Tải bản đầy đủ (.doc) (32 trang)

TÀI LIỆU THAM KHẢO LÍ LUẬN về TUẦN HOÀN CHU CHUYỂN tư BẢN VÀ vấn đề vốn CHO CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN đại HÓA ở nước TA HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (235.59 KB, 32 trang )

LÝ LUẬN VỀ TUẦN HOÀN CHU CHUYỂN TƯ BẢN
VÀ VẤN ĐỀ VỐN CHO CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA
Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
* * *
I. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1. Vị trí của lý luận tuần hoàn và chu chuyển tư bản trong bộ Tư
bản của C.Mác.
Tái sản xuất bao giờ cũng là sự thống nhất biện chứng giữa quá trình sản
xuất và quá trình lưu thông. Trong chủ nghĩa tư bản, thống nhất quá trình sản
xuất và quá trình lưu thông cũng tức là thống nhất quá trình sản xuất ra giá trị
thặng dư và quá trình thực hiện giá trị thặng dư. Vì vậy, nghiên cứu lưu thông
tư bản để thấy rõ vị trí quan trọng của lưu thông, để hiểu đầy đủ sự vận động
của tư bản. Quyển I nghiên cứu bản chất quá trình sản xuất và tích lũy giá trị
thặng dư. Nhưng giá trị thặng dư chỉ có thể biểu hiện ra ở lợi nhuận và vấn đề
lợi nhuận được nghiên cứu ở quyển III. Còn những tiền đề cho quá trình
chuyển hóa giá trị thặng dư thành lợi nhuận trong lưu thông, khi giá trị thặng
dư được thực hiện trong lưu thông, thì được nghiên cứu ở quyển II.
Nghiên cứu tuần hoàn và chu chuyển của tư bản cho thấy vai trò của lưu
thông, ảnh hưởng của lưu thông đối với sản xuất, hiệu quả hoạt động của tư
bản. Đó là cơ sở đẻ giải thích những hiện tượng thực tiễn trong đời sống kinh
tế trên cơ sở lý luận giá trị lao động, là cơ sở chuẩn bị cho việc phân tích và
hiểu sự chuyển hóa giá trị thặng dư thành lợi nhuận và tỷ suất giá trị thặng dư
thành tỷ suất lợi nhuận, giá cả sản xuất và sự phân chia giá trị thặng dư giữa
các tập đoàn tư bản.
Khi nghiên cứu lưu thông của tư của tư bản thì bản chất của giá trị thặng
dư bị che đậy, bị xuyên tạc: giá trị thặng dư biểu hiện ra bên ngoài thành kết
quả của cả sản xuất và lưu thông, biểu hiện thành lợi nhuận. Tuy quyển II
chưa nghiên cứu giá trị thặng dư dưới hình thái chuyển hóa của nó là lợi


nhuận, song đã nêu lên điều kiện cơ bản của sự chuyển hóa đó. Từ đó nảy


sinh các phạm trù mới như tỷ suất giá trị thặng dư hàng năm...
Tư bản về mặt là sự vận động đã che đậy tư bản về mặt là quan hệ sản
xuất, quan hệ giai cấp, khi giá trị thặng dư biểu hiện ra bên ngoài là con đẻ
của cả sản xuất và lưu thông.
Như vậy, quyển II vừa sự tiếp tục quyển I, vừa là sự chuẩn bị cho quyển
III và là cầu nối giữa quyển I và quyển III.
2. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu
Quyển II có ba phần:
Phần thứ nhất: Những biến hóa hình thái của tư bản và tuần hoàn của
những biến hóa hình thái ấy.
Phần thứ hai: Chu chuyển của tư bản.
Hai phần này tạo thành lý luận tuần hoàn và chu chuyển của tư bản,
nghiên cứu lưu thông của tư bản cá biệt.
Phần thứ ba: Sự tái sản xuất và lưu thông của tổng tư bản xã hội.
Phần này tạo thành lý luận về tái sản xuất tư bản xã hội, nghiên cứu lưu
thông của tổng tư bản xã hội.
Sự vận động hiện thực của tư bản là sự thống nhất biện chứng của quá
trình sản xuất và quá trình lưu thông. Quá trình sản xuất tư bản là đối tượng
nghiên cứu của quyển I, còn quá trình lưu thông tư bản là đối tượng nghiên
cứu của quyển II. Nhiệm vụ của quyển I là phát hiện các quan hệ giai cấp bị
che lấp đằng sau sự vận động của tư bản, còn nhiệm vụ của quyển II là vạch
rõ đặc điểm của sự vận động của tư bản quá trình lưu thông tư bản mà trong
đó các quan hệ giai cấp biểu hiện ra.
Sử dụng phương pháp trừu tượng hóa khoa học mỗi mặt của thể thống
nhất sản xuất và lưu thông được nghiên cứu một cách tương đối độc lập, lại
vừa được nghiên cứu trong mối quan hệ phụ thuộc lẫn nhau, vì tư bản về mặt
quan hệ giai cấp và tư bản là sự vận động, hai mặt đó không tách rời nhau.
Việc nghiên cứu đi từ sản xuất đến lưu thông là đi dần từ trừu tượng đến
cụ thể để làm rõ sự vận động hiện thực của tư bản.



Đối tượng nghiên cứu của chuyên đề này và cũng là của quyển II là lưu
thông tư bản, chứ không phải lưu thông hàng hóa thông thường (mặc dù biểu
hiện của nó cũng chỉ là sự lưu thông hàng hóa và tiền tệ).
Lưu thông tư bản là toàn bộ sự vận động của giá trị tư bản trong quá
trình hoạt động, nhờ đó nó lớn lên và thu được giá trị thặng dư.
Lưu thông hàng hóa thông thường đã được nghiên cứu trong quyển I,
phần thứ nhất, đặc biệt là chương III “Tiền tệ hay lưu thông hàng hóa”. Đó
chỉ là quá trình chuyển hóa hình thái của giá trị từ H thành T hay ngược lại T
thành H. Lưu thông hàng hóa thông thường có trước lưu thông tư bản, không
những về mặt lịch sử mà cả về mặt lôgíc.
Lý luận tuần hoàn và chu chuyển tư bản nghiên cứu lưu thông của tư
bản cá biệt, còn lý luận tái sản xuất tư bản xã hội nghiên cứu lưu thông của
tổng tư bản xã hội. Như vậy, C.Mác đã sử dụng phương pháp đi từ phân tích
tới tổng hợp, từ trừu tượng tới cụ thể trong nghiên cứu.
Lý luận tuần hoàn và chu chuyển của tư bản nghiên cứu lưu thông của tư
bản cá biệt hay sự vận động của tư bản cá biệt nhằm làm rõ những hình thái mới,
những tính qui định mới của tư bản, chỉ bộc lộ trong quá trình vận động, quá trình
lưu thông, mà khi nghiên cứu quá trình sản xuất của tư bản không thể thấy được.
Lý luận tuần hoàn tư bản nghiên cứu hình thái vận động của tư bản, các
giai đoạn và các hình thái của tư bản trong quá trình vận động, tức nghiên cứu
mặt chất vận động của tư bản.
Còn lý luận chu chuyển tư bản nghiên cứu thời gian và tốc độ vận động
của tư bản, những nhân tố ảnh hưởng tới thời gian và tốc độ vận động đó, ảnh
hưởng của tốc độ vận động của tư bản đối với hiệu quả hoạt động của tư bản,
tức nghiên cứu mặt lượng vận động của tư bản. Vận động của tư bản được
nghiên cứu từ mặt chất tới mặt lượng.
Trong phần thứ hai, quyển I “Sự chuyển hóa của tiền thành tư bản”, C.Mác
cũng đã đề cập đến lưu thông tư bản, nhưng chỉ được nghiên cứu ở mức độ cần
thiết đẻ hiểu được giai đoạn thứ hai, tức là quá trình sản xuất của tư bản1.

1, 2. C.Mác và Ph.Ăng ghen, toàn tập, Nxb CTQG, Hà nội, 1994, t.24. tr.46.

