Tải bản đầy đủ (.doc) (175 trang)

Pháp luật về thương mại điện tử tại Việt Nam thực trạng và một số khuyến nghị

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (769.51 KB, 175 trang )

1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài luận án
Thế kỷ XXI, thế giới đã chứng kiến sự phát triển như vũ bão của khoa học
công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin và truyền thông, nó đưa nhân loại bước
vào thời kỳ quá độ của nền kinh tế tri thức và tạo ra làn sóng toàn cầu hóa và hội
nhập quốc tế mạnh mẽ trên toàn thế giới. Sự xuất hiện và phổ biến thương mại điện
tử trên thế giới góp phần làm nên thành tựu về phát triển kinh tế ở nhiều quốc gia đã
làm cho nhiều nhà lãnh đạo ở các quốc gia khác thực sự thức tỉnh về vai trò của
thương mại điện tử trong xu thế toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế.
Hiện nay, việc đảm bảo an toàn trong thương mại điện tử nhằm mục đích
phát triển lĩnh vực này đang là một chính sách ưu tiên hàng đầu của hầu hết mọi
quốc gia trên thế giới và là một chủ đề được các tổ chức quan tâm. Ở Việt Nam,
thương mại điện tử đạt được một số thành tựu quan trọng, tuy nhiên, việc phát triển
thương mại điện tử còn bộc lộ nhiều hạn chế và yếu kém chưa xứng đáng với tiềm
năng của đất nước có thị trường rộng lớn gần 90 triệu dân cùng hệ thống hạ tầng
viễn thông, công nghệ thông tin và internet tương đối rộng khắp. Đơn cử như thị
trường cho thương mại điện tử còn thấp chưa theo kịp với đòi hỏi sự phát triển kinh
tế xã hội của đất nước. Cơ chế quản lý nhằm đảm bảo an toàn cho các chủ thể tham
gia thương mại điện tử còn nhiều bất hợp lý, chưa tạo ra động lực đủ mạnh để phát
huy năng lực sáng tạo và sự tham gia đông đảo của cộng đồng. Có nhiều nguyên
nhân, trong đó có thể kể đến do sự phát triển nhanh, tính phổ cập, tính thanh toán
quốc tế nên thương mại điện tử đem lại những lợi ích to lớn như sự tiếp cận, tìm
kiếm dịch vụ nhanh chóng cho khách hàng. Nhưng cũng tạo ra một mặt trái, đó là
hiện tượng tội phạm sử dụng công nghệ cao ở tại bất cứ khu vực nào trên thế giới có
kết nối Internet đều có thể tạo ra những thông tin thương mại sai lệch hoặc lừa đảo
chiếm đoạt tài sản bằng nhiều hình thức, thủ đoạn tinh vi. Nghiêm trọng hơn, do
cạnh tranh không lành mạnh, tội phạm công nghệ cao có thể làm hỏng các trang
web hay các sàn giao dịch thương mại điện tử.


`


2

Bên cạnh đó, một số loại hình tội phạm mới về thương mại điện tử như việc
rao bán thông tin cá nhân của một số trang web có dấu hiệu vi phạm điều 226 Bộ
Luật hình sự. Hay như vụ việc trang web muaban24 tổ chức lừa đảo bằng hình thức
bán các gian hàng ảo theo kiểu kinh doanh đa cấp. Trước những loại hình tội phạm
rất mới này, Cục phòng chống tội phạm công nghệ cao C50- Tổng cục An ninh II,
Bộ Công an kiến nghị xử lý và đẩy mạnh việc kiểm soát các băng nhóm phạm pháp
hình sự tiến hành mua bán thông tin cá nhân trên mạng Internet để sử dụng trong
mục đích phạm tội như: tống tiền, đe dọa, ăn cắp, lừa đảo,… Trước những nguy cơ,
rủi ro về sự mất an toàn đối với các chủ thể tham gia thương mại điện tử, Nhà nước
cũng đề ra các giải pháp về quản lý để đảm bảo an toàn cho các chủ thể tham gia
thương mại điện tử nhưng tính hiệu lực còn thấp. Mặc dù về pháp lý có luật điều
chỉnh hoạt động thương mại điện tử, Chính phủ cũng ban hành các Nghị định để
quản lý, các Bộ liên quan ban hành các thông tư hướng dẫn thực hiện Nghị định,
các Ngành, các địa phương cũng trên cơ sở đó cũng ban hành các quy định, quy chế
để đảm bảo cho hoạt động thương mại điện tử được an toàn.
Thực tế cho thấy, các quy định của pháp luật về thương mại điện tử chưa
thực sự đi vào cuộc sống, chưa được tất cả các chủ thể tham gia thương mại điện tử
tuân thủ một cách nghiêm túc. Các chuyên gia thương mại điện tử cũng bình luận
về hiện tượng “nhờn luật” hay nói một cách khác là luật và các chế tài không có
hiệu lực. Đồng thời, về mặt tổ chức thực hiện còn chồng chéo về chức năng nhiệm
vụ giữa các Bộ, Ngành và sự phối hợp, phân cấp quản lý cho các địa phương còn
chưa rõ ràng. Chính vì thế, để nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước trong thương mại
điện tử cần phải đảm bảo sự hiệu quả của ba nội dung: một là sự hoàn thiện về thể
chế chính trị và pháp luật, hai là sự hoàn thiện về tổ chức và vận hành bộ máy, về
nguồn lực thực hiện, ba là cần phải tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, xử lý

các hành vi vi phạm pháp luật và tuyên truyền nâng cao nhận thức chấp hành pháp
luật. Bởi vậy, cần thiết phải nghiên cứu, làm rõ về cơ sở khoa học về hiệu lực quản
lý nhà nước đảm bảo an toàn trong các hoạt động thương mại điện tử ở Việt Nam.

`


3

2. Tình hình nghiên cứu
Thương mại điện tử đã thu hút sự quan tâm nghiên cứu của nhiều tổ chức
quốc tế trên thế giới và đông đảo các nhà nghiên cứu, các viện nghiên cứu, các
trường đại học rất chú ý quan tâm tới thương mại điện tử.
Liên hiệp quốc cũng đã nghiên cứu và phổ biến về “Chính phủ điện tử và
Thương mại điện tử” thông qua tài liệu giảng dạy tới các quốc gia do Trung tâm đào
tạo phát triển công nghệ thông tin và truyền thông Châu Á- Thái Bình Dương
(APCICT) nghiên cứu với mục tiêu truyền đạt các kiến thức cho các nhà lãnh đạo
Chính phủ tại các Quốc gia Châu Á- Thái Bình Dương nhằm hoạch định chính sách
quản lý và các sáng kiến về chính phủ điện tử và thương mại điện tử một cách hiệu
quả hơn. Ủy ban Châu Âu- Viện bảo vệ và an ninh công dân thuộc Trung tâm
nghiên cứu hỗn hợp ISPRA- Italia cũng đã nghiên cứu về: “Chiến lược tin cậy và an
toàn B2C trong thương mại điện tử”. Nghiên cứu này đã đi sâu phân tích một cách
có hệ thống về mối quan hệ giữa công nghệ, xã hội, kinh tế và chính sách nhằm
đem lại sự an toàn và tin tưởng trong thương mại điện tử. Tác giả Stayling Wen là
một doanh nhân Đài Loan cũng nghiên cứu và cho ra đời cuốn sách “Tương lai của
thương mại điện tử”. Nhiều tác giả khác trên thế giới cũng đã nghiên cứu về mạng
xã hội, kinh doanh, công cụ trực tuyến, công cụ tìm kiếm, an ninh mạng, bảo mật,
khung pháp lý, công nghệ và cơ sở hạ tầng cho thương mại điện tử của các quốc gia
trên thế giới.
Việt Nam đã thống nhất về mặt quản lý nhà nước về thương mại điện tử bằng

việc thành lập Cục Thương mại điện tử và công nghệ thông tin thuộc Bộ Công
thương. Nhiều công trình nghiên cứu về quản lý hoạt động thương mại điện tử được
Cục Thương mại điện tử và công nghệ thông tin cùng các tổ chức, hiệp hội thực
hiện. Tuy nhiên, nghiên cứu cụ thể về quản lý nhà nước đảm bảo an toàn trong
thương mại điện tử thì chưa có nhiều. Một số công trình nghiên cứu thương mại
điện tử về bảo mật, an toàn và pháp lý đã được biết tới như: Đề tài KC01-05 của
Ban cơ yếu Chính phủ năm 2004: “Nghiên cứu, xây dựng giải pháp bảo mật thông
tin trong thương mại điện tử”. Đề tài: “Pháp luật về thương mại điện tử tại Việt

