Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

TƯ TƯỞNG Hồ CHÍ MINH về “HIỂU BIẾT cán bộ, KHÉO DÙNG cán bộ” TRONG tác PHẨM “SỬA ĐỔI LỐI LÀM VIỆC”

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (147.01 KB, 18 trang )

MỞ ĐẦU
Chủ tịch Hồ Chí Minh người sáng lập, lãnh đạo và rèn luyện Đảng ta.
Người là linh hồn, là ngọn cờ dẫn dắt toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đấu
tranh giành thắng lợi vẻ vang như ngày nay. Sinh thời Người hằng quan tâm
và dày công xây dựng Đảng thành một khối vững mạnh, chăm lo đời sống
nhân dân. Suốt cả cuộc đời Người hy sinh cho sự nghiệp cách mạng, cho độc
lập tự do của dân tộc, cho cuộc sống ấm no, hạnh phúc của nhân dân và toàn
nhân loại.
Trong những di sản tư tưởng to lớn về Đảng Cộng sản mà Người để lại,
vấn đề cán bộ là một phần cực kỳ quan trọng trong những luận điểm của
Người về xây dựng Đảng. Chủ tịch Hồ Chí Minh thường nói: “Cán bộ là gốc
của mọi công việc”; cán bộ là vốn quý của cách mạng, có vốn mới làm ra
lãi, bất cứ chính sách, công tác gì nếu có cán bộ tốt thì thành công tức có lãi,
không có cán bộ tốt thì hỏng việc tức lỗ vốn. Từ nhận thức sâu sắc về vị trí,
vai trò của cán bộ trong giải quyết mọi công việc, mọi nhiệm vụ của cách
mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định cần phải có đội ngũ cán bộ tốt một
lòng vì Đảng, vì dân.
Trong tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc” mục IV về “Vấn đề cán bộ”, khi
đề cập đến dạy cán bộ và dùng cán bộ”, Bác nêu hai cách dùng cán bộ: Một
là, phải khéo dùng cán bộ “biết tuỳ tài mà dùng người”; hai là, phải dùng
người đúng chỗ đúng việc. Đồng thời, Người chỉ rõ: “Kinh nghiệm cho ta
biết: mỗi lần xem xét lại nhân tài, một mặt thì tìm thấy những nhân tài mới,
một mặt khác thì những người hủ hóa cũng lòi ra” [6; tr.274]; tư tưởng đó
của Người đến nay vẫn còn nguyên giá trị thời sự đối với công tác xây dựng
đội ngũ cán bộ của Đảng và quân đội hiện nay. Do vậy, trong phạm vi bài
tiểu luận của mình, tác giả đi sâu luận giải vấn đề tư tưởng Hồ Chí Minh về


“hiểu biết cán bộ, khéo dùng cán bộ” trong tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc”,
vận dụng trong công tác xây dựng đội ngũ cán bộ của Đảng và quân đội hiện
nay.



NỘI DUNG
1. Hoàn cảnh lịch sử ra đời của tác phẩm
Những năm 40 của thế kỷ XX, sau khi Hồng quân Liên Xô chiến thắng
phát xít Đức. Hàng loạt các nước xã hội chủ nghĩa ra đời. Cuộc đấu tranh
giữa hai hệ thống xã hội chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa tiếp tục diễn ra trên
cơ sở mới, đó là phong trào vô sản trên phạm vi toàn thế giới ngày càng phát
triển mạnh mẽ, nhiều nước đế quốc suy yếu, chiến tranh đế quốc bị thu hẹp,
nước Mỹ vượt lên cầm đầu các nước đế quốc. Các dân tộc thuộc địa đang
đấu tranh mở rộng nền dân chủ hoặc giành chính quyền, phong trào đấu
tranh giành độc lập dân tộc ngày càng phát triển, phong trào dân chủ, hòa
bình và độc lập dân tộc, hầu hết do các Đảng Cộng sản lãnh đạo đang lan
rộng khắp thế giới. Các nước ở khu vực Đông Dương nằm trong phạm vi
trung tâm mâu thuẫn giữa các nước đế quốc chủ yếu. Đế quốc Anh, Pháp,
Mỹ chú trọng dàn xếp bố trí chiến lược để chống phong trào cộng sản và uy
hiếp phong trào cách mạng giải phóng dân tộc của các dân tộc nhỏ. Các
nước ở Đông Dương (Việt Nam, Lào, Căm-pu-chia), dưới sự lãnh đạo của
Đảng Cộng sản đã và đang trở một mặt trận chống thực dân Pháp xâm lược.
Ở Việt Nam, sau ngày tuyên bố độc lập (2-9-1945) từ một nước thuộc
địa nửa phong kiến trở thành một quốc gia độc lập có chủ quyền, Đảng ta từ
một Đảng hoạt động bí mật, bất hợp pháp trở thành Đảng cầm quyền. Các


thế lực đế quốc, phản động trong nước và quốc tế luôn tìm mọi cách để
chống phá cách mạng Việt Nam. Thực dân Pháp được quân đội Anh tiếp sức
đã quay lại xâm lược nước ta lần thứ hai, ngày 19/ 12/ 1946 chủ tịch Hồ Chí
Minh ra lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến. Đây là một giai đoạn lịch sử đặc
biệt khó khăn, vận mệnh của dân tộc, của đất nước và của Đảng ta đứng
trước tình thế hết sức ngặt nghèo, như “ngàn cân treo sợi tóc”, trong hoàn
cảnh đó Đảng ta đã thực hiện sách lược, tuyên bố “tự giải tán”, thực chất là

