Tải bản đầy đủ (.doc) (34 trang)

TOÀN cầu HÓA KINH tế VÀ CHỦ ĐỘNG hội NHẬP KINH tế với xây DỰNG nền KINH tế độc lập, tự CHỦ ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (217.59 KB, 34 trang )

TOÀN CẦU HÓA KINH TẾ VÀ CHỦ ĐỘNG HỘI NHẬP KINH TẾ
QUỐC TẾ VỚI XÂY DỰNG NỀN KINH TẾ ĐỘC LẬP TỰ CHỦ Ở VIỆT NAM
* * *
Chuyên đề: “Toàn cầu hóa kinh tế và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế
với xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ ở Việt Nam” các học viên cao học
chưa được học ở bậc đại học. Họ chỉ được học lý luận chung về: Quan hệ
kinh tế đối ngoại trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. ở bậc
học này, học viên mới hiểu biết thế nào là quan hệ kinh tế đối ngoại, vị trí,
tính tất yếu khách quan phải mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại; các hình thức
của quan hệ kinh tế đối ngoại; mục tiêu, nguyên tắc, phương châm và giải
pháp chủ yếu mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại ở nước ta.
Quan hệ kinh tế quốc tế, quốc tề hóa đời sống kinh tế đã có từ lâu, với
lịch sử phát triển lâu dài, gắn với cuộc cách mạng công nghiệp. Còn toàn cầu
hóa kinh tế là giai đoạn phát triển cao hơn của quốc tế hóa đời sống kinh tế,
gắn liền với những thành tựu mới nhất của cuộc cách mạng khoa học - công
nghệ hiện đại, là xu thế khách quan của thời đại hiện nay. Toàn cầu hóa kinh
tế đang lôi kéo ngày càng nhiều nước tham gia, tính tùy thuộc, lệ thuộc vào
nhau giữa các quốc gia, khu vực rất lớn. Xu thế này đang bị các nước phát
triển và các tập đoàn tư bản xuyên quốc gia chi phối, chứa đựng nhiều mâu
thuẫn, vừa có tích cực, vừa có tiêu cực, vừa hợp tác, vừa đấu tranh. Vì vậy, để
thực hiện nhiệm vụ kinh tế cơ bản là mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta phải rất chú ý khai thác đặc
điểm này để chủ động hội nhập kinh tế quốc tế với xây dựng nền kinh tế độc
lập tự chủ, giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa.Theo đó, việc nghiên cứu
chuyên đề này không những tiếp tục củng cố thêm lý luận và thực tiễn về mở
rộng quan hệ kinh đối ngoại trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước
ta mà còn mở rộng, nâng cao, cập nhật kiến thức mới, nhận thức mới, để giải
quyết tốt mối quan hệ giữa chủ động hội nhập kinh tế quốc tế với xây dựng


nền kinh tế độc lập tự chủ vừa phù hợp với xu thế chung của thời đại, vừa tiếp


tục đưa nước ta tiến lên chủ nghĩa xã hội một cách vững chắc.
I. Toàn cầu hóa kinh tế và tác động của toàn cầu hóa kinh tế đến
Việt Nam
1. Lịch sử tư tưởng vấn đề toàn cầu hóa kinh tế
Mặc dù phải đến ngày nay dưới sự tác động của cuộc cách mạng khoa
học- công nghệ hiện đại, lực lượng sản xuất xã hội loài người mà trước hết là
ở các nước tư bản phát triển đạt tới trình độ rất cao thì quá trình toàn cầu hóa
kinh tế mới nảy sinh. Tuy nhiên, cũng cần phải thấy rằng: đó phải là kết quả
phát triển lâu dài của lịch sử sản xuất xã hội loài người gắn với vấn đề phân
công lao động xã hội và giao lưu hàng hóa giữa các địa phương, dân tộc và
các quốc gia với nhau. Vì vậy, trải qua các thời đại kinh tế khác nhau, các nhà
tư tưởng đã ít hoặc nhiều, đầy đủ hoặc chưa đầy đủ, nông hoặc sâu phản ánh
những khía cạnh, hình thức khác nhau của những mối quan hệ giao lưu kinh
tế giữa các quốc gia, những hình thức quan hệ kinh tế quốc tế đầu tiên của
toàn cầu hóa kinh tế.
a. Các nhà tư tưởng trước C.Mác
* Thời cổ đại (chủ yếu là Hy Lạp cổ đại)
Một số nhà triết học đã phản ánh những tư tưởng kinh tế trong quan
niệm triết học của mình.
- Xênophon (430-345TCN), trong tư tưởng về phân công lao động ông
cho rằng: Phân công lao động có vai trò thúc đẩy giao lưu hàng hóa giữa các
vùng, nhờ phân công lao động mà nâng cao được chất lượng hoạt động. Giữa
phân công lao động và quy mô thị trường có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, ở
những nơi trao đổi phát triển mạnh thì phân công lao động phát triển mạnh.
- Platon (427-347 TCN), ông đã giải thích mối quan hệ giữa phân công lao
động, thương mại và tiền tệ với vai trò nổi bật của các thương gia. C.Mác đã đánh
giá cao ý tưởng này của Platon và gọi đó là sự nổi bật thiên tài đối với thời đại.
- Aristoleles (384-322TCN), ông đã chia kinh doanh làm hai loại. Loại
“kinh tế” nhằm mục đích giá trị sử dụng; loại “sản xuất của cải”, mục đích



của hoạt động kinh doanh này là làm giàu. Loại này có quan hệ với trao đổi
làm giàu T - H - T (đại thương nghiệp), ông cho rằng loại này không phù hợp
cần loại bỏ.
* Thời trung cổ, trong tư tưởng kinh tế của Thomasd Aquin (1225-1274)
người ITALIA, ông đã sử dụng quan điểm của Aristoteles về ba loại thương
nghiệp và cho rằng: Đại thương nghiệp có thể theo đuổi một mục đích chân lý
hay cần thiết (thu lợi nhuận không mâu thuẫn với lòng từ thiện).
* Thời cận đại
- Chủ nghĩa trọng thương thế kỷ thứ XV- XVI, tư tưởng xuyên suốt của
chủ nghĩa trọng thương là: Khối lượng tiền (vàng) chỉ có thể gia tăng bằng
con đường ngoại thương; trong hoạt động ngoại thương phải thực hiện chính
sách xuất siêu (xuất nhiều, nhập ít). Họ hiểu: của cải là số sản phẩm dư thừa
được sản xuất ra ở trong nước, sau khi đã thỏa mãn tiêu dùng thì phải được
chuyển thành tiền thông qua thị trường nước ngoài.
Montchectien (1575-1622) cho rằng: nội thương là hệ thống ống dẫn,
ngoại thương là máy bơm, muốn tăng của cải phải có ngoại thương nhập dần
của cải qua nội thương.
Thomas Mun (1571-1641) cho rằng: thương mại là hòn đá thử vàng đối
với sự phồn thịnh của quốc gia.Ông đưa ra thuyết cân đối ngoại thương “bán
ra với số tiền lớn hơn là mua vào”.
Kolbert (1619-1683) cho rằng: ngoại thương có thể làm cho thần dân
được sung túc và thỏa mãn được nhu cầu của vua chúa. Sự vĩ đại và hùng
cường của một quốc gia là do số lượng tiền tệ quyết định.
- Thế kỷ thứ XVII, sau khi chủ nghĩa trọng thương suy tàn, Đudley North
(1641-1695) người Anh đã kiến nghị bãi bỏ sự ủng hộ của nhà nước và đề ra tư
tưởng mậu dịch tự do. Có thể nói ông là người đầu tiên đề xuất tư tưởng này.
- Các nhà tiền bối của C.Mác (Kinh tế chính trị tư sản cổ điển Anh).
Ađamsmit cho rằng: Các bên tham gia thương mại đều có lợi. Theo ông,
mỗi quốc gia cần chuyên môn hóa vào những ngành sản xuất mà họ có lợi thế