1


Đến quyển II, khi nghiên cứu tư bản về mặt là sự vận động, quá trình sản
xuất của tư bản cũng chỉ được nghiên cứu trong mức độ cần thiết để hiểu quá
thái mà tư bản lần lượt khoác lấy rồi lại trút bỏ đi trong khi lặp đi lặp lại tuần
hoàn của nó2.
Nhưng sự vận động của tư bản không chỉ đóng khung ở các giai đoạn
lưu thông, mà còn bao gồm cả giai đoạn sản xuất, tức là bao gồm toàn bộ tuần
hoàn của tư bản.
II. NỘI DUNG CỦA LÝ LUẬN TUẦN HOÀN VÀ CHU CHUYỂN
CỦA TƯ BẢN.
2.1. Tuần hoàn của tư bản và những biến hóa hình thái của tư bản
và tuần hoàn của những biến hóa hình thái ấy
* Tuần hoàn của tư bản
Để hiểu quá trình lưu thông tư bản, với phương pháp trừu tượng hóa
khoa học, khi nghiên cứu C.Mác đã gạt bỏ tất cả những yếu tố hoàn toàn
không liên quan gì đến bản thân sự thay thế và hình thành bản thân các hình
thái3. Vì thế, ở đây C.Mác đã giả định: Hàng hóa được bản theo đúng giá trị
của nó; mọi việc trao đổi mua bán đều tiến hành một cách trôi chảy; cấu tạo
hữu cơ của tư bản không thay đổi; tốc độ lưu thông không đổi trong suốt quá
trình tuần hoàn; tư bản được nghiên cứu ở đây là tư bản công nghiệp. Công
nghiệp với ý nghĩa bao quát mọi ngành sản xuất vật chất kinh doanh theo
phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa.
* Những biến hóa hình thái của tư bản và tuần hoàn của những biến
hóa hình thái ấy
Tuần hoàn của tư bản nghiên cứu sự vận động của tư bản cá biệt. Trong
sự vận động của mình, tư bản lần lượt mang những hình thái khác nhau, mà

nó khoác lấy rồi lại trút bỏ đi trong quá trình lặp lại sự tuần hoàn của nó.
Các hình thái của tư bản là tư bản tiền tệ, tư bản sản xuất, tư bản hàng
hóa. Đã là giá trị tư bản thì tư bản phải ở một trong ba hình thái đó và chỉ ở
trong một hình thái nào đó trong một thời gian nhất định.
2
3

Sđd, tr.46.


Nói tư bản là sự vận động có nghĩa là thế nào? Nghĩa là tư bản luôn
khoác lấy hình thái này, rồi trút bỏ đi để chuyển sang hình thái khác. Nhưng
sự vận động của tư bản là sự vận động vòng tròn và liên tục. Những vòng
tuần hoàn không ngừng nối tiếp nhau. Vì vậy, mỗi biến hóa hình thái tư bản
có thể vừa là điểm bắt đầu, vừa là điểm giữa, vừa là điểm kết thúc của quá
trình vận động liên tục của tư bản và quá trình vận động liên tục của tư bản
đều phải trải qua ba hình thái đó.
2.1.1. Tuần hoàn của tư bản tiền tệ
Điểm xuất phát của tư bản nói chung là tiền, cho nền nghiên cứu tuần
hoàn của tư bản, C.Mác bắt đầu nghiên cứu tuần hoàn của tư bản tiền tệ là
hợp lô gíc và lịch sử.
Mục đích của việc việc nghiên cứu vấn đề này là vạch rõ sự biểu hiện
của quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa qua hình thái vật thể trong sự vận động
của tư bản. Cũng trong phần này, CMác vạch rõ: Đây là hình thái chung nhất,
đồng thời là hình thái phiến diện nhất, nổi bật nhất nêu rõ động cơ, mục đích
vận động của tư bản công nghiệp là giá trị tăng thêm, là tiền đẻ ra tiền.
Để làm rõ những vấn đề đó, C.Mác đã kết hợp phân tích cái chung, đặc
điểm chung cho tất cả các hình thái tuần hoàn, đồng thời chú ý phân tích đặc
điểm riêng của tuần hoàn tư bản tiền tệ.
Từ công thức chung của tư bản (T - H ... SX ... H - T’) nghiên cứu ở

quyển I, ta thấy giá trị của tư bản vận động qua ba giai đoạn:
Giai đoạn 1: Giai đoạn mua, thực hiện hành vi T - H.
Giai đoạn 2: Giai đoạn sản xuất, nhà tư bản tiêu dùng sản xuất những
hàng hóa đã mua.
Giai đoạn 3: Giai đoạn bán, thực hiện hành vi H - T..
Cũng theo đó, giá trị của tư bản lần lượt được biểu hiện ở ba hình thái:
T, SX, H. Mọi tư bản đều ở một trong ba hình thái nói trên, không ở ngoài ba
hình thái đó. Mối hình thái thực hiện một chức năng nhất định để đạt được
mục đích chung của sự vận động là giá trị tăng thêm giá trị. Sau đây, chúng ta
lần lượt nghiên cứu từng giai đoạn và sự biến hóa hình thái của tư bản.


* Giai đoạn 1: Giai đoạn mua, thực hiện hành vi T - H
Giai đoạn mua, thực hiện hành vi T - H trong vòng tuần hoàn tư bản tiền tệ
là biểu hiện một quan hệ mới về chất. Quan hệ mới về chất đó do đâu mà ra?
T - H, việc chuyển T thành H. Hành vi chung của lưu thông hàng hóa trở
thành một giai đoạn trong tuần hoàn của tư bản, hay T trở thành tư bản, bởi vì
trong số hàng hóa mà tiền chuyển hóa thành thì cùng với tư liệu sản xuất có
một hàng hóa đặc biệt là hàng hóa sức lao động (H - SLĐ).
Nghĩa là bản thân việc mua hàng hóa, hay bản thân chức năng lưu thông
của tiền, không làm cho tiền thành tư bản, không làm cho T - H thành một
giai đoạn của tuần hoàn tư bản. T chỉ trở thành tư bản, hay hành vi T - H chỉ
trở thành một giai đoạn của tuần hoàn tư bản, khi trong số hàng hóa mà T
mua được phải có một hàng hóa đặc biệt (hàng hóa sức lao động).
Như vậy, trong nội dung vật chất của hành vi T - H ( TLSX, SLĐ) thì T
SLĐ là đặc trưng tư bản chủ nghĩa ở giai đoạn mua. Nhưng đặc trưng tư bản chủ
nghĩa không phải ở chỗ có thể mua được sức lao động bằng tiền, mà là do quan
hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa đã làm cho sức lao động biến thành hàng hóa trước
khi dùng T mua được nó, vì khi sức lao động đã trở thành hàng hóa thì việc mua
hàng hóa sức lao động chẳng khác gì việc mua các hàng hóa khác.

Ở đây không phải bản chất của T đẻ ra mối quan hệ tư bản chủ nghĩa;
trái lại, chính sự tồn tại của quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa mới làm cho T
trở thành tư bản. Nghĩa là chính trên cơ sở tư liệu sản xuất và sức lao động bị
tách rời nhau; quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa; quan hệ giữa giai cấp tư sản
và lao động làm thuê đã có, thì tiền của nhà tư bản ứng ra để thực hiện hành
vi T - H mới là tư bản tiền tệ, hay nói chính xác hơn là khoác áo tư bản tiền
tệ. Càn lưu ý: không phải mọi khoản tiền đều là tư bản tiền tệ, mà chỉ có T
nào tham gia vào sự vận động của tư bản, thì T đó mới trở thành tư bản.
Hành vi T - SLĐ là hành vi đặc trưng để T mang quan hệ tư bản chủ
nghĩa, T - SLĐ là điều kiện để T chuyển hóa thành tư bản.
Sơ đồ:
QHSX tư bản chủ nghĩa

hai điều kiện để sức lao động trở thành hàng


hóa

T trở thành tư bản và T - H

TLSX

một giai đoạn tuần hoàn của

SLĐ
tư bản. Hành vi T - H (TLSX, SLĐ) là sự phân phối các yếu tố sản xuất,
nhưng dưới chủ nghĩa tư bản chứa đựng một mâu thuẫn: một bên tập trung
các yếu tố cho quá trình sản xuất, một bên sức lao động bị tách tư liệu sản
xuất do quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa chi phối.
Trên đây đã nói về mặt chất của hành vi mua T - H, giai đoạn mua. Sau