`


4

Nam: thực trạng và một số khuyến nghị” của Tiến sĩ Nguyễn Anh Sơn. Công trình:
“Luật thương mại quốc tế, các văn bản nền tảng của Ủy ban Liên Hợp Quốc về Luật
thương mại quốc tế của UNCITRAL. Các công trình nghiên cứu thương mại điện tử
hiện nay có nhiều nhưng chưa có công trình nào nghiên cứu chuyên sâu về hiệu lực
quản lý nhà nước đảm bảo an toàn trong thương mại điện tử.
Quốc hội khóa XI đã thông qua Luật giao dịch điện tử, Luật Công nghệ
thông tin, Quốc hội khóa XII thông qua Luật Bảo vệ người tiêu dùng. Trên cơ sở
đó, Chính phủ cũng ban hành Nghị định thương mại điện tử và nhiều Nghị định
khác, cùng các quyết định phê duyệt kế hoạch tổng thể phát triển thương mại điện
tử 2006-2010 (Quyết định số 222/2005/QĐ-TTg), giai đoạn 2011-2015 (Quyết định
số 1073/ QĐ-TTg) để xác định rõ kế hoạch thực hiện triển khai thương mại điện tử
ở Việt Nam. Tổng quan tình hình nghiên cứu như trên có thể đánh giá rằng cần thiết
phải có những nghiên cứu cụ thể đánh giá về tính hiệu lực công tác quản lý nhà
nước để đảm bảo an toàn trong thương mại điện tử. Với mong muốn đi sâu nghiên
cứu vấn đề đó đồng thời dự báo sự phát triển thương mại điện tử, quản lý nhà nước
một cách hiệu lực nhằm đảm bảo an toàn, nghiên cứu sinh đã chọn đề tài “Giải pháp

nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước đảm bảo an toàn trong thương mại điện tử ở
Việt Nam” để nghiên cứu luận án tiến sĩ.
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục tiêu nghiên cứu của luận án: Trên cơ sở nghiên cứu, phân tích những
vấn đề về lý luận và thực tiễn quản lý nhà nước về thương mại điện tử, luận án đề
xuất các quan điểm và giải pháp nhằm nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước đảm bảo
an toàn đối với phát triển thương mại điện tử ở Việt Nam trong xu thế toàn cầu hóa
và hội nhập kinh tế quốc tế.
Về nhiệm vụ nghiên cứu:
- Một là, nghiên cứu và phân tích cơ sở lý luận về hiệu lực quản lý nhà nước
đảm bảo an toàn trong thương mại điện tử.
- Hai là, phân tích và đánh giá thực trạng về hiệu lực quản lý nhà nước đảm
bảo an toàn trong thương mại điện tử ở Việt Nam. Tiếp cận vấn đề nghiên cứu dưới

`


5

góc độ quản lý vĩ mô và được kiểm chứng thực tế tại doanh nghiệp để đánh giá hiệu
lực quản lý nhà nước đảm bảo an toàn trong thương mại điện tử ở Việt Nam.
- Ba là, trên cơ sở phân tích, đánh giá những vấn đề về lý luận, thực trạng
hiệu lực quản lý nhà nước đảm bảo an toàn trong thương mại điện tử, luận án đề
xuất các giải pháp và kiến nghị nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước đảm bảo an toàn
trong thương mại điện tử để tạo môi trường, điều kiện phát triển cho thương mại
điện tử ở Việt Nam đáp ứng yêu cầu toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án
Đối tượng nghiên cứu: Là hiệu lực quản lý nhà nước trong thương mại điện
tử ở Việt Nam. Chính vì vậy, luận án tập trung nghiên cứu cơ sở khoa học về hiệu
lực quản lý nhà nước đảm bảo an toàn trong thương mại điện tử, đánh giá thực

trạng, từ đó đề xuất các tiêu chí đánh giá hiệu lực quản lý nhà nước về thương mại
điện tử và giải pháp nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước đảm bảo an toàn trong
thương mại điện tử ở Việt Nam.
Phạm vi nghiên cứu: Chỉ tập trung nghiên cứu lý luận và thực tiễn hiệu lực
quản lý nhà nước đảm bảo an toàn trong thương mại điện tử ở Việt Nam. Nghiên
cứu được đánh giá và nhìn nhận dưới góc độ quản lý vĩ mô và được kiểm chứng
thực tế từ điển hình một số doanh nghiệp.
Hiệu lực quản lý nhà nước đảm bảo an toàn trong thương mại điện tử được
nghiên cứu trong phạm vi các nội dung:
+ Nghiên cứu về thể chế để đảm bảo an toàn thương mại điện tử ở Việt Nam.
+ Nghiên cứu về tổ chức bộ máy, năng lực thực thi quản lý nhà nước, quy
hoạch về phát triển và đảm bảo an toàn trong thương mại điện tử ở Việt Nam.
+ Nghiên cứu về công tác kiểm tra, giám sát nhằm đảm bảo an toàn trong
thương mại điện tử ở Việt Nam. Công tác thi hành pháp luật, xử lý vi phạm về việc
gây mất an toàn trong thương mại điện tử ở Việt Nam.
Luận án nghiên cứu hiệu lực quản lý nhà nước đảm bảo an toàn trong thương
mại điện tử kể từ năm 2005 cho đến nay và đề xuất các giải pháp cho giai đoạn đến
năm 2020.

`


6

5. Phương pháp nghiên cứu
Luận án được nghiên cứu trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác- Lê Nin và tư
tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật, các quan điểm của Đảng và Nhà
nước về đảm bảo an toàn trong thương mại điện tử. Để thực hiện luận án, tác giả đã
vận dụng đồng thời và hài hòa những phương pháp nghiên cứu chủ đạo trong kinh
tế chính trị như phương pháp duy vật biện chứng và phương pháp duy vật lịch sử để

làm rõ bản chất của hiệu lực quản lý nhà nước đảm bảo an toàn trong thương mại
điện tử, các mối quan hệ biện chứng giữa nội dung của hiệu lực quản lý nhà nước
đảm bảo an toàn trong thương mại điện tử.
+ Phương pháp nghiên cứu tài liệu được sử dụng để để thu thập số liệu, các
thông tin về cơ sở lý thuyết, các công trình nghiên cứu trước đây, chủ trương chính
sách của Nhà nước về đảm bảo an toàn trong thương mại điện tử, kinh nghiệm của
các nước, các số liệu thống kê…
+ Phương pháp so sánh, đối chứng và dự báo để tiến hành đánh giá hiện
trạng, dự báo nguy cơ mất an toàn trong thương mại điện tử và các nhân tố ảnh
hưởng tới hiệu lực quản lý nhà nước đảm bảo an toàn trong thương mại điện tử.
+ Phương pháp áp dụng kỹ thuật tin học để quản lý dữ liệu, phương tiện tính
toán. Đồng thời, tác giả vận dụng các phương pháp nghiên cứu khoa học khác như:
Phương pháp hệ thống hóa và khái quát hóa; phương pháp phân tích, tổng hợp;
phương pháp khảo sát thực tế, từ đó đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu lực quản lý
nhà nước đảm bảo an toàn trong thương mại điện tử ở Việt Nam. Ngoài ra, tác giả
còn nghiên cứu và tham khảo kinh nghiệm về quản lý nhà nước để đảm bảo an toàn
trong thương mại điện tử của một số nước có nhiều điểm tương đồng với Việt Nam
như: Trung Quốc, Hàn Quốc và Singapore để giải quyết các vấn đề về lý luận và
thực tiễn mà đề tài đặt ra.
6. Những đóng góp mới của luận án
Ý nghĩa khoa học: Luận án là một công trình nghiên cứu chuyên khảo đầu
tiên đề cập một cách toàn diện và có hệ thống về hiệu lực quản lý nhà nước đảm
bảo an toàn trong thương mại điện tử ở Việt Nam.

