Tải bản đầy đủ (.pdf) (132 trang)

Đặc điểm ngôn ngữ văn bản hành chính tiêng Việt trong lĩnh vực thương mại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.24 MB, 132 trang )

Header Page 1 of 123.

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH

Phan Thanh Hòa

ĐẶC ĐIỂM NGÔN NGỮ
TRUYỆN ĐỒNG THOẠI TIẾNG VIỆT

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC

Thành phố Hồ Chí Minh - 2013

Footer Page 1 of 123.


Header Page 2 of 123.

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH

Phan Thanh Hòa

ĐẶC ĐIỂM NGÔN NGỮ
TRUYỆN ĐỒNG THOẠI TIẾNG VIỆT
Chuyên ngành
Mã số

: Ngôn ngữ Việt Nam
: 60 22 01 02



LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. TẠ THỊ THANH TÂM

Thành phố Hồ Chí Minh - 2013

Footer Page 2 of 123.


Header Page 3 of 123.

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là kết quả nghiên cứu của tôi dưới sự hướng dẫn khoa
học của TS. Tạ Thị Thanh Tâm. Các số liệu thống kê cũng như các ý kiến nhận xét,
nếu không có chú thích trích dẫn, đều được rút ra từ quá trình tìm hiểu đối tượng của
bản thân người viết, và chưa từng được công bố trong bất cứ công trình nào khác.
Tác giả luận văn

Footer Page 3 of 123.

1


Header Page 4 of 123.

LỜI CẢM ƠN
Xin chân thành cảm ơn TS. Tạ Thị Thanh Tâm đã tận tình hướng dẫn tác giả
hoàn thành luận văn thạc sĩ này.

Xin cảm ơn phòng sau đại học, thư viên trường Đại học Sư phạm TP. Hồ Chí
Minh, thư viện TP. Hồ Chí Minh để giúp đỡ tác giả rất nhiều.
Xin cảm ơn các thầy cô, gia đình, đồng nghiệp và bạn bè đã động viên, giúp đỡ
tôi trong quá trình học tập và thực hiện đề tài nghiên cứu.

Phan Thanh Hòa

Footer Page 4 of 123.

2


Header Page 5 of 123.

MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN ........................................................................................................ 1
LỜI CẢM ƠN .............................................................................................................. 2
MỤC LỤC .................................................................................................................... 3
MỞ ĐẦU....................................................................................................................... 5
1. Lí do chọn đề tài .............................................................................................................. 5
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ............................................................................................. 5
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ................................................................................. 7
4. Mục đích nghiên cứu ...................................................................................................... 7
5. Phương pháp nghiên cứu và nguồn ngữ liệu................................................................ 8
6. Đóng góp của luận văn ................................................................................................... 9
7. Cấu trúc của luận văn .................................................................................................... 9

CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TRUYỆN ĐỒNG THOẠI VÀ
PHONG CÁCH NGÔN NGỮ NGHỆ THUẬT ...................................................... 11
1.1. Một số vấn đề chung về truyện đồng thoại .............................................................. 11

1.1.1. Khái niệm truyện đồng thoại ................................................................................. 11
1.1.2. Những đặc trưng cơ bản của thể loại truyện đồng thoại ....................................... 12
1.1.3. Truyện đồng thoại với một số thể loại gần gũi ..................................................... 14
1.1.4. Đặc điểm cơ bản về nội dung và nghệ thuật của truyện đồng thoại ..................... 16
1.2. Phong cách ngôn ngữ nghệ thuật ............................................................................. 19
1.2.1. Đặc điểm ngôn ngữ nghệ thuật từ cấp độ câu trở xuống ...................................... 19
1.2.2. Đặc điểm ngôn ngữ nghệ thuật ở cấp độ trên câu ................................................. 23
1.3. Đôi nét về đối tượng tiếp nhận.................................................................................. 26
1.4. Tiểu kết ....................................................................................................................... 30

CHƯƠNG 2: ĐẶC ĐIỂM NGÔN NGỮ TRUYỆN ĐỒNG THOẠI XÉT TỪ
CẤP ĐỘ CÂU TRỞ XUỐNG................................................................................... 31
2.1. Đặc điểm từ vựng ....................................................................................................... 31
2.1.1. Xét về nguồn gốc................................................................................................... 31
2.1.2. Xét về mặt phạm vi sử dụng .................................................................................. 39
2.1.3. Xét về màu sắc biểu cảm ....................................................................................... 43
2.2. Đặc điểm câu .............................................................................................................. 66
2.2.1. Xét về mặt cấu trúc cú pháp .................................................................................. 66
2.2.2. Xét về mặt phân bố thông tin ................................................................................ 70
2.3. Tiểu kết ....................................................................................................................... 74
Footer Page 5 of 123.

3


Header Page 6 of 123.

CHƯƠNG 3 ĐẶC ĐIỂM NGÔN NGỮ TRUYỆN ĐỒNG THOẠI XÉT Ở CẤP
ĐỘ TRÊN CÂU ......................................................................................................... 76
3.1. Đặc điểm kết cấu của văn bản đồng thoại ............................................................... 76

3.1.1. Kết cấu chung của văn bản đồng thoại .................................................................. 76
3.1.2. Một số kiểu kết cấu của văn bản đồng thoại ......................................................... 82
3.2. Đặc điểm liên kết trong truyện đồng thoại .............................................................. 88
3.2.1. Liên kết hình thức.................................................................................................. 89
3.2.2. Liên kết nội dung................................................................................................... 96
3.3. Tiểu kết ..................................................................................................................... 109

KẾT LUẬN .............................................................................................................. 111
TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................................................... 113
PHỤ LỤC ................................................................................................................. 118

Footer Page 6 of 123.

4


Header Page 7 of 123.

MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Ngôn ngữ trong trong tác phẩm văn học từ lâu đã là đối tượng nghiên cứu của
nhiều phân ngành ngôn ngữ học như từ vựng học, ngữ pháp học, phong cách học,
ngữ dụng học... Chịu quy định bởi những đặc thù về mặt thể loại, ngôn ngữ văn học
luôn mang những nét riêng liên quan mật thiết đến đặc điểm nội dung, hình thức nghệ
thuật cũng như đối tượng tiếp nhận của nó. Do đó, khi tiếp xúc với loại ngôn ngữ
này, người nghiên cứu không thể không có những hiểu biết nhất định về phương diện
thể loại.
Trong hệ thống thể loại văn học Việt Nam hiện đại, truyện đồng thoại là một
thể loại khá đặc biệt. Được sáng tác nhằm mục đích giáo dục trẻ em, lại giàu chất hư
cấu, truyện đồng thoại có những đặc điểm riêng biệt và độc đáo về phương diện ngôn

ngữ. Đó là thứ ngôn ngữ phù hợp với trình độ tiếp nhận cũng như khả năng cảm nhận
văn học của trẻ thơ: chúng khá uyển chuyển, linh hoạt, giàu giá trị biểu cảm.
Vừa chịu sự quy định của thể loại vừa chịu sự chi phối bởi đối tượng tiếp nhận,
ngôn ngữ truyện đồng thoại có nhiều vấn đề cần phải được nghiên cứu kỹ lưỡng. Dù
vậy, cho đến nay, nhiều vấn đề hữu quan vẫn chưa được quan tâm thỏa đáng. Chọn
đề tài Đặc điểm ngôn ngữ truyện đồng thoại tiếng Việt, chúng tôi muốn khảo sát ngôn
ngữ của thể loại văn học này nhằm góp phần vào việc khắc phục khoảng trống trong
tình hình nghiên cứu ngôn ngữ truyện dành cho thiếu nhi.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Đầu thế kỷ XX, truyện đồng thoại Việt Nam hiện đại bắt đầu manh nha, sau đó
đạt được những thành tựu nhất định nhưng đến trước năm 1945, các nhà nghiên cứu
hầu như vẫn chưa chú ý đến thể loại này.
Từ sau năm 1945, trong xu thế văn học thiếu nhi ngày càng được quan tâm, thể
loại đồng thoại đã được đề cập đến trong những chuyên luận, chuyên đề về văn học
thiếu nhi, các luận án khoa học, các bài báo, bài phê bình, bài giới thiệu sách,… Các
nghiên cứu này có thể chia thành các nhóm sau:
2.1. Nhóm nghiên cứu thể loại đồng thoại về mặt lý luận gồm có các bài viết
Footer Page 7 of 123.