đi vào hoạt động bí mật.
Sau cách mạng tháng Tám thành công, Đảng ta trở thành Đảng cầm
quyền, nhiệm vụ của Đảng đã thay đổi căn bản và có sự phát triển mới,
Đảng vừa phải lãnh đạo toàn dân tiến hành cuộc kháng chiến chống thực dân
Pháp xâm lược, vừa phải lãnh đạo xây dựng phát triển kinh tế và xây dựng
chính quyền non trẻ, vừa kháng chiến, vừa kiến quốc; chống cả giặc đói,
giặc dốt và cả giặc ngoại xâm. Trong điều kiện khó khăn như vậy, để lãnh
đạo toàn quân, toàn dân chống thù trong, giặc ngoài, bảo vệ và củng cố
chính quyền cách mạng Đảng cần phải được xây dựng, chỉnh đốn để nâng
cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu đáp ứng với yêu cầu tình hình nhiệm
vụ. Khi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp lần thứ hai bước vào giai
đoạn gay go, quyết liệt, trong khi chính quyền cách mạng còn non trẻ, còn
thiếu kinh nghiệm trong quản lý, điều hành đất nước xây dựng chế độ xã hội
mới. Lúc bấy giờ, Chính phủ và ủy ban kháng chiến các nơi đã mở rộng cho
các lực lượng nhân, chí sỹ tham gia. Dù chính quyền vẫn giữ vững sự tập
trung, nhưng trên thực tế ở nhiều nơi bộ máy hành chính kháng chiến và các
tổ chức đoàn thể hoạt động thiếu đồng bộ, chồng chéo kém hiệu quả. Cuộc
kháng chiến đã làm cho nền kinh tế nước ta vốn đã kiệt quệ lại bị đảo lộn,
đời sống của nhân dân hết sức khó khăn. Song Đảng ta lãnh đạo công cuộc


kháng chiến kiến quốc vẫn củng cố và giữ vững được chính quyền cách
mạng, xây dựng, bảo vệ và phát triển lực lượng, phát động toàn quốc kháng
chiến.
Thời gian nắm chính quyền chưa nhiều (gần hai năm), nhưng đã xuất
hiện trong bộ máy của Đảng và Nhà nước, trong cán bộ, đảng viên mầm
mống những căn bệnh như: quan liêu, bàn giấy, óc bè phái, quân phiệt, hẹp
hòi ích kỷ, kiêu ngạo... Hồ Chí Minh cho rằng những khuyết điểm đó nếu
không được phát hiện và khắc phục kịp thời sẽ dẫn tới sự suy thoái, biến
chất của đội ngũ cán bộ, đảng viên làm giảm hiệu lực lãnh đạo của Đảng và

sự quản lý của Nhà nước. Hồ Chí Minh đã gửi thư cho các đồng chí ở Bắc
bộ và Trung bộ, Người đã nghiêm khắc phê phán một số cơ quan của Đảng
và Nhà nước mắc bệnh làm trái phép nước, tư tưởng chia rẽ, kiêu ngạo... Hồ
Chí Minh yêu cầu phải kịp thời khắc phục khuyết điểm, phát huy ưu điểm,
đoàn kết nội bộ, mở rộng hàng ngũ, chấn chỉnh công tác để lãnh đạo kháng
chiến đi tới thắng lợi.
Sau một thời gian thực hiện Hồ Chí Minh thấy sự chuyển biến trong
Đảng chưa nhiều, cán bộ, đảng viên chưa thật sự cố gắng sửa chữa khuyết
điểm. Để kịp thời nâng cao trình độ tư tưởng lý luận, tình cảm cách mạng,
tác phong công tác và phong cách lãnh đạo của cán bộ, đảng viên làm cho
Đảng trong sạch vững mạnh lãnh đạo cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện
thì phải xây dựng các nhân tố. Trong đó, nhân tố đặc biệt quan trọng nhất,
quyết định nhất bảo đảm cho kháng chiến thắng lợi là phải củng cố và tăng
cường sự lãnh đạo của Đảng. Vào tháng 10 năm 1947, tại thôn Điềm mạc,
xã Thanh Định, huyện Định Hóa, tỉnh Thái Nguyên, Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã viết tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc”.