`


7

Về mặt khoa học, luận án có những đóng góp sau:

- Hệ thống hóa và góp phần phát triển cơ sở lý luận về hiệu lực quản lý nhà
nước nhằm đảm bảo an toàn trong thương mại điện tử.
- Phân tích và làm rõ thực trạng về an toàn trong thương mại điện tử ở Việt
Nam và hiệu lực quản lý nhà nước nhằm đảm bảo an toàn trong thương mại điện tử
ở Việt Nam. Đề xuất các tiêu chí đánh giá hiệu lực quản lý nhà nước đảm bảo an
toàn trong thương mại điện tử ở Việt Nam.
- Đề xuất các giải pháp và khuyến nghị về việc nâng cao hiệu lực quản lý nhà
nước đảm bảo an toàn trong thương mại điện tử ở Việt Nam. Trong đó, kiến cụ thể
với các cơ quan quản lý nhà nước, với các hiệp hội như: thương mại điện tử, bảo vệ
quyền lợi người tiêu dùng đồng thời khuyến nghị với tất cả các chủ thể tham gia.
Ý nghĩa thực tiễn: Luận án có thể sử dụng để tham khảo, nghiên cứu, học
tập, phục vụ công tác quản lý nhà nước về thương mại điện tử và nâng cao hiệu lực
quản lý nhà nước đảm bảo an toàn trong thương mại điện tử ở Việt Nam. Đồng thời,
những kiến giải, đề xuất và kết luận trong luận án có thể được sử dụng để tiếp tục
hoàn thiện Luật Giao dịch điện tử, Luật Công nghệ thông tin, Luật Bảo vệ quyền lợi
người tiêu dùng, cùng các Nghị định của Chính Phủ về thương mại điện tử, về công
nghệ thông tin, về an toàn thông tin số…. trong xu thế toàn cầu hóa và hội nhập
kinh tế quốc tế của đất nước.
7. Bố cục của luận án
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, luận án được
kết cấu gồm có 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về hiệu lực quản lý nhà nước đảm bảo an toàn trong
thương mại điện tử.
Chương 2: Thực trạng về hiệu lực quản lý nhà nước đảm bảo an toàn trong thương
mại điện tử ở Việt Nam.
Chương 3: Các giải pháp và kiến nghị nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước đảm bảo
an toàn trong thương mại điện tử ở Việt Nam.
Kết luận

`



8

CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HIỆU LỰC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐẢM BẢO
AN TOÀN TRONG THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ
1.1. An toàn trong thương mại điện tử và nội dung quản lý nhà nước đảm bảo
an toàn trong thương mại điện tử
1.1.1. An toàn trong thương mại điện tử và những vấn đề đặt ra đối với nhà
nước và doanh nghiệp nhằm đảm bảo an toàn trong thương mại điện tử
1.1.1.1. Thương mại điện tử và các hình thức giao dịch trong thương mại điện tử
* Tổng quan và khái niệm về thương mại điện tử
Thương mại điện tử, hiểu theo nghĩa thông thường là hoạt động kinh doanh
thương mại thông qua các phương tiện điện tử. Xét về mặt kỹ thuật hoạt động
thương mại điện tử dựa trên công nghệ số hóa là nhờ thành quả của cuộc cách mạng
khoa học công nghệ, sự phát triển nhanh của công nghệ thông tin và truyền thông,
đặc biệt là mạng Internet, sự ra đời của các sản phẩm kỹ thuật số cầm tay hay các
thiết bị di động. Xét về mặt phát triển kinh tế thì thương mại điện tử là một phương
thức phát triển thương mại hiện đại, vừa là sản phẩm, vừa là công cụ tất yếu cho sự
phát triển kinh tế thế giới trong quá trình toàn cầu hóa dần hướng tới một nền kinh
tế tri thức trong đó thông tin là yếu tố chủ đạo.
Khái niệm thương mại điện tử không đồng nhất với khái niệm giao dịch
thương mại điện tử là khái niệm được nhiều người sử dụng. Các hình thức giao dịch
cụ thể như: Các giao dịch B2B chỉ các giao dịch giữa doanh nghiệp với doanh
nghiệp, B2C chỉ giao dịch giữa doanh nghiệp và người tiêu dùng, G2C chỉ giao dịch
giữa các cơ quan chính phủ với người tiêu dùng. Bán lẻ điện tử là một khái niệm
trong thương mại điện tử chỉ doanh nghiệp áp dụng hình thức bán trưng bày, quảng
bá, giới thiệu sản phẩm qua mạng đến người có nhu cầu và giao hàng hóa cụ thể tận
tay người tiêu dùng.

Hiện nay, có nhiều quan niệm khác nhau về “thương mại điện tử” với nghĩa
rộng hẹp khác nhau, tùy theo cách tiếp cận và mục đích nghiên cứu. Chẳng hạn,
theo Ủy ban Liên Hợp quốc về luật Thương mại quốc tế (UNCITRAL) trong “Luật

`


9

mẫu về thương mại điện tử” thì khái niệm thương mại điện tử được hiểu theo nghĩa
rất rộng, bao gồm tất cả các phương tiện điện tử được dùng trong truyền thông như
là dữ liệu điện tử, thư điện tử, Internet, máy telecopy và máy fax... được dùng để
truyền tải thông tin dưới dạng một thông điệp dữ liệu để tiến hành các hoạt động
thương mại. Hiện nay, luật mẫu này đang tiếp tục được bổ sung các công cụ cụ thể
hơn để xử lý các vấn đề về giao kết hợp đồng thương mại điện tử và xác minh tính
chân thực của các giao dịch thương mại điện tử (Theo UNCITRAL), thuật ngữ
thương mại được diễn giải theo nghĩa rộng, bao quát các vấn đề phát sinh từ mọi
quan hệ trong bản chất thương mại dù có hay không có hợp đồng.
Ủy ban Châu Âu đưa ra định nghĩa về thương mại điện tử như sau: “Thương
mại điện tử được hiểu là việc thực hiện hoạt động kinh doanh qua các phương tiện
điện tử. Nó dựa trên việc xử lý và truyền dữ liệu điện tử dưới dạng chữ, âm thanh và
hình ảnh. Thương mại điện tử gồm nhiều hành vi trong đó hoạt động mua bán hàng
hóa và dịch vụ qua phương tiện điện tử, giao nhận các nội dung kỹ thuật số trên
mạng, chuyển tiền điện tử, mua bán cổ phiếu điện tử, vận đơn điện tử, đấu giá
thương mại, hợp tác thiết kế, tài nguyên mạng, mua sắm công cộng, tiếp thị trực
tiếp tới người tiêu dùng và các dịch vụ sau bán hàng”. Thương mại điện tử được
thực hiện đối với cả thương mại hàng hóa và thương mại dịch vụ; các hoạt động
như chăm sóc sức khỏe, giáo dục và các hoạt động mới như siêu thị ảo. Tóm lại,
theo nghĩa rộng thì thương mại điện tử có thể được hiểu là các giao dịch tài chính và
thương mại bằng phương tiện điện tử như: trao đổi dữ liệu điện tử; chuyển tiền điện

tử và các hoạt động gửi rút tiền bằng thẻ tín dụng.
Thương mại điện tử theo nghĩa hẹp bao gồm các hoạt động thương mại được
thực hiện thông qua mạng Internet. Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) đưa ra các
khái niệm về thương mại điện tử theo hướng này. Thương mại điện tử được nói đến
ở đây là hình thức mua bán hàng hóa được bày tại các trang web trên Internet với
phương thức thanh toán bằng thẻ tín dụng. Có thể nói rằng Thương mại điện tử
đang trở thành một cuộc cách mạng làm thay đổi cách thức mua sắm của con
người. Theo Tổ chức Thương mại Thế giới: “Thương mại điện tử bao gồm việc sản

`


10

xuất, quảng cáo, bán hàng và phân phối sản phẩm được mua bán và thanh toán trên
mạng Internet, nhưng được giao nhận một cách hữu hình cả các sản phẩm được giao
nhận cũng như những thông tin số hóa thông qua mạng Internet”.
Khái niệm về thương mại điện tử do Tổ chức hợp tác phát triển kinh tế của
Liên hợp quốc (UNCTAD) đưa ra là: “Thương mại điện tử được định nghĩa sơ bộ là
các giao dịch thương mại dựa trên truyền dữ liệu qua các mạng truyền thông như
Internet”.
Theo Nghị định số 52/2013/NĐ-CP, ngày 16/5/2013 của Chính phủ về
thương mại điện tử, hoạt động thương mại điện tử được định nghĩa là việc tiến hành
một phần hoặc toàn bộ qui trình của hoạt động thương mại bằng phương tiện điện
tử có kết nối với mạng Internet, mạng viễn thông di động hoặc mạng mở khác. Qua
tổng quan các quan niệm rộng, hẹp khác nhau về thương mại điện tử, có thể tổng
hợp đưa ra khái niệm làm cơ sở cho việc nghiên cứu đề tài luận án này như sau:
Thương mại điện tử là một lĩnh vực hoạt động thương mại của tất cả các
thương nhân, tổ chức, cá nhân bằng cách sử dụng các phương tiện điện tử có kết nối
với mạng Internet, mạng viễn thông di động hoặc các mạng mở dưới các hình thức

tổ chức hoạt động và loại hình giao dịch thương mại điện tử đa dạng.
* Các chủ thể của hoạt động thương mại điện tử
Chủ thể của hoạt động thương mại điện tử là các chủ thể tham gia vào các
loại hình tổ chức hoạt động thương mại điện tử, thực hiện các giao dịch trong
thương mại điện tử với những hình thức đa dạng. Có nhiều tiêu chí phân loại các
nhóm chủ thể của hoạt động thương mại điện tử, tùy theo các tiếp cận và mục đích
phân loại như: phân loại các nhóm chủ thể của hoạt động thương mại điện tử theo
các hình thức tổ chức hoạt động thương mại điện tử, theo các hình thức giao dịch
thương mại điện tử, theo mục đích tham gia hoạt động thương mại điện tử, theo
lãnh thổ cư trú của chủ thể tham gia hoạt động thương mại điện tử, theo hành vi
thương mại của chủ thể tham gia thương mại điện tử. Chẳng hạn, Nghị định số
52/2013/NĐ-CP, ngày 16/5/2013 của Chính phủ về thương mại điện tử đã phân loại
các chủ thể tham gia hoạt động thương mại điện tử trên lãnh thổ Việt Nam theo mục