5


Header Page 8 of 123.

Tìm hiểu đặc điểm của đồng thoại (Văn Thanh) [78], Lại nói về truyện đồng thoại
viết cho thiếu nhi (Võ Quảng) [72], Về sức tưởng tượng của đồng thoại (Nguyễn
Kiên) [64], Truyện đồng thoại viết cho lứa tuổi nhi đồng (Định Hải) [36], Truyện
đồng thoại với giáo dục mẫu giáo (Lã Thị Bắc Lý) [59]. Trong các bài viết này, các
tác giả tập trung đề cập đến phương thức phản ánh cuộc sống của thể loại, đặc trưng
nhân vật, vai trò và chức năng giáo dục của truyện đồng thoại, còn phương diện ngôn

ngữ đồng thoại chưa được bàn đến.
2.2. Nhóm nghiên cứu về quá trình phát triển và những thành tựu của
truyện đồng thoại trong thành tựu chung của văn học thiếu nhi và thành tựu của
các tác giả gồm có các bài viết: Chặng đầu của nền văn học viết cho thiếu nhi của
Vũ Ngọc Bình [5], Phác thảo 50 năm văn học thiếu nhi của Văn Thanh [79], chuyên
đề Văn học thiếu nhi của Cao Đức Tiến [74], … Các bài viết này mang tính chất tổng
kết từng chặng đường phát triển của văn học thiếu nhi, trong đó có thể loại đồng
thoại.
Các bài viết về truyện đồng thoại từ góc độ bàn về các tác giả chủ yếu đề cập
đến Tô Hoài và Võ Quảng như: Tô Hoài viết cho lứa tuổi măng non [25], Nhà văn Tô
Hoài [65], Truyện loài vật của Tô Hoài [27], Đồng thoại qua ngòi bút của Võ Quảng
[6], Võ Quảng – 40 năm thơ văn cho thiếu nhi [57], Đôi điều về truyện đồng thoại Võ
Quảng [76], …
Có thể nói, các công trình nghiên cứu kể trên hầu như không đụng chạm đến
đặc điểm ngôn ngữ của truyện đồng thoại.
2.3. Các công trình ít ỏi dưới đây có chú ý đến mặt hình thức biểu đạt,
trong đó có đặc điểm ngôn ngữ của truyện đồng thoại.
Trong tập sách Những câu chuyện bổ ích và lý thú, Trần Hòa Bình, Lê Hữu
Tỉnh có viết: “chọn lối viết đồng thoại, tác giả đã tìm được một hình thức diễn đạt
phù hợp với ý tưởng có màu sắc triết lý” khi bình giảng về tác phẩm Chuyện của
Bong Bóng của Lương Đình Khoa [4, tr.132]. Nguyễn Quang Thiều khi bàn về tập
sách Tôi là Bêtô của Nguyễn Nhật Ánh có lời khen ngợi tác giả về thủ pháp kể
chuyện bằng ngôi thứ nhất với một thứ ngôn ngữ gần gũi, giản dị khiến cho người
đọc dễ dàng đồng cảm với nhân vật chính của câu chuyện [81]. Trong Kiến thức ngày
Footer Page 8 of 123.

6


Header Page 9 of 123.


nay (số 613/2007), Lã Thị Bắc Lý nhận định Tôi là Bêtô có điểm mạnh là kể chuyện
lôi cuốn, ngôn ngữ giàu chất thơ [60]. Đọc Xóm đồ chơi, Lý Lan viết “Những câu
chuyện của Lưu Thị Lương kể đều ngắn gọn, súc tích theo tiêu chuẩn của đồng thoại”
[55]. Tác giả Văn Giá khi viết bài bình giảng truyện đồng thoại Dế Mèn phiêu lưu ký
của Tô Hoài có cho rằng ngôn ngữ tác giả rất sắc sảo, góc cạnh, giàu biểu cảm [32].
Như vậy, trong các bài viết trên, vấn đề ngôn ngữ truyện đồng thoại mới chỉ
được đặt ra mà chưa được nghiên cứu một cách cụ thể.
2.4. Gần đây nhất, với luận án “Thể loại truyện đồng thoại trong văn học
Việt Nam hiện đại” [63], Lê Nhật Ký đã nghiên cứu thể loại này một cách kỹ lưỡng
và toàn diện từ khái niệm, đặc trưng thể loại, quá trình phát triển đến những đặc điểm
nội dung và nghệ thuật.
Có thể nói, so với các bài viết trước, Lê Nhật Ký đã bàn kĩ hơn về phương diện
ngôn ngữ đồng thoại. Tuy nhiên, xuất phát từ đặc thù của một công trình nghiên cứu
về văn chương, tác giả cũng chỉ phân tích giá trị biểu đạt của ngôn ngữ đồng thoại
trong tương quan với nghệ thuật xây dựng hình tượng nhân vật. Hơn nữa, nghệ thuật
sử dụng ngôn ngữ cũng chỉ là một phần nhỏ trong tổng thể cấu trúc luận án, nên vấn
đề còn chưa được bàn đến một cách thấu đáo.
Luận văn này trên cơ sở kế thừa các công trình đi trước, thông qua việc sưu tập
tư liệu, cố gắng chỉ ra những đặc điểm ngôn ngữ của thể loại đồng thoại tiếng Việt
dựa vào hai cấp độ: đặc điểm ngôn ngữ từ câu trở xuống (gồm từ ngữ, câu) và đặc
điểm ngôn ngữ trên câu (tổ chức văn bản).
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là đặc điểm ngôn ngữ truyện đồng thoại
tiếng Việt.
Đặc điểm ngôn ngữ là một khái niệm rộng, do vậy luận văn chủ yếu tập trung
nghiên cứu đặc điểm phong cách ngôn ngữ truyện đồng thoại tiếng Việt trên một số
tác phẩm của các tác giả tiêu biểu.
4. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở vận dụng lý thuyết về ngôn ngữ học nói chung và phong cách học

Footer Page 9 of 123.

