Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

TÀI LIỆU THAM KHẢO CHUYÊN đề KINH tế CHÍNH TRỊ SAU đại HỌC, MỤC TIÊU VÀ CHÍNH SÁCH KINH tế VĨ mô TRONG nền KINH tế THỊ TRƯỜNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (189.62 KB, 20 trang )

MỤC TIÊU VÀ CHÍNH SÁCH KINH TẾ VĨ MÔ
TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
* * *
1. Mô tả chuyên đề:
Chuyên đề này nghiên cứu những nội dung cơ bản về mục tiêu và các
chính sách kinh tế vĩ mô. Toàn bộ nội dung chuyên đề cấp học dưới chưa
được nghiên cứu. Thông qua chuyên đề này, người học cần nắm vững những
nội dung hết sức cơ bản của chuyên đề, làm cơ sở để nhận thức và vận dụng
những vấn đề có tính nguyên tắc trong các hoạt động quản lí nền kinh tế thị
trường định hướng XHCN ở nước ta hiện nay.
2. Mục đích:
Giới thiệu những vấn đề cơ bản về mục tiêu và chính sách kinh tế vĩ mô,
giúp học viên sau đại học có cơ sở để nắm đầy đủ các nội dung của kinh tế học
vĩ mô. Trên cơ sở đó, có thể vận dụng kiến thức đã tiếp thu để giải đáp những
vấn đề quản lý doanh nghiệp và quản lý vĩ mô nền kinh tế thị trường ở nước ta
hiện nay.
3. Yêu cầu:
Hiểu được những vấn đề cơ bản về mục tiêu và chính sách kinh tế vĩ mô.
Ý nghĩa vận dụng chúng trong nền kinh tế thị trường nói chung và kinh
tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam.
Cần nắm vững nội dung cơ bản của chuyên đề, so sánh nó với kinh tế
chính trị, làm sâu sắc hơn những nội dung kiến thức chuyên ngành.
4. Bố cục chuyên đề
I. Mục tiêu kinh tế vĩ mô
II. Các chính sách kinh tế vĩ mô

I. MỤC TIÊU KINH TẾ VĨ MÔ
1.1. Một số vấn đề chung về mục tiêu KT vĩ mô
Thành tựu KT vĩ mô của một nước thường được đánh giá theo ba dấu



hiệu chủ yếu: ổn định, tăng trưởng và công bằng XH.
- Sự ổn đinh KT là kết quả của việc giải quyết tốt những vấn đề KT cấp
bách như lạm phát, suy thoái, thất nghiệp... trong thời kì ngắn hạn.
- Tăng trưởng KT đòi hỏi giải quyết tốt những vấn đề dài hạn hơn của cả
hệ thống KT vĩ mô: Đầu vào, đầu ra và hộp đen KT vĩ mô...
- Công bằng trong phân phối thụ nhập vừa là vấn đề KT vừa là vấn đề XH.
Để có thể đạt được sự ổn định, tăng trưởng và công bằng XH, các chính
sách KT vĩ mô phải hướng tới các mục tiêu cụ thể là: sản lượng, việc làm, ổn
định giá cả, kinh tế đối ngoại...
1.2. Một số chỉ tiêu kinh tế vĩ mô chủ yếu
1.2.1. Cân bằng xuất khẩu, nhập khẩu
Đây cũng là một trong những mục tiêu mà sự điều tiết của CP: cần
hướng tới trong lĩnh vực KT đối ngoại, nhằm cân bằng cán cân thanh toán.
Mục tiêu hướng tới là phấn đấu sao cho xuất khẩu và nhập khẩu, xét theo giá
trị kim ngạch phải cân bằng cán cân thanh toán qtế để không có nợ nước
ngoài.
Nếu giá trị kim ngạch XK> giá trị kim ngạch NK, gọi là xuất siêu. Nếu
ngược lại, gọi là nhập siêu .
Nếu xuất siêu thì nước xuất siêu sẽ là chủ nợ. Còn nếu nhập siêu thì
nước nhập siêu sẽ thành con nợ. Thông thường, các CP: đều mong muốn duy
trì thăng bằng hoặc xuất siêu một chút. Còn nếu phải nhập siêu trong một thời
gian nào đó thì cũng chỉ nhập siêu tối thiểu, chủ yếu là TLSX để phục vụ
CNH, HĐH, do quy mô đầu tư đòi hỏi rất lớn mà việc SX ra SP để XK phải
có thời gian nên thường xảy ra tình trạng nhập siêu. Điều đáng chú ý là nhập
siêu giá trị hàng hoá thuộc loại TLSX không đáng ngại bằng nhập siêu giá trị
hàng hoá tiêu dùng. Ngày nay người ta đưa ra nhiều cách tính giới hạn nhập
siêu an toàn. Một trong số đó là tính tỷ lệ nhập siêu so với xuất khẩu; theo đó,
sẽ là an toàn nếu tỷ lệ nhập siêu so với xuất khẩu lớn hơn hoặc bằng - 25% .
- Xuất khẩu (EX) được tính là tổng giá trị HH XK cùng với thu nhập từ
tài sản ở nước ngoài (thuộc quyền sở hữu của nước XK). XK phản ánh nhu

cầu của người nước ngoài về hàng hoá và dịch vụ của nước XK; nó tạo công
ăn việc làm cho LĐ trong nước.


- NK (IM) được tính là tổng giá trị hàng hoá NK cùng với thu nhập của
người nước ngoài ở trên đất nước NK.
NK phản ánh nhu cầu của trong nước đối với hàng hoá của nước ngoài;
nó tạo ra công ăn việc làm cho LĐ nước ngoài.
- Nếu đem tổng giá trị xuất khẩu trừ đi tổng giá trị nhập khẩu ta được
một đại lượng gọi là xuất khẩu ròng, kí hiệu là NX.
NX = EX - IM
Ở đây NX > 0  Đó là xuất siêu; NX < 0  Đó là nhập siêu.
1.2.2. Ổn định tỉ giá hối đoái
- Tỷ giá hối đoái là giá cả của đồng tiền một nước này so với đồng tiền
của một nước khác. Thông thường người ta ngầm hiểu “Tỷ giá hối đoái” là số
lượng đơn vị tiền nội tệ cần thiết để mua một đơn vị ngoại tệ. Thí dụ:
15.291,00 VNĐ mua được 1 USD trong thời gian giữa tháng 8 năm 2002.
Người ta thường biểu diễn tỷ giá hối đoái theo cả 2 cách. Thí dụ về tỷ
giá giữa đồng tiền Việt nam và Đôla Mỹ: VNĐ/ USD hoặc USD/VNĐ.
- Trong thực tế có 2 loại tỷ giá hối đoái cơ bản:
+ Tỷ giá hối đoái cố định: là tỷ giá được (NHTW) mỗi nước quy định
gắn với một đồng tiền nhất định mà mọi việc mua, bán đồng tiền đó đều được
tính theo tỷ giá này. Một trong những hệ thống tỷ giá hối đoái cố định được
người ta nói đến nhiều là hệ thống tỷ giá cố định Bretton Woods (1944-1971)
được hình thành tại hội nghị đa quốc gia nhóm họp ở Bretton Woods, New
Hamphise (Mỹ). Tiền của các nước tham gia hệ thống này được cố định theo
đồng Đôla Mỹ và các NHTW của các nước tham gia có trách nhiệm duy trì
các tỷ giá hối đoái của họ bằng việc mua và bán Đôla trên thị trường ngoại tệ.
Hệ thống này bị xoá bỏ vào tháng 8.1971 khi các nước tham gia hệ thống
không thể đảm bảo được rằng những đồng Đôla cũng có thể chuyển đổi được