`


11

đích tham gia hoạt động của các chủ thể gồm 6 nhóm chủ thể: (i) các thương nhân,
tổ chức, cá nhân tự thiết lập website thương mại điện tử để phục vụ hoạt động xúc
tiến thương mại bán hàng hóa hoặc cung ứng dịch vụ của mình (gọi chung là người
sở hữu website thương mại điện tử bán hàng); (ii) các thương nhân, tổ chức thiết lập
website thương mại điện tử để cung cấp môi trường cho thương nhân, tổ chức, cá
nhân khác tiến hành hoạt động xúc tiến thương mại bán hàng hóa hoặc cung ứng
dịch vụ (gọi chung là thương nhân, tổ chức cung cấp dịch vụ thương mại điện tử);
(iii) các thương nhân, tổ chức, cá nhân sử dụng website của thương nhân, tổ chức
cung cấp dịch vụ thương mại điện tử để phục vụ hoạt động xúc tiến thương mại,
bán hàng hóa hoặc cung ứng dịch vụ (gọi chung là người bán); (iv) các thương
nhân, tổ chức, cá nhân mua hàng hóa hoặc dịch vụ trên website thương mại điện tử

bán hàng và website cung cấp dịch vụ thương mại điện tử (gọi chung là khách
hàng); (v) các thương nhân, tổ chức, cá nhân cung cấp hạ tầng kỹ thuật cho người
sở hữu website thương mại điện tử bán hàng và cho thương nhân, tổ chức cung cấp
dịch vụ thương mại điện tử (gọi chung là thương nhân, tổ chức, cung cấp hạ tầng);
(vi) các thương nhân, tổ chức, cá nhân sử dụng thiết bị điện tử có nối mạng khác để
tiến hành hoạt động thương mại.
* Các hình thức tổ chức hoạt động thương mại điện tử
Hình thức tổ chức hoạt động thương mại điện tử là sự biểu hiện cụ thể và là
nơi diễn ra các hoạt động thương mại điện tử mà các chủ thể tham gia thương mại
điện tử hoặc cơ quan quản lý nhà nước có thể nhận biết, nhận diện được chủ yếu
dưới dạng các website thương mại điện tử. Để quản lý hoạt động thương mại điện
tử và các qui định quản lý, chính sách và chế tài cụ thể đối với từng hình thức cụ
thể. Chẳng hạn, Nghị định 52/2013/NĐ-CP của Chính phủ về thương mại điện tử đã
phân loại hình thức tổ chức hoạt động thương mại điện tử cụ thể và có các chế tài
quản lý đối với từng loại hình thức cụ thể, như: (i) website thương mại điện tử bán
hàng; (ii) website cung cấp dịch vụ thương mại điện tử gồm sàn giao dịch thương
mại điện tử, website đấu giá trực tuyến, các website khác do Bộ Công thương qui

`


12

định; (iii) các hình thức hoạt động thương mại điện tử tiến hành trên mạng viễn
thông di động (được Bộ Công thương qui định cụ thể).
* Các loại hình giao dịch trong thương mại điện tử
Hình thức giao dịch trong thương mại điện tử là các mối quan hệ tương tác
trao đổi thông tin và giao kết hợp đồng thương mại điện tử, giao dịch mua bán hàng
hóa và dịch vụ giữa các nhóm chủ thể khi tham gia các giao dịch vì mục đích
thương mại bằng phương tiện điện tử.

Các hình thức giao dịch trong thương mại điện tử có thể được phân loại theo
những tiêu chí khác nhau như căn cứ vào tính chất của các giao dịch thương mại
điện tử, căn cứ vào mục đích kinh tế của các chủ thể thực hiện giao dịch thương mại
điện tử, căn cứ các hình thức tổ chức hoạt động thương mại điện tử, căn cứ các hình
thức giao dịch điện tử… Có thể phân định các hình thức giao dịch thương mại điện
tử cụ thể theo các tiêu chí này như sau:
- Căn cứ tính chất của các giao dịch thương mại điện tử có các loại hình: các
giao dịch trao đổi thông tin thương mại, các giao dịch ký kết hợp đồng thương mại
điện tử, các giao dịch thanh toán trong thương mại điện tử, các giao dịch quản trị
hoạt động thương mại điện tử.
- Căn cứu mục đích kinh tế của các chủ thể tham gia giao dịch thương mại
điện tử có các loại hình: Giao dịch bán hàng hóa và dịch vụ; Giao dịch mua hàng
hóa và dịch vụ.
- Căn cứ địa vị pháp lý của các chủ thể tham gia giao dịch thương mại điện
tử, có các loại hình: Giao dịch giữa thương nhân với thương nhân; Giao dịch giữa
thương nhân với người tiêu dùng; Giao dịch giữa thương nhân với các tổ chức, cá
nhân (không phải là thương nhân).
- Căn cứ vào các nhóm chủ thể của hoạt động thương mại điện tử có các
loại hình: Giao dịch của những người sở hữu website thương mại điện tử bán hàng
hóa và dịch vụ với những người mua hàng hóa và dịch vụ; Giao dịch của những
thương nhân hoặc tổ chức cung ứng dịch vụ thương mại điện tử với những người sử
dụng thương mại điện tử; Giao dịch giữa các thương nhân, tổ chức cung cấp hạ tầng

`


13

kỹ thuật thương mại điện tử với các thương nhân, tổ chức sở hữu website thương
mại điện tử và các thương nhân, tổ chức cung cấp dịch vụ thương mại điện tử.

- Căn cứ các hình thức tổ chức hoạt động thương mại điện tử, có các loại
hình: Giao dịch trên website thương mại điện tử bán hàng; Giao dịch trên các
website cung cấp dịch vụ thương mại điện tử (các sàn giao dịch thương mại điện tử,
các giao dịch trên website đấu giá trực tuyến, các giao dịch trên các website khuyến
mại trực tuyến…).
- Căn cứ các hình thức giao dịch điện tử phổ biến thường được qui định
trong các đạo luật về giao dịch điện tử, tác động qua lại giữa các chủ thể với nhau
trong môi trường mạng máy tính có một số hình thức giao dịch điện tử dưới đây bao
hàm trong đó có các giao dịch thương mại điện tử, gồm:
+ Giao dịch giữa doanh nghiệp và doanh nghiệp (B2B): Đây là giao dịch
mua bán các sản phẩm hàng hóa và dịch vụ giữa các doanh nghiệp trong quá trình
sản xuất kinh doanh kèm theo các dịch vụ tư vấn, bảo trì, nâng cấp sau bán hàng.
Doanh nghiệp cần lựa chọn nguồn hàng, đặt hàng từ các nhà cung cấp, nhận hóa
đơn và thanh toán. Các quá trình trên trước đây mất rất nhiều thời gian, nhân công
do phải làm việc, đàm phán và gặp mặt trực tiếp, nay toàn bộ quá trình trên đều có
thể thực hiện tại bất cứ đâu và vào bất cứ thời gian nào được cho là phù hợp với hai
bên thông qua mạng Internet. Điều này giúp giảm thiểu chi phí, tận dụng thời gian,
nâng cao năng lực cạnh tranh cho doanh nghiệp. Thực tế, loại giao dịch này đã được
sử dụng từ nhiều năm ở các mức độ khác nhau, trước khi ra đời mạng Internet, ví dụ
như giao dịch thanh toán điện tử đã được sử dụng trên các mạng riêng từ năm 1970
tại Mỹ. Giao dịch thương mại điện tử giữa hai chủ thể là doanh nghiệp dưới hình
thức B2B giúp cả hai chủ thể là doanh nghiệp tiết kiệm được nhiều chi phí, lựa chọn
đầu vào tốt hơn, quản lý tốt việc cung tiêu hàng hóa, thay đổi nhanh sản phẩm mẫu
mã, đưa hàng ra thị trường. Sau này, xuất hiện website trung gian để các doanh
nghiệp giới thiệu, báo giá sản phẩm, tạo sân chơi mua bán hàng hóa, trang web này
được gọi là sàn giao dịch điện tử. Bên cạnh việc tạo ra một sân chơi cho các doanh
nghiệp thực hiện việc mua bán, sàn giao dịch có thể thực hiện các giá trị gia tăng