7


Header Page 10 of 123.

nói riêng cũng như những thành tựu về nghiên cứu thể loại đồng thoại, luận văn
hướng đến:
- Nhận diện những đặc điểm ngôn ngữ thể loại truyện đồng thoại.
- Cung cấp những tri thức cơ bản về đặc điểm ngôn ngữ thể loại truyện đồng
thoại nhằm góp phần nâng cao chất lượng giảng dạy tiếng Việt cho học sinh
mầm non và tiểu học.
5. Phương pháp nghiên cứu và nguồn ngữ liệu
5.1. Phương pháp nghiên cứu
Ngoài những thủ pháp như sưu tập, miêu tả, phân loại mà bất kỳ công trinh
nghiên cứu nào dù khoa học tự nhiên hay khoa học xã hội đều sử dụng, luận văn dùng
các phương pháp sau đây:
- Phương pháp thống kê ngôn ngữ học: Trong luận văn, các đối tượng được
thống kê, phân loại là các đơn vị từ, câu, văn bản. Các đối tượng thống kê được phân
loại theo nhóm, các số liệu được phân tích theo tỉ lệ, tần suất nhằm tìm ra sự nổi trội
của một yếu tố và mối quan hệ giữa các đối tượng.
- Phương pháp so sánh đối chiếu: các đối tượng khảo sát được so sánh, đối chiếu
với các đối tượng cùng bậc về mức độ sử dụng và hiệu quả của việc sử dụng. Ở đây,
chúng tôi chủ yếu so sánh các đối tượng khảo sát trong tương quan với độ dài văn
bản. Phương pháp này cũng được dùng để làm rõ sự khác biệt giữa ngôn ngữ truyện
đồng thoại với ngôn ngữ thể loại văn học khác.
- Phương pháp phân tích quy nạp và diễn dịch: phương pháp này được sử dụng
trong quá trình phân tích ngữ liệu để rút ra những kết luận khái quát hay từ nhận định
mang tính định hướng, luận văn sẽ làm rõ bằng ngữ liệu.

- Phương pháp mô hình hóa: việc xây dựng các mô hình, bảng biểu cho cái nhìn
khái quát về hàng loạt các đối tượng cùng loại, ngoài ra, phương pháp này còn có tác
dụng trực quan hóa một số kết cấu văn bản cũng như cách tổ chức văn bản đồng
thoại.
5.2. Nguồn ngữ liệu
Ngoài tác phẩm của một số tác giả chính như Tô Hoài, Võ Quảng, Trần Hoài
Dương, Nguyễn Kiên, Viết Linh, Đồng Xuân Lan – các tác giả tiêu biểu của thể loại
Footer Page 10 of 123.

8


Header Page 11 of 123.

đồng thoại, luận văn còn sử dụng các tác phẩm tiêu biểu của một số nhà văn khác như
Nguyễn Nhật Ánh, Hồng Thủy, Trần Vọng Đức, Nguyễn Thái Vọng, Phương Anh,
Trần Ngọc Thanh, Chu Linh, Viễn Phương.
Chúng tôi cũng chú ý đến dung lượng các tác phẩm được khảo sát khi lựa chọn
5 truyện dài và 71 truyện ngắn. Để xác định ranh giới truyện ngắn và truyện dài
không phải là điều đơn giản, cho nên khi sưu tập và phân loại, chúng tôi tạm dựa vào
các tiêu chí sau đây (những tác phẩm thỏa mãn các tiêu chí này được xếp vào truyện
đồng thoại dài): (i) Số lượng trang: trên 50 trang (vì truyện dành cho trẻ em); (ii)
Hình thức in ấn: được in thành tập riêng khi xuất bản, không dưới dạng truyện tranh.
Các tác phẩm được khảo sát cũng được sáng tác trong các giai đoạn khác nhau trong
quá trình phát triển của thể loại đồng thoại.
(Xem phụ lục 1)
6. Đóng góp của luận văn
Luận văn có những đóng góp sau đây:
- Nhận diện những đặc điểm cơ bản nhất của ngôn ngữ truyện đồng thoại, đặc
biệt là phương diện sử dụng từ vựng và khâu tổ chức văn bản.

- Chỉ ra mối liên hệ giữa ngôn ngữ truyện đồng thoại với những đặc trưng thể
loại và đặc điểm đối tượng tiếp nhận.
- Hệ thống các ví dụ được chọn để minh họa cho những luận điểm trong luận
văn có tính chọn lọc cao, đóng góp vào nguồn ngữ liệu cho công tác nghiên cứu ngôn
ngữ truyện cho trẻ em.
- Góp phần nâng cao chất lượng giảng dạy tiếng Việt cho học sinh mầm non,
tiểu học.
7. Cấu trúc của luận văn
Ngoài danh mục tài liệu tham khảo, danh sách ngữ liệu được khảo sát, luận văn
có 128 trang gồm phần Mở đầu, Kết luận và 3 chương.
Phần Mở đầu (7 trang) trình bày những vấn đề có tính chất trường quy như lý
do chọn đề tài, lịch sử vấn đề, đối tượng và phạm vi nghiên cứu, mục đích nghiên
cứu, phương pháp nghiên cứu và nguồn ngữ liệu, đóng góp của luận văn, cấu trúc
Footer Page 11 of 123.

9


Header Page 12 of 123.

luận văn.
Chương 1 (23 trang) đề cập đến những vấn đề lý thuyết về thể loại truyện đồng
thoại và phong cách ngôn ngữ nghệ thuật.
Chương 2 (53 trang) khảo sát những đặc điểm của ngôn ngữ truyện đồng thoại
trên bình diện từ ngữ và câu.
Chương 3 (42 trang) khảo sát những đặc điểm về kết cấu và liên kết của văn
bản đồng thoại.
Phần Kết luận (3 trang) tổng kết nội dung luận văn, nêu nhận xét khái quát về
đặc điểm ngôn ngữ truyện đồng thoại.


Footer Page 12 of 123.

10


Header Page 13 of 123.

CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TRUYỆN ĐỒNG
THOẠI VÀ PHONG CÁCH NGÔN NGỮ NGHỆ THUẬT
1.1. Một số vấn đề chung về truyện đồng thoại
1.1.1. Khái niệm truyện đồng thoại

Thuật ngữ truyện đồng thoại có gốc gác từ Trung Quốc xuất hiện ở nước ta vào
khoảng những năm 60 của thế kỷ XX khi nền văn học đã cho ra đời những tác phẩm
thuộc thể loại này. Trong quá trình sử dụng, nó đã được qui ước lại, thể hiện cách
hiểu riêng của văn học Việt Nam. Tìm hiểu thuật ngữ này trong nền văn học Trung
Quốc, ta thấy có nhiều điểm khác biệt so với cách hiểu của ta hiện nay.
Theo tài liệu Tinh hoa tri thức văn hóa Trung Quốc [50, tr.1156-1157], ta thấy
thuật ngữ đồng thoại từ Nhật Bản du nhập vào Trung Quốc cuối thời nhà Thanh. Ban
đầu, đồng thoại được hiểu là toàn bộ những tác phẩm có tính kể chuyện cho trẻ em.
Nảy sinh từ trong dân gian, thể loại truyện đồng thoại thực sự thu hút trẻ em vì sức
tưởng tưởng kỳ diệu và bay bổng của nó, bên cạnh truyền thuyết, thần thoại, tiểu
thuyết thiếu nhi... Về sau các nhà văn hiện đại, mà tiên phong là Diệp Thánh Đào đã
kế thừa dân gian, học tập phương Tây sáng tác nên nhiều tác phẩm truyện đồng thoại
dành cho thiếu nhi. Do vậy, trong nền văn học Trung Quốc, thuật ngữ truyện đồng
thoại bao gồm cả đồng thoại dân gian và đồng thoại hiện đại. Căn cứ vào loại hình
nhân vật, đồng thoại còn chia thành ba tiểu loại: đồng thoại siêu nhân thể (nhân vật
chính là lực lượng thần kì), đồng thoại thường nhân thể (nhân vật chính là con người
bình thường) và đồng thoại nghỉ nhân thể (nhân vật chính là những sự vật có sinh
mệnh hoặc không có sinh mệnh được nhân cách hóa).