tuyệt đối và tiêu chuẩn quyết định sự lựa chọn ngành cần chuyên môn hóa


trong phân công lao động quốc tế là những điều kiện về tự nhiên, địa lý, khí
hậu mà chỉ nước đó có lợi thế, Đó là lợi thế tuyệt đối. Theo lý thuyết này,
quốc gia nào có nhiều nguồn lực và tận dụng một cách hiệu quả nhất thì tổng
sản phẩm của quốc gia đó tăng lên và thông qua thương mại quốc tế sẽ có lợi
thế hơn so với các quốc gia khác có ít hoặc không có các nguồn lực nhất là
các nguồn lực gắn với điều kiện tự nhiên. Hạn chế trong lý thuyết của ông là
không giải thích được hiện tượng một nước có lợi thế hơn hẳn các nước khác
hoặc những nước không có lợi thế tuyệt đối nào thì chỗ đứng của nước đó
trong phân công lao động quốc tế là ở đâu và thương mại quốc tế sẽ xảy ra
như thế nào với các nước này.
Ricácđô, kế thừa và phát triển lý thuyết lợi thế tuyệt đối của Ađamsmit,
ông đưa ra lý thuyết lợi thế tương đối hay còn gọi là lợi thế so sánh. Theo đó,
chuyên môn hóa sản xuất quốc tế không nhất thiết phải có lợi thế tuyệt đối mà
chỉ cần có lợi thế tương đối. Một quốc gia không nên sản xuất tất cả mọi sản
phẩm mà chỉ nên tập trung vào sản xuất và xuất khẩu các sản phẩm họ làm ra
với chi phí tương đối thấp và nhập khẩu những sản phẩm có chi phí tương đối
caơ hơn so với sản phẩm cùng loại của nước khác. Hạn chế của lý thuyết lợi
thế so sánh là dựa trên hàng loạt các giả thiết đơn giản hóa như không tính chi
phí vận tải, bảo hiểm hàng hóa, hàng rào thuế quan. Vì vậy, nếu xem xét trong
trạng thái động sẽ không giải thích được nguồn gốc phát sinh lợi thế so sánh
của một nước đối với một loại sản phẩm nào đó. Vì vậy, nó không giải thích
được nguyên nhân sâu xa của quá trình thương mại quốc tế.
- Say (1766-1832) nhà kinh tế chính trị tư sản tầm thường, một trong
những kết luận của ông đưa ra trong “thuyết tiêu thụ” là việc nhập khẩu sản
phẩm nước ngoài tạo điều kiện để bán sản phẩm trong nước, qua đó ông
chứng minh tác hại của chế độ thuế quan, bảo hộ và sự cần thiết phải từ bỏ
nó.

b. C.Mác và Ph.Ăngghen
Hơn 160 năm trước, trong tác phẩm “Những nguyên lý của chủ nghĩa
cộng sản” và “Tuyên ngôn của Đảng cộng sản” các ông đã chỉ ra rằng đại


công nghiệp đã tạo ra thị trường thế giới. Ph.Ăngghen viết: “Nền đại công
nghiệp đã gắn liền tất cả các dân tộc trên trái đất lại với nhau, đã thống nhất
tất cả các thị trường địa phương nhỏ bé thành thị trường toàn thế giới, đã
chuẩn bị ở khắp nơi cho văn minh và tiến bộ, đã làm cho tất cả những gì xảy
ra trong các nước văn minh đều ảnh hưởng tới tất cả các nước khác”. Các ông
đều cho rằng quốc tế hóa kinh tế là một trong những đặc trưng của sự phát
triển sản xuất tư bản chủ nghĩa. Bản thân phương thức sản xuất tư bản chủ
nghĩa có sức mạnh nội tại đủ khả năng vượt ra khỏi biên giới quốc gia, bành
trướng ra phạm vi toàn cầu để kiếm lợi nhuận tối đa. Đồng thời các ông dự
báo rằng: trong tương lai chủ nghĩa cộng sản sẽ quốc tế hóa toàn bộ đời sống
của nhân loại.
C.Mác không xây dựng học thuyết riêng về lợi thế so sánh, nhưng trong
bộ tư bản ông đã so sánh mối quan hệ giữa tiền công dân tộc và tiền công
quốc tế; giữa năng suất lao động dân tộc với năng suất lao động quốc tế.
Nguyên lý này đã giải thích hết sức tổng quát, chính xác cơ chế xuất hiện lợi
ích khi tham gia phân công và trao đổi quốc tế. Ông cho rằng: những tư bản
đầu tư vào ngoại thương có khả năng đem lại một tỷ suất lợi nhuận cao hơn.
Vì trước hết ở đây người ta cạnh tranh với những hàng hóa được sản xuất ra
trong những điều kiện ít thuận lợi hơn, thành thử nước tiên tiến sẽ bán được
hàng hóa của mình cao hơn giá trị của chúng, mặc dù các nước ấy bán rẻ hơn
các nước cạnh tranh với họ. Tỷ suất lợi nhuận tăng lên vì lao động ở các nước
tiên tiến hơn được đánh giá là lao động có tỷ trọng cao hơn. Vì người lao
động đó không được trả công với tư cách là người lao động có chất lượng cao
hơn lại được bán ra với tư cách là lao động như thế. Đối với những nước mà
người ta trở hàng đến bán cũng giống như đối với nước người ta rút hàng ra,

đều có mối quan hệ như vậy. Thực chất của lãi đó chính là biết lợi dụng sự
chênh lệch của tiền công và năng suất lao động của các bên tham gia phân
công lao động quốc tế.
c. V.I.Lênin


Trong tác phẩm “Chủ nghĩa đế quốc giai đoạn tột cùng của chủ nghĩa tư
bản”, Ông đã chỉ ra bản chất kinh tế của chủ nghĩa tư bản trong giai đoạn đế
quốc chủ nghĩa là sự thống trị của các tổ chức độc quyền, được thể hiện ở 05
đặc điểm kinh tế nổi bật:
- Tập trung sản xuất và sự ra đời của các tổ chức độc quyền.
- Tư bản tài chính và bọn đầu sỏ tài chính.
- Xuất khẩu tư bản.
- Sự phân chia thị trường thế giới của các tập đoàn tư bản xuyên quốc gia
và đa quốc gia.
- Sự phân chia lãnh thổ thế giới của các cường quốc đế quốc.
Đây chính là kết quả của sự phát triển lực lượng sản xuất tư bản chủ
nghĩa dưới sự tác động của cuộc cách mạng khoa học- công nghệ hiện đại.
Trong quá trình trực tiếp chỉ đạo công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở
nước Nga, Lê nin đã tiên đoán rằng: Toàn bộ đời sống kinh tế, chính trị, tinh
thần của nhân loại ngày càng quốc tế hóa ngay cả dưới chế độ tư bản chủ nghĩa
và trong tương lai chủ nghĩa xã hội sẽ hoàn tàn quốc tế hóa đời sống của nhân
loại.
2. Thực chất của toàn cầu hóa kinh tế
a. Thuật ngữ “toàn cầu hóa” và quá trình toàn cầu hóa.
* Thuật ngữ “toàn cầu hóa”(Globalisation), nó mới dược xuất hiện và phổ
cập vào những thập niên cuối của thế kỷ XX. Nó được Georg Modelski lần dầu
tiên nêu ra vào năm 1972 trong tác phẩm “Principle of the World Politics” khi nói
về liên minh châu Âu lôi kéo các nước khác vào hệ thống thương mại toàn cầu.
* Quá trình toàn cầu hóa

- Vấn đề toàn cầu hóa đã được dự báo từ khi chủ nghĩa tư bản ra đời vào
thế kỷ thứ XVI và lúc đó gọi là quá trình “quốc tế hóa”. Quá trình quốc tế hóa
được phát triển mạnh mẽ nhờ sự phát triển về địa lý, những cuộc chiến tranh
xâm lược thuộc địa, sự phát triển của đại công nghiệp, sự phát triển sản xuất
trên cơ sở áp dụng những thành tựu khoa học- công nghệ, sự mở rộng thị
trường quốc tế, mở rộng giao lưu quốc tế. Chính sự phát triển đó đã phá vỡ


