Tải bản đầy đủ (.pdf) (107 trang)

Quản lý giáo dục Quản lý hoạt động tự học của sinh viên khoa Ngôn ngữ và Văn hoá Nga trường Đại học Ngoại ngữ - Đại học Quốc gia Hà Nội đáp ứng yêu cầu đào tạo theo học chế tín chỉ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.75 MB, 107 trang )

Header Page 1 of 123.

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC GIÁO DỤC

NGUYỄN THỊ LAN HƯƠNG

QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG TỰ HỌC
CỦA SINH VIÊN KHOA NGÔN NGỮ VÀ VĂN HOÁ NGA
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI NGỮ - ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
ĐÁP ỨNG YÊU CẦU ĐÀO TẠO THEO HỌC CHẾ TÍN CHỈ

Chuyên ngành:
Mã số:

Quản lý giáo dục
601405

LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ GIÁO DỤC

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS ĐẶNG QUỐC BẢO

HÀ NỘI - 2009

Footer Page 1 of 123.
1

Hµ Néi - 2009


Header Page 2 of 123.



LỜI CẢM ƠN
Trong suốt quá trình học tập tại trường Đại học Giáo dục - ĐHQGHN
và triển khai đề tài “Quản lý hoạt động tự học của sinh viên khoa Ngôn ngữ
và Văn hoá Nga trường Đại học Ngoại ngữ - Đại học Quốc gia Hà Nội đáp
ứng yêu cầu đào tạo theo học chế tín chỉ” tác giả luôn được sự quan tâm
giúp đỡ nhiệt tình và đầy trách nhiệm của của các thầy cô trong trường Đại
học Giáo dục - ĐHQGHN, các thầy cô trường Đại học Ngoại ngữ ĐHQGHN, những người đã hết sức nhiệt tình giúp đỡ tác giả hoàn thành
nhiệm vụ.
Tác giả xin được dành những dòng chữ đầu tiên của luận văn này để
bày tỏ lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc tới các thầy cô giáo đã quan tâm,
giúp đỡ tác giả trong quá trình học tập và nghiên cứu. Đặc biệt là PGS.TS
Đặng Quốc Bảo, người thầy đã tận tình hướng dẫn tác giả trong suốt quá trình
làm đề tài nghiên cứu này.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng song do khả năng nghiên cứu của tác giả
có hạn, kinh nghiệm trong công tác nghiên cứu khoa học còn ít do đó luận
văn không tránh khỏi thiếu sót. Tác giả rất mong nhận được sự đóng góp chỉ
bảo tận tình của các thầy cô giáo, các bạn đồng nghiệp để luận văn ngày càng
hoàn thiện hơn.
Xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, tháng 12 năm 2009
Tác giả luận văn

Nguyễn Thị Lan Hương

Footer Page 2 of 123.
2


Header Page 3 of 123.


DANH MỤC VIẾT TẮT

Công nghiệp hoá, hiện đại hoá

CNH, HĐH

Cố vấn học tập

CVHT

Đại học Quốc gia Hà Nội

ĐHQGHN

Học sinh sinh viên

HSSV

Học sinh

HS

Khoa Ngôn ngữ và Văn hoá Nga

Khoa NN&VH Nga

Ký túc xá

KTX


Sinh viên

SV

Trung học phổ thông

THPT

Trường Đại học Ngoại ngữ

Trường ĐHNN

Xã hội chủ nghĩa

XHCN

Footer Page 3 of 123.
3


Header Page 4 of 123.

MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài

1


2. Mục đích nghiên cứu

2

3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu

2

4. Nhiệm vụ nghiên cứu

2

5. Giả thuyết khoa học

3

6. Phạm vi đề tài nghiên cứu

3

7. Phương pháp nghiên cứu

3

8. Cấu trúc luận văn

3

Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI


5

1.1. Tổng quan vấn đề nghiên cứu

5

1.1.1. Những quan điểm về tự học

5

1.1.2. Những quan điểm về việc dạy và học theo tín chỉ

7

1.2. Một số khái niệm cơ bản của đề tài

9

1.2.1. Sinh viên

9

1.2.2. Quản lý, các chức năng quản lý

10

1.2.3. Dạy - Học

14


1.2.4. Tự học

16

1.3. Dạy học theo tín chỉ đòi hỏi sinh viên phải biết tự học

17

1.3.1. Học chế tín chỉ

17

1.3.2. Dạy - học theo học chế tín chỉ

20

1.3.3. Dạy học theo học chế tín chỉ đòi hỏi sinh viên phải biết tự học

23

1.4. Quản lý tự học theo học chế tín chỉ

28

Footer Page 4 of 123.
4


Header Page 5 of 123.