Tư tưởng xuyên suốt của tác phẩm nhằm mục đích nâng cao trình độ lý
luận, tư tưởng, phẩm chất đạo đức, tình cảm cách mạng, phong cách lãnh
đạo của Đảng, tác phong công tác của người cán bộ cách mạng. Trong tác
phẩm “Sửa đổi lối làm việc” Hồ Chí Minh đã phê phán và coi: “Chủ nghĩa
cá nhân là như một thứ vi trùng rất độc, do nó mà sinh ra các thứ bệnh rất
nguy hiểm” [6; tr.255], như bệnh: tham lam, lười biếng, kiêu ngạo, hiếu
danh, thiếu kỷ luật, óc hẹp hòi, óc địa phương, óc lãnh tụ, hữu danh vô thực,
kéo bè kéo cánh... đồng thời Người vạch ra nguyên nhân và phương hướng
khắc phục. Có như vậy, Đảng mới thực sự là lực lượng tiên phong, ưu tú
nhất của xã hội, là đầu tàu của lịch sử.
2. Tư tưởng Hồ chí Minh về “hiểu biết cán bộ, khéo dùng cán bộ”
Hồ Chí Minh quan niệm: Cán bộ là những người đem chính sách của

Đảng, của chính phủ giải thích cho dân chúng hiểu rõ và thi hành. Đồng thời
đem tình hình của dân chúng báo cáo cho Đảng, cho Chính phủ hiểu rõ để
đặt chính sách cho đúng. Như vậy, cán bộ là “cầu nối” giữa Đảng, cơ quan
Nhà Nước với nhân dân. Không có cán bộ, thì không có đường lối đúng và
nếu khi đã có đường lối đúng thì không có người tổ chức cho dân chúng
thực hiện. Vì vậy, Hồ Chí Minh luôn luôn đánh giá vai trò to lớn của cán bộ
Người nói: “Cán bộ là cái gốc của mọi công việc” [6; tr.269] và “Công việc
thành công hoặc thất bại đều do cán bộ tốt hay kém” [6; tr.273]. Nhưng để
phát huy được vai trò của cán bộ thì Đảng phải luôn luôn quan tâm đến công
tác cán bộ, coi đây là một nội dung quan trọng hàng đầu của công tác tổ
chức. Theo Hồ Chí Minh công tác cán bộ phải được tiến hành thường xuyên
liên tục; phải chú trọng giáo dục đào tạo, bồi dưỡng kiến thức toàn diện cho
cán bộ; phải thương yêu, chăm sóc bảo vệ cán bộ; phải có thái độ chân thành
thân thiết đối với những cán bộ bị mắc sai lầm. Hồ Chí Minh đưa ra luận


điểm “phải hiểu biết cán bộ, khéo dùng cán bộ”. Đây là hai vấn đề rất quan
trọng trong chính sách cán bộ và nó có quan hệ chặt chẽ với nhau.
Để sử dụng đúng cán bộ phù hợp với năng lực và nhiệm vụ thì điều
trước hết những người làm công tác cán bộ phải hiểu biết và đánh giá đúng
cán bộ. Dĩ nhiên đây là một việc làm không đơn giản. Vì “biết người, cố
nhiên là khó. Tự biết mình, cũng không phải là dễ” [6; tr.277]. Rõ ràng đối
với mỗi cán bộ, đảng viên ai cũng có cái tốt và cái xấu, nhưng để hiểu được
tường tận những ưu điểm, nhược điểm của từng cán bộ thì đòi hỏi phải có
một quá trình làm việc nghiêm túc của những người làm công tác cán bộ
hoặc của Đảng nói chung. Trong mỗi cán bộ luôn tự biết đánh giá đúng bản
thân mình, thì mới có thể đánh giá đúng người khác. “Nếu không biết sự
phải trái ở mình, thì chắc không thể nhận rõ người cán bộ tốt hay xấu” [6;
tr.277]. Người còn chỉ ra những chứng bệnh thường gặp trong vấn đề đánh
giá cán bộ như “tự cao, tự đại, ưa người ta nịnh mình; do lòng yêu, ghét của

mình mà đối với người; đem một cái khuôn khổ nhất định, chật hẹp mà lắp
vào tất cả mọi người khác nhau. Phạm một trong bốn bệnh đó thì cũng như
mắt đã mang kính có màu, không bao giờ thấy rõ cái mặt thật của những cái
mình trông” [6; tr.277]. Song song với việc chỉ rõ những “căn bệnh” thường
gặp trong công tác đánh giá cán bộ, người còn đưa ra những yêu cầu rất cụ
thể để khắc phục những căn bệnh đó. Đồng thời chỉ ra cách thức, phương
pháp thực sự khoa học để đánh giá và hiểu biết đúng cán bộ. Hồ Chí Minh
cho rằng: “Muốn biết rõ cán bộ, muốn đối đãi một cách đúng đắn các hạng
người, trước hết phải sửa những khuyết điểm của mình” [6; tr.278]. Điều đó
có nghĩa là nếu người làm công tác cán bộ công tâm, vô tư, có đạo đức trong
sáng, am hiểu chủ trương chính sách của Đảng, Nhà nước; có năng lực
chuyên môn nghiệp vụ giỏi thì mới có thể hiểu và đánh giá đúng cán bộ. Hồ