tính chất cát cứ, biệt lập, khép kín trong phạm vi quốc gia, đưa đến sự mở
rộng phạm vi hoạt động quốc tế. Quá trình quốc tế hóa không ngừng phát
triển và được đánh dấu bằng các cột mốc lớn là: Chiến tranh thế giới thứ
Nhất, Chiến tranh thế giới thứ Hai, Thập kỷ 80, Thập kỷ 90 của thế kỷ XX và
giai đoạn gần đây xu thế quốc tế hóa được gọi bằng cái tên toàn cầu hóa.
b. Khái niệm toàn cầu hóa và toàn cầu hóa kinh tế
* Nhận thức về vấn đề toàn cầu hóa
Có nhiều ý kiến khác nhau về toàn cầu hóa. Vì toàn cầu hóa là vấn đề
mới, do đó hiện nay còn nhiều cách hiểu khác nhau, tùy theo góc độ nghiên
cứu. Một số học giả xem toàn cầu hóa, coi nó như một khái niệm chính trị,
một công cụ chính trị. Một số khác lại cố gắng làm sáng tỏ khái niệm toàn cầu
hóa trong phạm vi phát triển kinh tế, toàn cầu hóa không có tính từ. Lại có
những người chỉ chủ trương phân tích tác động tích cực và tiêu cực của toàn
cầu hóa. Còn Đảng cộng sản Việt Nam không cho rằng toàn cầu hóa mọi mặt
và cũng không cho rằng toàn cầu hóa về chính trị, cái mà Đảng ta, những
người cộng sản Việt Nam quan tâm là một số vấn đề ngày càng mang tính
toàn cầu, trước hết là lĩnh vực kinh tế, trong đó chủ yếu là vấn đề kinh tế- kỹ
thuật ( lực lượng sản xuất), chứ không phải là vấn đề kinh tế- xã hội (quan hệ
sản xuất).
Tuy nhiên, dù đánh giá, nhìn nhận thế nào, từ góc độ nào thì cuối cùng
cũng đi tới một quan niệm chung nhất cho rằng: Toàn cầu hóa là quá trình
tăng lên mạnh mẽ những mối liên hệ, ảnh hưởng, tác động lẫn nhau, phụ

thuộc lẫn nhau của tất cả các khu vực, các quốc gia, các dân tộc trên thế
giới, làm nổi bật hàng loạt những biến đổi có quan hệ lẫn nhau mà từ đó có
thể phát sinh hàng loạt những điều kiện mới. Toàn cầu hóa khiến cạnh tranh
quốc tế ngày càng gay gắt làm sâu sắc hơn sự chuyên môn hóa và phân công
lao động quốc tế, kích thích gia tăng sản xuất không chỉ ở cường độ quốc gia
mà mở rộng ra trên phạm vi toàn thế giới.
* Khái niệm toàn cầu hóa kinh tế


Hiện nay vẫn còn nhiều quan niệm khác nhau về toàn cầu hóa kinh
tế. Các nhà kinh tế học phương tây cho rằng: Toàn cầu hóa kinh tế là sự
vận động tự do của các yếu tố sản xuất nhằm phân phối tối ưu các nguồn
lực. Quỹ tiền tệ Quốc tế (IMF) cho rằng: Toàn cầu hóa kinh tế là sự gia
tăng không ngừng nguồn vốn, kỹ thuật, mậu dịch với quy mô, hình thức
phong phú, tăng sự phụ thuộc của các nền kinh tế thế giới. Các học giả
khác lại cho rằng: Toàn cầu hóa kinh tế là một cuộc chơi; ở đó ai khôn
ngoan, lanh lợi sẽ được nhiều hơn mất, ai dại khờ thì mất nhiều hơn được;
không ai mất hết hoặc được hết, chỉ có trường hợp chắc chắn mất hết là
đóng cửa không tham gia vào quá trình toàn cầu hóa. Đảng cộng sản Việt
Nam khẳng định: thực chất của toàn cầu hóa kinh tế là quá trình xã hội
hóa lực lượng sản xuất trên phạm vi quốc tế, các quan hệ kinh tế vượt ra
khỏi biên giới quốc gia, dân tộc lan tỏa ra phạm vi toàn cầu, trong đó
hàng hóa, dịch vụ, vốn, tiền tệ, thông tin, lao động .....vận động thông
thoáng; sự phân công lao động mang tính quốc tế; mối quan hệ kinh tế
giữa các quốc gia, khu vực đan xen, tùy thuộc lẫn nhau. Toàn cầu hóa
kinh tế là một xu thế khách quan, lôi kéo ngày càng nhiều nước tam gia,
xu thế này đang bị các nước phát triển và các tập đoàn tư bản xuyên quốc
gia chi phối, chứa đựng nhiều mâu thuẫm, vừa có tích cực, vừa có tiêu
cực, vừa có hợp tác, vừa có đấu tranh.
Tuy nhiên, cần phải phân biệt toàn cầu hóa, toàn cầu hóa kinh tế với

các khái niệm “quan hệ kinh tế quốc tế”, “quốc tế hóa đời sống kinh tế”.
Các khái niệm này chỉ các quan hệ kinh tế giữa các quốc gia, các nhóm
quốc gia và sự mở rộng các quan hệ kinh tế đối ngoại của mỗi quốc gia ra
khu vực và trên thế giới. Còn toàn cầu hóa, toàn cầu hóa kinh tế lại được
coi là rộng hơn quan niệm quốc tế hóa đời sống kinh tế. Trong những năm
80 của thế kỷ XX, người ta dùng khái niệm “những vấn đề toàn cầu” để chỉ
những vấn đề vượt ra khỏi phạm vi quốc gia, đòi hỏi phải có sự nỗ lực hợp
tác của nhiều nước để giải quyết các vấn đề như: Dân số, môi trường, ngăn
chặn chiến tranh hạt nhân, các căn bệnh hiểm nghèo... Từ đó mà xuất hiện


một số quan niệm hết sức sai lầm coi vấn đề toàn cầu quan trọng hơn vấn
đề dân tộc, đấu tranh giai cấp. Tư duy chính trị kiểu này thực chất là từ bỏ
vấn đề giai cấp và đấu tranh giai cấp và đó cũng là một trong những căn
nguyên góp phần làm sụp đổ chủ nghĩa xã hội ở Đông Âu và Liên Xô cũ.
Toàn cầu hóa kinh tế là giai đoạn phát triển cao hơn của quốc tế hóa
đời sống kinh tế. Quốc tế hóa đời sống kinh tế gắn liền với cuộc cách
mạng công nghiệp thì toàn cầu hóa gắn liền với những thành tựu mới
nhất của cuộc cách mạng khoa học- công nghệ hiện đại. Toàn cầu hóa
cũng khác với vấn đề toàn cầu. Nó diễn tả một quá trình làm giảm bớt sự
khác biệt giữa các quốc gia, cốt lõi của toàn cầu hóa là toàn cầu hóa kinh
tế. Từ lĩnh vực kinh tế, với sự hỗ trợ của các phương tiện truyền thông
hiện đại, toàn cầu hóa lan đến các lĩnh vực khác như văn hóa, xã
hội.....đem đến cho các quốc gia trên thế giới cả những điều tốt và điều
xấu như các tệ nạn ma túy, mại dâm, buôn bán phụ nữ, trẻ em... Cần phải
lưu ý một vấn đề là: Toàn cầu hóa của ai và vì ai? Toàn cầu hóa dưới góc
nhìn của giai cấp vô sản hay giai cấp tư sản. của các nước tư bản phát
triển hay các nước đang phát triển. Rõ ràng có hai tư tưởng đối lập nhau
về toàn cầu hóa và từ đó trong thế giới ngày nay có hai cách hành xử đối
lập nhau trước xu thế toàn cầu hóa. Theo quan điểm của C.Mác: xã hội

hóa hay rộng hơn là quốc tế hóa là một trong những biểu hiện của quá
trình phát triển lịch sử tự nhiên của xã hội loài người tiến tới chủ nghĩa
cộng sản, một thế giới đại đồng cả về kinh tế lẫn văn hóa của những
người lao động tự do và phát triển toàn diện. Dự báo về xã hội tương lai
(thế giới đại đồng) của C.Mác có cơ sở vật chất thực tiễn từ chính bản
chất tất yếu của quá trình phát triển lực lượng sản xuất sẽ dẫn tới xã hội
hóa sản xuất trên phạm vi toàn cầu. Những vấn đề lý luận này C.Mác đã
trình bày trong tác phẩm “Tuyên ngôn của Đảng cộng sản” và trong bộ
“Tư bản”. Các nước xã hội chủ nghĩa trước đây đã đưa lý luận này vào
thực tiễn thành lập Hội đồng Tương trợ Kinh tế. Lý luận toàn cầu hóa
kinh tế của giai cấp tư sản chính là lý luận kinh tế của “Chủ nghĩa tự do
mới” với khẩu hiệu: Tự do hóa thương mại toàn cầu, tự do đầu tư, tự do


luân chuyển vốn trên thị trường tài chính toàn cầu. Hiện nay, cùng với
việc tuyên truyền lý thuyết tự do kinh tế, các nước tư bản chủ nghĩa đang
tìm mọi cách sử dụng các thể chế kinh tế quốc tế để thực hiện một thứ
chủ nghĩa thực dân kiểu mới tinh vi hơn, hoàn hảo hơn lên các nước
đang phát triển đó là: “Chủ nghĩa thực dân thương mại”, “Chủ nghĩa
thực dân thông tin”, “Chủ nghĩa thực dân công nghệ”, “Chủ nghĩa thực
dân văn hóa”. Vì vậy, hiểu rõ thực chất của toàn cầu hóa, nhận thức đầy
đủ về nó là một việc hệ trọng cả về lý luận và thực tiễn. Do đó, toàn cầu
hóa dù xét nó dưới nhãn quan gì, ở góc độ nào? cũng bao hàm sự khác
biệt về lợi ích của các chủ thể tham gia; lợi ích của giai cấp này với giai
cấp khác, của dân tộc này với dân tộc khác, của khu vực này với khu vực
khác. Tính không thuần nhất về lợi ích đó đang buộc các quốc gia phải
chủ động tham gia và có cách ứng xử thích hợp để tận dụng thời cơ, đẩy
lùi nguy cơ, thách thức do toàn cầu hóa mạng lại.
3. Các nhân tố làm nảy sinh và thúc đẩy quá trình toàn cầu hóa kinh tế
Quá trình toàn cầu hóa kinh tế nảy sinh do những nhân tố sau đây tác động:

Một là, sự phát triển của kinh tế hàng hóa, kinh tế thị trường.
Ngược dòng lịch sử chúng ta thấy cùng với sự phát triển của phân công lao
động là sự ra đời của sản xuất hàng hóa, nó đã xuyên thủng vòng tuần hoàn khép
kín của kinh tế tự nhiên, tự cấp, tự túc. Kinh tế hàng hóa đã rỡ bỏ tính chất cát cứ
của vùng miền trong từng quốc gia, dân tộc đến một mức độ nhất định vượt ra
khỏi biên giới quốc gia. Các quan hệ thương mại giữa các nước được khởi động
và ngày càng phát triển cùng với sự phát triển của kinh tế hàng hóa. Việc hình
thành các con đường tơ lụa từ Trung Quốc xuyên qua vùng Trung A đến Trung
Cận Đông, việc giao lưu buôn bán giữa Châu Âu và Châu A đã chứng minh điều
đó. Đến khi chủ nghĩa tư bản ra đời, cùng với sự phát triển của đại công nghiệp
và cùng với việc đưa quân đội viễn chinh đi xâm chiếm, cướp bóc thuộc địa đã
đẩy nhanh tốc giao lưu hàng hóa trên thế giới. Với đà phát triển của chủ nghĩa tư
bản, thương mại toàn cầu ngày càng được mở rộng. Xu thế này đã được C.Mác
dự báo cách đây hơn 160 năm, trong tác phẩm: “Tuyên ngôn của Đảng cộng
sản” Ông đã khẳng định: Đại công nghiệp đã tạo ra thị trường thế giới và do bóp


nặn thị trường thế giới, giai cấp tư sản đã làm cho sản xuất và tiêu dùng của tất
cả các nước mang tính chất thế giới. Thực tiễn đã chứng minh từ những năm
1950 của thế kỷ XX trở lại đây thương mại thế giới đã tăng lên rất nhanh. Nếu
1950 giá trị xuất khẩu của thế giới đạt 69,7 tỷ USD thì đến năm 1990 con số này
đã đạt con số 4000 tỷ USD, năm 2000 là 7360 tỷ USD và hiện nay đã đạt tới con
số gần 20.000 tỷ USD.
Cùng với sự phát triển của thương mại thế giới là sự mở rộng cơ cấu thị
trường quốc tế, thị trường tài chính ngày càng có vai trò quan trọng tạo ra một
nền kinh tế ảo mà những biến động của nó tác động trực tiếp đến nền kinh tế
toàn cầu. Hiện nay, mức giao dịch ngoại hối và luân chuyển vốn trên thị
trường chứng khoán toàn cầu đạt khoảng 375.000 tỷ USD/ngày. Đầu tư trực
tiếp vào các nước đang phát triển đạt 200 đến 250 tỷ USD/năm.
Hai là, sự phát triển của khoa học và công nghệ.

Vào thế kỷ thứ XV- XVI sự phát triển của các phương tiện hàng hải đã
tìm ra những châu lục mới, giúp cho hàng hóa từ Châu Âu vượt đại dương
sang Châu A, Châu Phi, Châu Mỹ. Sự ra đời của động cơ hơi nước, sự phát
triển của công nghệ luyện kim tạo ra hệ thống đường sắt, sự ra đời của xe hơi,
tàu thủy chạy bằng động cơ cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX. Sự ra đời của
điện tín, điện thoại, của máy bay vào đầu thế kỷ XXđẫ làm cho nền sản xuất
vật chất có điều kiện vượt biên giới quốc gia và khu vực. Đặc biệt là sự phát
triển của cuộc cách mạng khoa hoc- công nghệ hiện đại trong nửa cuối thế kỷ
XX, nhất là công nghệ thông tin, hệ thống Internet bao trùm toàn cầu làm cho
quá trình toàn cầu hóa ngày càng sâu rộng.
Ba là, phân công lao động xã hội và nền sản xuất vật chất phát triển.
Cùng với sự phát triển của khoa học- công nghệ và thị trường, một sản
phẩm sản xuất ra với sự đóng góp của nhiều công ty trên thế giới như:Một
chiếc ô tô Ford Mỹ sử dụng sản phẩm của 162 công ty đặt ở nhiều nước và
khu vực khác nhau trên thế giới.Sự phân công lao động quốc tế và mạng lưới
sản xuất toàn cầu đã làm tăng thêm tính tùy thuộc lẫn nhau giữa các công ty ở
nhiều quốc gia khác nhau trên thế giới.


Bốn là, sự ra đời và phát triển của các công ty xuyên quốc gia.
Bàng việc thiết lập hệ thống các công ty con, cháu, chắt ở nhiều quốc gia,
các công ty xuyên quốc gia đã thúc đẩy các hoạt động thương mại, đầu tư, dịch
chuyển vốn... liên kết các quốc gia với nhau trong các hoạt động kinh tế. Hiện
nay trên thế giới có 60.000 công ty xuyên quốc gia, chiếm 25% giá trị sản xuất
toàn cầu, 65% kim ngạch mậu dịch quốc tế, 70% đầu tư nước ngoài, 90% công
nghệ cao.
Năm là, sự ra đời và vai trò ngày càng tăng của các tổ chức kinh tế quốc
tế, hình thành các thể chế toàn cầu và khu vực.
Sự ra đời của Tổ chức Thương Mại thế giới (WTO); Liên minh Châu Âu
(EU); Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu A Thái Bình Dương (APEC), Khu vực

Mậu dịch tự do ASEAN (AFTA); Khu vực mậu dịch tự do Bắc Mỹ (NAFTA);
Quỹ tiền tệ Quốc tế (IMF); Ngân hàng Thế giới (WB); Ngân hàng Châu A
(ADB)... Xu thế toàn cầu hóa kinh tế được thể chế hóa trong nhiều định chế
quốc tế và phát triển mạnh cả về chiều rộng và chiều sâu, thông qua nhiều hoạt
động của nhiều tổ chức tài chính, thương mại quốc tế và khu vực. Nó có tác
dụng đẩy nhanh quá trình quốc tế hóa không chỉ trong lĩnh vực thương mại mà
cả trong lĩnh vực sản xuất, dịch vụ tài chính, đầu tư, lan sang lĩnh vực văn hóa,
xã hội, môi trường.
4. Tác động của toàn cầu hóa kinh tế đến Việt Nam
a. Các quan niệm khác nhau về tác động có tính hai mặt của toàn cầu
hóa kinh tế.
Do toàn cầu hóa kinh tế mang tính mặt vừa có mặt tích cực vừa có mặt
tiêu cực đã làm tổn thương nền kinh tế nhỏ yếu của các nước đang phát triển
nên có nhiều quan điểm khác nhau về tác động của toàn cầu hóa đối với các
nước này.
Một số người cho rằng với các nước đang phát triển thì toàn cầu hóa
kinh tế đem lại thách thức tối đa, lợi ích tối thiểu. Quan điểm khác lại xem cả
lợi ích và thách thức là tương đối lớn. Nhiều nguyên thủ quốc gia các nước


đang phát triển cảnh báo nguy cơ đe dọa độc lập chủ quyền các nước này từ
tác động của toàn cầu hóa kinh tế.
Trên quan điểm Mác- xít khi xem xét tác động của toàn cầu hóa kinh tế
đến sự phát triển của các nước đang phát triển nói chung và nước ta nói riêng
không nên tuyệt đối hóa mặt tích cực hoặc tiêu cực mà phải thấy rằng cả cơ
hội và thách thức đều rất lớn. Vấn đề quan trọng là mỗi nước có tranh thủ lấy
cơ hội được hay không? Bởi cơ hội và thách thức có thể chuyển hóa cho
nhau.
b. Những tác động tích cực của toàn cầu hóa đối với Việt Nam
* Thứ nhất, Mở rộng thị trường