`



14

như cung cấp thông tin cần thiết do các doanh nghiệp tự quảng bá, tổ chức hội thảo,
cung cấp các nghiên cứu điều tra thị trường cho doanh nghiệp.
+ Giao dịch giữa doanh nghiệp và người tiêu dùng (B2C): Đây là giao dịch
mà ở đó người tiêu dùng mua hàng trực tiếp và các doanh nghiệp thực hiện việc bán
lẻ qua mạng thông qua website của doanh nghiệp hoặc sàn giao dịch. Các giao dịch
B2C không chỉ dừng ở mục tiêu cung cấp sản phẩm tới tận tay người tiêu dùng mà
mở rộng thêm các hoạt động dịch vụ như thông tin chất lượng sản phẩm, độ tin cậy
thông qua các diễn đàn thuộc sàn giao dịch, ngân hàng, đấu giá, bất động sản, du
lịch. Hình thức bán lẻ điện tử ngày càng được các doanh nghiệp chú ý và đầu tư
triển khai áp dụng vì tiếp cận khách hàng nhanh chóng và thuận lợi. Bán hàng trong
B2C khác với B2B bởi giá cả thường cố định, doanh nghiệp chỉ cần xây dựng
catalog, hệ thống duyệt dễ dàng cho khách hàng thăm quan, tìm kiếm sản phẩm, tìm
ra giải pháp thu tiền bằng nhiều hình thức thanh toán để giao hàng nhanh, hiệu quả
đến tận khách hàng.
+ Giao dịch giữa doanh nghiệp và cơ quan chính phủ (B2G): Đây là các giao
dịch giữa các doanh nghiệp và chính phủ với tư cách là một tổ chức tham gia hoạt
động thương mại như mua sắm công, cung ứng dịch vụ thương mại điện tử hoặc
cung cấp hạ tầng kỹ thuật thương mại điện tử. Các cơ quan chính phủ có thể thực
hiện mua sắm trang thiết bị, hàng hóa dạng kỹ thuật số như phần mềm, ứng dụng
cho chính phủ thông qua mạng như người tiêu dùng.
+ Giao dịch thương mại giữa cá nhân với cá nhân (C2C): Đây là các giao
dịch thương mại giữa các cá nhân không phải là thương nhân hay tổ chức có nhu
cầu mua hoặc bán các hàng hóa dịch vụ mà mình sở hữu bằng phương tiện điện tử
hay còn được gọi một cách khác là giao dịch thương mại giữa khách hàng với khách
hàng. Hình thức giao dịch thương mại điện tử này cho phép thông qua website của
cá nhân tổ chức các sàn đấu giá; Các giao dịch dân sự như tìm việc, cho thuê nhà,
cần thuê nhà, mua bán ô tô, xe máy, sửa chữa đồ điện tử… cũng được đưa lên mạng

Internet thông qua website cá nhân hoặc trung gian. Giao dịch C2C có nhiều ưu
điểm nên số lượng các doanh nghiệp kinh doanh trực tuyến ngày càng nhiều.

`


15

1.1.1.2. An toàn và rủi ro trong thương mại điện tử
* Khái niệm an toàn trong thương mại điện tử
An toàn trong thương mại điện tử là khái niệm chỉ trạng thái về lợi ích hợp
pháp của các chủ thể tham gia các giao dịch trong thương mại điện tử và tính chân
thực, chính xác của các dữ liệu thương mại được giao dịch, truyền dẫn trong môi
trường điện tử. Theo đó, những khía cạnh và yếu tố quan trọng nhất liên quan đến
sự an toàn hoặc rủi ro mất an toàn trong giao dịch thương mại điện tử, gồm:
(i) Giá trị pháp lý của các giao kết hợp đồng thương mại điện tử, tính chân
thực của các giao dịch thương mại điện tử và các chữ ký của các bên liên quan tham
gia hợp đồng được thể hiện thông qua các chữ ký số (chữ ký điện tử).
(ii) Sự riêng tư thông tin và mức độ bảo mật thông tin cá nhân, thông tin
thương mại của các bên tham gia giao dịch thương mại điện tử, tính chân thực của
các nhận dạng dữ liệu và độ an toàn của các vụ giao dịch, trách nhiệm pháp lý và
quyền hạn (của người mua và người bán đối với vụ giao dịch đó).
(iii) Sự an toàn của các hoạt động thanh toán điện tử trong thương mại điện
tử bao gồm cả lĩnh vực tạo tiền điện tử, các giao dịch thanh toán hợp đồng thương
mại bằng phương tiện điện tử.
(iv) Sự lừa đảo trong thương mại điện tử; Sự không chân thật một cách cố ý
mục đích phá hoại hoặc bóp méo nội dung dữ liệu gây thất thoát về tài sản, uy tín,
thương hiệu cho các bên tham gia giao dịch thương mại điện tử.
(v) Bảo đảm quyền sở hữu trí tuệ đối với bản quyền và nhãn hiệu thương
mại được áp dụng trong truyền dẫn điện tử (như tải xuống và phân phối những

thông tin, chương trình, số liệu … không được phép của chủ sở hữu hay bảo vệ bí
mật công nghệ mới trong môi trường số hóa).
Như vậy, khái niệm “An toàn trong thương mại điện tử” gồm các nội hàm
chủ yếu: An toàn pháp lý, an toàn thông tin, an toàn kỹ thuật, an toàn tài chính, an
toàn tài sản hữu hình và tài sản vô hình… cho các bên chủ thể tham gia các giao
dịch thương mại điện tử dưới mọi hình thức. Từ sự phân định như trên, có thể đưa
ra khái niệm chung nhất về an toàn trong thương mại điện tử như sau:

`


16

An toàn trong thương mại điện tử là sự không bị xâm hại về lợi ích hợp
pháp của các bên, các chủ thể tham gia hoạt động thương mại điện tử, gồm các lợi
ích pháp lý, lợi ích thông tin, lợi ích kỹ thuật công nghệ, lợi ích tài chính, lợi ích tài
sản hữu hình và mô hình khác. Đảm bảo an toàn trong thương mại điện tử là sự bảo
vệ các lợi ích hợp pháp về pháp lý của các giao kết hợp đồng trong thương mại điện
tử, về thông tin, về kỹ thuật công nghệ, về tài chính và tài sản của các bên, các chủ
thể (cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp, chính phủ…) tham gia hoạt động thương mại
điện tử, tham gia các giao dịch thương mại điện tử dưới mọi hình thức.
* Những nội dung cơ bản của an toàn trong thương mại điện tử
- An toàn pháp lý đối với các giao dịch trong thương mại điện tử: Việc đảm
bảo giá trị pháp lý của các giao kết hợp đồng thương mại điện tử, các giao dịch
trong thương mại điện tử là một nội dung quan trọng nhất tạo lập sự an toàn trong
thương mại điện tử. Thương mại điện tử giúp thực hiện các giao dịch, thanh toán,
marketing và gia tăng giá trị của sản phẩm hàng hóa hữu hình hoặc truyền những cơ
sở dữ liệu liên quan tới thẻ tín dụng, các phương tiện thanh toán khác của khách
hàng. Việc đảm bảo an toàn cho các thông tin trên là rất quan trọng, song đang phải
đối diện với một vấn đề: làm thế nào để tìm ra được một trạng thái cân bằng hợp lý

giữa một bên là an toàn và một bên là tiện dụng (gồm các chức năng, các đặc tính
dễ thao tác của hệ thống này). Một hệ thống càng an toàn thì khả năng xử lý, thực
thi thao tác càng phức tạp. Còn ngược lại, có thể sẽ không đảm bảo an toàn.
Trong phương thức hoạt động thương mại truyền thống (còn gọi là thương
mại trên giấy tờ), người mua có thể gặp những rủi ro khi đi mua hàng như không
nhận được những hàng hóa mà mình đã mua và thanh toán. Nguy hiểm hơn, khách
hàng có thể bị kẻ xấu lấy cắp trong khi mua sắm. Nếu là người bán hàng, thì rủi ro
là có thể không nhận được tiền thanh toán của người mua. Thậm chí, kẻ xấu có thể
trộm hàng hóa, hoặc có những hành vi lừa đảo như thanh toán bằng thẻ tín dụng ăn
cắp được hoặc bằng tiền giả… Nhìn chung, tất cả các loại tội phạm diễn ra trong
phương thức hoạt động thương mại truyền thống đều xuất hiện trong thương mại
điện tử dưới nhiều hình thức tinh vi và phức tạp hơn. Trong khi đó, việc giảm các