đây chúng ta sẽ nghiên cứu đến mặt lượng. Mặt lượng có hai khía cạnh:
- Tư liệu sản xuất và sức lao động mà nhà tư bản mua trên thị trường
phải phù hợp với hàng hóa mà nhà tư bản định chế tạo hay sản xuất.
- Giữa tư liệu sản xuất và sức lao động phải theo một tỷ lệ thích hợp với
nhau về mặt số lượng để sử dụng có hiệu quả tư liệu sản xuất và sức lao động, để
số tư liệu sản xuất đủ nhằm sử dụng hết số sức lao động đã mua và ngược lại.
Khi hành vi T - H ( TLSX, SLĐ) hoàn thành giá trị tư bản ban đầu tồn
tại dưới hình thức T, là tư bản tiền tệ, bây giờ tồn tại dưới hình thái hiện vật,
các yếu tố của sản xuất, là tư bản sản xuất. Nghĩa là kết thúc giai đoạn 1: tư
bản tiền tệ đã chuyển hóa thành tư bản sản xuất.
* Giai đoạn 2: Giai đoạn sản xuất, thực hiện chức năng của tư bản
sản xuất
Do sự chuyển hóa của tư bản tiền tệ thành tư bản sản xuất, nó không thể
tiếp tục lưu thông được nữa, mà phải đi vào tiêu dùng sản xuất. Nhà tư bản
không thể đem công nhân bán lại, vì nhà tư bản chỉ mua quyền sử dụng sức
lao động của công nhân trong một thời kỳ nhất định thôi. Như vậy, kết quả
của giai đoạn thứ nhất là bước vào giai đoạn thứ hai, giai đoạn sản xuất của tư
bản, biểu hiện bằng công thức: T - H (TLSX, SLĐ) ... SX - H’
Sản xuất nói chung và sản xuất tư bản chủ nghĩa nói riêng bao giờ cũng
là sự kết hợp của hai yếu tố: tư liệu sản xuất và sức lao động. Nhưng tại sao ở
đây lại là sản xuất tư bản chủ nghĩa và tại sao sản xuất ở đây lại là một giai
đoạn của tuần hoàn tư bản? Vì:
- Nét đặc trưng tư bản chủ nghĩa ở giai đoạn này là ở chỗ: Trước khi


bước vào sản xuất hai yếu tố sức lao động và tư liệu sản xuất tách rời nhau và
là những nhân tố trong trạng thái khả năng, muốn sản xuất thì hai yếu tố đó
phải được kết hợp với nhau, nhà tư bản có công là đã ứng tư bản của mình ra
để thực hiện sự kết hợp hai yếu tố này. Tư bản được ứng ra mua hai yếu tố đó
rồi kết hợp lại trong xí nghiệp tư bản chủ nghĩa.

Từ chỗ tư liệu sản xuất và sức lao động là những hàng hóa trôi nổi trên
thị trường chưa phải là tư bản, sau khi kết thúc giai đoạn 1 (T - H ), giờ đây
sức lao động và tư liệu sản xuất trở thành hình thái tồn tại của giá trị tư bản
ứng trước, được phân thành những yếu tố khác nhau của tư liệu sản xuất. Quá
trình sản xuất ở xã hội tư bản chủ nghĩa đòi hỏi phải có sự vận động của tư
bản, chức năng sản xuất ở đây, trở thành một chức năng của tư bản. Chức
năng tư bản sản xuất chính là chức năng tạo ra giá trị thặng dư, vì quá trình
sản xuất tư bản chủ nghĩa là quá trình tiêu dùng các thành phần của bản thân
(sức lao động, tư liệu sản xuất) để tạo ra giá trị sử dụng mới và một giá trị
mới lớn hơn. Như vậy ở đây, tiến hành sản xuất không phải là hàng hóa, mà là
hàng hóa chứa đựng giá trị thặng dư (m), tức là:
H = Giá trị của tư bản sản xuất + giá trị thặng dư.
Kết thúc giai đoạn 1 (T - H), thì tư liệu sản xuất và sức lao động không
còn đơn thuần là các yếu tố của sản xuất, mà chúng đã mang trong mình giá
trị tư bản ứng trước, chúng đã trở thành hình thái tư bản sản xuất của tư bản.
- Tính chất và phương thức kết hợp hai yếu tố sản xuất là cái để phân biệt
các thời kỳ kinh tế khác nhau. Trong chủ nghĩa tư bản, phương thức đặc thù kết
hợp hai yếu tố này do tư bản thực hiện không chỉ là kết quả, mà còn là yêu cầu
của sự vận động của tư bản. Trong chủ nghĩa tư bản, sự kết hợp hai yếu tố thực
hiện trong tay nhà tư bản với tư cách là hình thái tồn tại có tính chất sản xuất của
tư bản.

Vì vậy, quá trình sản xuất ở đây trở thành một chức năng của tư

bản, trở thành quá trình sản xuất tư bản chủ nghĩa, thực hiện một giai đoạn tuần
hoàn của tư bản.

Vì giá trị tư bản buộc phải đi qua giai đoạn này để T tự

lớn lên.

Nói cách khác: Quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa sức lao động trở


thành hàng hóa sản xuất hàng hóa trở thành sản xuất hàng hóa tư bản chủ
nghĩa. C.Mác nhấn mạnh: cũng chính những hoàn cảnh tạo ra điều kiện cơ
bản của sản xuất tư bản chủ nghĩa tức là sự tồn tại của một giai cấp công
nhân làm thuê giúp cho toàn bộ nền sản xuất hàng hóa chuyển thành sản xuất
hàng hóa tư bản chủ nghĩa4.
T - SLĐ không những làm cho sản xuất hàng hóa trở thành sản xuất
hàng hóa tư bản chủ nghĩa, mà còn đòi hỏi lưu thông hàng hóa ở trình độ cao
hành và qui mô của nó phải rộng. Bởi vì T - SLĐ đòi hỏi phải có tư liệu tiêu
dùng để sản xuất và tái sản xuất sức lao động một yếu tố của sản xuất tư bản
chủ nghĩa. Từ đó, lại thúc đẩy sản xuất tư bản chủ nghĩa phát triển.
Nghĩa là, bản thân sản xuất tư bản chủ nghĩa lấy sản phẩm hàng hóa
được sản xuất ra trong quá trình sản xuất tư bản chủ nghĩa để theo đuổi giá trị
thặng dư. Khi sản xuất và lao động làm thuê trở thành phổ biến, thì sản xuất
hàng hóa đã đạt đến trình độ cao, qui mô rộng lớn và phổ biến và khi đó sản
xuất hàng hóa trở thành sản xuất hàng hóa tư bản chủ nghĩa.
Kết quả của giai đoạn này là: kết thúc giai đoạn 2, tư bản sản xuất biến
hóa thành tư bản hàng hóa.
* Giai đoạn 3: Giai đoạn bán, thực hiện hành vi H - T’
Kết thúc giai đoạn 2: Giá trị tư bản từ hình thái tư bản sản xuất biến
thành hình thái tư bản hàng hóa và tư bản chưa thể ngừng vận động vì giá trị
tư bản đang tồn tại dưới hình thức H cần phải đem bán để thu T về.
Nhưng tại sao ở đây, lưu thông hàng hóa trở thành một chức năng của tư
bản? H - T trở thành một giai đoạn tuần hoàn của tư bản? Bởi vì, giống như
mọi hàng hóa, H trong chủ nghĩa tư bản được ném vào lưu thông cũng chỉ
thực hiện chức năng thông thường của H là đem bán để lấy T nhằm thực hiện
giá trị hàng hóa.
Đặc trưng tư bản chủ nghĩa là ở chỗ: ngoài việc thực hiện giá trị H, chức

năng quan trọng hơn của tư bản hàng hóa là thực hiện giá trị thặng dư được
tạo ra trong sản xuất. Vừa mới được sản xuất ra, hàng hóa đã là tư bản hàng hóa
4

Sđd, tr. 61.


với tư cách là hình thái tồn tại chức năng của giá trị tư bản đã tăng thêm giá trị vì
ngay sau khi sản xuất, nó đã là H có giá trị = giá trị tư bản ứng trước + giá trị
thặng dư.
Cần phải đặc biệt lưu ý rằng: H chỉ có thể làm chức năng tư bản chừng
nào mà trước khi đi vào lưu thông, nó đã mang tính chất tư bản, đã có sẵn từ
trong quá trình sản xuất. H trở thành H là do lượng giá trị của H lớn hơn giá
trị của tư bản sản xuất (hàng hóa) đã tiêu dùng khi sinh ra nó (H = H + h)
Nên khi tiến hành trao đổi theo đúng nguyên tắc ngang giá thì H cũng
thu về được T nghĩa là thu được số t trội hơn số tiền ứng ra ban đầu.
H
H

T
-

h

T
t

Chính chức năng thực hiện giá trị thặng dư này (h - t) đã làm cho hành
vi H - T trở thành một giai đoạn tuần hoàn của tư bản.
Để làm rõ những điều trình bày trên, C.Mác xét H và T:

Xét H’: H là tư bản hàng hóa và lưu thông hàng hóa trở thành một chức
năng của tư bản. H trở thành tư bản là do quá trình sản xuất tư bản chủ nghĩa
sinh ra tư bản hàng hóa, vì lượng giá trị của H lớn hơn lượng giá trị H. Như
vậy H là kết quả của quá trình sản xuất tư bản chủ nghĩa và trở thành tư bản
hàng hóa là do quan hệ bên trong, chứ không phải xét lượng tuyệt đối. Nghĩa
là: So sánh lượng giá trị của H với lượng tư bản ứng ra H, phải xét H trong
vòng tuần hoàn của tư bản thì mới thấy H là tư bản hàng hóa.
Dưới hình thái tư bản hàng hóa thì nhất thiết phải biến H thành T’, thực
hiện giá trị H. Ngoài ra, việc bán H còn để thực hiện giá trị thặng dư ở trong
đó, chính điều này làm cho lưu thông hàng hóa trở thành một chức năng của
tư bản. H - T trở thành một giai đoạn tuần hoàn của tư bản.
H = H + h (giá trị tư bản ứng trước + giá trị thặng dư). Nhưng không
phải lúc nào cũng chia H = H + h được mà bản thân H bao gồm cả H và h.
Song, về mặt sư phạm để phân tích ta chia H = H + h.
H

T


H

- T’
h

t

Hành vi h - t là hành vi của giá trị mới bắt đầu đi vào lưu thông (lần đầu
tiên đi vào lưu thông: hoặc là lưu thông hàng hoá giản đơn nếu nhà tư bản tiêu
dùng cá nhân hết giá trị thặng dư, hoặc là lưu thông tư bản nếu một phần giá
trị thặng dư tích luỹ cho tái sản xuất mở rộng).

Xét T’: T quay trở về hình thái T như hình thái ban đầu, nhưng lớn hơn.
Tức là có sự chênh lệch về lượng. Đồng thời, biểu thị một quan hệ mới về
chất. Nếu H - T được thực hiện, thì vòng tuần hoàn kết thúc: lượng đã biến
đổi T > T, còn hình thái thì không biến đổi (tư bản tiền tệ).
T = T + t còn biểu thị một quan hệ mới về chất: T thành tư bản vì nó là
quan hệ giữa T và t. Xét mối quan hệ bên trong ở chỗ: Cái mà đối với giá trị
thặng dư là sự chuyển hoá đầu tiên từ hình thái H sang hình thái T (h - t), thì
đối với giá trị tư bản lại là bước quay trở lại hay sự chuyển hoá trở lại hình
thái T lúc ban đầu của nó (H - T). Bên ngoài thì T và t đều là tiền, không phân
biệt về chất. Ở đây, quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa hoàn toàn bị che giấu:
Việc T lớn thành T như thế nào hoàn toàn không rõ, mà chỉ thấy kết quả cuối
cùng là T một lượng T lớn hơn tiền ứng ra ban đầu.
Trong hai nhân tố H và T thì H thấy hợp lý hơn T’, vì H đi từ sản xuất
mà ra, còn T chỉ là kết quả thực hiện H mà có, T từ lưu thông mà ra. Vì thế
khó thấy quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa trong T.
Vậy T biến thành tư bản như thế nào ?
Về hình thức: T và T là hai lượng khác nhau, song đồng chất. Nhưng xét
thêm sự biến đổi thì T đã khác T về chất. T là tiền ứng ra, được C.Mác gọi là
tư bản tiền tệ (hay khoác áo tư bản tiền tệ), còn T thì bản thân nó đã là tư bản
tiền tệ rồi. Trong quyển I, C.Mác khẳng định: Việc bán hàng hoá là bước
nhảy quan trọng nhất. Nếu hành vi H - T mà hoàn thành, thì thực hiện được cả
giá trị tư bản lẫn giá trị thặng dư. Do đó, số lượng hàng hoá bán ra, trở thành
một điều kiện rất quan trọng. Nó qui định qui mô tái sản xuất sẽ mở rộng hay
thu hẹp. Điều đó cho thấy vai trò quan trọng của lưu thông.


Kết thúc giai đoạn 3: Giá trị tư bản từ hình thái tư bản hàng hoá biến
thành tư bản tiền tệ. Và chính vì hình thái ban đầu và hình thái cuối cùng của
vòng tuần hoàn đều là hình thái tư bản tiền tệ, cho nên C.Mác gọi quá trình
tuần hoàn dưới hình thái này là tuần hoàn của tư bản tiền tệ.

* Tổng tuần hoàn:
Kết thúc một vòng tuần hoàn thì mục đích của vận động tư bản được
thực hiện: giá trị tư bản trở lại hình thái ban đầu với số lượng lớn hơn trước.
Tổng hợp quá trình vận động của tư bản trong cả ba giai đoạn với ba biến hoá
hình thái, ta có công thức chung:
SLĐ
T - H

... SX ... H - T’
TLSX

Trong công thức này, với tư cách là một giá trị, tư bản đã trải qua một
chuỗi biến hoá hình thái có quan hệ với nhau, qui định lẫn nhau. Có bao nhiêu
biến hoá hình thái là có bấy nhiêu giai đoạn của quá trình vận động của tư
bản. Trong các giai đoạn đó, có hai giai đoạn thuộc lĩnh vực lưu thông và một
giai đoạn thuộc lĩnh vực sản xuất. Trong công thức trên ta thấy, có hai hàng
hoá khác nhau là H và H’, xét về lượng giá trị thì H lớn hơn H, lượng giá trị
tăng lên đó là do quá trình sản xuất mà ra, còn trong các giai đoạn lưu thông
phải có giá trị bằng nhau tồn tại cùng một lúc đối diện với nhau và thay thế
lẫn nhau (theo nguyên tắc ngang giá). Nghĩa là, sự biến đổi về đại lượng của
gá trị chỉ nằm trong phạm vi biến hóa hình thái của tư bản sản xuất trong giai
đoạn sản xuất, tức là trong quá trình sản xuất. Bởi vậy, quá trình sản xuất là
sự biến hóa hình thái hiện thực của tư bản. Còn trong các giai đoạn lưu thông
chỉ là những biến hóa hình thái có tính chất hình thức.
Tư bản, trong quá trình tuần hoàn đẩy đủ của nó, lần lượt khoác lấy ba
hình thái rồi lại trút bỏ ra và trong mỗi hình thái, nó hoàn thành một chức
năng thích hợp. Tư bản vận động như vậy là tư bản công nghiệp với nghĩa bao
quát của nó. Tư bản tiền tệ, tư bản sản xuất, tư bản hàng hóa là những hình
thái chức năng đặc thù của tư bản công nghiệp. Sự vận động tuần hoàn của tư



bản công nghiệp trải qua ba giai đoạn và lần lượt mang ba hình thái, đạm
nhiệm ba chức năng. Nói đến sự vận động của tư là nói đến sự vận động tuần
hoàn của tư bản công nghiệp như trên.
Tuần hoàn của tư bản chỉ có thể tiến hành một cách bình thường, chứng
nào các giai đoạn khác nhau của nó không ngừng chuyển tiếp từ giai đoạn này
sang giai đoạn khác. Nếu có sự ngừng đọng lại ở giai đoạn 1: T - H, thì tư bản
tiền tệ sẽ đọng lại thành T tích trữ. Nếu ngưng đọng ở giai đoạn 2: SX thì một
bên tư liệu sản xuất sẽ nằm im, không hoạt động và bên kia sức lao động sẽ
không có việc làm. Nếu dừng lại ở giai đoạn 3: H - T thì hàng hóa không bán
được sẽ chất đống lại làm nghẽn luồng lưu thông. Mặt khác, bản thân tuần
hoàn lại làm cho tư bản phải cố định lại trong một thời gian nhất định ở từng
giai đoạn của tuần hoàn. Chỉ sau khi hoàn thành chức năng thích ứng với mỗi
hìh thái mà giá trị tư bản phải mang lấy trong một thời gian nhất định, tư bản
công nghiệp mới mang một hình thái khác, khiến nó có thể bước vào giai
đoạn chuyển hóa hình thái.
Tóm lại, sự vận động tuần hoàn của tư bản là một sự vận động liên tục,
đồng thời là sự vận động đứt quãng không ngừng. Chính trong sự vận động
mâu thuẫn đó mà giá trị tư bản tự bảo tồn, chuyển hóa giá trị và không ngừng
lớn lên. Nghĩa là tuần hoàn của tư bản chỉ có thể tiến hành được bình thường:
Chừng nào các giai đoạn khác nhau của tư bản không ngừng chuyển tiếp từ
giai đoạn này sang giai đoạn khác. Đồng thời, bản thân sự tuần hoàn lại làm
cho tư bản phải nằm lại ở mỗi giai đoạn tuần hoàn trong thời gian nhất định.
* Đặc điểm tuần hoàn của tư bản tiền tệ
- Điểm xuất phát là T và kết thúc là T nói lên rằng giá trị trao đổi chứ
không phải giá trị sử dụng là mục đích tự thân quyết định sự vận động. Chính
vì vậy, tuần hoàn của tư bản tiển tệ biểu thị một cách rõ ràng nhất, động cơ
mục đích của vận động tư bản là giá trị tăng thêm giá trị, T để ra t.
- Trong tuần hoàn này, giai đoạn sản xuất biểu hiện như một thủ đoạn
đơn thuần để làm cho giá trị ứng trước tăng thêm giá trị, do đó, làm giàu là

mục đích tự thân của việc sản xuất.