Nước ta có quy mô dân số khoảng 86 triệu người. Thu nhập bình quân
đầu người năm 2006 khoảng 729 USD, năm 2008 ước đạt 1030 USD ( tiêu
chí chung nước nghèo kém phát triển có thu nhập bình quân đầu người là
dưới 960 USD/năm). Như vậy, dù đứng thứ 13 trên thế giới về dân số
đông, nhưng dung lượng thị trường nội địa đối với nước ta thực tế là nhỏ
do thu nhập của dân cư thấp. Việt Nam đã tham gia vào các tổ chức kinh tế
khu vực và thế giới. Là thành viên của AFTA, hàng hóa của Việt Nam có
thể vào thị trường các nước ASEAN với số dân trên 500 triệu người. Là
thành viên thứ 150 của WTO, Việt Nam sẽ được hưởng ưu đãi tối huệ quốc
trong quan hệ thương mại với các nước thành viên còn lại. Theo sự thỏa
thuận chung bắt đầu từ năm 2020, hàng rào thuế quan của các nước thuộc
diễn đàn hợp tác kinh tế Châu A- Thái Bình Dương (hiện có 21 nước thành
viên) sẽ được rỡ bỏ, hàng hóa Việt Nam có thể dễ dàng vào các nước thành
viên APEC. Tuy nhiên, hàng hóa Việt Nam bán được hay không lại tùy
thuộc vào khả năng cạnh tranh, chất lượng, mẫu mã, giá cả, khả năng tiếp
thị...
* Thứ hai, Tăng khả năng thu hút các nguồn vốn, khả năng mở rộng thị
trường sẽ quyết định khả năng mở rộng đầu tư.
Việc mở rộng thị trường bên ngoài và thị trường nội địa là một trong
những yếu tố hấp dẫn nhất đối với các nhà đầu tư. Lợi thế về thị trường do


toàn cầu hóa mang lại sẽ kéo theo lợi thế về thu hút đầu tư nước ngoài và
nguồn vốn đầu tư nước ngoài vào nước ta qua đó sẽ thúc đẩy việc sử dụng các
nguồn vốn trong nước có hiệu quả. Vốn FDI đầu tư của nước ngoài vào nước
ta năm 2006 là13,5 tỷ USD, năm 2007 là 20,3 tỷ USD, năm 2008 là 64 tỷ
USD. Năm 2007, các nhà tài trợ cam kết cho Việt Nam vay 5,7 tỷ USD.
* Thứ ba, tạo cơ hội để Việt Nam có thể tiếp nhận công nghệ mới
của thế giới.
Toàn cầu hóa kinh tế làm cho thành tựu khoa học- công nghệ được

chuyển giao nhanh chóng và ứng dụng rộng rãi, qua đó các nước đi sau
có thể dễ dàng tiếp cận với chúng để phát triển. Nước ta có điều kiện để
lựa chọn công nghệ ngoại sinh phù hợp nhằn nâng cao mặt bằng công
nghệ quốc gia; đẩy lùi nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế; thực hiện tốt
hơn một trong những nội dung cơ bản của công nghiệp hóa, hiện đại hóa
là đổi mới, nâng cao trình độ công nghệ của nền sản xuất xã hội từ sử
dụng lao động thủ công là chính sang sử dụng lao động với công nghệ
tiên tiến, hiện đại.
* Thứ tư, Thúc đẩy nhanh các bước điều chỉnh cơ cấu kinh tế trong
nước nhằm phát huy có hiệu quả các nguồn lực trong nước, khai thác và
phát huy được các lợi thế so sánh của nước ta, nâng cao sức cạnh tranh
của nền kinh tế. Nói cách khác là khai thông sự giao lưu các nguồn lực
giữa nước ta và thế giới.
Trong các nguồn lực để phát triển, nguồn nhân lực (con người và trí tuệ)
ngày càng có tầm quan trọng đặc biệt. Nước ta có nguồn nhân lực dồi dào, tuy
tỷ lệ có văn hóa phổ thông cao hơn cả Thái Lan và Trung quốc nhưng đào tạo
tay nghề chuyên môn kỹ thuật lại kém. Đào tạo đại học thì nặng về lý thuyết,
nhẹ về thực hành. Sự hiểu biết về thị trường và nghiệp vụ kinh doanh thấp...
dẫn đến lao động phổ thông và tỷ lệ lao động thất nghiệp khá cao; thiếu lao
động kỹ thuật và các chuyên gia đầu ngành. Hội nhập kinh tế quốc tế sẽ giúp
Việt Nam khai thông nguồn lực. Chúng ta có thể xuất khẩu lao động sang các
nước, có thể sử dụng lao động trong nước thông qua hợp đồng gia công chế


biến xuất khẩu, chuyển dịch cơ cấu lao động theo hướng phát huy lợi thế so
sánh ...Đồng thời nước ta có thể nhập khẩu các loại lao động kỹ thuật, chuyên
gia ở các ngành, các lĩnh vực mà nước ta chưa có hoặc còn thiếu.
* Thứ năm, Tạo thế đan cài lợi ích giữa các nước- điều kiện để duy trì sự
ổn định cho phát triển của mỗi nước, cho phép các nước đang phát triển như
nước ta lợi dụng cơ chế giải quyết các tranh chấp quốc tế để bảo vệ lợi ích của

mình, tránh bị phân biệt đối xử.
Về mặt chính trị, quốc phòng, an ninh, quá trình toàn cầu hóa kinh tế cũng
tạo ra thế đan cài lợi ích, tùy thuộc lẫn nhau, có lợi cho cuộc đấu tranh bảo vệ
chủ quyền, cho hòa bình, hợp tác và phát triển. Ngay cả các nước phát triển
cũng tùy thuộc đáng kể vào các nước đang phát triển, Do lợi ích của các nước
phát triển, của ba trung tâm kinh tế Mỹ, Tây Âu, Nhật Bản không phải lúc nào
cũng thống nhất nên các nước đang phát triển có thể lợi dụng sự chế ước lẫn
nhau giữa các nước này trong quan hệ đa phương để duy trì hòa bình, chủ
quyền quốc gia dân tộc. Tuy nhiên các cơ hội tích cực trên lại luôn tồn tại đan
xen với các thách thức. Do vậy, mỗi nước có khai thác được cơ hội thuận lợi
nhiều hay ít lại tùy thuộc rất quyết định vào sự nỗ lực chủ quan của mỗi nước
trong xây dựng chiến lược quốc phòng của mình phù hợp với bối cảnh toàn cầu
hóa kinh tế hay không?
c. Những tác động tiêu cực (thách thức) của toàn cầu hóa đến Việt Nam
* Thứ nhất, Sức ép của những biến động kinh tế thế giới sẽ gây áp lực
ngày càng lớn đối với các nước đang phát triển như Việt Nam do tính tùy
thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia tăng lên trong quá trình toàn cầu hóa kinh tế
hay nói cách khác là nền kinh tế toàn cầu hóa là nền kinh tế dễ bị tổn thương.
Thực tế đã chứng tỏ, bất kỳ có một sự trục trặc nào ở một khâu hay ở
một quốc gia nào đó cũng có thể lan rộng và nhanh ra toàn cầu. Cuộc khủng
hoảng tài cính tiền tệ ở Thái Lan tháng 8 năm 1997, cuộc khủng hoảng kinh tế
tài chính thế giới bắt đầu bùng phát từ cuộc khủng hoảng cho vay để đầu tư
vào thị trường bất động sản Mỹ cuối năm 2007 đầu năm 2008; cuộc khủng
hoảng năng lượng do cuộc chiến tranh ở Nam Tư, I Rắc ...đã cho thấy rõ điều


đó. Năm 2009 bị tác động bởi cuộc khủng hoảng tài chính thế giới tốc độ tăng
trưởng kinh tế của nước ta chậm lại, để kích cầu đầu tư nhà nước phải chi 1 tỷ
USD; những nền kinh tế lớn phải chi vài trăn tỷ đến cả 1000Tỷ USD (Mỹ
phải chi tới 830tỷ USD) để cứu vãn nền kinh tế.