Chí Minh viết: “Mình càng ít khuyết điểm thì cách xem xét cán bộ càng
đúng” [6; tr.278]. Người yêu cầu, trong đánh giá cán bộ phải thực sự khách
quan, phải xem xét toàn diện, vừa mang tính lịch sử, lại vừa cụ thể. Xem xét
cán bộ phải có cái quan sát toàn diện trên lập trường của người cách mạng
được trang bị thế giới quan duy vật và phương pháp tư duy biện chứng. “Vì
vậy, cách xem xét cán bộ, quyết không nên chấp nhất, vì nó cũng phải biến
hóa” [6; tr.278]. Điều này có nghĩa là trong xem xét đánh giá cán bộ luôn
luôn đặt trong sự vận động, biến đổi, không thể có thái độ quy chụp, thành
kiến hoặc dựa trên kinh nghiệm đã có. Bởi trong thực tiễn cách mạng có cán
bộ trước đây rất tốt, dù khó khăn gian khổ đều ra sức cố gắng hoàn thành
nhiệm vụ, nhưng “có người khi trước theo cách mạng mà nay lại phản cách
mạng” [6; tr.278]. Như vậy xem xét đánh giá cán bộ cho đúng, thực sự là
công việc khó khăn. Song không có nghĩa là không làm được, mà điều quan
trọng là Đảng, Nhà nước và những người làm công tác cán bộ đã thực sự
gương mẫu, đã có những chủ trương chính sách đúng đắn hay chưa; đã thực
hiện tốt cách thức, phương pháp mà Hồ Chí Minh đã chỉ dẫn: “Nhận xét cán

bộ không nên chỉ xét ngoài mặt mà còn phải xem tính chất của họ. Không
chỉ xem một việc, một lúc mà phải toàn cả lịch sử, toàn cả công việc của họ”
[6; tr.278]. Đồng thời người còn chỉ ra cách nhận biết, đánh giá thế nào là
người cán bộ tốt hay không tốt. Hiểu cán bộ đúng, cốt làm cho điểm tốt của
họ càng tốt thêm và “khéo sửa chữa chỗ xấu cho họ”. Hiểu cán bộ, xem xét
đánh giá cán bộ phải dựa trên “những khuôn khổ”, tức là những tiêu chuẩn
cán bộ chứ không xuất phát từ sự áp đặt, chủ quan, có như vậy thì mới “hiểu
biết cán bộ” đúng và là cơ sở để giúp cho công việc sử dụng cán bộ đúng.
Như vậy, trong công tác cán bộ không những làm tốt việc lựa chọn,
đánh giá và đào tạo cán bộ, mà còn phải khéo sử dụng cán bộ, “khéo dùng


cán bộ”. Hồ Chí Minh cho rằng: “Mục đích khéo dùng cán bộ, cốt để thực
hành đầy đủ chính sách của Đảng và Chính phủ” [6; tr.279]. Khéo dùng cán
bộ, chính là biết sắp xếp bố trí, sử dụng cán bộ, biết phân phối công tác cho
họ một cách đúng đắn và cả việc bổ nhiệm, đề bạt chức danh cho cán bộ.
Đây là một nội dung rất quan trọng trong công tác cán bộ. Bởi từ việc bố trí,
sử dụng cán bộ đã phản ánh quan điểm lập trường, phương châm, phương
hướng nguyên tắc của Đảng trong công tác cán bộ, thể hiện tính khoa học và
nghệ thuật của người làm công tác cán bộ, mới tạo điều kiện thuận lợi cho
cán bộ hoàn thành nhiệm vụ và giúp họ không ngừng tiến bộ. Để sử dụng
đúng cán bộ, người làm công tác cán bộ phải có tinh thần rộng rãi, gần gũi
người mà mình không ưa, phải độ lượng, chí công, vô tư, không có thái độ
thành kiến hẹp hòi và phải quan tâm, chịu khó huấn luyện, giáo dục rèn
luyện cán bộ. Hồ Chí Minh coi: “Vấn đề cán bộ là một vấn đề rất trọng yếu
rất cần kíp” [6; tr.274]. Và Người chỉ rõ: “Kinh nghiệm cho ta biết: mỗi lần
xem xét lại nhân tài, một mặt thì tìm thấy những nhân tài mới, một mặt khác
thì những người hủ hóa cũng lòi ra” [6; tr.274]. Theo Hồ Chí Minh: “Cất
nhắc cán bộ, phải vì công tác, tài năng, vì cổ động cho đồng chí khác thêm
hăng hái. Như thế công việc nhất định chạy” [6; tr.281]. Người chỉ dẫn việc

phân phối, cất nhắc cán bộ còn phải đúng chỗ, đúng lúc, đúng việc. Như
vậy, trong bố trí, sử dụng cán bộ không được giản đơn, hòa đồng như nhau,
mà phải dựa trên vị trí từng loại cán bộ, phù hợp với từng chuyên môn,
nghiệp vụ cụ thể, phải lựa chọn chính xác, công minh trong mọi việc bố trí,
sử dụng cán bộ đều phải tính toán, bàn bạc thận trọng. “Trước khi cất nhắc
cán bộ phải nhận xét rõ ràng. Chẳng những xem xét công tác của họ, mà còn
phải xem cách sinh hoạt của họ. Chẳng những xem xét cách viết, cách nói
của họ, mà còn phải xem xét việc làm của họ có đúng với lời nói, bài viết
của họ hay không” [6; tr.281].