1.4.1. Vị trí, vai trò của công tác quản lý sinh viên trong các trường đại học

28

1.4.2. Quản lý tự học – Các nội dung quản lý tự học

28

1.4.3. Các biện pháp quản lý tự học

32

Tiểu kết chương 1

33

Chương 2. THỰC TRẠNG QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG TỰ HỌC

34

CỦA SINH VIÊN KHOA NN&VH NGA TRƯỜNG ĐHNN ĐHQGHN
2.1. Khái quát về trường ĐHNN-ĐHQGHN

34

2.1.1.Quá trình thành lập trường ĐHNN-ĐHQGHN

34

2.1.2. Mục tiêu chiến lược phát triển của Trường


34

2.1.3. Quy mô và chất lượng đào tạo của trường

36

2.1.4. Cơ cấu tổ chức và đội ngũ cán bộ

38

2.1.5. Đặc điểm của sinh viên

40

2.2. Thực trạng hoạt động tự học của sinh viên khoa NN&VH

43

Nga trường ĐHNN-ĐHQGHN trước yêu cầu đào tạo theo học chế tín chỉ
2.2.1. Đặc điểm của sinh viên và đặc điểm đào tạo của khoa NN&VH Nga

43

2.2.2. Đội ngũ cán bộ và giảng viên khoa NN&VH Nga

46

2.2.3. Cơ sở vật chất của khoa NN&VH Nga


48

2.2.4. Thực trạng hoạt động tự học của sinh viên khoa NN&VH Nga

49

2.3. Thực trạng công tác quản lý hoạt động tự học của sinh viên

54

khoa NN&VH Nga
2.3.1. Thực trạng về công tác tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận

54

thức về vai trò tự học
2.3.2. Thực trạng về hoạt động giảng dạy của giảng viên trong Khoa

56

2.3.3. Thực trạng hoạt động của đội ngũ cố vấn học tập

61

2.4. Đánh giá chung về thực trạng …

63

Footer Page 5 of 123.
5



Header Page 6 of 123.

2.4.1. Những điểm mạnh

63

2.4.2. Những điểm yếu

63

Tiểu kết chương 2

65

Chương 3. NHỮNG BIỆN PHÁP QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG TỰ HỌC

66

CỦA SINH VIÊN KHOA NN&VH NGA TRƯỜNG ĐHNN-ĐHQGHN
ĐÁP ỨNG YẾU CẦU ĐÀO TẠO THEO HỌC CHẾ TÍN CHỈ
3.1. Nguyên tắc xác định các biện pháp

66

3.1.1. Nguyên tắc đảm bảo tính kế thừa

66


3.1.2. Nguyên tắc đảm bảo tính hệ thống

66

3.1.3. Nguyên tắc đảm bảo tính thực tiễn

67

3.1.4. Nguyên tắc đảm bảo tính chất lượng

67

3.2. Biện pháp quản lý hoạt động tự học của sinh viên khoa

67

NN&VH Nga trường ĐHNN-ĐHQGHN…
3.2.1. Biện pháp 1. Thay đổi nhận thức của giảng viên và sinh viên

67

trước yêu cầu dạy và học theo học chế tín chỉ lấy tự học làm cốt, tăng
cường trao đổi, thảo luận và có chỉ đạo chặt chẽ
3.2.2. Biện pháp 2. Xây dựng hệ thống cố vấn học tập có chất lượng

71

hướng dẫn sinh viên tự học có hiệu quả
3.2.3. Biện pháp 3. Quản lý hoạt động giảng dạy của giảng viên thúc


75

đẩy giảng viên cải tiến phương pháp giảng dạy giúp sinh viên tự học tốt
3.2.4. Biện pháp 4. Hoàn thiện cơ sở vật chất, trang thiết bị phù hợp

79

với yêu cầu đào tạo theo tín chỉ tạo điều kiện cho sinh viên tự học
3.2.5. Biện pháp 5. Phối kết hợp đồng bộ giữa các đơn vị chức năng

81

hướng tới hoạt động tự học của sinh viên theo học chế tín chỉ
3.3. Mối liên quan của các biện pháp

84

3.4. Khảo sát tính cần thiết và tính khả thi của các biện pháp

86

Footer Page 6 of 123.
6


Header Page 7 of 123.

KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ

90


1. Kết luận

90

2. Khuyến nghị

91

TÀI LIỆU THAM KHẢO

94

PHỤ LỤC

Footer Page 7 of 123.
7


Header Page 8 of 123.