thành vàng.
+ Hệ thống tỷ giá hối đoái linh hoạt (thả nổi). Đó là các hệ thống tỷ giá
hối đoái được xác định hoàn toàn bởi các lực lượng cung và cầu của thị
trường ngoại hối, không có sự can thiệp nào của Chính phủ. Tuy nhiên, do
tính bất thường và những tác động mặt trái của KTTT tự do làm cho hệ thống
tỷ giá hối đoái thả nổi lên, xuống thất thường, gây khó khăn lớn cho sự phát


triển ổn định của các nền KT.
+ Kết hợp 2 hệ thống tỷ giá hối đoái cơ bản nêu trên, hình thành hệ
thống tỷ giá linh hoạt có quản lý. Đó là hệ thống mà tỷ giá hối đoái được biến
đổi phù hợp với các điều kiện của thị trường, nhưng Chính phủ vẫn can thiệp
để ngăn không cho nó vận động ra ngoài các giới hạn nhất định. Đi theo
hướng này, từ năm 1989 nhà nước ta đã bắt đầu áp dụng chính sách tỷ giá linh
hoạt có kiểm soát; đồng thời t/xuyên điều chỉnh cho phù hợp với tỷ giá trên
thị trường tự do.
- Mục tiêu của Chính phủ: là duy trì sự ổn định của tỷ giá hối đoái chứ k0
phải là cố định tỷ giá hối đoái (KS). Sự cần thiết phải duy trì sự ổn định của tỷ
giá hối đoái vì mọi sự biến động xa ra ngoài giới hạn cần thiết của nó đều đem
bất lợi cho tình hình XK hay NK của một quốc gia, do đó ảnh hưởng đến trạng
thái cân bằng cán cân thương mại nói riêng, cán cân thanh toán nói chung. Trong
khi đó, bất cứ quốc gia nào cũng đều vừa tiến hành XK, vừa NK.
Nếu dùng phương pháp trực tiếp để chỉ tỷ giá hối đoái thì tỷ giá hối đoái
tăng hay giảm ngược chiều với giá trị đồng nội tệ. Theo đó:
+ Nếu tỷ giá hối đoái giảm so với thực tế, đồng nghĩa với việc lên giá đồng
tiền nội địa, làm cho giá hàng XK trở nên “tương đối đắt” trên thị trường TG,
làm giảm sức cạnh tranh, do đó hạn chế XK; ngược lại, khuyến khích tình trạng
NK.
+ Nếu tỷ giá hối đoái tăng cao so với thực tế lại đồng nghĩa với việc
giảm giá đồng nội tệ. Nghĩa là để mua một đơn vị ngoại tệ như cũ, phải bỏ ra

số lượng đồng nội tệ nhiều hơn. Tình hình này làm cho giá hàng XK trở nên
“tương đối rẻ” trên thị trường TG, tăng sức ctranh và khuyến khích XK; hạn
chế nhập khẩu.
Như vậy, tỷ giá hối đoái là một biến số quan trọng tác động đến sự cân
bằng của cán cân thương mại và cán cân thanh toán, do đó tác động đến sản
lượng, việc làm cũng như sự cân bằng của nền KT nói chung.
Để ổn định tỷ giá, điều quan trọng vẫn phải là duy trì sự tăng trưởng ổn
định và liên tục của SX trong nước, giữ được giá trị đồng nội tệ, đồng thời
phải có dự trữ ngoại tệ mạnh để lúc cần thiết nhà nước có thể can thiệp vào thị
trường nhằm duy trì tỷ giá ổn định. Mặt khác, CP: phải thường xuyên điều


chỉnh tỷ giá cho sát với tỷ giá thực tế trên thị trường, tránh để có khoảng cách
lớn giữa tỷ giá kiểm soát và tỷ giá trên thị trường.
1.2.3. Ổn định mức giá chung, kiềm chế lạm phát
- Lạm phát là hiện tượng phổ biến của nền KTTT. Biểu hiện của nó là
mức giá chung của nền KT tăng lên. Trường hợp ngược lại gọi là thiểu phát.
- Mục tiêu của KTVM là kiểm soát được lạm phát ở mức thấp.
- Người ta phân loại lạm phát theo nhiều tiêu chí khác nhau:
+ Phân loại theo mức độ tỷ lệ, người ta có lạm phát vừa phải, chấp nhận
được với tỷ lệ lạm phát < 10% (gọi là l/phát một con số); l/phát phi mã với tỷ lệ
lạm phát > = 10% và < hoặc bằng 200%; siêu l/phát với mức lạm phát > 200%.
+ Phân loại theo mức độ tác động của lạm phát, người ta thấy có 2 loại là
lạm phát ỳ (thấy được ) và lạm phát bất thường (không dự kiến được). Đặc
trưng của lạm phát ỳ là loại lạm phát vừa phải; giá cả tăng một cách đều đặn
trong thời gian dài và mọi HĐ KT đều phải điều chỉnh theo tỷ lệ lạm phát đã
tính được trước đó. Ngược lại lạm phát bất thường sẽ gây nhiều tác hại cho
SX và đ/sống do người ta không thể dự kiến trước được mức độ lạm phát.
- Nguyên nhân lạm phát đến từ nhiều lý do, mà suy cho cùng là do số
lượng tiền giấy phát hành trong lưu thông > số lượng tiền cần thiết cho lưu