Trong quá trình xây dựng đội ngũ cán bộ, Hồ Chí Minh rất coi trọng việc
kết hợp giữa các thế hệ cán bộ. Người yêu cầu giữa cán bộ cũ, cán bộ tuổi già
với cán bộ trẻ tuổi phải luôn luôn doàn kết, thương yêu nhau, giúp đỡ nhau để
cùng tiến bộ. Người phê phán thái độ bảo thủ, hẹp hòi đối với cán bộ trẻ, đồng
thời nhắc nhở cán bộ trẻ phải khiêm tốn học hỏi cán bộ già, không kiêu căng
tự mãn. Người yêu cầu Đảng ta phải kết hợp cán bộ già với cán bộ trẻ không
nên coi thường cán bộ trẻ. Còn cán bộ trẻ thì không được kiêu ngạo, phải
khiêm tốn học hỏi các đồng chí già có kinh nghiệm. Đồng thời, trong tư tưởng
Hồ Chí Minh về sử dụng cán bộ, Đảng phải biết trọng dụng người tài giỏi, vì
đó là vốn quí, là tài sản của nước nhà và biết sử dụng cả người ngoài Đảng, vì
trong thực tế có người tuy chưa vào Đảng do một vài vấn đề gì đó nhưng họ
thực sự có ích cho cách mạng, những người này thậm chí còn hơn những đảng
viên mang danh cộng sản nhưng lại tham ô hủ hóa, không có đạo đức còn làm
hại cho nước, cho dân.
Để “khéo dùng cán bộ”, thì người lãnh đạo, người làm công tác cán bộ
vừa phải luôn luôn lắng nghe ý kiến đóng góp phê bình mình, bởi: “Người
lãnh đạo muốn biết rõ ưu điểm, khuyết điểm của mình, muốn biết công tác
của mình tốt hay xấu, không gì bằng khuyên cán bộ mình mạnh bạo đề ra ý
kiến và phê bình” [6; tr.280]. Trước khi có quyết định sử dụng cán bộ, cần

phải đề cao trí tuệ tập thể, phát huy quyền làm chủ của mọi cán bộ, không
chỉ trong cơ quan lãnh đạo mà ngay với những cán bộ được giao công tác
mới và luôn tôn trọng ý kiến của họ. Không nên dùng mệnh lệnh áp đặt,
nhưng cũng không nên quá khắt khe, quá đòi hỏi tính toàn diện trong cất
nhắc cán bộ. Phải mạnh dạn cất nhắc những người có triển vọng, cần nhìn
xa, trông rộng, giàu lòng vị tha, nhân ái. Phải quan tâm giúp đỡ cán bộ, Hồ
Chí Minh viết: “Khi giao công tác cho cán bộ cần phải chỉ đạo rõ ràng, sắp


đặt đầy đủ. Vạch rõ những điểm chính, và những khó khăn có thể xảy ra.
Những vấn đề đã quyết định rồi, thả cho họ làm, khuyên gắng họ cứ cả gan
mà làm” [6; tr.280].
Vấn đề “khéo dùng cán bộ” theo tư tưởng Hồ Chí Minh những người
làm công tác cán bộ, phải tránh những chứng bệnh thường gặp: “Ham dùng
người bà con, anh em quen biết; ham dùng những kẻ khéo nịnh hót mình,
những người tính tình hợp với mình” [6; tr.280]. Vì những căn bệnh đó là vi
phạm nguyên tắc, là tiếp tay cho những thói hư, tật xấu, là che chở dung
túng làm cho cán bộ càng hư hỏng. Kết quả là không hoàn thành nhiệm vụ
được giao.
Như vậy, theo quan điểm Hồ Chí Minh về vấn đề hiểu biết và sử dụng
đúng cán bộ là nhiệm vụ quan trọng của Đảng và những người làm công tác
cán bộ. Để hiểu và sử dụng đúng cán bộ, phải đứng vững trên lập trường giai
cấp công nhân, phải khách quan, vô tư trong xem xét cán bộ có lý, có tình,
có trước, có sau, trong nhiều mối quan hệ của họ... Sử dụng cán bộ phải căn
cứ từ yêu cầu nhiệm vụ làm chính, đồng thời coi trọng năng lực cán bộ, phải
chu đáo thận trọng, nhưng không quá cầu toàn; phải thực sự công tâm, vô tư,
tôn trọng ý kiến cán bộ; phải giải quyết tốt mối quan hệ giữa các nguyên tắc
trong từng hoàn cảnh cụ thể, giữa quá trình lịch sử và năng lực hiện tại, bảo
đảm thấu tình, đạt lý và có tính kế thừa giữa các thế hệ cán bộ.
3. Vận dụng trong công tác xây dựng đội ngũ cán bộ của Đảng và

quân đội hiện nay
* Đối với công tác xây dựng đội ngũ cán bộ của Đảng
Quán triệt và vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về “hiểu biết
cán bộ, khéo dùng cán bộ”. Trong các thời kỳ cách mạng, Đảng ta luôn quan