Ở Việt Nam, thuật ngữ truyện đồng thoại có nhiều cách hiểu khác nhau, theo
nghĩa rộng và nghĩa hẹp.
Từ điển tiếng Việt do Văn Tân chủ biên (bản in 1994) định nghĩa đồng thoại
theo nghĩa rộng: “Đồng thoại: truyện chép cho trẻ con xem” [73,tr. 316].
Từ điển tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ học (bản in 2001) lại có cách hiểu khác:
“Đồng thoại: thể truyện cho trẻ em, trong đó loài vật và các vật vô tri được nhân cách
hóa tạo nên một thế giới thần kì thích hợp với trẻ em” [87, tr. 344].
Footer Page 13 of 123.

11


Header Page 14 of 123.

Bên cạnh đó, một số nhà phê bình trong những bài viết của mình cũng cho ý
kiến về vấn đề này. Tiêu biểu là các ý kiến sau đây:
Vân Thanh trong bài viết “Tìm hiểu đặc điểm của truyện đồng thoại” đăng trên
Tạp chí Văn học (4) năm 1974 đưa ra định nghĩa: “Đồng thoại là một thể loại đặc biệt
của văn học, có sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa hiện thực và mơ tưởng. Ở đây, các tác
giả thường dùng nhân vật chính là động vật, thực vật và những vật vô tri, lồng cho
chúng những tình cảm của con người. (Cũng có khi nhân vật là người). Qua thế giới
không thực mà lại thực đó, tác giả lồng cho chúng những tình cảm và cuộc sống của
con người. Tính chất mơ tưởng và khoa trương là những yếu tố không thể thiếu được
trong đồng thoại” [78, tr. 104]. Cách hiểu của Vân Thanh đã phản ánh được những
nét cơ bản của đồng thoại, làm cơ sở cho những định nghĩa khác về sau.
Cao Đức Tiến, Dương Thị Hương trong chuyên đề Văn học có đưa ra định nghĩa
như sau: “Truyện đồng thoại: là sáng tác của các nhà văn hiện đại, sử dụng nghệ thuật
nhân hóa loài vật để kể chuyện về con người, đặc biệt là trẻ em, vì vậy nhân vật chủ
yếu là loài vật” [75, tr. 215].
Trong khi đó, Châu Minh Hùng, Lê Nhật Ký quan niệm truyện đồng thoại là:

“Thể loại văn học được các nhà văn viết riêng cho các em với bút pháp kế thừa từ
đồng thoại dân gian gọi là đồng thoại hiện đại. Vẫn là truyện lấy loài vật (con vật, cỏ
cây, hoa quả…) làm đối tượng miêu tả, với tư cách là văn học viết, đồng thoại hiện
đại phải mới so với đồng thoại dân gian” [49, tr. 107].
Như vậy, dù có sự khác nhau đôi chút, nhìn toàn thể, các quan niệm trên có sự
thống nhất ở hai điểm: (i) truyện đồng thoại là những sáng tác hiện đại trong nền văn
học Việt Nam; (ii) đa phần các quan niệm hiểu truyện đồng thoại theo nghĩa hẹp: thể
loại truyện kể hiện đại dành cho trẻ em, có hình thức đặc thù là nhân cách hóa loài
vật.
Luận văn tán đồng hai quan điểm vừa nêu và xem chúng là những tiêu chí nhận
diện ban đầu của thể loại truyện đồng thoại.
1.1.2. Những đặc trưng cơ bản của thể loại truyện đồng thoại

Là những tác phẩm thuộc dòng tự sự, truyện đồng thoại hiển nhiên mang những
đặc điểm cơ bản mà tất cả các tác phẩm tự sự đều có. Tuy nhiên, nó cũng có những
Footer Page 14 of 123.

12


Header Page 15 of 123.

đặc trưng làm nên sự khác biệt so với các thể loại văn học khác.
1.1.2.1. Hướng mục đích giáo dục đến trẻ em

Khi nhà văn cầm bút viết một truyện đồng thoại, thì mục đích đầu tiên của họ
không gì khác là dành cho trẻ em những bài học giản dị trong gia đình và ngoài xã
hội. Bằng con đường đi qua cảm xúc, qua hệ thống nhân vật vừa lạ lẫm vừa thân
quen, truyện đồng thoại đem lại những nhận thức lý tính một cách nhẹ nhàng trong
những bài học cụ thể, sáng rõ chứ không thâm trầm, sâu xa như thông điệp trong thể

loại truyện ngụ ngôn.
1.1.2.2. Nhân cách hóa

Hệ thống nhân vật trong truyện đồng thoại rất phong phú, trong đó có cả con
người nhưng chiếm đa số là loài vật. Khi xây dựng nhân vật, các nhà văn đồng thoại
hướng ngòi viết của mình vào cả con người và loài vật, đem những đặc tính khác biệt
ấy vào trong một thực thể. Gán cho loài vật những đường nét tính cách, tình cảm của
con người, truyện đồng thoại vẫn tìm cách bảo lưu những đặc điểm tự nhiên vốn có
của chúng. Cách làm như vậy tuân thủ nguyên tắc “vật ngã đồng nhất” trong tư duy
trẻ thơ, vì vậy dễ dàng tác động đến tâm hồn và tình cảm các em. Miêu tả loài vật
nhưng lại hướng vào trẻ em như một đối tượng phản ánh, truyện đồng thoại vừa vẽ
nên bức tranh thế giới loài vật sinh động, hấp dẫn đồng thời lại cho các em thấy “có
mình” trong đó. Vì thế, các em được sống trong câu chuyện, sau đó tự liên hệ đến
mình. Truyện có thể viết về con chó, con vịt, bút chì, thước kẻ… nhưng vẫn đem đến
những bài học về cuộc sống xung quanh các em. Theo Lê Nhật Ký, “Nguyên tắc
miêu tả kết hợp này có tác dụng nới rộng diện tích nghĩa của hình tượng, khiến cho
nhân vật đồng thoại hiện ra vừa là nó (vật), vừa là hình tượng ẩn dụ về con người”
[63, tr.32].
1.1.2.3. Giàu chất hư cấu, tưởng tượng

Tiếp xúc với văn chương đồng thoại, không ai không nhận ra sức tưởng tưởng,
hư cấu kỳ diệu của nó. Có thể nói, không có hư cấu, tưởng tượng, sẽ không có thể
loại văn chương này.
Mọi thành tựu trong cuộc sống đều bắt đầu bằng tưởng tưởng, tưởng tượng
Footer Page 15 of 123.