* Thứ hai, nguy cơ thôn tính do cạnh tranh không cân sức với các công
ty khổng lồ của các nước phát triển cũng tăng lên.
Tự do hóa thương mại đem lại lợi ích lớn hơn cho các nước công
nghiệp phát triển. Vì các sản phẩm của họ chất lượng cao, giá thành hạ,
mẫu mã đẹp do đó có sức cạnh tranh cao, dễ chiếm lĩnh thị trường. Mặt
khác, các nước ngày càng áp dụng những hình thức bảo hộ công khai (áp
dụng hạn ngạch) hoặc trá hìng như tiêu chuẩn lao động, môi trường, an
sinh xã hội ...), hoặc các rào cản về kỹ thuật (quy cách, mẫu mã, dư lượng
kháng sinh, thuốc bảo vệ thực vật trong các sản phẩm chế biến của nông
nghiệp...). Cấm chuyển giao những thành tựu công nghệ mới, họ dùng
chiêu bài “sở hữu công nghiệp, sở hữu trí tuệ” để ngăn cản các nước
nghèo tiếp cận công nghệ mới, công nghệ tiên tiến. Ngày nay thị trường
đang thực sự trở thành chiến trường, trong khi đó tiềm lực kinh tế của
Việt Nam còn quá mỏng, chất lượng lao động, trình độ công nghệ, năng
lực quản lý còn non kém...và những điều đó đã dẫn đến sức cạnh tranh
của nền kinh tế nước ta còn thấp. Sự thua thiệt trên thị trường là điều
chúng ta phải hết sức quan tâm nhất là khi chúng ta đã là thành viên của
WTO.
Một lĩnh vực của toàn cầu hóa kinh tế là toàn cầu hóa thị trường tài
chính, một lọai thị trường còn mới mẻ với Việt Nam và chúng ta chưa có
nhiều kinh nghiệm, đặc biệt là thị trường chứng khoán, ở đó buôn bán các tư
bản giả. Đây cũng là một thách thức với nước ta khi tham gia thị trường này.
* Thứ ba, lợi dụng toàn cầu hóa kinh tế, các nước đế quốc đứng đầu là
Mỹ sẽ luôn lợi dụng sự bất ổn đó về kinh tế để can thiệp, thực hiện chiến lược
“can dự”, áp dụng các hình thức chủ nghĩa thực dân kinh tế để khuất phục các


nước theo kiểu Mỹ; thủ tiêu chế độ xã hội chủ nghĩa ở các nước xã hội chủ
nghĩa còn lại; bản sắc văn hóa của dân tộc dễ bị đe dọa.
II. Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế với xây dựng nền kinh tế độc

lập tự chủ ở Việt Nam
1. Hội nhập kinh tế quốc tế là xu thế khách quan
Hội nhập kinh tế quốc tế là quá trình mở cửa nền kinh tế nhằm kết
hợp các nguồn lực trong nước với ngoài nước để phát triển và chiếm
lĩnh vị trí phù hợp nhất có thể có được trong quan hệ kinh tế quốc tế. Đó
là quá trình thực hiện những điều chỉnh về chính sách, luật lệ trong
nước cho thích hợp với tình hình và thông lệ quốc tế; đồng thời thực
hiện việc chuyển đổi cơ cấu kinh tế nhằm phát huy lợi thế so sánh, nâng
cao sức cạnh tranh của mình trong quan hệ kinh tế quốc tế. Nói cách
khác hội nhập kinh tế quốc tế là quá trình mở rộng giao lưu kinh tế và
khoa học- công nghệ giữa các nước trên quy mô toàn cầu; là quá trình
tham gia giải quyết các vấn đề kinh tế- xã hội có tính chất toàn cầu như
vấn đề dân số, tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ môi trường sống... là quá
trình loại bỏ các hàng rào trong thương mại quốc tế, thanh toán quốc tế
và việc di chuyển các nhân tố sản xuất giữa các nước.
Hiện nay, trên thế giới có nhiều hình thức và mức độ khác nhau về hội
nhập kinh tế quốc tế như: Hiệp hội thương mại, liêm minh thuế quan, thị
trường chung, liên minh tiền tệ.
Trong xu thế toàn cầu hóa kinh tế, hội nhập kinh tế quốc tế là xu thế
khách quan, xuất phát từ các lý do sau đây:
* Thứ nhất, Xuất phát từ chính tính khách quan của xu thế toàn cầu hóa
kinh tế, một xu thế lôi cuốn ngày càng nhiều nước tham gia mà nước ta không
thể đứng ngoài cuộc. Bản thân xu thế toàn cầu hóa không chỉ có mặt tiêu cực,
nó có cả những mặt tích cực mà các nước có thể khai thác để củng cố nền độc
lập tự chủ của mình. Vì vậy nếu biết tận dụng cơ hội toàn cầu hóa kinh tế thì
hội nhập kinh tế quốc tế sẽ đem lại cho mỗi nước một sức mạnh mới.


* thứ hai, Xuất phát từ nhận thức mới về xây dựng nền kinh tế độc lập tự
chủ. Theo đó nền kinh tế độc lập tự chủ không có nghĩa là nền kinh tế đóng

cửa khép kín ngược lại đó phải là nền kinh tế có quan hệ rộng mở với tất cả
các nước trong công đồng thế giới.
* Thứ ba, xuất phát từ yêu cầu của cuộc đấu tranh dân tộc, đấu tranh giai
cấp hiện nay.
Trong điều kiện các nước tư bản phát triển đang chi phối quá trình toàn
cầu hóa thì đối với các nước đang phát triển, hội nhập kinh tế quốc tế phải
được coi là một bộ phận của cuộc đấu tranh vì độc lập chủ quyền của đất
nước.
Đối với Việt Nam đang trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội thì đó
là cuộc đấu tranh vừa mang sắc thái của cuộc đấu tranh dân tộc, vừa mang sắc
thái của cuộc đấu tranh giai cấp vì chủ nghĩa xã hội. Bởi bên cạnh những
thuận lợi lớn như có nhiều cơ hội để tranh thủ được nguồn vốn, công nghệ, thị
trường...của thế giới đẩy nhanh phát triển kinh tế trong nước, hội nhập kinh tế
quốc tế cũng mang lại cho nước ta nhiều thách thức gay gắt. Nổi bật là:
- Chúng ta cam kết thực hiện những quy định nhiều khi rất khắt khe
trong các quan hệ song phương và đa phương. Đáng chú ý là Mỹ và các
cường quốc tư bản phương Tây đang lợi dụng ưu thế về kinh tế và quân sự
của mình để chi phối các tổ chức kinh tế tài chính toàn cầu như IMF, WB,
WTO, đề ra những luật chơi mang tính áp đặt ép buộc các nước nghèo, thách
thức độc lập chủ quyền của các nước đang phát triển và kém phát triển. Vì
vậy, nếu không chủ động hội nhập với những lộ trình hợp lý, phù hợp với sự
chuẩn bị trong nước thì sẽ phải trả giá đắt về kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc
phòng, an ninh.
- Chúng ta phải chấp nhận những bất chắc khó lường ngày càng nhiều
của nền kinh tế thế giới. Những bất chắc ấy cũng dễ làm nảy sinh những phức
tạp mới về quốc phòng, an ninh của nước ta.
- Chúng ta phải chấp nhận cạnh tranh trên phạm vi quốc tế. Với một nền
kinh tế còn nhỏ yếu, sức cạnh tranh thấp như nước ta, nếu lộ trình hội nhập