tâm chăm lo đội ngũ cán bộ và công tác cán bộ, coi đây là công việc sống
còn của Đảng; Nghị quyết Trung ương 3 khóa VIII về “Chiến lược cán bộ
thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” đã khẳng định:
Cán bộ là nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng, gắn liền với vận
mệnh của Đảng, của đất nước và chế độ, là khâu then chốt trong công tác
xây dựng Đảng. Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã dày công đào tạo,
huấn luyện, xây dựng được một đội ngũ cán bộ tận tụy, kiên cường, hoàn
thành xuất sắc nhiệm vụ qua các giai đoạn cách mạng.
Đồng thời: Tiến hành công tác cán bộ phải trên cơ sở lập trường giai
cấp công nhân, phát huy truyền thống yêu nước và đoàn kết dân tộc, nắm
vững quan điểm và nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh. Đảng phải thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ, dự báo đúng
tình hình, bám sát yêu cầu của nhiệm vụ chính trị để có quy hoạch, kế hoạch
đào tạo bồi dưỡng cán bộ, chuẩn bị cho trước mắt và cho cả một thời kỳ
tương đối dài. Xây dựng đồng bộ đội ngũ cán bộ chủ chốt các cấp từ Trung
ương đến cơ sở, đặc biệt là cán bộ đứng đầu. Phải đổi mới, trẻ hóa cán bộ
trên cơ sở tiêu chuẩn và có sự chuẩn bị chu đáo, kết hợp các độ tuổi, bảo
đảm tính liên tục, tính kế thừa và phát triển.
Tiếp tục chủ trương đó, Bộ Chính trị khóa IX đã ban hành Nghị quyết
số 42-NQ/TW về “Công tác quy hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý thời kỳ đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”; Ban Chấp hành Trung ương
Đảng khóa X ban hành Kết luận số 37-KL/TW về “Tiếp tục đẩy mạnh thực
hiện Chiến lược cán bộ từ nay đến năm 2020”.
Đại hội XI, Đảng ta khẳng định: “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ, đồng bộ

công tác cán bộ. Thực hiện tốt Chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa; đổi mới, tư duy, cách làm, khắc phục những yếu


kém trong từng khâu của công tác cán bộ. Xây dựng và thực hiện nghiêm
các cơ chế, chính sách phát hiện, tuyển chọn, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ;
trọng dụng những người có đức, có tài” [2; tr.261]. Bên cạnh đó: “Nâng cao
chất lượng công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ; khắc phục tình trạng chạy
theo bằng cấp. Làm tốt công tác quy hoạch và tạo nguồn cán bộ,... cấp chiến
lược. Đánh giá và sử dụng đúng cán bộ trên cơ sở những tiêu chuẩn, quy
trình đã được bổ sung, hoàn thiện, lấy hiệu quả công tác thực tế và sự tín
nhiệm của nhân dân làm thước đo chủ yếu” [2; tr.261].
Nghị quyết Trung ương 4 khoá XI “Một số vấn đề cấp bách về xây
dựng Đảng hiện nay”, đưa ra nhóm giải pháp về tổ chức, cán bộ và sinh hoạt
đảng; trong đó nhấn mạnh: Mỗi cán bộ, đảng viên, trước hết là cán bộ lãnh
đạo, quản lý kiểm điểm, liên hệ theo chức trách, nhiệm vụ được giao, tự phê
bình và phê bình thẳng thắn, dân chủ, nghiêm túc, chân thành, gắn với thực
hiện Quy định về những điều đảng viên không được làm, theo cương vị công
tác. Làm tốt việc kiểm điểm để có căn cứ xem xét, sàng lọc đội ngũ cán bộ
của cả hệ thống chính trị và chuẩn bị quy hoạch cấp ủy, các chức danh chủ
chốt các cấp nhiệm kỳ tới. Phát huy dân chủ thật sự trong Đảng, thực hiện
nghiêm túc Quy chế chất vấn trong Đảng, nhất là chất vấn tại các kỳ họp
Ban Chấp hành Trung ương và cấp ủy các cấp. Đổi mới cách lấy phiếu tín
nhiệm để đánh giá, nhận xét cán bộ theo hướng mở rộng đối tượng tham gia.
Những người không đủ năng lực, không hoàn thành nhiệm vụ, có tín nhiệm
thấp cần được sắp xếp phù hợp, có cơ chế để kịp thời thay thế không chờ hết
nhiệm kỳ, hết tuổi công tác.
Triển khai tư tưởng chỉ đạo của Đại hội XI của Đảng về công tác cán
bộ trong tình hình mới, Nghị quyết Hội nghị Trung ương 6 khóa XI khẳng
định: “Cán bộ là nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng, gắn liền