13


Header Page 16 of 123.


giúp con người hình dung ra cái chưa có, hoặc cái không thể có. Với văn chương
nghệ thuật, tưởng tượng, hư cấu càng quan trọng. Không có nó, nhà văn không thể
xây dựng tác phẩm. Điều này đặc biệt đúng với thể loại truyện đồng thoại. Về cơ bản,
các tác giả đồng thoại không dựa vào dạng thức vốn có của cuộc sống để xây dựng
tác phẩm, mà tập trung khái quát cao độ bản chất của hiện thực rồi lựa chọn hình thức
đồ vật, loài vật để phản ánh cái bản chất ấy. Phương pháp tái hiện cuộc sống đặc biệt
này làm cho hiện thực có thêm màu sắc. Ở phương diện đối tượng tiếp nhận, với nhận
thức lý tính còn non yếu, trẻ em chưa thể nhận thức cuộc sống như người trưởng
thành. Vì vậy, tưởng tượng giúp cho các em thoát khỏi những giới hạn, ràng buộc của
cuộc sống hằng ngày để mặc sức thả mình phiêu lưu trong thế giới tưởng tượng và
ước mơ . Điều này hoàn toàn phù hợp với đặc điểm tâm lý và thiên tính yêu thích
tưởng tượng của trẻ em.
Tuy nhiên cũng cần lưu ý là tưởng tưởng hư cấu trong truyện đồng thoại không
được đi quá giới hạn của nó. Tưởng tượng thiếu căn cứ, đồng thoại sẽ trở thành mộng
thoại. Ngược lại, đồng thoại thiếu tưởng tưởng thì trở thành ngốc thoại. Cả hai đều
phương hại đến khả năng biểu đạt của thể loại, tư duy cũng như tâm hồn trẻ thơ.
1.1.3. Truyện đồng thoại với một số thể loại gần gũi
1.1.3.1. Truyện đồng thoại và truyện cổ tích loài vật

Vốn là một thể loại dân gian, truyện cổ tích loài vật cũng lấy các con vật làm
nhân vật chính, như trong truyện Trí khôn của ta đây có Hổ và Trâu. Dựa vào lối tư
duy ngây thơ trong quá trình khám phá thế giới tự nhiên, các tác giả dân gian đã lý
giải những đặc điểm hay tập tính ở các con vật. Về sau, người sáng tác còn lồng thêm
những hiểu biết xã hội khiến cho các nhân vật hiện lên mang dáng dấp của những loại
người, hạng người trong xã hội.
Điểm chung giữa truyện cổ tích loài vật và truyện đồng thoại là ở phương diện
nhân vật. Tuy nhiên, so với truyện cổ tích loài vật, hệ thống nhân vật trong truyện
đồng thoại phong phú và đa dạng hơn nhiều. Bên cạnh các con vật, truyện đồng thoại
còn sử dụng cả đồ vật, thậm chí là các con số hay các khái niệm trừu tượng làm nhân

vật. Nhân vật trong truyện đồng thoại cũng hiện lên cụ thể, sinh động hơn và ít nhiều
Footer Page 16 of 123.

14


Header Page 17 of 123.

cá tính hơn. Ngoài ra, bên cạnh một số tác phẩm tiếp tục đi vào chủ đề sự tích, còn lại
chủ yếu các tác phẩm hướng tới cuộc sống của trẻ em qua hình tượng loài vật. Ngay
cả với những tác phẩm có chủ đề sự tích như Bài học tốt (Võ Quảng) thì chủ đề giáo
dục vẫn nổi lên như một cảm hứng chủ đạo. Qua việc lý giải vì sao mai rùa có nhiều
vết rạn rứt thì truyện gửi đến bài học về lòng kiên nhẫn, qua đó có tác động giáo dục
đến các em.
1.1.3.2. Truyện đồng thoại và truyện ngụ ngôn

Truyện ngụ ngôn là một thể loại văn học có mục đích răn đời thông qua hình
thức chủ yếu là những câu chuyện kể về loài vật. Nội dung giáo huấn và kiểu loại
nhân vật là hai yếu tố đưa đến sự gần gũi giữa thể loại truyện ngụ ngôn và truyện
đồng thoại. Theo ý kiến của một số nhà nghiên cứu Cao Đức Tiến- Dương Thị
Hương [75], Vân Thanh [78], Võ Quảng [72], Phạm Minh Hạnh [43],… thì ranh giới
để phân biệt hai thể loại này thể hiện ở ba phương diện sau: dung lượng, tính chất bài
học giáo huấn và phương pháp truyền đạt.
Về dung lượng, truyện ngụ ngôn có ngôn ngữ và chi tiết ngắn gọn, súc tích hơn
truyện đồng thoại. Theo Phạm Minh Hạnh: “Thông thường thì ngụ ngôn có độ dài rất
khiêm tốn, có truyện chỉ 60 đến 70 từ (…). Thường thì truyện ngụ ngôn chỉ khoảng
200 đến 300 từ, ít truyện có đến 500 đến 700 từ hay 1000 từ” [43, tr. 50-51]. Dựa trên
một sự việc, thông qua sự ám chỉ, so sánh, ẩn dụ, truyện ngụ ngôn đem đến ý nghĩa
triết lý sâu xa.
Trong khi đó, theo Lê Nhật Ký: “Những truyện đồng thoại có độ dài khiêm tốn

nhất cũng phải đạt 500 đến 600 từ, phổ biến là từ 1000 đến 3000 từ, và không hiếm
những truyện có 10.000 từ trở lên. Độ dài như thế là cần thiết giúp cho truyện đồng
thoại có khả năng diễn tả một cách cụ thể, rõ ràng các tình huống, sự việc của câu
chuyện”[63, tr. 37]. Nhờ đó, truyện đồng thoại cũng thuận lợi hơn trong việc miêu tả
nhân vật, hình huống, thiên nhiên…, do đó, có khả năng thu hút trẻ em hơn là truyện
ngụ ngôn quá giản lược, cô đọng tối đa.
Về tính chất bài học giáo huấn, bài học trong truyện đồng thoại đơn giản và cụ
thể, phù hợp với tuổi thơ chứ không thâm trầm và triết lý sâu xa như ở ngụ ngôn. Để
hiểu được ý nghĩa sâu xa của truyện ngụ ngôn, người đọc phải là người từng trải, có
Footer Page 17 of 123.

15


Header Page 18 of 123.

kinh nghiệm sống còn trẻ em có thể chỉ hiểu phần diễn truyện mà thôi.
Về phương pháp truyền đạt, cả hai thể loại truyện đều lấy loài vật, đồ vật, cỏ
cây làm nhân vật và đều nhân cách hóa chúng. Tuy nhiên, truyện đồng thoại lấy loài
vật vừa làm đối tượng phản ánh vừa làm phương tiện chuyển tải thông điệp còn
truyện ngụ ngôn thì chỉ xem nhân vật như là phương tiện chuyển tải nội dung giáo
dục mà thôi. Dó đó, nhân vật trong truyện ngụ ngôn có thể được thay thế một cách dễ
dàng mà không phương hại đến các lớp nội dung truyện như là ở truyện đồng thoại.
Truyện ngụ ngôn không đặt mục tiêu miêu tả nhân vật, còn ngược lại, miêu tả nhân
vật là một nhiệm vụ có tính chất bắt buộc đối với truyện đồng thoại vì nhân vật trong
truyện đồng thoại có ngoại hình, tính cách, đời sống nội tâm sâu sắc hơn nhiều. Trong
khi xây dựng nhân vật, truyện ngụ ngôn dùng lối ẩn dụ, kín đáo thì truyện đồng thoại
chủ yếu theo lối cách điệu. Cho nên, ngụ ngôn càng thâm trầm, sâu sắc, triết lý bao
nhiêu thì càng hay còn đồng thoại thì càng hồn nhiên, giản dị, nhiều cảm xúc thì càng
hấp dẫn được trẻ nhỏ.