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
Nhân loại đang bước vào thế kỷ 21 với sự phát triển nhanh chóng của
khoa học và công nghệ. Kinh tế tri thức đang ngày càng mở rộng, với quá
trình toàn cầu hoá có ảnh hưởng mạnh mẽ đến sự phát triển của mỗi quốc gia,
mỗi dân tộc, từng cộng đồng, từng gia đình và cá nhân.
Việt Nam chúng ta cũng đang đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước, nhằm đưa Việt Nam trở thành một nước công nghiệp,
văn minh hiện đại và hội nhập quốc tế. Điều đó đặt ra nhiệm vụ cho ngành

giáo dục- đào tạo là phải “…đào tạo con người Việt Nam phát triển toàn diện,
có đạo đức, tri thức, sức khoẻ, thẩm mỹ và nghề nghiệp, trung thành với lý
tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; phát huy tính tích cực, tự giác, chủ
động, tư duy sáng tạo của người học; bồi dưỡng cho người học năng lực tự
học, khả năng thực hành, lòng say mê và ý chí vươn lên”.
Tự học là một yêu cầu không thể thiếu đối với mỗi công dân nói chung,
thế hệ trẻ, sinh viên nói riêng. Tự học đã trở thành vấn đề cấp thiết đối với
giáo dục và đào tạo nước ta. Hoạt động tự học có ý nghĩa quyết định biến quá
trình đào tạo thành quá trình tự đào tạo. Để hoạt động tự học của sinh viên đạt
được những thành quả như mong đợi thì đổi mới công tác quản lý giáo dục
được xem như giải pháp quan trọng.
Chuyển đổi phương thức đào tạo theo học chế tín chỉ tạo sự thay đổi
lớn về phong cách, thói quen dạy - học của cả thầy và trò. Đối với hình thức
đào tạo này thì khối lượng giờ dạy trên lớp sẽ giảm đi, mà giờ tự học, tự
nghiên cứu của sinh viên sẽ tăng lên. Vì vậy việc tự học, tự nghiên cứu của
sinh viên có vai trò hết sức quan trọng, mang tính quyết định hiệu quả chất
lượng đào tạo.
Khoa Ngôn ngữ và Văn hoá Nga nói riêng và trường Đại học Ngoại
ngữ - Đại học Quốc gia Hà Nội nói chung, trong các hội thảo về nâng cao

Footer Page 8 of 123.
8


Header Page 9 of 123.

chất lượng học tập của sinh viên, hội nghị nghiên cứu khoa học cũng đã nhiều
năm đề cập đến vấn đề tự học của sinh viên … và làm thế nào để kích thích
sinh viên ngoại ngữ tích cực hơn nhằm nâng cao kết quả học tập. Đồng thời
cũng đã có một số giải pháp như: đổi mới phương pháp giảng dạy theo hướng

phát huy tính tích cực, tính sáng tạo, đặc biệt là công tác quản lý, tổ chức của
trường đối với hoạt động tự học song các biện pháp đó chưa được chú ý và
quan tâm đúng mức nên kết quả vẫn chưa được như mong muốn. Do vậy,
ngoài việc đổi mới phương pháp dạy học thì việc cải tiến một số biện pháp
trong công tác quản lý để nâng cao hoạt động tự học cho sinh viên của trường
là một vấn đề cấp thiết. Nhất là trong giai đoạn hiện nay, trường Đại học
Ngoại ngữ - Đại học Quốc gia Hà Nội đang chuyển đổi sang đào tạo theo học
chế tín chỉ thì vấn đề tự học càng trở nên là vấn đề đặc biệt quan tâm.
Chính vì vậy tôi đã chọn hướng nghiên cứu với tên đề tài: “Quản lý
hoạt động tự học của sinh viên khoa Ngôn ngữ và Văn hoá Nga trường Đại
học Ngoại ngữ - Đại học Quốc gia Hà Nội đáp ứng yêu cầu đào tạo theo
học chế tín chỉ” làm đề tài nghiên cứu cho luận văn tốt nghiệp của mình.
2. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn, đề xuất biện pháp quản lý
hoạt động tự học của sinh viên nhằm nâng cao chất lượng đào tạo ở khoa
Ngôn ngữ và Văn hoá Nga trường Đại học Ngoại ngữ - ĐHQGHN đáp ứng
yêu cầu đào tạo theo học chế tín chỉ.
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
3.1. Khách thể nghiên cứu: Hoạt động tự học của sinh viên các trường đại học
3.2. Đối tượng nghiên cứu: Quản lý hoạt động tự học của sinh viên khoa
Ngôn ngữ và Văn hoá Nga trường Đại học Ngoại ngữ - ĐHQGHN
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu lý luận về quản lý hoạt động tự học của sinh viên.