- Trong tuần hoàn này, việc giá trị đẻ ra giá trị thặng dư (m) không
những biểu hiện ra thành điểm đầu và điểm cuối của quá trình, mà còn trực
tiếp biểu hiện ra dưới hình thái chói lọi của tiền nữa.
- Tuần hoàn T - T không nói lên rằng: Khi tuần hoàn được lặp lại, thì lưu
thông của t tách rời lưu thông của T. Vì thế, nếu chúng ta tách riêng một vòng
tuần hoàn của tư bản tiền tệ mà xét, thì về mặt hình thức của nó chỉ biểu hiện
quá trình tăng thêm giá trị và quá trình tích lũy mà thôi.
* Kết luận về tuần hoàn của tư bản tiền tệ
- Quá trình tuần hoàn của tư bản là sự thống nhất giữa lưu thông và sản
xuất. Nếu chỉ xét hai giai đoạn T - H và H - T thì lưu thông tư bản là một bộ
phận của lưu thông chung của hàng hóa. Nhưng tuần hoàn của tư bản không
những thuộc về lĩnh vực lưu thông, mà còn thuộc về lĩnh vực sản xuất, nên
vòng tuần hoàn của tư bản là sự thống nhất giữa sản xuất và lưu thông. Bản
thân tuần hoàn của tư bản cá biệt do lưu thông quyết định, không có lưu thông
thì không có tuần hoàn của tư bản cá biệt. Mặt khác, tư bản quyết định sự phát
triển của lưu thông và mối quan hệ của lưu thông tư bản và lưu thông hàng
hóa. C.Mác khẳng định: Tư bản sinh ra trong lưu thông, đồng thời, không
sinh ra trong lưu thông.
- Tuần hoàn của tư bản tiền tệ là hình thái phiến diện nhất, che giấu nhất
quan hệ bóc lột tư bản chủ nghĩa; đồng thời, nó là hình thái nổi bật nhất và
đặc trưng nhất trong các hình thái tuần hoàn của tư bản công nghiệp. Mục tiêu
và động cơ của tuần hoàn này là: Giá trị tăng thêm giá trị. T để ra t trực tiếp
bộc lộ ra. Do đó, tuần hoàn của tư bản tiền tệ là hình thái mang những đặc
điểm chung của tuần hoàn của tư bản công nghiệp. Nên nó là chìa khóa để
hiểu tuần hoàn của các hình thái khác.
- Tuần hoàn của tư bản tiền tệ chỉ trở thành hình thái đặc thù của tuần
hoàn tư bản công nghiệp trong chừng mực một tư bản mới hoạt động được

ứng ra lúc ban đầu bằng T, sau đó thu về cũng dưới hình thái T. Tuần hoàn
của tư bản tiền tệ có thể là tuần hoàn đầu tiên của một tư bản nhất định, có thể
là tuần hoàn cuối cùng và có thể xem là hình thái của tổng tư bản xã hội.


- Tuần hoàn của tư bản tiền tệ, mà kết quả là T = T + t có cái bề ngoài làm
người ta dễ bị nhầm lẫn; nó mang một tính chất lừa dối, do giá trị tư bản ứng
trước đã tăng lên, giá trị tồn tại ở đây dưới hình thái ngang giá của nó là T.
Tuần hoàn này không nhấn mạnh việc giá trị tăng thêm giá trị như thế nào mà
nhấn mạnh hình thái tiền, một lượng T lớn hơn được rút ra từ lưu thông.
Vì vậy, dễ làm người ta nhầm lẫn là lưu thông đẻ ra giá trị lớn hơn.
- Tuần hoàn của tư bản tiền tệ lặp đi lặp lại không ngừng, thì trong nó đã
bao hàm tuần hoàn của hình thái tư bản khác rồi.
2.1.2. Tuần hoàn của tư bản sản xuất
Công thức chung của tuần hoàn tư bản sản xuất là:
SX .... H - T - H ... SX
Từ công thức chung, C.Mác khẳng định quá trình sản xuất cũng là quá
trình tái sản xuất, vì tuần hoàn của tư bản sản xuất nói lên sự hoạt động lặp đi
lặp lại một cách chu kỳ của sản xuất và đó là quá trình tái sản xuất.
Đối tượng nghiên cứu của chương này là tuần hoàn của tư bản sản xuất.
Chính tuần hoàn của tư bản sản xuất phê phán tính chất phiến diện của tuần
hoàn tư bản tiền tệ. Từ công thức chung của tuần hoàn tư bản sản xuất ta thấy
nổi bật hai vấn đề: Một là, toàn bộ quá trình lưu thông của tư bản công nghiệp
chỉ hình thành một sự gián đoạn và chỉ là khâu trung gian giữa tư bản sản xuất
mở đầu tuần hoàn và tư bản sản xuất kết thúc tuần hoàn đó; Hai là, toàn bộ
lưu thông biểu hiện ra dưới hình thái ngược lại với hình thái mà nó mang
trong tuần hoàn tư bản tiền tệ, tức là về hình thức giống như lưu thông hàng
hóa giản đơn.
* Tái sản xuất giản đơn
Tuần hoàn của tư bản sản xuất làm nổi bật quá trình sản xuất tư bản chủ

nghĩa. Muốn tuần hoàn của tư bản sản xuất được liên tục thì H phải được bán
toàn bộ, tư bản tiền tệ chỉ là môi giới của tư bản hàng hóa chuyển thành tư
bản sản xuất. Trong tái sản xuất giản đơn thì toàn bộ giá trị thặng dư sẽ đi vào
tiêu dùng cá nhân của nhà tư bản.
H

T


H

- T’
h

t

Số tiền thu được đại biểu cho giá trị tư bản vẫn tiếp tục lưu thông trong
tuần hoàn của tư bản công nghiệp, còn bộ phận kia, tức giá trị thặng dư, thì đi
vào lưu thông hàng hóa, diễn ra ở ngoài lưu thông của tư bản cá biệt:
H

T - H ... SX (lưu thông của tư bản sản xuất)

H

- T’
h

t - h (lưu thông hàng hóa giản đơn, phục vụ
cho tiêu dùng cá nhân của nhà tư bản)


Nhưng cả hai lưu thông H - T - H và h - t - h, xét về hình thái chung,
đều thuộc về lưu thông hàng hóa. Vì vậy, người ta dễ quan niệm như khoa
kinh tế chính trị tầm thường vẫn làm rằng: Quá trình sản xuất tư bản chủ
nghĩa chỉ đơn thuần là việc sản xuất ra hàng hóa, ra những giá trị sử dụng
nhằm thỏa mãn một loại tiêu dùng nào đó. Để làm rõ nội dung chính của tái
sản xuất giản đơn xem H - T - H vận động như thế nào, ta theo C.Mác đi vào
phân tích hai giai đoạn của lưu thông:
Trước hết ta nghiên cứu giai đoạn H - T’
H trong lưu thông chung của hàng hóa chỉ làm chức năng của hàng
hóa, nhưng về mặt là yếu tố của lưu thông tư bản, thì H làm chức năng tư
bản hàng hóa. Trong tuần hoàn của tư bản sản xuất, H - T có thể chia H T và h - t. Việc chia này có ý nghĩa về bản chất, đẻ xem quá trình này là
tái sản xuất giản đơn hay tái sản xuất mở rộng. Nếu tái sản xuất giản đơn,
thì chỉ có H - T đi vào lưu thông trong tuần hoàn của tư bản, còn h - t đi
vào lưu thông hàng hóa giản đơn phục vụ cho tiêu dùng cá nhân của nhà
tư bản. Cò nếu H - T được bổ sung bằng h - t và cả hai đi vào lưu thông tư
bản, thì là tái sản xuất mở rộng. Việc chia H thành hai bộ phận: Một đại
biểu cho giá trị tư bản ứng trước, một đại biểu cho giá tri thặng dư, chỉ có
ý nghĩa về mặt sư phạm. Còn trên thực tế, giá trị thặng dư chỉ được thực
hiện khi tổng số H đã bản được.
Giai đoạn 2 của lưu thông T - H:


Tuần hoàn của tư bản sản xuất làm nội bật quá trình sản xuất tư bản.
Trog tuần hoàn nào thì T - H cũng là sự chuyển hóa tư bản từ hình thái tư bản
tiền tệ sang hình thái tư bản sản xuất. Nhưng tuần hoàn của tư bản tiền tệ
không nói rõ nguồn gốc của T. T được coi là T ứng ra còn tuần hoàn tư bản
sản xuất, chỉ rõ T là một bộ phận của T. T vừa là giá trị tư bản mới được thực
hiện, vừa là tư bản bắt đầu cuộc hành trình vận động tuần hoàn mới.
Ở đây chỉ rõ: Nguồn gốc của T từ H mà ra hay từ sản xuất mà ra. T là

một bộ phận của giá trị hàng hóa lao động sống tạo ra. T ứng ra ở đây cho
công nhân cho là hình thái ngang giá đã chuyển hóa của một bộ phận giá trị
hàng hóa do chính người công nhân sản xuất ra. T ấy không phải chỉ là hình
thái T của lao động đã qua của công nhân, mà đồng thời còn là một tấm phiếu
trả công lao động hiện tại hoặc lao động tương lai. Tức là, khi cấp một phần
lao động quá khứ cho người công nhân, nhà tư bản đã cấp cho anh ta một tấm
phiếu để lĩnh lao động tương lai của chính anh ta.
Nhưng trước khi có vận động T - H đã có sự tách T = T + t. Trong đó là
tư bản tiền tệ, T tiếp tục tuần hoàn của tư bản, còn t bị tiêu dùng đi với tư cách
là thu nhập, thì đi vào lưu thông chung, nhưng lại tách khỏi tuần hoàn của tư
bản. Trong lưu thông H - T - H, hình thái T của tư bản chỉ là một yếu tố tạm
thời, chỉ là phương tiện môi giới của lưu thông để chuyển hóa ngược lại tư
bản hàng hóa thành tư bản sản xuất. Vì vậy, điều kiện quyết định để tuần hoàn
của tư bản sản xuất tiến hành được bình thường, thì H phải được bán đi toàn
bộ để thu T về. Nếu H bán được thì mọi việc tiến hành trôi chảy.
* Tích lũy và tái sản xuất trên qui mô mở rộng
Muốn có tái sản xuất mở rộng thì phải có tích lũy, phải có một bộ phận
giá trị thặng dư được tư bản hóa. Tức là phải có t bổ sung cho T làm tư bản
tiền tệ. Phần t bổ sung là bao nhiêu, không phải tùy tiện mà theo tỷ lệ của điều
kiện kỹ thuật, cấu tạo hữu cơ của tư bản qui định.
Muốn có t bổ sung thì m phải được tích lũy lại một phần và tích lũy đến
mức đủ lớn để ném vào quá trình sản xuất. Mức độ đủ lớn là bao nhiêu do yếu
tố kỹ thuật sản xuất, do cấu tạo hữu cơ của tư bản qui định.


Tích lũy hay tái sản xuất mở rộng thành một thủ đoạn để không ngừng
mở rộng việc sản xuất ra giá trị thặng dư, vì vậy, biểu hiện ra thành một thủ
đoạn làm giàu của nhà tư bản. Việc không ngừng tăng thêm tư bản trở thành
một điều kiện để duy trì và phát triển tư bản ấy.
Công thức SX ... SX biểu thị một tư bản sản xuất được tái sản xuất trên

qui mô mở rộng. Khi tuần hoàn thứ hai bắt đầu, chúng ta thấy sản xuất lại
xuất hiện ở điểm xuất phát, nhưng khác ở chỗ qui mô của nó đã lớn hơn. SX
đã lơn lên, SX lớn hơn SX, nhưng khi bắt đầu tuần hoàn mới, nó cũng xuất
hiện với tư cách là SX giống như SX trong tái sản xuất giản đơn vậy.
* Tích lũy tiền
Giá trị thặng dư không được tư bản hóa ngay, mà phải được tích lũy lại.
Ở đây khẳng định chỉ có sản xuất và chính sản xuất: Tạo ra t cho tích lũy; đòi
hỏi t tích lũy; và quyết định lượng t tích lũy để biến thành hiện thực. Tại sao
lại xếp vấn đề tích lũy T vào vòng tuần hoàn và tại sao nó lại phụ thuộc vào
điều kiện kỹ thuật?
Thứ nhất, nếu T được dùng làm tư bản tiền tệ cho một xí nghiệp mới, thì
rõ ràng là chỉ khi nào T có được một lượng tối thiểu cần thiết cho xí nghiệp
mới đó, thì nó mới có thể được dùng vào mục đích ấy.
Thứ hai, nếu T được dùng để mở rộng xí nghiệp ban đầu, thì những quan
hệ giữa những yếu tố vật chất của sản xuất và tỷ lệ giá trị giữa chúng, cũng
bắt buộc t phải có một lượng tối thiểu nhất định.
Thứ ba, nếu t chưa đạt đến mức tối thiểu cần thiết ấy, thì cần phải lặp lại
nhiều lần tuần hoàn của tư bản. Tức là phải tích lũy tiền. Tiền tích lũy chưa đủ
mức tối thiểu để đóng vai trò tư bản, thì nó đóng vai trò tư bản tiềm tàng.
Tư bản tiềm tàng nằm ở ngoài vòng tuần hoàn, nhưng được xếp trong
vòng tuần hoàn vì nó chuẩn bị cho tái sản xuất mở rộng, không có nó thì
không có sản xuất lớn lên. Dạng tư bản tiềm tàng có thể là tiền có thực hoặc
tiền trên sổ sách. Bản thân quá trình hình thành tiền tích trữ là chung cho bất
cứ nền sản xuất hàng hóa nào.
* Quĩ dự trữ
Quĩ dự trữ là do sản xuất qui định, để phục vụ cho sản xuất. Không


những có dự trữ nói chung, mà có cả dự trữ tiền. Dự trữ đúng, đủ thì sản xuất
phát triển. Dự trữ thừa hay thiều đều ảnh hưởng xấu đến sản xuất.

C.Mác phân biệt quĩ dự trữ và tiền dự trữ là khác nhau. Quĩ dự trữ là
thành phần không phải của tư bản đang hoạt động, mà là giá trị thặng dư tích
trữ lại một bộ phận cấu thành của tư bản nằm trong giai đoạn chuẩn bị sự tích
lũy tư bản, cần thiết để khắc phục sự rối loạn trong quá trình tuần hoàn sinh ra
(như nếu H - T kéo dài quá mức độ của nó, hay nếu do giá của tư liệu sản xuất
lên quá cao...). Còn tiền dự trữ là tiền được giữ lại để làm phương tiện mua và
thanh toán. Tiền này luôn luôn được hình thành sau việc bán. Tiền tích trữ là
một hình thái tồn tại của giá trị thặng dư, là một quĩ tích lũy tiền, là một điều
kiện tích lũy tư bản. Cả quĩ dự trữ và tiền dự trữ đều là cần thiết, do yêu cầu
của sản xuất, sẵn sàng phục vụ cho yêu cầu của tái sản xuất. Khi cần thiết tiền
dự trữ (quĩ tiền tích lũy) được dùng làm quĩ dự trữ để khắc phục những rối
loạn của tuần hoàn tư bản.
Đặc điểm của tuần hoàn tư bản sản xuất
Phản ánh sự hoạt động lặp đi lặp lại theo chu kỳ của tư bản sả xuất. Nó
chỉ rõ tư bản hàng hóa từ quá trình sản xuất mà ra, là kết quả trực tiếp của sản
xuất, còn tư bản tiền tệ là kết quả của vệc thực hiện tư bản hàng hóa, đồng thời là
phương tiện mua, chuẩn bị các yếu tố cho quá trình sản xuất mới. Tuần hoàn
của tư bản sản xuất vạch rõ nguồn gốc của tư bản là quá trình sản xuất mà ra.
Nhưng nó không biểu thị việc sản xuất ra giá trị thặng dư. Do đó, người ta dễ
làm tưởng rằng, mục đích của nó chỉ là sản xuất, có trao đổi cũng là trao đổi
sản phẩm để sản xuất được liên tục.
2.1.3. Tuần hoàn của tư bản hàng hóa
Công thức chung của tuần hoàn tư bản hàng hóa:
H - T - H ... SX... H’
H không những là sản phẩm, mà còn là tiền đề của hai tuần hoàn nói
trên. Vì vậy, trong nghiên cứu chúng ta cần phỉa luôn so sánh nó với hai tuần
hoàn nói trên. Đặc điểm của tuần hoàn tư bản hàng hóa:
- Khác với các hình thái tuần hoàn trước, trong tuần hoàn của tư bản