1.1.3.3. Truyện đồng thoại và truyện loài vật

Truyện loài vật là một thể loại văn học viết dành cho thiếu nhi, có chức năng
phản ánh đời sống sinh hoạt của loài vật nên nhân vật chính cũng là các con vật.
Cũng giống như truyện đồng thoại, truyện loài vật cũng miêu tả đời sống các loài vật
như nó vốn có ngoài đời. Tuy nhiên, ở truyện đồng thoại, mức độ miêu tả có giới hạn
hơn. Hơn nữa, nếu truyện loài vật lấy thủ pháp tả thực làm chính thì truyện đồng
thoại lại chuộng thủ pháp nhân cách hóa. Do đó, nhân vật truyện đồng thoại hiện lên
vừa là nó (vật ) vừa là hình ảnh biểu trưng về con người.
1.1.4. Đặc điểm cơ bản về nội dung và nghệ thuật của truyện đồng thoại
1.1.4.1. Nội dung

Truyện đồng thoại có được từ nguồn cảm hứng về thế giới tự nhiên và cả cảm
hứng về cuộc sống con người. Bên canh đó, thể loại truyện này cũng đem đến những
bài học lý thú cho trẻ em, thậm chí là cho cả người lớn.
Xuất phát từ việc lấy loài vật, cỏ cây, sông nước làm đối tượng nhận thức, miêu
tả, truyện đồng thoại đem đến cho độc giả những điều kì lạ, lí thú của thế giới tự
Footer Page 18 of 123.

16


Header Page 19 of 123.

nhiên. Dù thiên nhiên được nhà văn phú cho tâm hồn, tính cách như con người thì
chúng vẫn phải được bảo lưu những đặc điểm tự nhiên của mình. Cho nên, bước vào
thế giới đồng thoại, người đọc sẽ được khám phá tự nhiên muôn hình vạn trạng.
Trong thế giới tự nhiên phong phú ấy, trọng tâm vẫn là loài vật và những sự vật, hiện
tượng có mối quan hệ gần gũi với con người. Đối với người lớn, những sự vật, hiện
tượng trong truyện đồng thoại không có gì xa lạ nhưng với các em, đó là cả một thế

giới cần nhận thức và lí giải: đời sống, “phong tục”, những tập tính ngộ nghĩnh của
loài vật, những biến hóa kì diệu của thiên nhiên trong quá trình phát triển…
Trong truyện đồng thoại, có lúc thế giới loài vật được miêu tả trong mối quan hệ
cộng sinh đa dạng với con người. Trong mối quan hệ ấy, loài vật trở nên có “số
phận”, đồng thời là đối tượng khiến con người bộc lộ nhân tính. Qua đó, nhà văn nói
lên tiếng nói nhân văn, ca ngợi tình yêu thương loài vật và phê phán những hành
động tàn nhẫn, phi nhân tính.
Cũng giống như các thể loại văn chương khác, truyện đồng thoại dù viết về đề
tài gì, đối tượng nào, mục đích cuối cùng vẫn nhằm thể hiện cuộc sống con người. Đa
phần các câu chuyện phản ánh thế giới tuổi thơ hồn nhiên, trong sáng. Nhân vật - chủ
yếu là loài vật - được phú cho những đường nét, tính cách trẻ em trong những mối
quan hệ đời thường: quan hệ mẹ con, quan hệ bạn bè, thầy trò…, qua đó mà bộc lộ
cái hay, cái dở của lứa tuổi mình. Khi khắc họa tính cách trẻ con, nhà văn bao giờ
cũng thể hiện cái nhìn bao dung, tin tưởng vào khả năng hướng thiện của các em. Vì
vậy, khi phản ánh cái ác, cái xấu cũng là lúc nhà văn muốn các em “tham gia” đấu
tranh vì một thế giới tốt đẹp.
Bên cạnh thế giới trẻ em hồn nhiên, trong sáng, truyện đồng thoại cũng đề cập
đến thế giới của người trưởng thành, tất nhiên là dưới con mắt thơ trẻ. Một số tác
phẩm trước Cách mạng tháng Tám, như của Tô Hoài chẳng hạn, nói đến cái đói, cái
nghèo, sự lạc hậu, sự bế tắc,… nhưng chủ yếu là để khơi gợi sự đồng cảm, yêu
thương đồng loại cho trẻ em là chính. Bên canh đó, một số tác phẩm, chịu sự chi phối
của thời đại và nhiện vụ của văn chương tuyên truyền, cũng phản ánh không khí lịch
sử, cuộc sống mới, con người mới như một số truyện trong giai đoạn 1955 – 1985.
Được sáng tác chủ yếu vì trẻ em, truyện đồng thoại đem lại nhiều bài học giản dị
Footer Page 19 of 123.

17


Header Page 20 of 123.


mà sâu sắc cho lứa tuổi này. Đó là bài học về lí tưởng cuộc sống, bài học về tình yêu
quê hương đất nước, bài học về lòng nhân ái, yêu thương đồng loại, yêu thương loài
vật, bài học về thái độ sống nghiêm túc, trung thực, bài học về cách nhìn người, bài
học về đức tính siêng năng, thái độ tôn trọng môi trường,…
Bên cạnh đó, truyện đồng thoại còn gửi gắm những thông điệp có thể có ích cho
cả người lớn. Đó là việc nhận rõ trách nhiệm của mình trong sự trưởng thành nhân
cách của trẻ em, hiểu được thái độ, cách ứng xử trong cuộc sống, nhận ra thói sỉ diện,
thói a dua, xu nịnh…Đôi khi, truyện đồng thoại còn đem đến thông điệp cho người
làm nghệ thuật và cho những ai muốn giữ gìn cái đẹp ở đời.
Với những đặc điểm nội dung kể trên, truyện đồng thoại cũng phải tìm cho mình
những thủ pháp, phương tiện nghệ thuật tương ứng.
1.1.4.2. Nghệ thuật

Truyện đồng thoại có những đặc thù riêng trong hệ thống nhân vật, các biện
pháp xây dựng nhân vật, nghệ thuật tổ chức cốt truyện và nghệ thuật sử dụng ngôn
ngữ.
Truyện đồng thoại có hệ thống nhân vật phong phú và đa dạng. Tuy nhiên, theo
Lê Nhật Ký, loại nhân vật phổ biến là muông thú (chiếm 81,30 %), cỏ cây, hoa lá
(chiếm 6,35%), đồ vật (chiếm 6,35 %). Con người ít xuất hiện, nếu có cũng không
giữ vai trò chính [63, tr.101].
Một đặc điểm quan trọng nữa là nhân vật trong truyện đồng thoại chủ yếu là
những con vật nhỏ bé, quen thuộc. Điều này được Lê Nhật Ký lí giải là do sự quy
định của không gian địa lý, văn hóa người Việt, trải nghiệm của chủ thể sáng tạo và
tâm lý của chủ thể tiếp nhận.
Nhân vật trong truyện đồng thoại được đặt tên chủ yếu theo danh từ chung hoặc
theo một đặc điểm nào đó của đối tượng, ngoại hình được miêu tả theo lối chấm phá,
ngắn gọn, phẩm chất, tính cách được khắc họa chủ yếu thông qua hành động, qua các
xung đột, tình huống, sự kiện tiêu biểu. Đặc biệt, nhân vật trong thể loại truyện này
mang tính biểu trưng về con người.

Trong nghệ thuật tổ chức cốt truyện, các kiểu cốt truyện chính thường được sử
dụng là cốt truyện tuyến tính - hành động, cốt truyện phiêu lưu, cốt truyện đối
Footer Page 20 of 123.