thông. Ngoài ra KT học đưa ra hai nguyên nhân cơ bản dẫn đến lạm phát là
do cầu kéo và chi phí đẩy.
- Lạm phát tác động mạnh mẽ đến các HĐ SX và đời sống:
+ Phân phối lại một cách không hợp lý thu nhập, của cải trong XH, đặc
biệt là gây khó khăn cho đ/sống của người làm công, ăn lương.
+ Làm biến dạng cơ cấu sản xuất và việc làm trong nền kinh tế .
+ Nếu siêu lạm phát kéo dài có thể gây ra sự bùng nổ XH, dẫn đến sự đổ
vỡ của CP: do không đủ năng lực điều tiết nền KT.
- Để xác định chỉ số lạm phát, người ta dựa vào chỉ số giá tiêu dùng:
CPI (consumption price index), đó là chỉ số giá đo lường chi phí để mua 1
số loại hàng hoá, DV được ấn định, đại diện cho sự mua hàng người tiêu
dùng ở thành thị.
Ở VN, từ 1.1.1998, theo quyết định của Thủ tướng CP, nước ta cũng
sử dụng cách tính chỉ số giá tiêu dùng CPI để xác định mức độ lạm phát


của nền KT. Theo đó, CPI được tính trên 296 mặt hàng, chia thành 10
nhóm tiêu dùng: cấp I, 34 nhóm tiêu dùng cấp II, 86 nhóm tiêu dùng cấp
III. Giá năm 1995 lấy làm gốc để so sánh. Hàng tháng, chỉ số CPI được
công bố với 4 chỉ tiêu: so với năm 1995, so với tháng trước, so với cùng kỳ
năm trước, so với tháng 12 năm trước.
Từ chỉ số giá TD: mỗi thời kỳ, tính ra tỷ lệ lạm phát theo công thức sau:
CPI
Tỷ lệ lạm phát của năm t =
so với năm (t-1)

t

_ CPI t-1


–––––––

x

100

CPI t-1

1.2.4. Giải quyết việc làm, hạn chế thất nghiệp:
Việc làm và lạm phát trong nền KTTT là hai vấn đề được toàn XH đặc
biệt quan tâm. Khi không có việc làm thì người LĐ trở thành người thất
nghiệp. Nạn thất nghiệp là một thực tế nan giải của mọi nền KTTT.
- Khi thất nghiệp ở mức cao, SX sút kém, tài nguyên không được sử
dụng hết, thu nhập của dân cư giảm sút. Khó khăn KT sẽ tràn sang lĩnh vực
XH. Nhiều hiện tượng tiêu cực sẽ phát triển. Đó là tác hại của thất nghiệp.
- Có nhiều khái niệm khác nhau về thất nghiệp. Dưới đây là một khái
niệm được nhiều nhà KT tán đồng. Theo đó, thất nghiệp là những người đang
ở trong độ tuổi LĐ, có khả năng LĐ mà hiện chưa có việc làm, dù đang mong
muốn và cố gắng kiếm việc làm.
- Tỷ lệ thất nghiệp là tỷ lệ % số người thất nghiệp so với tổng số người
trong độ tuổi LĐ. Tỷ lệ thất nghiệp là một tiêu chí phản ánh khái quát tình
trạng thất nghiệp của một quốc gia.
- Thất nghiệp là 1 hiện tượng phức tạp, có nhiều cách phân loại thất nghiệp:
+ Phân loại theo nguồn gốc thất nghiệp, người ta chia thành thất nghiệp
tạm thời, thất nghiệp cơ cấu và thất nghiệp do thiếu cầu. Loại thứ nhất xảy ra
khi có một số người LĐ đang trong thời gian tìm kiếm công việc hoặc nơi làm
tốt hơn, phù hợp với ý muốn riêng, hoặc những người mới bước vào thị
trường LĐ đang tìm kiếm việc làm hay đang chờ đợi việc làm. Loại thứ hai
xảy ra khi có sự mất cân đối giữa cung và cầu các loại LĐ: ngành nghề, khu
vực,... Loại này gắn liền với sự biến động cơ cấu KT và khả năng điều chỉnh

cung của các thị trường LĐ: đào tạo lại, môi giới... Loại thứ ba xảy ra khi


mức cầu chung về LĐ giảm xuống mà nguồn gốc chính là sự suy giảm AD.
Loại này còn được gọi là thất nghiệp chu kỳ, gắn liền với thời kỳ suy thoái
của chu kỳ KD.
+ Phân loại theo hành vi thất nghiệp, người ta chia thành 2 loại: thất
nghiệp tự nguyện và thất nghiệp không tự nguyện. Thất nghiệp tự nguyện là
bộ phận LĐ k0 có việc làm do công việc và tiền lương k0 đáp ứng nguyện
vọng của họ. Thất nghiệp không tự nguyện là một bộ phận của lực lượng LĐ
không có việc làm do sự suy thoái của tổng cầu mặc dù họ mong muốn làm ở mức
lương hiện hành.
- Ngoài ra người ta còn đưa ra một khái niệm mới là tỷ lệ thất nghiệp
tự nhiên dựa trên cơ sở xem xét sự cân bằng của thị trường LĐ. Đó là tỷ lệ
thất nghiệp khi thị trường LĐ đạt được sự cân bằng. Tại đó thất nghiệp chỉ
bao gồm những người LĐ không muốn đi làm do mức tiền lương không
như mong muốn. Đó chính là tỷ lệ thất nghiệp thấp nhất mà XH có thể
chấp nhận được mà không đi kèm lạm phát cao. Người ta gọi đó là tình
trạng toàn dụng nhân công.
- Mục tiêu của Chính phủ: là phải tạo nhiều công ăn việc làm, hạ thấp tỷ
lệ thất nghiệp và duy trì ở mức thất nghiệp tự nhiên, hoặc ở mức kiểm soát
được. Ở nước ta, theo Ban chỉ đạo điều tra LĐ và việc làm quốc gia thì mức
tỷ lệ thất nghiệp dưới 5% được coi là kiểm soát được.
Để thực hiện mục tiêu này, cần phải thực hiện nhiều chính sách, biện pháp
nhằm khuyến khích đầu tư, thay đổi công nghệ SX, dạy nghề, đào tạo và đào tạo
lại LĐ...
1.2.5. Tăng trưởng kinh tế
- Mục tiêu của CP: là duy trì tốc độ tăng trưởng KT cao và vững chắc,
đạt mức sản lượng thực tế cao. Có nhiều tiêu chí để đo lường tốc độ tăng
trưởng KT. Hiện nay các nước đi theo mô hình KTTT đều dựa vào các chỉ

tiêu đo lường sản lượng quốc gia là: tổng sản phẩm quốc dân (GNP), tổng sản
phẩm quốc nội (GDP).
- (GNP) là chỉ tiêu đo lường tổng giá trị bằng tiền của các hàng hoá và
DV cuối cùng mà một quốc gia SX ra trong một thời kỳ nhất định (thường là
một năm) bằng các yếu tố SX của mình. (Căn cứ yếu tố sở hữu)