Footer Page 9 of 123.
9


Header Page 10 of 123.


- Đánh giá thực trạng công tác quản lý hoạt động tự học của sinh viên khoa
Ngôn ngữ và Văn hoá Nga trường Đại học Ngoại ngữ - Đại học Quốc gia Hà Nội.
- Đề xuất biện pháp quản lý hoạt động tự học của sinh viên khoa Ngôn ngữ và
Văn hoá Nga đáp ứng yêu cầu đào tạo theo học chế tín chỉ.
5. Giả thuyết khoa học
Nếu tìm được biện pháp quản lý hoạt động tự học của sinh viên khoa
Ngôn ngữ và Văn hoá Nga trường Đại học Ngoại ngữ - Đại học Quốc gia Hà
Nội phù hợp, đáp ứng yêu cầu đào tạo theo học chế tín chỉ thì chất lượng hoạt
động học tập của sinh viên sẽ được nâng cao, đáp ứng mục tiêu đào tạo của
nhà trường trong giai đoạn hiện nay.
6. Phạm vi đề tài nghiên cứu
Nghiên cứu thực trạng quản lý hoạt động tự học của sinh viên khoa
Ngôn ngữ và Văn hoá Nga Trường Đại học Ngoại ngữ - Đại học Quốc gia Hà
Nội từ năm học 2006-2007 đến nay.
7. Phương pháp nghiên cứu
7.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận:
- Thu thập, nghiên cứu, phân tích xử lý tài liệu.
7.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn:
- Phương pháp quan sát
- Phương pháp điều tra bảng hỏi
- Phương pháp tổng kết kinh nghiệm
- Phương pháp chuyên gia.
7.3. Nhóm phương pháp hỗ trợ:
- Sử dụng công cụ thống kê để xử lý số liệu.
8. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu, khuyến nghị, tài liệu tham khảo và phụ lục, nội
dung luận văn trình bày trong 3 chương
Chương 1: Cơ sở lý luận của đề tài.

Footer Page 10 of 123.

10


Header Page 11 of 123.

Chương 2: Thực trạng quản lý hoạt động tự học của sinh viên khoa Ngôn ngữ
và Văn hoá Nga trường Đại học Ngoại ngữ - Đại học Quốc gia Hà Nội theo
học chế tín chỉ.
Chương 3: Biện pháp quản lý hoạt động tự học của sinh viên khoa Ngôn ngữ
và Văn hoá Nga trường Đại học Ngoại ngữ - Đại học Quốc gia Hà Nội đáp
ứng yêu cầu đào tạo theo học chế tín chỉ.

Footer Page 11 of 123.
11


Header Page 12 of 123.

Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI
1.1. Tổng quan vấn đề nghiên cứu
1.1.1. Những quan điểm về tự học:
Trong lịch sử phát triển giáo dục, tự học là vấn đề được quan tâm
nghiên cứu từ lâu cả về lý luận và thực tiễn, nhằm phát huy vai trò của người
học và nâng cao chất lượng của hoạt động tự học. Song từng giai đoạn lịch sử
nhất định, ở mỗi quốc gia tự học được nghiên cứu đề cập dưới nhiều khía
cạnh khác nhau.
Khổng Tử (551-479 trước công nguyên), nhà tư tưởng nổi tiếng và nhà
sư phạm vĩ đại của Trung Quốc, về phương pháp giáo dục ông đã đề cao việc
tự học, tự luyện, tu nhân, trú trọng phát huy mặt tích cực, sáng tạo, năng lực
nội sinh. Đề cập đến việc học tập, Khổng Tử xác định “Học nhi thời tập chí”,

việc học tập theo ông phải gắn liền với thực hành để thông suốt những điều đã
học. Ông đề cập và nhấn mạnh mối quan hệ tác động giữa việc học tập và tư
duy trong học tập, ông cho đó là hai yếu tố ràng buộc không thể thiếu của một
vấn đề: “Học nhi bất tư vong, tư nhi bất học tất đãi”. Ông cho rằng học mà
không nghĩ thì mờ tối, nghĩ mà không học thì khó nhọc, mất công. Do vậy,
với ông việc học tập và tự học là cần thiết và gắn bó mật thiết với nhau.
Socrat (469-309 trước công nguyên) đã từng nêu khẩu hiệu “Anh hãy
tự biết lấy anh” qua đó, mong muốn học trò phát hiện ra “chân lý” bằng cách
đặt câu hỏi để dần dần tìm ra kết luận.
Raja Roy Singh, nhà giáo dục Ấn Độ trong tác phẩm “Giáo dục cho thế
kỷ XXI, những triển vọng của Châu Á Thái Bình Dương” đã đưa ra quan
điểm về quá trình “Nhận biết dạy- học”, và ông chủ trương rằng người học
phải là người tham gia tích cực vào quá trình “Nhận biết dạy - học”. Theo ông
“Sự học tập do người học chủ đạo”
Một trong những đặc trưng cơ bản, quan trọng nhất trong xã hội học tập
là tư tưởng tự học tập suốt đời. Vì “việc học không bao giờ là muộn” (Ngạn