18


Header Page 21 of 123.

thoại,…
Trong kĩ thuật kể chuyện, phần khai truyện có lúc dùng theo lối truyện kể dân
gian kiểu như “ngày xửa ngày xưa”, có khi theo kiểu “tâm sự” giữa người kể chuyện
và bạn đọc nhưng phổ biến nhất là theo lối trực tiếp: giới thiệu nhân vật, thời gian,
không gian xảy ra câu chuyện. Ở phần diễn truyện, người kể chuyện chủ yếu sử dụng
lối kết cấu theo tuyến thẳng, không đảo lộn trật tự các lớp sự kiện phù hợp với tâm lý
tiếp nhận của thiếu nhi. Có lúc, nhà văn cũng sử dụng lối kết cấu trùng điệp – lặp lại
một hành động nào đó nhưng theo mức độ tăng tiến nhằm mục đích tạo cao trào, hay
dùng kết cấu đối lập nhằm tạo nên xung đột và khắc họa rõ nét tính cách nhân vật.
Về phương diện ngôn ngữ, truyện đồng thoại chia ra ngôn ngữ nhân vật và ngôn
ngữ người kể chuyện. Ngôn ngữ truyện đồng thoại cũng có những quy định riêng
trong việc sử dụng từ ngữ, câu văn và các biện pháp tu từ cho phù hợp với việc
chuyển tải nội dung và đối tượng tiếp nhận. Vấn đề này cũng là đối tượng mà luận
văn quan tâm.
1.2. Phong cách ngôn ngữ nghệ thuật
Ngôn ngữ nghệ thuật là một mã phức tạp được cấu tạo nên từ hệ thống tín hiệu
thứ nhất (từ ngôn ngữ tự nhiên). Do đó, chúng vừa là những tín hiệu mang nghĩa như
ngôn ngữ chung vừa là những tín hiệu có giá trị thẩm mĩ. Muốn thực hiện chức năng
thẩm mĩ, ngôn ngữ nghệ thuật phải có những đặc trưng chung như tính cấu trúc, tính
hình tượng, tính sinh động biểu cảm. Ngoài ra, do nhiệm vụ tái hiện cuộc sống con
người một cách cụ thể, toàn vẹn, ngôn ngữ nghệ thuật cũng phải sử dụng những

phương tiện thuộc về các phong cách chức năng khác, do đó, nó còn mang một đặc
trưng nữa, đó là tính tổng hợp.
Để có cơ sở tìm hiểu những vấn đề cụ thể ở các chương sau, các tiểu mục tiếp
theo của luận văn lần lượt khái quát về đặc điểm ngôn ngữ nghệ thuật từ cấp độ câu
trở xuống và cấp độ trên câu.
1.2.1. Đặc điểm ngôn ngữ nghệ thuật từ cấp độ câu trở xuống
1.2.1.1. Từ ngữ

Chịu sự quy định của tính tổng hợp, tác phẩm văn học sử dụng rất đa dạng vốn
Footer Page 21 of 123.

19


Header Page 22 of 123.

từ vựng nhằm xây dựng hình tượng nghệ thuật theo đặc trưng của từng thể loại.
Xét theo phong cách chức năng, vốn từ nói chung có thể chia thành nhóm từ ngữ
đa phong cách và nhóm từ ngữ đơn phong cách. Được coi là nền tảng và được sử
dụng chung cho mọi phong cách tiếng Việt, từ ngữ đa phong cách cũng là lớp từ
vựng nền tảng trong sáng tác nghệ thuật bởi chúng được phân bố trong các phạm vi
biểu thị các sự vật, tính chất, hoạt động, trạng thái,… cơ bản của đời sống. Sự hiện
diện của chúng không làm phương hại đến tính thẩm mĩ của văn bản nghệ thuật. Theo
Cù Đình Tú, “cần tránh một quan niệm phiến diện, một cách đánh giá siêu hình rằng
từ ngữ đa phong cách là cái kém màu sắc, kém hấp dẫn, ít gợi cảm. Vấn đề chủ yếu là
cách dùng, biết dùng chứ không phải ở bản thân từ ngữ” [85, tr.204]. Nhóm từ ngữ
đơn phong cách thuộc phong cách ngôn ngữ khoa học, phong cách ngôn ngữ hành
chính, phong cách ngôn ngữ chính trị, phong cách khẩu ngữ đều được sử dụng và
phát huy sức mạnh của chúng trong tác phẩm tùy theo ý đồ nghệ thuật của nhà văn.
Trong các nhóm từ ngữ này, từ khẩu ngữ rất cần thiết cho sáng tác văn học bởi “về cơ

bản, từ khẩu ngữ tiếng Việt là những từ thuần Việt, rất giàu hình ảnh, giàu sắc thái
biểu cảm, đó là những từ luôn luôn gắn chặt với cuộc sống sôi nổi, sinh động. Cho
nên từ khẩu ngữ tiếng Việt thuộc loại công cụ lợi hại nhất để nhà văn có thể miêu tả,
tái tạo được cuộc sống thực trong tác phẩm. Nhiều khi chỉ cần điểm một vài từ khẩu
ngữ thôi nhưng tính cách nhân vật cũng hiện ra rất rõ nét” [85, tr.214]. Nhóm từ vựng
thuộc phong cách ngôn ngữ văn chương (từ vựng thi ca) kiểu như bóng nguyệt, lữ
khách, giọt lệ,… cũng như các từ láy tượng thanh, từ láy tượng hình được sử dụng rất
phổ biến vì chúng có giá trị tu từ đặc biệt, mang màu sắc cảm xúc, trữ tình.
Xét theo các tiêu chí khác (nguồn gốc, phạm vi sử dụng,…), ta có các lớp từ như
từ thuần Việt, từ Hán -Việt, từ toàn dân, từ địa phương. Nhờ sự khác biệt về sắc thái
ý nghĩa, sắc thái biểu cảm mà chúng đều có thể được sử dụng ở các mức độ khác
nhau theo từng thể loại và từng truyền thống văn học của mỗi dân tộc, mỗi giai đoạn.
Chẳng hạn mức độ sử dụng từ Hán -Việt trong văn học dân gian, văn học trung đại và
văn học hiện đại không giống nhau. Trong khi ca dao, tục ngữ chủ yếu sử dụng từ
thuần Việt thì thơ Đường luật, tiểu thuyết chương hồi sử dụng rất nhiều từ Hán - Việt.
Sự khác nhau này là do đặc trưng thể loại chi phối.
Footer Page 22 of 123.

20


Header Page 23 of 123.

Nói chung, ngôn ngữ nghệ thuật hầu như không khước từ bất cứ từ ngữ nào
trong vốn từ nói chung. Tuy nhiên, do đặc trưng của tính hình tượng, tính sinh động
biểu cảm cần có để xây dựng hình tượng nghệ thuật, những lớp từ nào tỏ ra có ưu thế
hơn sẽ được lựa chọn nhiều hơn. Người sáng tác cũng có thể sử dụng các thủ pháp tu
từ để tăng cường hiệu quả diễn đạt cho từ ngữ mình lựa chọn. Khi đó, một từ thuộc
lớp từ đa phong cách vẫn có thể phát huy sức mạnh để có được phẩm chất của ngôn
ngữ tạo hình, gây được những hiệu ứng bất ngờ. Những nhà văn, nhà thơ bậc thầy là