`


17

rủi ro trong thương mại điện tử là một quá trình phức tạp liên quan đến nhiều công
nghệ mới, nhiều thủ tục và các chính sách tổ chức, liên quan đến những đạo luật
mới và những tiêu chuẩn công nghệ mới.
Để đạt được mức độ an toàn cao trong thương mại điện tử, chúng ta phải sử
dụng nhiều công nghệ mới. Song bản thân các công nghệ mới này không thể giải
quyết được tất cả mọi vấn đề. Cần có các qui định pháp lý cụ thể, chặt chẽ về các
thủ tục, chính sách, biện pháp tổ chức,v.v… để đảm bảo cho các công nghệ trên
không bị phá hỏng. Các tiêu chuẩn công nghệ và các bộ luật mới được Quốc hội
thông qua, các nghị định mới phù hợp của Chính Phủ cũng cần được áp dụng để
tăng hiệu quả hoạt động của các kỹ thuật thanh toán và để theo dõi, đưa ra xét xử
những vi phạm luật pháp trong thương mại điện tử.
- An toàn hạ tầng kỹ thuật và công nghệ trong thương mại điện tử: An toàn

hạ tầng kỹ thuật và công nghệ trong thương mại điện tử luôn mang tính tương đối.
Lịch sử an toàn trong giao dịch thương mại điện tử đã chứng minh rằng, bất cứ hệ
thống kỹ thuật công nghệ bảo vệ an toàn nào cũng có thể bị phá vỡ nếu không đủ
sức để chống lại các cuộc tấn công từ phía bên ngoài hoặc bên trong. Hơn nữa, một
sự bảo vệ an toàn tuyệt đối về kỹ thuật công nghệ không hẳn là giải pháp tối ưu về
kinh tế trong thời đại thông tin. Thông tin chỉ có thể có giá trị trong vài giờ, vài
ngày hoặc vài năm và chỉ cần bảo vệ chúng trong khoảng thời gian đó đảm bảo an
toàn là đủ. An toàn trong thương mại điện tử luôn đi kèm theo chi phí, mức độ an
toàn càng cao thì chi phí càng lớn, vì vậy cần cân nhắc các khoản chi phí bảo đảm
an toàn cho những đối tượng cần bảo vệ. Đồng thời, để về kỹ thuật đảm bảo an toàn
trong trong thương mại điện tử là cả một chuỗi liên kết và nó thường đứt ở những
điểm yếu nhất. Cũng giống như việc chúng ta sử dụng khóa, ổ khóa bao giờ cũng
chắc chắn và có độ an toàn cao hơn việc quản lý các chìa khóa.
- An toàn thông tin: Việc bảo vệ thông tin số và các hệ thống thông tin chống
lại các nguy cơ tự nhiên, các hành động truy cập, sử dụng, phát tán, sửa đổi, phá
hoại, và phá hủy bất hợp pháp nhằm bảo đảm cho các hệ thống thông tin thực hiện
đúng chức năng, phục vụ đúng đối tượng một cách sẵn sàng, chính xác và tin cậy là

`


18

một trong những nội dung và yêu cầu cơ bản đảm bảo an toàn trong thương mại
điện tử. Hiện nay các thủ đoạn của tội phạm công nghệ cao khi tấn công lĩnh vực
hoạt động thương mại điện tử càng ngày càng tinh vi, sự biện pháp tấn công càng
ngày càng tinh vi, sự đe doạ tới độ an toàn thông tin có thể đến từ nhiều nơi theo
nhiều cách chúng ta nên đưa ra các chính sách và phương pháp đề phòng cần thiết.
Mục đích cuối cùng của an toàn thông tin, bảo mật là bảo vệ các thông tin và tài
nguyên theo các yêu cầu: Đảm bảo tính tin cậy; Đảm bảo tính nguyên vẹn; Đảm bảo

tính sẵn sàng; Đảm bảo tính không thể từ chối.
Khi nhu cầu trao đổi thông tin dữ liệu ngày càng lớn và đa dạng, các tiến bộ
về điện tử - viễn thông và công nghệ thông tin không ngừng được phát triển ứng
dụng để nâng cao chất lượng và lưu lượng truyền tin thì các quan niệm ý tưởng và
biện pháp bảo vệ thông tin dữ liệu cũng được đổi mới. Bảo vệ an toàn thông tin dữ
liệu là một chủ đề rộng, có liên quan đến nhiều lĩnh vực và trong thực tế có rất
nhiều phương pháp đang được thực hiện để bảo vệ an toàn thông tin dữ liệu. Các
phương pháp bảo vệ an toàn thông tin dữ liệu có thể được quy tụ vào ba nhóm sau:
Bảo vệ an toàn thông tin bằng biện pháp hành chính; Bảo vệ thông tin bằng biện
pháp kỹ thuật; Bảo vệ an toàn thông tin bằng các biện pháp thuật toán. Để đảm bảo
an toàn thông tin dữ liệu trên đường truyền tin và trên mạng máy tính có hiệu quả
thì điều trước tiên là phải lường trước hoặc dự đoán trước các khả năng không an
toàn, khả năng xâm phạm, các sự cố rủi ro có thể xảy ra đối với thông tin dữ liệu
được lưu trữ và trao đổi trên đường truyền tin cũng như trên mạng. Xác định càng
chính xác các nguy cơ thì càng quyết định được tốt giải pháp để giảm thiệt hại.
Có hai loại hành vi xâm phạm thông tin dữ liệu đó là: Vi phạm chủ động và
vi phạm thụ động. Vi phạm thụ động chỉ nhằm mục đích cuối cùng là nắm bắt được
thông tin. Việc làm đó có khi không biết được nội dung cụ thể nhưng có thể dò ra
được người gửi, người nhận nhờ thông tin được điều khiển giao thức chứa trong
phần đầu các gói tin. Kẻ xâm nhập có thể kiểm tra được số lượng, độ dài và tần số
trao đổi. Vì vậy, vi phạm thụ động không làm sai lệch hoặc hủy hoại nội dung thông
tin dữ liệu được trao đổi. Vi phạm thụ động thường khó phát hiện nhưng có thể có

`


19

những biện pháp ngăn chặn hiệu quả. Vi phạm chủ động là dạng vi phạm có thể làm
thay đổi nội dung, xóa bỏ, làm trễ, xắp xếp lại thứ tự, hoặc làm lặp lại gói tin tại

thời điểm đó hoặc sau đó một thời gian. Vi phạm chủ động có thể thêm vào một số
thông tin ngoại lai để làm sai lệch nội dung thông tin cần trao đổi, thường dễ bị phát
hiện nhưng để ngăn chặn hiệu quả thì khó khăn hơn nhiều.
- An toàn trong thanh toán trực tuyến: Sự mất an toàn thường xảy ra ở khâu
thanh toán trực tuyến, với các tình huống chủ yếu sau:
+ Giả mạo các thông tin nhận dạng của khách hàng: Thông tin thẻ tín dụng
có thể bị lấy trộm bằng nhiều cách khác nhau, có thể qua trực tuyến hoặc qua những
giấy biên nhận thẻ tín dụng được bỏ đi. Bằng phần mềm, tội phạm có thể có được
thông tin thẻ tín dụng ảo bằng cách xâm nhập vào trong cơ sở dữ liệu của khách
hàng thông qua các lỗ hỏng của hệ thống.Với thông tin thẻ tín dụng đánh cắp được,
tội phạm có thể dùng nó để mua hàng hóa, dịch vụ.
+ Giả mạo thông tin nhận dạng người bán: Cũng giống như tội phạm tìm
cách xâm nhập vào một két tiền, tội phạm trực tuyến cũng xâm nhập vào két tiền ảo
của chủ thể bằng cách ăn trộm thông tin truy cập để mạo danh. Hành vi đó gọi là ăn
trộm thông tin nhận dạng người bán. Thông tin này được sử dụng trái phép để truy
cập vào tài khoản của các chủ thể tham gia giao dịch. Bằng cách này, tội phạm lấy
trộm tiền trực tuyến từ các chủ thể tham gia bằng cách phát hành các thẻ tín dụng
hay các giấy tờ thanh toán khác.
+ Truy cập vào các hệ thống thanh toán: Tội phạm cần phải truy cập vào
được các hệ thống thanh toán để thực hiện gian lận thông qua hai kênh chính: Một
là, trang thanh toán trên trang web của chủ thể tham gia. Hai là, tài khoản cửa ngõ
thanh toán của chủ thể tham gia. Bằng các hành vi khác nhau, tội phạm sử dụng
thông tin nhận dạng người bán để giả mạo chủ thể tham gia giao dịch giành quyền
kiểm soát và ăn trộm tiền hay thực hiện các hành vi phạm tội khác.
Đối với các chủ thể tham gia giao dịch thương mại điện tử đặc biệt khi chủ
thể là doanh nghiệp không có các chương trình bảo vệ an toàn thì bọn tội phạm
thường sử dụng các kỹ thuật giăng bẫy tinh vi bằng cách sử dụng các phần mềm