Dùng thước đo tiền tệ để đo lường giá trị sản phẩm là thuận lợi vì thông qua
giá cả thị trường có thể cộng giá trị của các loại hàng hoá, dịch vụ có hình thức và
nội dung vật chất khác nhau. Tuy nhiên, giá cả lại là một thước đo co dãn. Do vậy
để khắc phục, người ta thường sử dụng cặp khái niệm GNP danh nghĩa và GNP
thực tế.
n
GNP =

Σ qi . pi (Trong đó qi là sản lượng và pi là giá hàng thứ i, với i =1  n )
i=1

+ GNP danh nghĩa là GNP tính theo giá hiện hành (Ký hiệu: GNPn)
+ GNP thực tế đo lường tổng sản phẩm quốc dân theo giá cố định ở một
thời kỳ lấy làm gốc. (Ký hiệu: GNPr)
Chỉ tiêu GNP danh nghĩa và GNP thực tế được dùng cho các mục tiêu phân
tích khác nhau. Khi muốn nghiên cứu: mối quan hệ tài chính người ta thường
dùng GNP danh nghĩa; còn khi phân tích tốc độ tăng trưởng KT người ta lại
dùng GNP thực tế.
- (GDP) là tổng giá trị bằng tiền của các hàng hoá và dịch vụ cuối cùng
được SX ra trong phạm vi lãnh thổ quốc gia trong một thời kỳ nhất định
(thường là một năm) không kể ai là chủ sở hữu của các ytố SX đó. (Căn cứ yếu tố
địa lí)
GDP không bao gồm kết quả HĐ của công dân nước sở tại tiến hành ở

nước ngoài, song lại tính cả kết quả của công dân nước ngoài SX tại nước đó.
Giữa GNP và GDP có mối quan hệ với nhau, theo đó:
GNP = GDP + Thu nhập ròng từ tài sản ở nước ngoài
hay

GDP = GNP - Thu nhập ròng từ tài sản ở nước ngoài

(Thu nhập ròng từ tài sản ở nước ngoài chính là phần chênh lệch giữa
thu nhập của công dân nước đó ở nước ngoài gửi về với thu nhập của công
dân nước ngoài ở nước đó gửi về nước họ)
- Để tính tốc độ tăng trưởng kinh tế, người ta dựa vào công thức sau đây:
GNPrt - GNPrt-1
Tỷ lệ tăng trưởng kinh tế GNP =
thời gian t so với thời gian t-1

–––––– x 100
GNPrt-1

- Chỉ tiêu GNP và GDP là những thước đo về thành tựu KT của một đất


nước. Người ta thường dùng chỉ tiêu này và chỉ tiêu GNP/người, GDP/người
để so sánh quy mô SX của các nước. Tuy nhiên những thước đo này cũng có
nhiều khuyết tật, vì chúng không phân biệt những SX tốt và xấu, đánh đồng
việc SX phục vụ nâng cao đời sống: với SX vũ khí, các loại hàng hoá gây ô
nhiễm môi trường. Do vậy, từ những năm 80 của thế kỷ XX người ta đưa ra
một loạt chỉ tiêu khác để đo lường thành tựu KT của các nước, thí dụ như:
+ Phúc lợi kinh tế ròng (NEW)
NEW = GNP + Thu nhập không báo + giá trị của việc cáo, không trao đổi


hưởng thụ thời

trên thị trường

Thiệt hại do

hoạt động KT

gian nhàn rỗi

gây ra

+ Chỉ số phát triển nhân lực (HDI). HDI dựa vào 3 biến số: tuổi thọ bình
quân, trình độ học vấn, GDP bình quân trên đầu người.
+ GDP, GNP tính theo sức mua tương đương (PPP).
1.2.6. Công bằng xã hội
Cân bằng ngân sách cũng được xem là một mục tiêu qlý KTVM, gắn
liền với việc cân bằng cán cân thanh toán. Việc thâm thủng ngân sách lớn sẽ
dẫn đến việc chính phủ phải quyết định phát hành và đưa vào kênh lưu thông
tiền tệ quá nhiều tiền giấy. Hệ quả sẽ ảnh hưởng xấu đến sự ổn định KTVM.
Vì thế vấn đề thăng bằng ngân sách lành mạnh có tầm quan trọng đặc biệt,
việc quyết định duy trì mức bội chi ngân sách thường do quốc hội quyết định.
Trong nền KTTT có sự quản lý của Nhà nước, vấn đề công bằng XH
được coi là một mục tiêu quan trọng bởi bản thân cơ chế thị trường thường
tự phát dẫn đến sự phân hoá giàu nghèo, nảy sinh sự mất công bằng mà
không thể tự giải quyết. Do đó, cần phải có sự can thiệp của Nhà nước. Ngay
cả ở những nước Tư bản phát triển hiện nay cũng phải đặt vấn đề giải quyết
quan hệ giữa tăng trưởng KT và công bằng XH, song khác về nguyên tắc và
bản chất đối với các nước XHCN.
* Mối quan hệ giữa một số mục tiêu:

- Những mục tiêu nói trên thể hiện một trạng thái lý tưởng, trong đó
sản lượng đạt mức sản lượng tiềm năng, lạm phát thấp, thất nghiệp ở mức
tự nhiên, cán cân thanh toán cân bằng, tỷ giá hối đoái ổn định. Trong thực
tế, các chính sách KTVM chỉ có thể tối thiểu hoá các sai lệch so với trạng


thái lý tưởng.
- Các mục tiêu thường bổ sung cho nhau, trong chừng mực hướng vào
việc đảm bảo tăng trưởng sản lượng của nền KT. Song trong một số trường
hợp có thể xuất hiện những xung đột, mâu thuẫn cục bộ mà các nhà KT
thường khái quát thành mô hình “tứ giác huyền ảo”; ở đó có ba cặp quan hệ:
+ Tăng trưởng và thất nghiệp quan hệ với nhau theo xu hướng: tăng
trưởng cao thì thất nghiệp giảm và ngược lại, thời kỳ nào mà tăng trưởng
giảm thì thất nghiệp tăng. Người ta đã định lượng được mối quan hệ này theo
định luật Ocun; theo đó, khi tăng trưởng 2% thì thất nghiệp giảm 1% và
ngược lại.
+ Tăng trưởng và lạm phát cũng có qhệ với nhau theo xu hướng: thời kỳ
tăng trưởng cao liên tục thường kéo theo lạm phát tăng và kiềm chế lạm phát
thì lại làm giảm tốc độ tăng trưởng, do Chính phủ: áp dụng chính sách thắt chặt
tiền tệ.
+ Giữa lạm phát và thất nghiệp cũng có quan hệ trong ngắn hạn. Theo đó,
thời kỳ lạm phát cao, thất nghiệp thường thấp và ngược lại, kiềm chế lạm phát
lại kéo theo thất nghiệp tăng cao, do áp dụng chính sách tiền tệ thắt chặt, hạn chế
đầu tư.
II. MỘT SỐ CHÍNH SÁCH KINH TẾ VĨ MÔ CHỦ YẾU
2.1. Chính sách kinh tế vĩ mô và những đặc trưng
2.1.1. Chính sách kinh tế vĩ mô và cách phân loại
Nền KTTT thường xuyên có những yếu tố tác động đến AD và AS tạo
nên những biến động KT như: lạm phát, thất nghiệp, suy thoái và khủng
hoảng KT. Do đó, nhiệm vụ của Nhà nước là phải sử dụng các chính sách