những người sử dụng từ ngữ rất quen thuộc nhưng hết sức sáng tạo. Theo Đào Thản,
những từ Nguyễn Du sử dụng trong Truyện Kiều “có số lần xuất hiện cao nhất ở đây
từ 100 đến 300 lần lại là những từ hết sức bình thường trong ngôn ngữ hằng ngày”
[77, tr.13]. Có thể thấy điều đó trong trường hợp sau:
Làm cho cho mệt cho mê,
Làm cho đau đớn ê chề cho coi
Trước cho bõ ghét những người
Sau cho để một trận cười về sau.
(Truyện Kiều, Nguyễn Du)
Từ cho trong đoạn thơ trên quả là đắc địa.
Cũng cần phải thấy rằng, nằm trong chỉnh thể thẩm mỹ, tất cả các từ ngữ đều có
mối quan hệ mật thiết với nhau. Chúng có thể giữ những vai trò khác nhau, trong đó
có những từ được coi là chủ chốt (trong thơ gọi là nhãn tự), có những từ mang tính
phụ trợ nhưng đều hướng đến một mục đích chung, một hiệu quả diễn đạt chung. Chỉ
khi nằm trong tác phẩm, chúng mới có được ý nghĩa cũng như giá trị thẩm mĩ của
mình. Mặt khác, nó là một mắc xích quan trọng để tạo nên câu văn, đoạn văn, rộng
hơn là cả văn bản; mất đi một yếu tố, chỉnh thể tác phẩm có thể sẽ không còn hay chí
ít cũng bị tổn hại về mặt ngữ nghĩa hay phương diện thẩm mĩ.
Như vậy, việc sử dung từ ngữ trong văn bản nghệ thuật có thể nói là rất tự do
nhưng lại chịu sự chi phối bởi quy luật thẩm mĩ. Chính điều này làm nên nét khác
biệt giữa từ ngữ văn chương với vốn từ chung. Từ ngôn ngữ chung đến ngôn ngữ
nghệ thuật phải đi qua quá trình lao động nghệ thuật của người sáng tác.
1.2.1.2. Câu
Footer Page 23 of 123.

21


Header Page 24 of 123.


Cũng tương tự như tình hình sử dụng từ ngữ, văn bản nghệ thuật sử dụng tất cả
các kiểu câu thuộc nhiều phong cách khác nhau nhằm đạt đến hiệu quả diễn đạt cao
nhất. Đây chính là điểm khác biệt của ngôn ngữ nghệ thuật so với các phong cách
chức năng khác như ngôn ngữ hành chính, ngôn ngữ khoa học,…
Dưới góc độ mục đích phát ngôn, ngôn ngữ nghệ thuật có thể sử dụng tất cả các
kiểu câu như câu tường thuật, câu cảm thán, câu nghi vấn, câu cầu khiến tùy theo ngữ
cảnh và mục đích sử dụng.
Dưới góc độ đơn vị ngôn ngữ, câu luôn chứa đựng một thông tin và được tổ
chức bằng một hình thức cú pháp nhất định. Các hình thức cú pháp này rất đa dạng.
Văn bản nghệ thuật, trước hết nhằm đảm bảo vai trò chuyển tải thông tin, sử
dụng rất nhiều câu có kết cấu chủ vị mang màu sắc đa phong cách. Đây là dạng câu
“có thể xuất hiện ở bất cứ phong cách nào của tiếng Việt. Nó mang sắc thái biểu cảm
trung hòa. Nó được dùng trong trường hợp cần trình bày sự vật tồn tại một cách
khách quan, để người nghe tự mình tiếp nhận, không kèm theo sự nhấn mạnh hay
đánh giá nào” [85, tr.335].
Xét theo một số tiêu chí khác, câu có thể chia thành câu bình thường, câu đặc
biệt, câu tỉnh lược,… Mỗi loại câu có chức năng riêng trong văn bản nghệ thuật.
Nếu xem câu có kết cấu chủ-vị mang màu sắc đa phong cách là câu chuẩn thì
văn bản nghệ thuật sử dụng rất nhiều những biến thể của nó.
Đó có thể là biến thể trật tự sắp xếp của kết cấu chủ - vị. Theo đó, trong một số
văn cảnh, sự thay đổi trật tự sắp xếp gữa các thành tố không làm thay đổi quan hệ cú
pháp mà chỉ thêm một số sắc thái ý nghĩa, sắc thái biểu cảm và màu sắc phong cách
nào đó mà thôi. Các trường hợp như toàn bộ vị ngữ đặt trước chủ ngữ hay một bộ
phận vị ngữ đặt trước chủ ngữ có tác dụng nhấn mạnh vị ngữ:
Giữa giường thất bảo ngồi trên một bà
(Truyện Kiều, Nguyễn Du)
Đó có thể là biến thể lược bớt thành tố của kết cấu chủ - vị như các trường hợp:
chỉ còn vị ngữ; chỉ còn chủ ngữ; chỉ còn một thành phần phụ của vị ngữ; hay trường
hợp không còn chủ ngữ, vị ngữ mà chỉ còn thành tố biểu thị sự đánh giá, hoặc trạng
thái, hoặc lời thưa gửi, trả lời. Biến thể tỉnh lược có thể được dùng trong phong cách

Footer Page 24 of 123.

22


Header Page 25 of 123.

ngôn ngữ văn chương khi cần miêu tả nhiều trạng thái, hay nhiều hoạt động của một
đối tượng diễn ra liên tiếp. Việc sử dụng này còn có tác dụng nhấn mạnh nội dung
thông báo.
Biến thể của kết cấu chủ vị trong ngôn ngữ nghệ thuật rất đa dạng và mỗi biến
thể có thể được sử dụng trong mỗi ngữ cảnh khác nhau nhằm đạt đến hiệu quả diễn
đạt nào đó.
Ngoài ra, để tăng cường khả năng khơi gợi hình tượng và tăng sức biểu cảm cho
câu văn, nhà văn có thể sử dụng các biện pháp tu từ cú pháp như phép song hành cú
pháp, phép liệt kê, phép chêm xen,… Các biện pháp tu từ này xuất hiện thường xuyên
trong văn bản nghệ thuật, chẳng hạn:
Cô bé nhà bên- có ai ngờ- cũng vào du kích.
(Quê hương- Giang Nam)
Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da.
(Truyện Kiều, Nguyễn Du)
Tóm lại, văn bản nghệ thuật có thể sử dụng tất cả các kiểu câu nhưng việc sử
dụng này đều có chủ đích rõ ràng và đem đến hiệu quả diễn đạt cao nhất, phù hợp với
đặc trưng thẩm mỹ của thể loại và khuynh hướng của cá nhân người sáng tác. Bên
cạnh đó, do sử dụng rất nhiều những biến thể của câu nên các câu văn trong ngôn ngữ
nghệ thuật luôn liên kết chặt chẽ với nhau cả về phương diện hình thức lẫn phương
diện nội dung ngữ nghĩa nhằm đảm bảo tính mạch lạc của văn bản cũng như góp
phần tích cực vào quá trình xây dựng hình tượng nghệ thuật của tác phẩm.
1.2.2. Đặc điểm ngôn ngữ nghệ thuật ở cấp độ trên câu
1.2.2.1. Kết cấu văn bản


Văn bản với tư cách là đơn vị của ngôn ngữ được trình bày bằng những mô hình
khác nhau, có những văn bản được xây dựng theo các mô hình kiểu nghiêm ngặt (văn
bản hành chính), có những văn bản được xây dựng theo mô hình có tính chất thông
dụng (văn bản khoa học), lại có những văn bản được xây dựng theo mô hình có tính
chất tự do. Những mô hình tự do không mang tính chất điều chỉnh mà mang tính chất
chỉ hướng. Chính là theo những mô hình tự do này mà những văn bản nghệ thuật
được tạo lập nên.
Footer Page 25 of 123.

23


×