`



20

thông minh cho phép chúng tìm kiếm trên Internet các doanh nghiệp có các lỗ hỏng
trong hệ thống. Sau đó, sẽ sử dụng thông tin này phá vỡ hệ thống để lấy trộm thông
tin truy cập vào tài khoản của doanh nghiệp và thực hiện các hành vi ăn trộm hay
tiếp quản. Xu hướng tội phạm ngày càng trở nên tinh vi hơn khi thực hiện việc mô
hình hóa hoạt động của chúng dưới dạng các quy trình nghiệp vụ phổ biến để lừa
người sử dụng nhằm đánh cắp và gian lận các thông tin quan trọng. Sự lừa đảo đến
từ các email hoặc các phần mềm độc hại đội lốt là một ứng dụng bảo mật hợp pháp
nhằm đánh lừa người sử dụng luôn là vấn đề mà người tiêu dùng lo lắng. Không chỉ
nguy hiểm với người dùng máy tính cá nhân, cùng với sự phổ biến của các dòng
điện thoại thông minh, tội phạm ảo chuyển hướng tấn công sang điện thoại di động
truy cập Internet. Một trong những lý do cho xu hướng này là người sử dụng không
chú ý dùng bảo mật điện thoại như máy tính mà thực chất một chiếc điện thoại có
khả năng như một máy vi tính dùng để truy nhập tài khoản, dữ liệu hệ thống. Khi tải
về ứng dụng từ điện thoại thông minh người dùng có thể bị thu thập các số liệu và
để lộ vị trí. Ngoài ra, các đối tượng có nguy cơ bị gian lận trực tuyến luôn phải đối
mặt với các loại hình như: hàng ảo, tiền thật, tội phạm có tổ chức và thậm chí là cả
nguy cơ chiến tranh trên mạng hay còn gọi một cách khác là chiến tranh ảo.
- An toàn tài sản, nhất là tài sản trí tuệ trong thương mại điện tử: Các chủ thể
tham gia giao dịch thương mại điện tử có thể trở thành nạn nhân của các hành vi
gian lận, lừa đảo trực tuyến (chẳng hạn như vụ việc trang web mua bán 24h tổ chức
lừa đảo bằng hình thức bán các gian hàng ảo theo kiểu kinh doanh đa cấp), dẫn đến
các tổn thất lớn về tài sản. Internet và các mạng mở khác là môi trường thuận lợi
cho việc trao đổi, chia sẻ các đối tượng của quyền sở hữu trí tuệ. Phần lớn các đối
tượng của quyền sở hữu trí tuệ như tác phẩm văn học- nghệ thuật, tài liệu khoa học
kỹ thuật, chương trình phần mềm máy tính, cơ sở dữ liệu có sáng tạo, nhãn hiệu
thương mại, chỉ dẫn địa lý, thiết kế kiểu dáng công nghiệp … đều có thể được
truyền tải dễ dàng qua Internet và các mạng mở khác và chúng có thể bị phát tán,

chia sẻ và bị chiếm dụng bất hợp pháp dẫn đến những tổn thất lớn về tài sản trí tuệ
hợp pháp của các chủ thể tham gia các giao dịch trong thương mại điện tử. Vì thế,

`


21

an toàn tài sản, nhất là tài sản trí tuệ của các chủ thể tham gia các giao dịch trong
thương mại điện tử là một nội dung quan trọng của đảm bảo an toàn trong thương
mại điện tử.
* Những rủi ro chủ yếu trong thương mại điện tử
Thương mại điện tử là một hoạt động kinh doanh mang lại hiệu quả cao,
song một khi gặp rủi ro thì những thiệt hại đối với các doanh nghiệp kinh doanh
trên mạng cũng không nhỏ. Những sơ suất trong kỹ thuật của nhân viên như sự
nhầm lẫn khi truyền dữ liệu, hay một động tác nhấp “chuột” vô tình,… đều có thể
làm cho toàn bộ dữ liệu của một thương vụ đang giao dịch bị xóa bỏ, hoặc những
chương trình và những tệp dữ liệu đang lưu trữ mà doanh nghiệp dày công thiết kế
và xây dựng bị mất, gây thiệt hại nặng nề cho các doanh nghiệp về mặt tài chính.
Những yếu tố khách quan như máy hỏng hay thời tiết xấu, nghẽn máy,… có thể làm
tê liệt hoạt động của doanh nghiệp, hoặc tệ hại hơn là virus xâm nhập phá hủy, đảo
lộn toàn bộ cơ sở dữ liệu về khách hàng, đối tác, thị trường,… được lưu giữ hay ăn
cắp những thông tin tuyệt mật có thể làm mất đi cơ hội kinh doanh hoặc làm suy
giảm nghiêm trọng uy tín của doanh nghiệp.
Rủi ro trong thương mại điện tử là những tai nạn, sự cố, tai họa xảy ra một
cách ngẫu nhiên, khách quan ngoài ý muốn của con người mà gây ra tổn thất cho
các bên tham gia trong quá trình tiến hành giao dịch trong thương mại điện tử. Rủi
ro trong thương mại điện tử với những hình thái muôn màu muôn vẻ tuy nhiên tựu
chung lại có thể chia thành bốn nhóm cơ bản sau:
- Nhóm rủi ro dữ liệu

- Nhóm rủi ro về công nghệ
- Nhóm rủi ro về thủ tục quy trình giao dịch của tổ chức
- Nhóm rủi ro về luật pháp và các tiêu chuẩn công nghệ.
Rủi ro về dữ liệu đối với người bán: Thay đổi địa chỉ nhận đối với chuyển
khoản ngân hàng và do vậy chuyển khoản này sẽ được chuyển tới một tài khoản
khác của người xâm nhập bất chính. Nhận được những đơn đặt hàng giả mạo của
một khách hàng quốc tế đặt hàng và sau đó từ chối hành động này, người bán hàng

`


22

trực tuyến thường không có cách nào để xác định rằng thực chất hàng hóa đã được
giao đến tay khách hàng hay chưa và chủ thẻ tín dụng có thực sự là người đã thực
hiện đơn đặt hàng hay không.
Rủi ro về dữ liệu đối với người mua: Thông tin bí mật về tài khoản bị đánh
cắp khi tham gia giao dịch thương mại điện tử. Thông tin cá nhân của họ có thể bị
chặn và đánh cắp khi họ gửi đi một đơn đặt hàng hay chấp nhận chào hàng. Hiện
tượng các trang web giả mạo, giả mạo địa chỉ Internet, phong tỏa dịch vụ, và thư
điện tử giả mạo của các tổ chức tài chính ngân hàng. Tin tặc tấn công và các
website thương mại điện tử, truy cập các thông tin về thẻ tín dụng đã không chỉ xâm
phạm đến tính tin cậy của dữ liệu mà còn vi phạm quyền riêng tư đối với các thông
tin cá nhân của khách hàng.
Rủi ro về dữ liệu đối với chính phủ: Các tin tặc có nhiều kỹ thuật tấn công
các trang web này nhằm làm lệch lạc thông tin, đánh mất dữ liệu thậm chí là đánh
“sập” khiến các trang web này ngừng hoạt động. Đặc biệt một số tổ chức tội phạm
đã sử dụng các tin tặc để phát động các cuộc tấn công mang tính chất chính trị hoặc
tương tự như vậy.
Những rủi ro liên quan đến công nghệ: Xét trên góc độ công nghệ thì có ba

bộ phận dễ bị tấn công và tổn thương nhất khi thực hiện giao dịch thương mại điện
tử là hệ thống của khách hàng, máy chủ của doanh nghiệp, nhà cung cấp dịch vụ,
người bán, ngân hàng và đường dẫn thông tin. Những rủi ro thường gặp nhất về
công nghệ đối với các website thương mại điện tử, đó là: Các chương trình máy tính
nguy hiểm, Tin tặc và các chương trình phá hoại, Rủi ro về gian lận thẻ tín dụng,
Sự khước từ phục vụ của một website, Kẻ trộm trên mạng