và công cụ KT vĩ mô để đưa nền KT trở lại trạng thái ổn định và phát triển
bên vững.
- Có nhiều quan niệm khác nhau về chính sách KT vĩ mô, song có thể hiểu
một cách khái quát: Chính sách KT vĩ mô là một hệ thống các giải pháp KT được
thể chế hoá thông qua các công cụ KT như tài chính, tiền tệ, thu nhập, giá cả…
để tác động vào quá trình vận động của nền KT nhằm hướng vào các mục tiêu KT
vĩ mô xác định.
- Có thể phân loại chính sách KT vĩ mô theo nhiều cách tiếp cận khác nhau:


+ Nếu phân loại theo các công cụ tác động, các chính sách KTVM được
chia thành: Chính sách tài khoá, chính sách tiền tệ, chính sách thu nhập, chính
sách xuất nhập khẩu…
+ Phân theo mục tiêu KTVM, được chia làm hai nhóm: Nhóm các chính
sách ổn định (điều tiết KT) và nhóm các chính sách tăng trưởng (điều chỉnh KT).
+ Phân loại theo phạm vi, lĩnh vực tác động, bao gồm: Chính sách KT
đối nội và chính sách KT đối ngoại.
+ Phân chia theo thời gian ảnh hưởng, bao gồm: Các chính sách KT ngắn
hạn và chính sách KT dài hạn.
2.1.2. Những đặc trưng trong hoạch định và thực thi chính sách kinh tế vĩ mô
Hoạch định và thực thi các chính sách KTVM chính là quá trình nhận
thức và vận dụng các quy luật KT khách quan trong thực tế. Do đó, trong
quá trình hoạch định và thực hiện chính sách thường xuất hiện những khả
năng, xu hướng thúc đẩy hoặc cản trở sự tác động của các chính sách đó,
như độ trễ và cơ chế tự động ổn định… làm cho hiệu quả thực hiện không
được như mong muốn.
- Độ trễ trong thực thi các chính sách KTVM, bao gồm hai loại:
+ Độ trễ trong: Là khoảng thời gian từ lúc xuất hiện cú sốc tác động vào
nền KT đến khi các biện pháp của Chính sách được thực thi để phản ứng lại.
+ Độ trễ ngoài: Là khoảng thời gian từ lúc thực thi chính sách đến khi nó

phát huy ảnh hưởng đối với nền KT (vì các chính sách không phát huy tác
dụng ngay lập tức).
Thường các chính sách tài chính có độ trễ trong dài vì sự thay đổi về thuế và
chi tiêu ngân sách cần được sự chấp thuận của cả cơ quan lập pháp và hành pháp,
nên phải trải qua nhiều thủ tục… Còn chính sách tiền tệ lại có độ trễ ngoài dài vì
nó phát huy tác dụng gián tiếp thông qua lãi suất, mức cung tiền rồi đến đầu tư,
tiêu dùng…
- Cơ chế tự ổn định của một số chính sách KTVM được thiết kế để làm
giảm độ trễ gắn với chính sách ổn định. Cơ chế tự ổn định là những chính
sách tự nó kích thích hoặc giảm nhiệt nền KT mà không cần có sự thay đổi
nào khác, như hệ thống thuế thu nhập tự động cắt giảm khi nền KT rơi vào
suy thoái mà không cần thay đổi luật thuế vì mọi người đóng thuế ít hơn khi


thu nhập của họ giảm. Hệ thống trợ cấp thất nghiệp tự động tăng lên khi có
nhiều người xin trợ cấp… Điều này sẽ kích thích tổng cầu, góp phần thu hẹp
biên độ của các chu kì KT.
2.2. Hệ thống chính sách kinh tế vĩ mô
2.2.1. Chính sách tài khóa
a. Khái niệm và mục tiêu của chính sách tài chính
- Chính sách tài chính là tổng thể các chủ trương, biện pháp, công cụ mà
nhà nước tác động vào quá trình hình thành, phát triển, huy động, quản lý và sử
dụng các nguồn vốn và tài sản của XH nhằm đạt các mục tiêu KTVM theo dự
kiến.
- MT tổng quát của chính sách tài chính là huy động và sử dụng có hiệu quả
các nguồn lực của XH để thúc đẩy SX phát triển; tăng tích luỹ để tạo vốn cho đầu
tư phát triển và giải quyết các mục tiêu KTXH khác; góp phần vào khống chế và
kiểm soát lạm phát. Có thể xem xét mục tiêu của chính sách này dưới hai khía
cạnh cụ thể là MT tài chính và mục tiêu KT.
+ Mục tiêu tài chính của chính sách tài chính là hình thành, ổn định và

làm lành mạnh hoá các thị trường tài chính; đồng thời nhằm tăng quy mô
nguồn tài chính một cách hợp lý, hiệu quả ở tất cả các khâu của hệ thống tài
chính.
+ Mục tiêu KT của chính sách tài chính là góp phần thực hiện tất cả các
mục tiêu KT vĩ mô: tăng trưởng bền vững, ổn định tỷ giá hối đoái, lạm phát
thấp, toàn dụng nhân lực, cân bằng cán cân thanh toán và bảo đảm công bằng
XH.
- Các công cụ của chính sách tài chính: Thuế và chi tiêu CP’ (G) để điều
tiết mức chi tiêu chung của nền KT (AD):
+ Thuế là nguồn thu chính của NS Nhà nước, là công cụ có tính chất
cưỡng chế nhằm tái phân phối thu nhập. Thông qua việc xác định đúng
nguyên tắc, phương pháp đánh thuế; hình thành cơ cấu giữa các loại thuế, sắc
thuế; xác định mức thuế suất và đối tượng chịu thuế mà Chính phủ sử dụng
chính sách thuế như là công cụ điều tiết nhằm thực hiện các mục tiêu KTVM.
+ Chi tiêu của Chính phủ là việc sử dụng ngân sách để thực hiện các
mục tiêu KTXH. Quy mô và mức độ chi tiêu phụ thuộc vào chức năng, nhiệm