hàng hóa: Toàn bộ lưu thông với hai giai đoạn của nó mở đầu tuần hoàn.
Còn trong tuần hoàn của tư bản tiền tệ, lưu thông bị sản xuất làm gián đoạn.
Còn trong tuần hoàn của tư bản sản xuất, toàn bộ lưu thông với hai giai đoạn
của nó chỉ làm khâu trung gian, môi giới giữa sản xuất với sản xuất.
- Tuần hoàn hàng hóa điểm xuất phát bao giờ cũng là H’, dù là tái sản
xuất giản đơn vì tuần hoàn của tư bản hàng hóa không phải bắt đầu đơn thuần
bằng bằng một giá trị tư bản, mà bằng một giá trị tư bản đã được tăng lên và
nằm dưới hình thái hàng hóa. Do đó, ngay từ đầu nó đã bao hàm tuần hoàn
không những của giá trị tư bản dưới hình thái hàng hóa, mà còn bao hàm cả
tuần hoàn của giá trị thặng dư, tức ngay từ đầu nó đã biểu thị là hình thái của
sản xuất tư bản chủ nghĩa.
- Xuất phát là H và kết thúc cũng là H. Do đó đặt ra vấn đề đòi hỏi phải
thực hiện H’, tức đòi hỏi phải vận động liên tục.
- Trong tuần hoàn của tư bản hàng hóa ( H - T ... SX .... H’) thì hàng hóa
vừa là điểm xuất phát, vừa là môi giới trung gian, vừa điểm cuối cùng, điều đó
chứng tỏ: Sự vận động này không phải là của một tư bản hàng hóa, mà là sự vận
động xen kẽ của nhiều tư bản hàng hóa cá biệt, nghĩa là sự vận động của tổng tư
bản xã hội. Các tư bản cá biệt xen kẽ nhau làm điều kiện cho nhau.
- Tuần hoàn của tư bản hàng hóa mang tính chất che giấu. Nó là hình thái
nổi bật tính liên tục của lưu thông. Song do quá nhấn mạnh tính liên tục của lưu
thông hàng hóa, nên người ta có ấn tượng rằng: Hình như tất cả mọi yếu tố cho
sản xuất đều do lưu thông hàng hóa mà ra và chỉ gồm có hàng hóa mà thôi.
2.1.4. Ba hình thái của quá trình tuần hoàn
Trên thực tế mỗi một tư bản công nghiệp cá biệt đều ở trong cả ba tuần
hoàn cùng một lúc. Ba tuần hoàn ấy, tức là những hình thái tái sản xuất của ba
hình thái của tư bản, đều không ngừng diiễn ra bên cạnh nhau. Tổng tuần
hoàn chính là sự thống nhất hiện thực của cả ba hình thái của nó. Đó cũng
chính là sự vận động tuần hoàn của tư bản công nghiệp.
C.Mác nêu lên sự vận động tuần hoàn của tư bản công nghiệp là:
- Sự vận động thống nhất của lưu thông và sản xuất, sản xuất làm trung



gian cho lưu thông và ngược lại. Tổng quá trình tuần hoàn được biểu hiện là
sự thống nhất giữa sản xuất và lưu thông.:
T - H ... SX ... H - T

hay

SX ...H - T - H... SX
H - T - H....SX... H

LT ... SX ... LT
SX... LT .... SX
LT... SX

- Sự vận động thống nhất biện chứng của ba hình thái tuần hoàn là một
quá trình liên tục không ngừng và đứt quãng không ngừng. Bởi vì, trong quá
trình vận động liên tục không ngừng, bản thân tuần hoàn lại làm cho tư bản
phải nằm lại ở mỗi giai đoạn tuần hoàn trong một thời gian nhất định để thực
hiện chức năng của mình.
T - H ... SX ... H - T - H ... SX ... H - T - H ... SX ... H ....
- Sự vận động của ba hình thái tuần hoàn có sự kế tục nhau trong thời
gian và sắp xếp kề nhau trong không gian để được liên tục vận động trong
thời gian (sự thống nhất ba hình thái tuần hoàn đòi hỏi ba hình thái tuần hoàn
phải tồn tại trong cùng một thời gian, trong không gian thì xen kẽ nhau):
T - H ... SX ... H - T - H ... SX ... H - T - H ...SX ...

T - H ... SX ... H - T
SX ...H - T - H... SX
H - T - H....SX... H’

- Cả ba hình thái tuần hoàn có một điểm chung là: Chúng đều lấy việc
làm tăng giá trị làm mục đích, làm động cơ. Và tổng tuần hoàn là sự thống
nhất hiện thực của ba hình thái tuần hoàn. Nếu xét riêng từng hình thái tuần
hoàn, thì mỗi hình tuần hoàn chỉ phản ánh hiện thực tư bản chủ nghĩa một
cách phiến diện, làm nổi bật mặt bản chất này và che dấu mặt bản chất khác
của sự vận động của tư bản công nghiệp. Do đó, phải xem xét đồng thời cả ba
hình thái tuần hoàn, thì mới nhận thức được đầy đủ sự vận động hiện thực của
tư bản công nghiệp, mới hiểu đúng mối quan hệ giai cấp mà tư bản biểu hiện
trong sự vận động cuả nó.


Tuần hoàn của tư bản chỉ được tiến hành bình thường khi cả ba hình thái
tuần hoàn chuyển tiếp một cách trôi chảy. Nếu một tuần hoàn của hình thái
nào đó bị ngừng trệ, thì toàn bộ tuần hoàn sẽ bị phá vỡ. Song muốn bảo đảm
sự tuần hoàn không ngừng của tư bản, bảo đảm cho tư bản liên tục chuyển
hóa hình thái qua các giai đoạn kế tiếp nhau, thì phải có đủ hai điều kiện:
Toàn bộ tư bản phải phân ra làm ba bộ phận, tồn tại đồng thời ở cả ba hình
thái; Mỗi bộ phận tư bản ở mỗi hình thái khác nhau đều phải không ngừng
liên tục trải qua ba hình thái và ba giai đoạn vận động. Hai điều kiện này quan
hệ chặt chẽ với nhau, ràng buộc lẫn nhau, làm tiền đề cho nhau.
2.1.5. Thời gian lưu thông
Sự vận động của tư bản thông qualĩnh vực sản xuất và hai giai đoạn của
lĩnh vực lưu thông, được thực hiện nối tiếp nhau trong thời gian. Thời gian
mà tư bản nằm trong lĩnh vực sản xuất là thời gian sản xuất của tư bản. Thời
gian mà tư bản nằm trong lĩnh vực lưu thông là thời gian lưu thông của tư
bản. Do đó: Toàn bộ thời gian mà tư bản dùng để hoàn thành vòng tuần hoàn
của nó = thời gian sản xuất + thời gian lưu thông.
Thời gian một vòng tuần hoàn = Thời gian sản xuất + Thời gian lưu thông.
Thời gian sản xuất bao gồm: Thời gian lao động (người lao động sử
dụng tư liệu lao động tác động vào đối tượng lao động); thời gian gián đoạn