với vận mệnh của Đảng, của đất nước và chế độ. Công tác quy hoạch, chuẩn
bị đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ cấp chiến lược, có ý nghĩa hết sức quan
trọng, là nội dung trọng yếu, bảo đảm cho công tác cán bộ đi vào nền nếp,
chủ động” [3]. Nghị quyết Đại hội XI của Đảng đã đề ra nhiệm vụ xây dựng
đội ngũ cán bộ trong sạch, có năng lực, nhất là “Chú trọng xây dựng đội ngũ
cán bộ lãnh đạo và quản lý các cấp, đội ngũ chuyên gia đầu ngành. Đổi mới,
trẻ hóa đội ngũ cán bộ lãnh đạo và quản lý, kết hợp các độ tuổi, bảo đảm tính
liên tục, kế thừa và phát triển” [2; tr.262]. Vấn đề mới và cấp bách này đòi
hỏi phải đổi mới, nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ có
trình độ cao, có phẩm chất và năng lực, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc hiện nay. Bảo đảm đến năm 2020 chúng ta phải xây dựng
được đội ngũ cán bộ có phẩm chất tốt, đủ năng lực thực thi nhiệm vụ, tận tuỵ
phục vụ sự nghiệp xây dựng và Bảo vệ Tổ quốc. Đó là đội ngũ cán bộ ưu tú
có cơ cấu hợp lý, số lượng đủ, chất lượng cao, phù hợp với yêu cầu, nhiệm
vụ của thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Trong công tác cán bộ, việc đánh giá cán bộ là quan trọng nhất. Thực tế
cho thấy, đánh giá vẫn là khâu yếu nhất trong công tác cán bộ hiện nay. Do
đó, đổi mới công tác đánh giá cán bộ đang là một đòi hỏi cấp bách. Đánh giá
cán bộ cần phải căn cứ vào kết quả thực tế giải quyết công việc của cán bộ,
đánh giá phải được thực hiện dân chủ, tập thể, công tâm và khách quan.
Từng cấp, xuất phát từ chức năng, nhiệm vụ, thực trạng đội ngũ cán bộ hiện
có, yêu cầu về số lượng, chất lượng, cơ cấu của đội ngũ cán bộ sắp tới, xây
dựng quy hoạch cán bộ lãnh đạo và quản lý, nhất là quy hoạch cán bộ lãnh
đạo, chỉ huy các cơ quan, đơn vị. Trên cơ sở quy hoạch đó lập kế hoạch đào
tạo, bồi dưỡng và luân chuyển cán bộ sao cho phù hợp. Quan tâm ưu tiên tạo
nguồn cán bộ từ cơ sở, cán bộ trẻ tuổi, có triển vọng, có thành tích xuất sắc



trong quá trình triển khai công việc trong thực tiễn; những trí thức, những
người ưu tú, cán bộ dân tộc thiểu số, cán bộ nữ, con em các gia đình có công
với cách mạng, có thành tích nổi bật trong lao động và công tác; các sinh
viên tốt nghiệp đại học xuất sắc, các cán bộ khoa học trẻ thuộc các lĩnh vực.
Có quy định tiêu chuẩn cụ thể để bảo đảm đúng định hướng, tránh cơ cấu
hình thức, hoặc thành phần chủ nghĩa. Cần xây dựng quy hoạch đội ngũ cán
bộ “động” và “mở”. Cần có sự phân biệt tương đối giữa quy hoạch cán bộ
lãnh đạo, chỉ huy với quy hoạch cán bộ quản lý chuyên môn nghiệp vụ.
Công tác quy hoạch cán bộ phải gắn chặt với công tác đào tạo, bồi dưỡng
cán bộ. Lấy quy hoạch làm căn cứ để đào tạo, bồi dưỡng, luân chuyển và sử
dụng cán bộ cho phù hợp, đáp ứng yêu cầu của từng cơ quan, đơn vị. Bên
cạnh đó phải làm tốt công tác bảo vệ chính trị nội bộ, công tác kiểm tra giám
sát, thi hành kỷ luật Đảng; loại bỏ những cán bộ, đảng viên thoái hoá, biến
chất, vi phạm tư cách đạo đức làm trong sạch tổ chức đảng.
Tổng kết 30 năm đổi mới và 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội XI; về
công tác cán bộ, Đại hội XII của Đảng, chỉ rõ: “Công tác đào tạo, bồi dưỡng,
luân chuyển, bố trí, sử dụng cán bộ về cơ bản đã thực hiện theo quy hoạch.
Tiến hành xây dựng quy hoạch Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị,
Ban Bí thư và các chức danh chủ chốt của Đảng, Nhà nước. Quy định và
thực hiện chế độ bồi dưỡng, cập nhật kiến thức mới đối với cán bộ lãnh đạo,
quản lý các cấp và đào tạo, bồi dưỡng cán bộ theo chức danh có tác dụng tốt.
Việc thực hiện chính sách cán bộ trong hệ thống chính trị tiếp tục được quan
tâm [4; tr.88,89].
Tuy nhiên: “Việc kiện toàn tổ chức, bộ máy các cơ quan, tổ chức nhà
nước, các tổ chức chính trị - xã hội gắn với tinh giản biên chế, nâng cao chất
lượng đội ngũ cán bộ, công chức kết quả còn thấp. Số lượng cán bộ, công


chức không những không giảm mà lại tăng, nhất là ở các đơn vị sự nghiệp
công lập và công chức, cán bộ chuyên trách, không chuyên trách xã,