`


23

Nhóm rủi ro về pháp luật và tiêu chuẩn công nghiệp: Đó là hiệu lực pháp lý
của giao dịch thương mại điện tử. Nước ta mặc dù đã có luật về giao dịch điện tử,
trong đó thừa nhận giá trị pháp lý của các tài liệu điện tử. Cả người gửi và người
nhận các tài liệu này không thể từ chối hiệu lực pháp lý của nó và cũng không thể từ
chối rằng mình đã gửi hay đã nhận tài liệu đó nếu có sử dụng chữ ký điện tử an
toàn. Tuy nhiên làm thế nào để đảm bảo rằng một thoả thuận đạt được qua hệ thống
điện tử sẽ có tính ràng buộc về mặt pháp lý khi có sự khác nhau giữa các hệ thống
pháp luật khác nhau, ví dụ Việt Nam và Nhật Bản? Chưa có một công ước chung
nào về giao dịch thương mại điện tử có hiệu lực sẽ gây trở ngại trong việc giải quyết
tranh chấp khi hợp đồng bị vi phạm. Việc lựa chọn toà án, trọng tài, luật điều chỉnh
khi xẩy ra tranh chấp từ giao dịch điện tử là một vấn đề cần thiết để tránh các rủi ro
có thể phát sinh. Các quy định cản trở sự phát triển của thương mại điện tử hoặc
chưa tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển thương mại điện tử như đăng ký website,
mua bán tên miền; sự chậm trễ về dịch vụ chứng thực điện tử, thanh toán điện tử
một phần là do thiếu các văn bản pháp lý điều chỉnh Rủi ro về tiêu chuẩn công
nghiệp. Thiếu một hạ tầng công nghệ thông tin đồng bộ và chưa có một hệ thống
các tiêu chuẩn công nghiệp phù hợp với tiêu chuẩn quốc tế và khu vực. Sự thiếu
đồng bộ về tiêu chuẩn công nghiệp sẽ gây nhiều khó khăn trong việc trao đổi thông

tin và đặc biệt là hoạt động chào hàng, đặt hàng cũng như vận chuyển hàng hoá, thủ
tục hải quan, thuế… Mặt khác sự khác biệt giữa tiêu chuẩn công nghiệp trong
thương mại truyền thống và thương mại điện tử cũng có thể gây ra những rủi ro
không mong đợi. Đặc biệt là đối với những hàng hoá vô hình như các loại dịch vụ
trên Internet thì hiện nay vẫn chưa có một hệ thống tiêu chuẩn công nghiệp nào để
đánh giá chính xác.
Một số rủi ro điển hình khác:
+ Rủi ro vì mất cơ hội kinh doanh: Không được giao dịch trên mạng Internet
bởi vì đã có người đăng ký bản quyền.
+ Rủi ro liên quan tới việc thay đổi công nghệ.

`


24

+ Rủi ro liên quan đến thông tin cá nhân: Một số tin tặc còn có thể thay đổi
thông tin cá nhân khiến cho người sử dụng gặp nhiều rắc rối không chỉ trong giao
dịch trên mạng mà còn trong cuộc sống bên ngoài.
+ Rủi ro bị mất tài sản thông tin bao gồm những rủi ro gây ra những tổn thất
về dữ liệu, các nguồn hệ thống máy tính và tài sản thông tin như số thẻ tín dụng, các
thông tin về khách hàng, kể cả băng thông của đường truyền do những cuộc tấn
công trên mạng.
1.1.1.3. Những vấn đề chủ yếu đặt ra đối với nhà nước nhằm đảm bảo an toàn
trong thương mại điện tử
- Sự thừa nhận pháp lý đối với thông điệp dữ liệu: Thông điệp dữ liệu là hình
thức thông tin được trao đổi qua phương tiện điện tử trong các giao dịch thương mại
điện tử. Thừa nhận giá trị pháp lý của các thông điệp dữ liệu là cơ sở cho việc thừa
nhận các giao dịch thương mại điện tử, thể hiện dưới các khía cạnh: có thể thay thế
văn bản giấy, có giá trị như bản gốc, có giá trị lưu trữ và chứng cứ, xác định trách

nhiệm các bên và thời gian, địa điểm gửi, nhận thông điệp dữ liệu. Tài liệu giấy
thông thường luôn được coi là cơ sở pháp lý đáng tin cậy, sao chụp được và không
thể biến đổi trong các giao dịch sử dụng nó. Những cơ sở nêu trên cũng được thừa
nhận đối với một tài liệu điện tử khi thoả mãn những quy định pháp luật yêu cầu
thông tin phải dưới dạng chữ viết và có thể truy cập được. Để bảo đảm khả năng
truy cập được, phần mềm sử dụng cho việc truy cập phải có khả năng bảo đảm việc
lưu giữ tài liệu đó. Nhằm chứng minh ý định giao kết hợp đồng dưới dạng văn bản
thông thường, toà án có thể căn cứ vào các bằng chứng ngoài hợp đồng như biên
bản ghi những cuộc đàm phán giữa các bên. Theo cách này, pháp luật cần thừa nhận
giá trị bằng chứng của thư điện tử hoặc bản ghi được lưu trữ trên phương tiện điện
tử thể hiện ý định giao kết hợp đồng giữa các bên.
Để xác định thời điểm và địa điểm gửi, nhận thông tin bằng phương tiện điện
tử, pháp luật đưa ra phương pháp giả định. Theo đó, thời gian gửi tài liệu điện tử
phụ thuộc việc người nhận có thông báo với người gửi về hệ thống thông tin được
chỉ định trước hay không. Nếu có chỉ định trước, tài liệu điện tử sẽ được truyền theo

`


25

thoả thuận đó, tài liệu coi là được nhận khi nó vào hệ thống thông tin được chỉ định.
Trong các trường hợp khác, tài liệu sẽ được nhận khi nó lọt vào phạm vi kiểm soát
của người nhận. Vị trí gửi, nhận được xác định là tại trụ sở kinh doanh. Việc gửi tài
liệu điện tử sẽ được coi là diễn ra tại trụ sở kinh doanh của người gửi. Tương tự,
việc nhận tài liệu được coi là diễn ra tại trụ sở kinh doanh của người nhận. Nếu một
bên có nhiều trụ sở kinh doanh, vị trí gửi hoặc nhận sẽ là trụ sở kinh doanh có quan
hệ gần gũi nhất với giao dịch được thực hiện.
- Quy định về chữ ký điện tử: Chữ ký điện tử là một công nghệ cho phép xác
nhận người gửi và bảo đảm tính toàn vẹn của thông điệp dữ liệu. Về bản chất, chữ

ký điện tử tương đương chữ ký tay, có các thuộc tính như: khả năng nhận dạng một
người, tạo tính chắc chắn về mối quan hệ của người đó với hành vi ký và cho thấy
việc người đó chấp nhận nội dung tài liệu ký. Có nhiều loại chữ ký điện tử khác
nhau như chữ ký số, chữ ký sinh trắc học, chữ ký dựa trên số nhận dạng cá nhân (số
PIN), chữ ký tạo bằng thẻ thông minh … Pháp luật thương mại điện tử cần có các
quy định thừa nhận giá trị pháp lý của chữ ký điện tử, cụ thể hoá các tiêu chí kỹ
thuật và xác định trách nhiệm của nhà cung cấp dịch vụ chứng thực điện tử. Có hai
phương pháp xây dựng pháp luật về chữ ký điện tử: quy định chung dựa trên
nguyên tắc trung lập về mặt công nghệ và quy định cụ thể về chữ ký số.
UNCITRAL khuyến nghị sử dụng phương pháp thứ nhất để dự trù khả năng hình
thành các công nghệ chữ ký điện tử mới. Hầu hết các nước theo khuyến nghị này.
- Bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ trong thương mại điện tử: Với sự xuất hiện của
nhiều công nghệ mới, đặc biệt là các ứng dụng công nghệ thông tin, việc bảo hộ
quyền sở hữu trí tuệ có ý nghĩa quan trọng. Phần lớn các đối tượng thuộc quyền sở
hữu trí tuệ như tác phẩm văn học - nghệ thuật, tài liệu khoa học - kỹ thuật, chương
trình máy tính, cơ sở dữ liệu có tính sáng tạo, nhãn hiệu thương mại, bí mật thương
mại, chỉ dẫn địa lý, thiết kế kiểu dáng công nghiệp,… đều có thể xuất hiện dưới
hình thức cho phép truyền tải dễ dàng qua Internet và các mạng mở khác. Nhiều vấn
đề mới liên quan tới tên miền; tính năng liên kết, dẫn chiếu giữa các tài liệu trên

`


×