không tạo đủ thời gian và khả năng cho các doanh nghiệp trong nước thích
ứng thì nguy cơ các doanh nghiệp này dễ bị phá sản, bị thôn tính sẽ ngày càng
nhiều.
Điều đó dễ dẫn đến những bất ổn về chính trị, an ninh quốc gia.
- Hội nhập kinh tế quốc tế cũng tạo điều kiện thuận lợi cho các thế lực
thù địch thâm nhập để thực hiện “diễn biến hòa bình” trên các lĩnh vực, nếu
chúng ta chủ quan thiếu các biện pháp phòng ngừa hữu hiệu. Trong thực tế
Mỹ và các thế lực thù địch đã tận dụng triệt để quá trình toàn cầu hóa kinh tế
để thực hiện chiến lược chuyển hóa chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Vì thế
Đảng ta chủ trương chủ động hội nhập kinh tế quốc tế chứ không chấp nhận
bất cứ giá nào.
2. Quá trình hình thành các chủ trương hội nhập kinh tế quốc tế,
bước đi, kết quả và những tồn tại yếu kém cần khắc phúc.
a. Quá trình hình thành chủ trương hội nhập kinh tế quốc tế ở Việt Nam
Ngay sau khi miền Nam giải phóng, thống nhất đất nước, chúng ta
đã chủ trương tham gia vào Hội đồng tương trợ kinh tế, tích cực tham
gia vào Phong trào không liên kết, nhóm 77, Liên hợp quốc... mà một
trong những nội dung cơ bản là đấu tranh cho một trật tự kinh tế thế giới
mới công bằng. Bên cạch sự hợp tác toàn diện với các nước xã hội chủ
nghĩa, chúng ta đã thúc đẩy quan hệ hợp tác bình đẳng cùng có lợi với
các nước tư bản chủ nghĩa mặc dù họ còn thực hiện chính sách thù địch,
bao vây, cấm vận với Việt Nam.
Trong thời kỳ đổi mới, chủ trương hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng
được thực hiện tích cực hơn. Đại hội VI (12/86) chính thức khởi xướng công
cuộc đổi mới, xây dựng nền kinh tế thị trường mở cửa. Việc triển khai Nghị
quyết VI diễn ra trong bối cảnh tình hình Đông Âu, Liên Xô xấu đi. Đến năm
1990, 1991 thì hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới thoái trào, Hội đồng đồng
tương trợ kinh tế bị giải thể. Các Nghị quyết 13 (5/88) của Bộ chính trị, Nghị
quyết 8A (3/90) của BCHTW đã phân tích sâu sắc tình hình thế giới, đề ra các
chủ trương, giải pháp để đẩy lùi chính sách bao vây kinh tế, cô lập về chính trị



đối với nước ta, mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế. Với tinh thần đó tháng
12/87, chúng ta đã thông qua Luật đầu tư nước ngoài với những quy định
thông thoáng.
Đại hội VII (6/91), sáu tháng trước khi Liên Xô tan rã, đã thông qua
cương lĩnh và chiến lược ổn định và phát triển kinh tế đến năm 2000; đồng
thời đưa ra đường lối đối ngoại rộng mở với tuyên bố: “Việt Nam muốn làm
bạn với tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hòa bình, độc
lập và phát triển”. Nghị quyết Trung ương 3 Khóa VII về Chính sách đối
ngoại và kinh tế dối ngoại đã đưa ra nguyên tắc: “Giữ vững độc lập, thống
nhất và xã hội chủ nghĩa, đồng thời phải rất sáng tạo, năng động, linh hoạt,
phù hợp với vị trí, điều kiện và hoàn cảnh cụ thể của nước ta cũng như diễn
biến của tình hình thế giới và khu vực, phù hợp với từng đối tượng mà nước
ta có quan hệ”. Đồng thời Nghị quyết nêu ra 4 phương châm: Bảo đảm lợi ích
dân tộc, trong đó kết hợp nhuần nhuyễn chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa
quốc tế của giai cấp công nhân; giữ vững độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường,
đẩy mạnh đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ đối ngoại; nắm vững hai mặt
vừa hợp tác, vừa đấu tranh trong quan hệ quốc tế; ưu tiên hợp tác khu vực,
đồng thời mở rộng quan hệ với tất cả các nước.
Đại hội VIII (9/96) chủ trương xây dựng nền kinh tế mở; đẩy nhanh quá
trình hội nhập kinh tế khu vực và thế giới. Nghị quyết Trung ương 4 khóa
VIII nêu nhiệm vụ: Tích cực, chủ động thâm nhập và mở rộng thị trường thế
giới, tiến hành khẩn trương, vững chắc việc đàm phán Hiệp định thương mại
với Mỹ, gia nhập APEC, WTO, có kế hoạch cụ thể để chủ động thực hiện
cam kết trong khuôn khổ AFTA...
Đại hội IX (4/2001), Đại hội tiếp tục khảng định chủ trương của các đại
hội trước: “Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, mở rộng
đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc tế. “Việt Nam sẵn sàng là bạn,
là đối tác tin cậy của các nước trong công đồng quốc tế, phấn đấu vì hòa bình

và phát triển”. “Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần
phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, bảo đảm độc lập tự


chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của dân tộc, an ninh quốc
gia, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, bảo vệ môi trường”. Tháng 11/2001, Bộ
chính trị ra Nghị quyết số 07/NQ/TW về hội nhập kinh tế quốc tế. Cụ thể hóa
hơn nữa đường lối Đại hội IX đã vạch ra. Nghị quyết đánh giá tình hình thực
hiện chủ trương hội nhập kinh tế quốc tế, xác định mục tiêu, quan điểm chỉ
đạo và vạch ra những nhiệm vụ cụ thể về hội nhập kinh tế quốc tế.
Đại hội X (4/2006), Đại hội tiếp tục khẳng định và có bước bổ sung, phát
triển thêm đường lối đối ngoại và hội nhập kinh tế quốc tế là: “Thực hiện nhất
quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển;
chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc
tế. Chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, đồng thời mở rộng hợp tác
trên tất cả các lĩnh vực khác. Việt Nam là bạn, là đối tác tin cậy của các nước
trong công đồng quốc tế, tham gia tích cực vào tiến trình hợp tác quốc tế và
khu vực.
Tháng 7/11/2006 Việt Nam được kết nạp vào WTO. 1/1/2007 trở
thành thành viên chính thức thứ 150 của tổ chức này. ngày 5/2/2007, Hội
nghị Trung ương 4 khóa X đã ra Nghị quyết số 08-NQ/TW “Về một số
chủ trương, chính sách lớn để nền kinh tế phát triển nhanh và bền vững
khi Việt Nam là thành viên của Tổ chức Thương mại thế giới. Trên cơ sở
đánh giá cơ hội và thách thức, Đảng ta đã đưa ra 5 quan điển chỉ đạo và
10 chủ trương, chính sách lớn trong đó có công tác tư tưởng, cơ chế,
chính sách, thủ tục hành chính; nâng cao khả năng cạnh tranh quốc gia,
doanh nghiệp và sản phẩm; bổ sung các nguồn lực, tăng cường chỉ đạo
phát triển nông nghiệp, nông thôn; giải quyết các vấn đề xã hội nảy sinh;
giữ bản sắc văn hóa, bảo vệ mội trường; giữ vững và tăng cường quốc
phòng, an ninh quốc gia; hoàn thiện các thiết chế dân chủ, xây dựng nhà

nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng.
b. Các bước đi của Việt Nam trong quá trình hội nhập vào nền kinh tế
khu vực và thế giới.


Năm 1993, ta đã khai thông quan hệ với các tổ chức tài chính, tiền tệ
quốc tế như: IMF, WB, ADB. Trong quan hệ với các tổ chức này chúng ta chỉ
chấp nhận sự hỗ trợ tài chính nếu yêu cầu của họ không trái với đường lối,
chính sách của ta.
Ngày 25/7/1995, nước ta gia nhập ASEAN, đồng thời tham gia khu vực
mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) và từ ngày 1/1/1996, chúng ta bắt đầu thực
hiện các nghĩa vụ và các cam kết trong trương trình ưu đãi thuế quan có hiệu
lực chung (CEPT) của AFTA. Theo quy định của CEPT ta có nghĩa vụ giảm
thuế nhập khẩu xuống còn 0- 5% vào năm 2006; năm 2001, sáu nước thành
viên cũ sẽ thực hiện toàn bộ các mặt hàng có thuế xuất bằng 0% và Việt Nam
là năm 2010. Ngoài ra chúng ta còn tham gia các chương trình hợp tác công
nghiệp (AICO), khu vực đầu tư ASEAN (CAIA) và các chương trình hợp tác
khác của ASEAN.
Tháng 3/96, nước ta tham gia Diễn đàn hợp tác kinh tế A - Âu (ASEM)
nhằm thuận lợi hóa thương mại và đầu tư, hợp tác giữa các nhà doanh nghiệp
A- Âu, cam kết về tự do hóa thương mại và đầu tư chưa được nêu ra.
Tháng 11/98, Việt Nam gia nhập APEC và trở thành thành viên đầy đủ
của tổ chức này vào năm 2020; tháng 10/2006 Việt Nam tổ chức thành công
Hội ngị cấp cao APEC tại Hà Nội, có 21 nước thành viên tham dự.
Tháng 12/1994, Việt Nam gửi đơn gia nhập WTO. Để gia nhập tổ chức này
chúng ta phải đàm phán cả đa phương và song phương với các nước thành viên.
Từ ngày 16/9/1996 đến 13/7/2000 trải qua 10 vòng đàm phán, Hiệp định
Thương mại Việt Nam- Hoa Kỳ đã được ký kết. Ngày 10/2/2001, hiệp định
bắt đầu có hiệu lực. Việc ký kết Hiệp định Thương mại Việt Nam- Hoa Kỳ
mở ra một thời kỳ mới bình thường hóa quan hệ thương mại giữa hai nước.