lao động (đối tượng lao động chịu sự tác động của thiên nhiên). Ví dụ: Ủ
giống, ủ men rượu hay thời gian chờ cho bê tông chết; thời gian dự trữ (tư bản
sản xuất nằm trong lĩnh vực sản xuất dưới dạng tiềm tàng).
Thời gian sản xuất phụ thuộc vào nhiều yếu tố trong đó có bốn yếu tố cơ
bản: Tính chất ngành sản xuất; đối tượng lao động chịu sự tác động của tự
nhiên dài hay ngắn; trình độ phát triển của khoa học - kỹ thuật, của lực lượng
sản xuất và năng suất lao động cao hay thấp; dự trữ sản xuất, đủ, thừa hay
thiếu, dự trữ sản xuất tăng hay giảm do: Lượng hàng hóa trên thị trường; giao
thông vận tải; người quản lý biết tính toán.
Thời gian lưu thông bao gồm: Thời gian mua thực hiện hành vi T - H;
thời gian bán thực hiện hành vi H - T. Thời gian lưu thông phụ thuộc vào


nhiều yếu tố trong đó có bốn yếu tố cơ bản: Tình hình thị trường tốt hay xấu?
Khoảng cách xa hay gần? Giao thông khó khăn hay thuận lợi? Phương tiện
giao thông hiện đại hay thô sơ?
Khi nghiên cứu vấn đề này cần chú ý một số khía cạnh sau:
Thứ nhất, thời gian lao động là thời gian duy nhất tạo ra giá trị và giá trị
thặng dư. Thời gian sản xuất và thời gian lao động càng khớp với nhau bao
nhiêu thì năng suất và việc làm tăng thêm giá trị của một tư bản sản xuất nhất
định trong một thời gian nhất định càng lớn bấy nhiêu5
Thứ hai, các khảng thời gian khác đều không tạo ra giá trị và giá trị
thặng dư, nên càng rút ngắn được chúng càng tốt.
Thứ ba, thời gian lao động và thời gian gián đoạn lao động có thể xen kẽ
nhau, có thể tách thành các thời kỳ riêng biệt.
Thứ tư, thời gian sản xuất và thời gian lưu thông loại trừ lẫn nhau.
Thời gian lưu thông dài hay ngắn sẽ thu hẹp hay mở rộng thời gian sản xuất.
Thời gian lưu thông càng ngắn thì năng suất của nó càng lớn, tức là sự tăng
thêm giá trị càng lớn. Rút ngắn thời gian lưu thông thì có lợi: Chi phí lưu
thông giảm; sản xuất lặp lại nhanh, do đó, năng suất của tư bản cao tạo ra

nhiều giá trị thặng dư.
2.1.6. Chi phí lưu thông
Lưu thông không tạo ra giá trị, lao động trong lưu thông không tạo ra giá trị,
nhưng cần phải có chi phí lưu thông. C.Mác đề cập ba loại chi phí lưu thông:
- Chi phí lưu thông thuần túy, có ba loại:
Chi phí cho việc mua bán hàng hóa: Chi phí để biến tiền thành hàng hóa
và ngược lại. Chi phí để thuần túy biến đổi hình thái của giá trị hàng hóa, chi
phí này không tạo ra giá trị và giá trị thặng dư. Đây là chi phí cần thiết của xã
hội nhưng không làm hàng hóa tăng thêm giá trị, chi phí này phải lấy của xã
hội mà bù vào.
Chi phí kế toán: được xếp vào chi phí lưu thông thuần túy, nhưng có đặc
điểm khác. Chi phí này cũng không làm tăng thêm giá trị của hàng hóa.
5

Sđd, Tr. 189.


Chi phí để sản xuất ra tiền: Hàng năm có số tiền hỏng phải thay thế, chi
phí này không những không làm tăng thêm giá trị, mà còn làm mất giá trị đi:
xã hội bỏ ra chi phí để sản xuất ra tiền. Chi phí lưu thông thuần túy thì không
nhập vào giá trị hàng hóa.
- Chi phí bảo quản: bảo quản dự trữ là rất cần thiết, nên phải có chi phí.
Nhưng bảo quản không làm của cải xã hội tăng lên, nên chi phí này cũng phải
lấy của cải của xã hội mà bù vào. Nhưng khác với chi phí lưu thông thuần túy,
chi phí này bảo vệ giá trị sử dụng của hàng hóa, nên chi phí này được cộng
vào giá trị hàng hóa (bảo quản được coi là quá trình sản xuất tiếp diễn trong
lưu thông).
- Chi phí vận chuyển: vận chuyển được xem là ngành sản xuất tiếp tục
trong lưu thông. Nó làm tăng giá trị hàng hóa, nhưng không làm tăng số lượng
sản phẩm. C.Mác nêu qui luật: Năng suất lao động tăng thì giá trị hàng hóa

giảm. Qui luật này vẫn đúng trong công nghiệp vận tải. Nếu mọi tình hình khác
không thay đổi, thì đại lượng giá trị tuyệt đối mà việc vận chuyển bỏ thêm vào
hàng hóa, sẽ tỷ lệ nghịch với sức sản xuất của lao động trong công nghiệp vận
chuyển, và tỷ lệ thuận với quãng đường vận chuyển hàng hóa. Nếu mọi tình hình
khác không thay đổi, thì đại lượng tương đối của giá trị mà chi phí vận tải bỏ
thêm vào giá cả hàng hóa, sẽ tỷ lệ thuận với khối lượng và trọng lượng của hàng
hóa... Lưu thông, nghĩa là sự di chuyển thực tế của hàng hóa trong không gian,
được qui lại thành việc vận chuyển hàng hóa6.
2.2. Chu chuyển của tư bản
Nếu tuần hoàn nghiên cứu hình thái vận động của tư bản, tức là mặt chất
của vận động, thù chu chuyển nghiên cứu sự vận động của tư bản về mặt thời
gian và tốc độ, tức mặt lượng của sự vận động đó.
Nghiên cứu chu chuyển của tư bản là cơ sở để hiểu các hình thái mới
của tư bản: Tư bản cố định, tư bản lưu động và những hiện tượng kinh tế gắn
liền với chúng; để hiểu ảnh hưởng của lưu thông, của tốc độ và thời gian vận
động tới hiệu quả hoạt động của tư bản; để giải thích những hiện tượng kinh
6

Sđd Tr. 229 – 230.


tế bị quá trình lưu thông che lấp hoặc xuyên tạc trên cơ sở giá trị lao động; để
hiểu sự chuyển hóa giá trị thặng dư thành lợi nhuận, tỷ suất giá trị thặng dư
thành tỷ suất lợi nhuận.
2.2.1. Thời gian chu chuyển và số vòng chu chuyển
Thời gian chu chuyển của tư bản là khoảng thời gian kể từ khi giá trị tư bản
được ứng ra dưới một hình thái nhất định, cho đến khi giá trị tư bản đang vận
động quay trở về cũng dưới hình thái ấy, với một lượng giá trị đang tăng lên.
Tuần hoàn của tư bản, khi được coi là một quá trình định kỳ, chứ không
phải một hành vi cá biệt, thì gọi là vòng chu chuyển của tư bản, năm là đơn vị

đo lường tự nhiên để đo những vòng chu chuyển của tư bản đang hoạt động.
Nếu chúng ta lấy CH để chỉ năm, lấy Ch để chỉ thời gian chu chuyển của
một tư bản nhất định, lấy n để chỉ số lần chu chuyển, thì chúng ta sẽ có:
CH
n=
n=

.. Do đó, nếu thời gian chu chuyển là 3 tháng chẳng hạn, thì
12
Ch

=4

Như vậy, là tư bản thực hiện 4 vòng chu chuyển,

3

đã quay 4 vòng trong một năm.

2.2.2. Tư bản cố định và tư bản lưu động
Sự phân chia tư bản thành tư bản cố định và tư bản lưu động căn cứ vào
phương thức chu chuyển giá trị tư bản vào giá trị sản phẩm mới để phân chia.
Tư bản cố định là một bộ phận giá trị tư bản, dưới hình thái tư liệu lao
động, tham gia toàn bộ vào quá trình sản xuất, nhưng giá trị của nó được
chuyển dần, từng phần vào giá trị sản phẩm mới.
Đặc trưng của tư bản cố định:
Giá trị sử dụng tồn tại dưới hình thái tư liệu lao động trong suốt thời
gian mà nó tham gia vào quá trình sản xuất giữ được hình thái sử dụng độc
lập của nó như khi nó mới gia nhập quá trình sản xuất. Hình thái giá trị sử
dụng tham gia toàn bộ vào quá trình sản xuất.

Bộ phận giá trị tư bản ứng ra được cố định dưới hình thái tư liệu sản
xuất, cũng lưu thông như các bộ phận khác, nhưng lại có tính đặc biệt. Không


×