vụ của Chính phủ trong từng thời kỳ và phụ thuộc vào việc thực hiện các mục
tiêu KTVM trong mỗi giai đoạn. Tác động của công cụ chi tiêu Chính phủ
phụ thuộc rất lớn vào hiệu quả của việc chi tiêu; gắn liền với việc giải quyết
hài hoà mối quan hệ giữa ba bộ phận trong cơ cấu chi là: chi thường xuyên,
chi cho đầu tư phát triển và chi trả nợ; đồng thời gắn liền với việc chống thất
thoát, lãng phí, làm phân tán nguồn lực đầu tư của Chính phủ.
+ Các công cụ khác như: vay nợ của Chính phủ, phát hành tiền để bù
đắp bội chi ngân sách. Vay nợ của CP gồm hai kênh: vay trong nước và
vay nước ngoài. Vay trong nước thường được sử dụng qua các hình thức
phát hành công trái, trái phiếu hoặc tín phiếu nhà nước. Vay nợ nước
ngoài thường được sử dụng là các khoản vay ODA thông qua các hiệp
định vay nợ đối với các chính phủ hoặc với các tổ chức KT Quốc tế.

b) Chính sách tài khóa lý thuyết và những nhân tố ảnh hưởng trong thực tiễn
- Chính sách tài khóa lý thuyết:
+ Cơ chế chủ động sử dụng các công cụ thuế và chi tiêu ngân sách để xác
lập sự ổn định và cân bằng kinh tế vĩ mô: Khi nền KT bị suy thoái hoặc tăng
trưởng quá nóng, chính phủ có thể sử dụng chính sách tài khoá nới lỏng hoặc
thắt chặt để đưa nền KT về mức sản lượng tiềm năng. Có thể mô tả cơ chế lan
truyền đó như sau:
Giả sử nền KT đạt mức sản lượng thấp, cần phải tăng tổng cầu (kích
cầu). Nếu dùng chính sách tài chính thì CP’ sẽ dùng chính sách tài chính sau đây:
Giảm thuế

Thu nhập tăng

tiêu dùng tăng

Đầu tư tăng

tổng cầu tăng

tổng cầu tăng
thất nghiệp giảm

Nếu nền kinh tế đang ở trạng thái tăng trưởng “ nóng ” thì lại phải giảm
tổng cầu bằng các cách sau:
* Hạn chế chi tiêu G

tổng cầu giảm

* Tăng thuế đánh vào sản xuất


thất nghiệp tăng

tổng cầu giảm

thất nghiệp

tăng
+ Cơ chế ổn định tự động: Khi KT bị suy thoái thì hệ thống thuế thu
nhập cá nhân và doanh nghiệp tự động giảm, đồng thời mức trợ cấp từ chính
phủ tự động tăng lên có tác dụng điều tiết tự động tổng cầu.


- Những nhân tố ảnh hưởng đến chính sách tài khoá trong thực tiễn:
+ Khó xác định chính xác liều lượng cần thiết của các chính sách tác động
do có sự khác nhau về quan điểm, phương pháp đánh giá các sự kiện KT...
(trong xác định số nhân chi tiêu của CP’, xác định mức thuế và đối tượng chịu
thuế...)
+ Độ trễ của chính sách tác động trong thực tế thường khá dài, nên các
quyết định đưa ra không đúng lúc có thể làm rối loạn thêm nền KT.
+ Hiệu quả của việc thực hiện chính sách tài khoá thông qua các dự án
công cộng thường kém hiệu quả so với đầu tư tư nhân.
c) Thâm hụt ngân sách và các biện pháp khắc phục
- Ngân sách nhà nước là tổng thể các kế hoạch chi tiêu và thu nhập hàng
năm của Chính phủ, bao gồm các khoản thu và chi ngân sách.
Hàm ngân sách giản đơn có dạng: B = -G + tY
(B: Cán cân ngân sách; G: Chi tiêu ngân sách; tY: Thu ngân sách).
Nếu cán cân ngân sách thăng bằng tại mức sản lượng tiềm năng ta có:
B = - G + tY = 0 nên tY = G
+ Vậy với bất cứ mức thu nhập hay sản lượng nào < sản lượng tiềm năng
thì ngân sách sẽ thâm hụt và > sản lượng tiềm năng thì ngân sách sẽ thặng dư.

+ Khi suy thoái, ngân sách thâm hụt, Chính phủ phải tăng thu, giảm chi
và tác động của nó đến nền KT là chính sách tài khoá thuận chiều. Hệ quả là
làm cho nền KT càng bị suy thoái hơn.
+ Ngược lại, khi nền KT suy thoái, ngân sách thâm hụt, Chính phủ tăng
chi, giảm thu gọi là chính sách tài khoá ngược chiều. Nhưng thông qua sự
khuyếch đại số nhân chi tiêu mà đẩy sản lượng đến mức sản lượng tiềm năng,
khi đó sự thâm hụt của ngân sách được bù lại nhờ sản lượng của nền KT tăng
lên.
- Vấn đề thâm hụt ngân sách: Thông thường thu ngân sách tăng trong
thời kì phồn thịnh và giảm trong thời kì suy thoái, trong khi chi ngân sách lại
tăng trong thời kì suy thoái và giảm trong thời kì phồn thịnh. Vì vậy, thâm hụt
ngân sách sẽ trầm trọng hơn trong thời kì suy thoái. Có 3 loại thâm hụt ngân
sách:
+ Thâm hụt ngân sách thực tế: là thâm hụt khi số chi thực tế > số thu


trong một thời kì nhất định.
+ Thâm hụt ngân sách cơ cấu: là thâm hụt tính toán trong trường hợp nền
KT hoạt động ở mức sản lượng tiềm năng.
+ Thâm hụt ngân sách chu kì: Là thâm hụt ngân sách bị động do tình
trạng của chu kì kinh doanh.
- Các biện pháp khắc phục thâm hụt ngân sách: Biện pháp cơ bản là tăng
thu, giảm chi, nhưng cần tính toán cụ thể tăng giảm thế nào để tránh bị thoái
lui đầu tư và ít ảnh hưởng đến tăng trưởng KT. Ngoài ra có thể có các biện
pháp tài trợ khác:
+ Vay nợ trong nước,
+ Vay nợ nước ngoài,
+ Sử dụng dự trữ ngoại tệ,
+ Vay ngân hàng (in tiền).
Mỗi giải pháp đều có ưu điểm và ảnh hưởng tiêu cực khác nhau đến