7/11/2006 sau nhiều lần đàm phám cả song phương và đa phương, thời
gian 12 năm liên tục, Việt Nam được kết nạp vào WTO và trở thành thành
viên chính thức của tổ chức này vào 1/1/2007. Là thành viên của WTO, Việt
Nam phải thực hiện các cam kết sau:


- Các cam kết đa phương: Là các cam kết chung, mang tính nguyên tắc
về thực hiện các quy định của WTO. Việt Nam cam kết trên 30 nhóm vấn đề:
+ Kinh tế phi thị trường, Việt Nam chấp nhận kinh tế phi thị trường
trong 12 năm (chỉ có ý nghĩa trong các vụ kiện chống bán phá giá) nhưng
không muộn hơn 31/12/2018.
+ Dệt may, các thành viên WTO sẽ không được áp dụng hạn ngạch dệt
may đối với Việt Nam.
+ Trợ cấp phi nông nghiệp: Việt Nam đồng ý bãi bỏ hoàn toàn các loại trợ
cấp bị cấm theo quy định của WTO như trợ cấp xuất khẩu, trợ cấp nội địa hóa.
+ Trợ cấp nông nghiệp: Việt Nam sẽ không áp dụng trợ cấp xuất khẩu
đối với nông sản, tuy nhiên được bảo lưu quyền được hưởng một số quy định
riêng với các nước đang phát triển trong lĩnh vực này như trợ cấp nhằm giảm
chi phí xuất khẩu sản phẩm nông nghiệp.
+ Quyền kinh doanh (quyền xuất- nhập khẩu hàng hóa): Việt Nam đồng
ý cho các doanh nghiệp và cá nhân nước ngoài được quyền xuất khẩu và nhập
khẩu hàng hóa như doanh nghiệp và cá nhân Việt Nam.
+ Thuế tiêu thụ đặc biệt đối với rượu, bia.
+ Một số biện pháp hạn chế nhập khẩu, minh bạch hóa và một số nội
dung khác...
- Các cam kết về mở cửa thị trường hàng hóa: Việt Nam đồng ý ràng
buộc mức trần cho toàn bộ biểu thuế 10.600 dòng. Mức thuế bình quân toàn
biểu được giảm từ mức hiện hành 17,4% xuống còn 13,4% thực hiện dần
trong 5-7 năm. Mức thuế bình quân đối với hàng nông sản từ mức hiện hành
23,5% xuống còn 20,9% thực hiện trong khoảng 5 năm. Với hàng công

nghiệp mức giảm từ 16,8% xuống còn 12,6% thực hiện trong thời gian từ 5-7
năm. Có khoảng 1/3 số dòng của biểu thuế sẽ phải cắt giảm, chủ yếu là các
dòng có thuế xuất trên 20% và cam kết cắt giảm thuế theo một số hiệp định tự
do hóa theo ngành như sản phẩm công nghệ thông tin, dệt may, thiết bị y tế.
Việt Nam bảo lưu quyền áp dụng hạn ngạch với đường, trứng gia cầm, thuốc
lá điếu và muối.


- Các cam kết về mở cửa thị trường dịch vụ: bao gồm các cam kết chung
(cam kết nền) và các cam kết cụ thể.Việt Nam cam kết đủ 11 ngành dịch vụ
và nếu phân theo phân ngành khoảng 110 phân ngành ( sẽ đề cập cụ thể hơn ở
phần nội dung hội nhập kinh tế quốc tế).
c. Một số kết quả đạt được và những tồn tại yếu kém cần khắc phục
trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
* Kết quả đạt được
Như trên đã phân tích, thời gian hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam
chưa dài, chúng ta còn rất ít kinh nghiệm nhưng bước đầu đã đạt được những
thành tựu đáng khích lệ:
- Chúng ta đã phá được thế bao vây, cấm vận của các thế lực thù địch, mở
rộng quan hệ kinh tế đối ngoại tạo dựng môi trường thuận lợi cho công cuộc xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc, nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.
- Khắc phục được tình trạng hẫng hụt về thị trường do hệ thống xã
hội chủ nghĩa thoái trào và không để bị cuốn vào cuộc khủng hoảng tài
chính tiền tệ khu vực (1997-1998) và thế giới (2008-2009); mở rộng thị
trường xuất khẩu.
- Hiện nay, nước ta đã thiết lập được quan hệ thưong mại với 170 nước
và vùng lãnh thổ. Năm 1990, xuất khẩu 2,404 tỷ USD, năm 2000 đạt gần 15
tỷ USD, hiện nay đạt hơn 60 tỷ USD (năm 2008 đạt 62,9 tỷ USD tăng 29,5%
so với năm 2007). Nhờ mở rộng thị trường xuất khẩu đã tạo thêm được công
ăn việc làm, mở mang được các ngành nghề mới.

- Thu hút được nguồn vố lớn đầu tư nước ngoài vào nước ta
Vốn FDI, tính đến hết năm 2001, đã có 66 nước và vùng lãnh thổ với
nhiều tập đoàn và công ty đầu tư trực tiếp vào Việt Nam với 3265 dự án được
cấp giấy phép, vốn đăng ký là 38,6 tỷ USD và đã thực hiện được 18 tỷ USD.
Nguồn vốn này chiếm 30% tổng vốn đầu tư toàn xã hội, đóng góp 13,3%
GDP, 6-7% thu ngân sách, chiếm 35% sản lượng công nghiệp và 23% kim
ngạch xuất khẩu; thu hút 30 vạn lao động trực tiếp và gián tiếp. Đến năm
2007, thu hút được 20,3 tỷ USD tăng 70% so với 2006. Năm 2008, thu hút


được 64 tỷ USD trong đó có 3,7 tỷ USD vốn đăng ký thêm và 60,3 Tỷ USD
vốn đăng ký mới, tăng gấp 3 lần so với năm 2007; vốn thực hiện là 11,5 tỷ,
tăng 43,2% so với năm 2007.
Nguồn viện trợ ODA ngày càng lớn, làm giảm đáng kể nợ nươc ngoài.
Năm 2004 thu hút ODA là 3,4 tỷ USD, kiều hối 3,0 tỷ USD; năm 2006,
OAD đạt 4,45 tỷ USD tăng 13% so với năm 2005, kiều hối đạt 4,7 tỷ USD; năm
2007, ODA đạt 5,4 tỷ USD, tăng 20% so với 2006, kiều hối thu hút 10 tỷ USD.
- Tiếp thu khoa học- công nghệ, kỹ năng quản lý, góp phần đào tạo cán
bộ quản lý và kinh doanh.
- Từng bước đưa hoạt động của các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần
kinh tế và cả nền kinh tế vào môi trường cạnh tranh, tạo ra tư duy làm ăn mới,
thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động, nâng cao hiệu quả
sản xuất kinh doanh.
- Kết hợp nội lực với ngoại lực hình thành sức mạnh tổng hợp góp phần
đưa đến đến những thành tựu kinh tế- xã hội lớn. Tiếp tục giữ vững độc lập, tự
chủ, an ninh quốc gia, định hướng xã hội chủ nghĩa và bản sắc văn hóa dân tộc.
* Một số yếu kém, tồn tại cần khắc phục.
- Chưa làm tốt công tác chuẩn bị cho hội nhập
Tuy chủ trương đã được khẳng định trong nhiều nghị quyết và đã được
thực hiện từng bước nhưng nhận thức hội nhập chưa đạt được sự nhất trí làm

ảnh hưởng tới quá trình đề xuất chính sách và triển khai thực hiện. Công tác
nghiên cứu triển khai chậm, dường như hội nhập là công việc của Trung
ương, còn các ngành, các cấp có đặt ra nhưng còn rất yếu và không đồng bộ,
làm yếu đi sức mạnh của Việt Nam trong hội nhập.
- Luật pháp, chính sách quản lý thương mại chưa hoàn chỉnh.
- Doanh nghiệp Việt Nam còn yếu cả về sản xuất, quản lý và khả năng
cạnh tranh; quy mô nhỏ, yếu cả về công nghệ và quản lý; chưa rũ bỏ được
thói quen bao cấp. Nhà nước chưa có cơ chế có hiệu lực nhằm kích thích các
doanh nghiệp gắn sự tồn tại và phát triển của mình với khả năng cạnh tranh
trên thương trường quốc tế.


×