĩa lịch sử trọng đại, loài người đã kết thúc thế kỷ XX và
bước sang thế kỷ XXI. Đất nước ta đã trải qua 15 năm thực hiện đường lối đổi
1
2

Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb CTQG, H.1996, tr.97.
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb CTQG, H.1996, tr.68.


25
mới đất nước vì độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, 10 năm thực

hiện chiến lược phát triển kinh tế- xã hội.
Một trong những vấn đề quan trọng nhất của Đại hội IX là tiếp tục
khẳng định và làm rõ hơn lý luận và thực tiễn về con đường đi lên chủ nghĩa
xã hội ở nước ta. Đại hội IX chỉ rõ “Cương lĩnh là ngọn cờ chiến đấu vì thắng
lợi của sự nghiệp xây dựng nước Việt Nam từng bước quá độ lên chủ nghĩa
xã hội, định hướng cho mọi hoạt động của Đảng hiện nay và trong những thập
kỷ tới”1. Về nền tảng của Đảng, Đại hội IX khẳng định khẳng định: “Đảng và
nhân dân ta quyết tâm xây dựng đất nước Việt Nam theo con đường xã hội
chủ nghĩa trên nền tảng Chủ nghĩa Mác- Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh”2,
đồng thời chỉ rõ: “Khẳng định lấy chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động là bước phát triển
quan trọng trong nhận thức và tư duy lý luận của Đảng ta” 3. Sự khẳng định
này là hết sức cần thiết, nhất là trong thời điểm hiện nay, khi đất nước cùng
nhân loại bước vào thế kỷ XXI, trên thế giới có những diễn biến phức tạp khó
lường, trong nước cũng đang đứng trước nhiều nguy cơ và thách thức mới.
Quan niệm về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, Đại hội IX chỉ rõ:
“Con đường đi lên của nước ta là sự phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội
bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tức là bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của
quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa, nhưng tiếp thu
kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ tư bản chủ
nghĩa, đặc biệt về khoa học và công nghệ để phát triển nhanh lực lượng sản
xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại” 4. Lần đầu tiên trong văn kiện chính thức,
Đảng ta đã nêu lên một quan niệm khoa học hoàn chỉnh về tư tưởng Hồ Chí
Minh và khẳng định giá trị của tư tưởng Hồ Chí Minh: đó là tài sản tinh thần
to lớn của Đảng và dân tộc ta. Vấn đề đấu tranh giai cấp trong thời kỳ quá độ
1

Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb CTQG, H.2001, tr.83.
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb CTQG, H.2001, tr.83.
3

Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb CTQG, H.2001, tr.84.
4
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb CTQG, H.2001, tr.84.
2


×