phường, thị trấn. Việc đổi mới công tác cán bộ chưa có đột phá lớn. Đánh
giá cán bộ vẫn là khâu yếu nhất qua nhiều nhiệm kỳ nhưng chưa có những
tiêu chí cụ thể và giải pháp khoa học để khắc phục. Tình trạng chạy chức,
chạy quyền, chạy tuổi, chạy bằng cấp,... chưa được ngăn chặn, đẩy lùi. Đội
ngũ cán bộ cấp Trung ương, cấp chiến lược chưa được tập trung xây dựng.
Chưa quan tâm đúng mức đến việc xây dựng đội ngũ cán bộ tham mưu, tư
vấn cấp chiến lược. Công tác quy hoạch ở một số nơi còn khép kín, chưa bảo
đảm sự liên thông, gắn kết. Tỉ lệ cán bộ lãnh đạo và cấp ủy là người dân tộc
thiểu số, cán bộ nữ, cán bộ trẻ, việc luân chuyển bố trí một số chức danh cán
bộ lãnh đạo không là người địa phương thực hiện chưa đạt yêu cầu [4;
tr.194,195].
Vì vậy trong phương hướng, nhiệm vụ những năm tiếp theo Đại hội
khẳng định: “Đổi mới mạnh mẽ công tác cán bộ”: Tiếp tục đẩy mạnh thực
hiện Chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước. Thể chế hóa, cụ thể hóa các nguyên tắc về: quan hệ giữa đường lối
chính trị và đường lối cán bộ; quan điểm giai cấp và chính sách đại đoàn kết
rộng rãi trong công tác cán bộ; quan hệ giữa tiêu chuẩn và cơ cấu; giữa đức
và tài;... ” [4; tr.260].

KẾT LUẬN


Tư tưởng Hồ Chí Minh về “hiểu biết cán bộ, khéo dùng cán bộ” trong
tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc” có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc, cùng
với các tư tưởng khác của Người về công tác cán bộ, nó trở thành “cẩm
nang”, là kim chỉ nam và mặt trời soi sáng cho công cuộc xây dựng, chỉnh
đốn Đảng, công cuộc đổi mới toàn diện đất nước; đó luôn luôn là vấn đề
then chốt, quyết định sự thành bại của sự nghiệp cách mạng, bởi vì sự
nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân ta không ngừng phát triển. Tư
tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền Nhà nước,

xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên đã và đang soi sáng và mãi mãi soi sáng
con đường cách mạng Việt Nam đi tới mục tiêu: Dân giàu, nước mạnh, dân
chủ, công bằng, văn minh.
Vì vậy, quán triệt tư tưởng của Người về “hiểu biết cán bộ, khéo dùng
cán bộ”, đối với các cấp uỷ tổ chức đảng trong và ngoài quân đội phải không
ngừng nhận thức sâu sắc vấn đề cán bộ và công tác cán bộ hiện nay; làm tốt
công tác tạo nguồn, bồi dưỡng nguồn, tuyển chọn, phân công cán bộ phù
hợp với từng cương vị chức trách được giao, phù hợp với nhiệm vụ cách
mạng và nhiệm vụ quân đội. Đồng thời, làm tốt công tác bồi dưỡng, rèn
luyện đội ngũ cán bộ thường xuyên, liên tục trong mọi điều kiện hoàn cảnh,
nhất là những cán bộ giữ cương vị trọng trách lớn, trong những điều kiện
khó khăn gian khổ. Làm tốt công tác quản lý cán bộ một cách toàn diện cả
về số lượng chất lượng, cơ cấu; làm cơ sở hiểu rõ từng cán bộ, về ưu điểm,
khuyết điểm trên từng cương vị, chức trách được giao, từng vùng miền và
dân tộc. Bên cạnh đó, cần nhận xét đánh giá cán bộ một cách đúng đắn,
chính xác, công tâm, khách quan, toàn diện, lịch sử, cụ thể, phát triển và lấy
kết quả hoàn thành nhiệm vụ làm thước đo, nêu cao tinh thần tự phê bình và
phê bình, không nể, nang né tránh khuyết điểm; thải loại những cán bộ yếu


kém, suy thoái về phẩm chất chính trị, đạo đức lối sống, thường xuyên
không hoàn thành nhiệm vụ được giao.
Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung, tác phẩm “sửa đổi lối
làm việc” nói riêng, đối với những người làm công tác giảng dạy, nghiên
cứu khoa học xây dựng Đảng có ý nghĩa rất thiết thực; sẽ là cơ sở khoa học
để nghiên cứu và nắm vững quan điểm của Đảng ta về Đảng, xây dựng
chỉnh đốn Đảng, về đường lối đổi mới, vấn đề cán bộ và công tác cán bộ…
Nêu cao tinh thần cách mạng đấu tranh có hiệu quả với các tư tưởng, quan
điểm sai trái, góp phần bảo vệ Đảng, Nhà nước, Nhân dân và chế độ xã hội
chủ nghĩa.



TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đảng Cộng Sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, H.2001.
2. Đảng Cộng Sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, H.2011.
3. Đảng Cộng Sản Việt Nam, Kết luận Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp
hành Trung ương khóa XI, Nxb Chính trị quốc gia, H.2012.
4. Đảng Cộng Sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ XII, Nxb Chính trị quốc gia, H.2016.
5. Đảng bộ Quân đội, Tài liệu nghiên cứu, học tập, quán triệt nghị
quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ Quân đội lần thứ X, nhiệm kỳ 2015 - 2020,
Nxb Quân đội nhân dân, H.2015.
6. Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, H.1995.



×