nền KT. Vấn đề là phải làm sao để hạn chế và trung hoà các ảnh hưởng này
để chúng không gây nên những tác động xấu đến việc thực hiện các mục
tiêu KTVM.
2.2.2. Chính sách tiền tệ
a. Khái niệm và mục tiêu của chính sách tiền tệ
* Chính sách tiền tệ là hệ thống biện pháp và công cụ của Nhà nước sử
dụng trong việc kiểm soát, chi phối, điều tiết quá trình cung và cầu về tiền tệ,
bảo đảm giữ ổn định giá trị đồng tiền quốc gia.
- Trong nền KTTT hiện đại, tiền được xem là một dạng tài sản tài
chính, biểu hiện dưới nhiều hình thức khác nhau: tiền giấy, tiền kim loại, tài
khoản ngân hàng, sổ tiết kiệm, trái phiếu, tín phiếu v.v... Không phải mọi loại
tiền đều có khả năng chuyển đổi dễ dàng. Khả năng này được xác định bởi
tính dễ dàng chuyển đổi từ một tài sản tài chính trở thành một phương tiện có
khả năng sẵn sàng được sử dụng cho việc mua bán hàng hoá, dịch vụ. Người
ta có thể phân chia các loại tiền theo tính chuyển đổi như sau:
+ M1: Tiền mặt và tiền gửi NH’ không thời hạn, còn gọi là tiền giao dịch
+ M2: Tiền tiết kiệm có kỳ hạn + M1
Hai loại M1 và M2 được nhiều nước coi là những đại lượng đo cung tiền


chủ yếu. Ngày nay với sự phát triển của hệ thống tài chính đã cho ra đời nhiều
loại tài sản tài chính khác như: Tín phiếu kho bạc, các giấy xác nhận tài chính
đối với tài sản hữu hình, các chấp nhận thanh toán của khách hàng
v.v....Chúng cũng có khả năng nhất định trong thanh toán và vì thế, tuỳ theo
tính dễ dàng chuyển đổi sang thanh toán mà được xếp vào các loại cung tiền
M3, M4,...
- Mức cung tiền tệ là một khái niệm được xác định bởi khối lượng tiền tệ
(M), có thể là M1 hoặc M2 v.v., bao gồm các loại tiền có khả năng thanh toán
cao nhất nhằm thoả mãn nhu cầu trao đổi, giao dịch thường xuyên của nền
kinh tế. Trên góc độ kinh tế vĩ mô người ta quan tâm nhiều hơn đến M1và M2.

Mức cung tiền tệ nhiều hay ít trong mỗi thời kỳ tuỳ thuộc vào sự tính
toán cuả Chính phủ nhằm đảm bảo đủ khối lượng tiền cần thiết cho các loại
hoạt động mua - bán, giao dịch. Nó tác động mạnh đến trạng thái hoạt động
của nền KT. Sự thay đổi mức cung tiền tệ liên quan đến sự thay đổi GNP.
Mối qhệ đó được xác định trong phương trình:
M.V = P.Q
Trong đó : M là mức cung tiền tệ , V là tốc độ lưu thông tiền tệ
P là mức giá trung bình, Q là sản lượng thực tế
Trên đồ thị biểu diễn đường cung tiền tệ (MS) thì nó có hình dáng thẳng
đứng, song song với trục tung (lãi suất i).
Chính phủ thực hiện sự kiểm soát mức cung tiền tệ thông qua vai trò của
Ngân hàng Trung ương (NHTW) và ngân hàng thương mại (NHTM)
- Mức cầu về tiền phản ánh nhu cầu về tiền của nền KT ứng với mỗi mức
lãi suất và thu nhập nhất định. Cầu về tiền là một hàm số phụ thuộc yếu tố lãi
suất (i) và thu nhập của dân cư. Trên đồ thị biểu diễn thị trường tiền tệ thì
đường cầu về tiền (MD) sẽ là đường có hình dáng dốc nghiêng về bên phải,
xuống dưới .

Trong đó: i là lãi suất ; i0: lãi suất cân bằng; MS : cung tiền tệ ; MD : cầu tiền tệ


Để sử dụng chính sách tiền tệ để tác động vào nền KT, Chính phủ sử
dụng 2 công cụ: lãi suất và kiểm soát mức cung tiền tệ để tác động vào AD
của nền KT.
* Mục tiêu của c/sách tiền tệ gồm có mục tiêu tiền tệ và mục tiêu KT:
Mục tiêu tiền tệ của chính sách tiền tệ là kiểm soát, điều hoà khối lượng tiền
tệ cung ứng cho nhu cầu hoạt động của nền KT; Kiểm soát mức độ sử dụng
các phương tiện thanh toán và giữ ổn định giá trị của đồng tiền quốc gia. Mục
tiêu KT của chính sách tiền tệ là nhằm thực hiện các mục tiêu KTVM như:
tăng trưởng bền vững, ổn định tỷ giá hối đoái, kiểm soát lạm phát, tạo việc

làm, cân bằng cán cân thanh toán quốc tế. Ngoài ra chính sách tiền tệ còn góp
phần thực hiện các mục tiêu KTXH khác như công bằng XH, ANQP...
b. Các công cụ chủ yếu của chính sách tiền tệ
- Công cụ lãi suất.
Mục tiêu chủ yếu của việc sử dụng công cụ lãi suất là tác động vào cầu
tiền tệ. Theo đó, lãi suất tăng hay giảm sẽ làm khối lượng cầu về tiền sẽ giảm
hay tăng. Từ đây sẽ tác động đến tổng cầu, sản lượng, việc làm.
Thí dụ : i tăng
đầu tư giảm
Tổng cầu giảm
thất nghiệp
tăng
- Các công cụ kiểm soát mức cung tiền tệ:
Chính phủ sử dụng công cụ kiểm soát mức cung tiền thông qua vai trò
của NHTW trong hệ thống ngân hàng 2 cấp, trong đó NHTW làm nhiệm vụ
quản lý Nhà nước về tiền tệ, là người cho vay cuối cùng (Ngân hàng của các
ngân hàng). Còn NHTM là các tổ chức kinh doanh tiền tệ. Để kiểm soát mức
cung tiền tệ, NHTW sử dụng 3 van điều tiết để làm giảm hay tăng MS, qua đó
tác động đến tổng cầu, sản lượng, việc làm.
+ Van 1 là tỷ lệ dự trữ bắt buộc (r b): Đó là tỷ lệ mà NHTW quy định bắt
buộc các NHTM khi có khoản tiền kinh doanh phải dành một phần nhỏ tiền
không được đưa vào kinh doanh lấy lãi. Tuỳ theo loại tiền gửi và quy mô của
chúng mà NHTW quy định những tỷ lệ dự trữ bắt buộc khác nhau. Một phần
tiền dự trữ được giữ lại ngân hàng dưới dạng tiền mặt nhưng không được kinh
doanh; còn một phần phải đưa vào tài khoản của mình tại NHTW. Khi thay
đổi quy mô của tỷ lệ này, NHTW đã khống chế một cách gián tiếp đến mức
cung tiền.
Thí dụ: Khi NHTW tăng rb, NHTM có ít tiền để cho vay, do đó hạn chế



cho vay, làm cho MS giảm  lãi suất i sẽ tăng  đầu tư sẽ giảm, Tổng cầu
giảm, sản lượng giảm và thất nghiệp tăng.
+ Van 2 là lãi suất chiết khấu (id). Đó là lãi suất quy định của NHTW
khi cho các NHTM vay tiền để đảm bảo có đủ hoặc tăng thêm dự trữ của các
NHTM. Khi id giảm so với lãi suất thị trường thì khuyến khích các NHTM
vay tiền để rồi mở rộng cho vay, làm tăng MS dẫn đến lãi suất giảm, đầu tư
tăng, tổng cầu tăng, sản lượng tăng, việc làm tăng.
+ Van 3: Nghiệp vụ thị trường mở. Đó là việc NHTW tiến hành mua,
bán trái phiếu, tín phiếu kho bạc NN và các CK ngắn hạn khác với các
NHTM. Muốn tăng MS, NHTW sẽ mua trái phiếu ở thị trường mở, qua đó
NHTW đưa thêm tiền vào dự trữ của các NHTM, làm tăng khả năng cho vay
của các NHTM, dẫn đến MS tăng, lãi suất giảm, đầu tư tăng, AD và sản lượng
tăng, thất nghiệp giảm.
c) Hướng tác động của chính sách tiền tệ:
- Chính sách tiền tệ nới lỏng được vận dụng khi cần mở rộng SX kinh
doanh, kích cầu tiêu dùng và đầu tư, chống suy thoái KT.
- Chính sách tiền tệ thắt chặt được sử dụng khi nền KT tăng trưởng quá
nóng, lạm phát tăng cao, cần phải kiềm chế lạm phát, hạn chế đầu tư, thu hẹp
chi tiêu của toàn bộ nền KT.
2.2.3. Chính sách thu nhập
a) Mục tiêu và nguyên lí của chính sách thu nhập
Mục tiêu của chính sách thu nhập là bảo đảm công bằng cho XH. Trong nền
KTTT, việc phân phối dưa trên nguyên tắc đóng góp nguồn lực của mỗi chủ thể
vào quá trình SXKD (Vốn, LĐ, đất đai tài nguyên...), đồng thời chịu sự điều tiết ở
mức độ nhất định của chính phủ để bảo đảm thu nhập của các đối tượng còn lại
trong XH.
b) Chính sách thu nhập và công cụ cơ bản của chính sách thu nhập
- Chính sách thu nhập là hệ thống các biện pháp, công cụ mà chính phủ
sử dụng nhằm tác động trực tiếp đến giá cả, tiền công để kiềm chế lạm phát
và bảo đảm công bằng XH.

- Các công cụ cơ bản gồm:
+ Công cụ hành chính: như các luật lệ, chỉ thị về mức tiền lương tối thiểu,
ấn định giá cả trực tiếp của nhà nước…


+ Công cụ KT: như điều tiết qua thuế thu nhập luỹ tiến đối với những
người có thu nhập cao… Trợ cấp, bảo hiểm đối với những người có thu nhập
thấp…
2.2.4. Chính sách kinh tế quốc tế
a) Nội dung cơ bản của chính sách kinh tế quốc tế
Trọng tâm của chính sách KT quốc tế là chính sách ngoại hối và tỉ giá
hối đoái là các biện pháp giữ cho thị trường ngoại hối thăng bằng cùng với
các biện pháp bảo hộ mậu dịch và các biện pháp tài chính tiền tệ phối hợp với
tỉ giá hối đoái tác động vào xuất khẩu, đầu tư để thúc đẩy tăng năng suất LĐ,
hiệu quả KT.
b) Mục tiêu của chính sách kinh tế quốc tế
Mục tiêu của chính sách KT quốc tế là ổn định tỉ giá hối đoái, bảo đảm
ổn định giá trị đồng nội tệ và có khả năng chuyển đổi quốc tế; giữ cho cán cân
thanh toán thăng bằng; bảo tăng trưởng ổn định, giải quyết việc làm và mở
rộng các quan hệ KT quốc tế, tăng cường địa vị KT quốc gia…
c) Hệ thống của chính sách kinh tế quốc tế
Đó là hệ thống các giải pháp giữ cho thị trường hối đoái và thị trường
thăng bằng ổn định để thúc đẩy thương mại và đầu tư quốc tế phát triển:
- Tạo ra lượng dự tữ ngoại tệ của quốc gia thích hợp.
- Mua bán ngoại tệ trên thị trường ngoại hối.
- Lập ra hệ thống tín dụng bằng ngoại tệ ở các ngân hàng thương mại.
- Mua bán chứng khoán bằng ngoại tệ…
- Lập thị trường chứng khoánvà nối liền chúng với các trung tâm chứng
khoán và giao dịch quốc tế khác…
2.2.5. Sự phối hợp giữa chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ

Các chính sách tài chính và tiền tệ đều tác động trực tiếp đến C, I, G,
NX… qua đó tác động đến AD và điều chỉnh sản lượng thực tế gần sát với
sản lượng tiềm năng. Tuy nhiên, hiệu quả tác động của mỗi chính sách đối với
mỗi mục tiêu KTVM là khác nhau, thậm chí triệt tiêu lẫn nhau nên cần phải
phối chặt chẽ hai chính sách quan trọng này với nhau. Về lí thuyết, có thể xây
dựng thành các cặp chính sách có cùng mục tiêu:
- Khi AD ở mức thấp, có thể dùng chính sách tài chính và tiền tệ nới


lỏng (MR) làm dịch chuyển AD sang phải gần với mức sản lượng tiềm năng.
- Khi AD ở mức cao, thì sử dụng chính sách tài khoá và tiền tệ thắt chặt
làm giảm AD, hạn chế tăng sản lượng.
- Khi AD ổn định, có thể dùng chính sách tiền tệ thắt chặt và chính sách
tài khoá mở rộng hoặc ngược lại nhằm làm cho AD ổn định, nhưng C,I tăng,
G giảm có lợi cho tăng trưởng và chống thất nghiệp trong tương lai.
* * *



×