Footer Page 12 of 123.
12


Header Page 13 of 123.

ngữ), hay “Bác học không có nghĩa là ngừng học” (Đác-uyn). Quan niệm tự
học và học tập suốt đời nổi lên trong thời đại ngày nay như một chìa khoá mở
cửa đi vào thế kỉ 21 - thế giới của nền kinh tế tri thức.
Chủ tịch Hồ Chí Minh, một tấm gương sáng ngời về ý chí quyết tâm
trong tự học, tự rèn luyện. Người luôn cho rằng học tập giúp con người tiến
bộ, nâng cao phẩm chất, mở rộng hiểu biết, làm thay đổi hiệu quả lao động.
Người đã động viên toàn dân: “Phải tự nguyện, tự giác xem công việc học tập

là nhiệm vụ của người cách mạng, phải cố gắng hoàn thành cho được do đó
mà tích cực, tự động hoàn thành kế hoạch học tập”
Khi bàn về vấn đề tự học, giáo sư Tạ Quang Bửu cũng đã viết “Tự học
là khởi nguồn của phong cách tự đào tạo đồng thời là cái nôi nuôi dưỡng sự
sáng tạo. Ai giỏi tự học ngay từ khi ngồi trên ghế nhà trường, người đó sẽ tiến
xa hơn”.
Tự học - tự đào tạo là một vấn đề được nghị quyết Đại hội Đảng toàn
quốc lần thức VIII và Trung ương II (khoá VIII) đề cập đến rất đậm nét: “Tập
trung sức nâng cao chất lượng dạy và học, tạo ra năng lực tự học, sáng tạo của
học sinh” (NQĐH VIII), “bảo đảm điều kiện và thời gian tự học, tự nghiên
cứu cho học sinh, phát triển mạnh phong trào tự học - tự đào tạo thường
xuyên và rộng khắp trong toàn dân…”
Trong bối cảnh đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước, hội nhập kinh tế quốc
tế hiện nay, nhất là khi nước ta chính thức là thành viên của tổ chức thương
mại thế giới (WTO), đã đặt ra những yêu cầu mới cho giáo dục và đào tạo.
Đòi hỏi GD-ĐT phải tự đổi mới. Một trong những nội dung đổi mới giáo dục
được đề cập nhiều hơn cả là đổi mới phương pháp dạy - học, nhất là phương
pháp học tập - tự học .
Trong khoa học, đã có nhiều công trình nghiên cứu công phu về vấn đề
tự học như: “Quá trình dạy - tự học” của giáo sư Nguyễn Cảnh Toàn, giáo sư
Vũ Văn Tảo; “Luận bàn về kinh nghiệm tự học” của giáo sư Nguyễn Cảnh

Footer Page 13 of 123.
13


Header Page 14 of 123.

Toàn, “Tự học - chìa khoá vàng của giáo dục” của giáo sư Phan Trọng Luận,
và nhiều công trình nghiên cứu về tự học của các giáo sư, tiến sĩ, các nhà

nghiên cứu giáo dục như: Hà Thế Ngữ, Đặng Vũ Hoạt, Nguyễn Ngọc Bảo, Hà
Thị Đức…với mục đích nâng cao hiệu quả tự học của sinh viên, góp phần
nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo.
1.1.2. Những quan điểm dạy và học theo tín chỉ:
Xuất phát từ đòi hỏi quy trình đào tạo phải tổ chức sao cho mỗi sinh
viên có thể tìm được cách học thích hợp nhất cho mình, đồng thời trường đại
học phải nhanh chóng thích nghi và đáp ứng được những nhu cầu của thực
tiễn cuộc sống, vào năm 1982 Viện Đại học Harvard đã quyết định thay thế hệ
thống chương trình đào tạo niên chế cứng nhắc bằng hệ thống chương trình
mềm dẻo cấu thành bởi các môđun mà mỗi sinh viên có thể lựa chọn một
cách rộng rãi. Có thể xem đó là điểm mốc khai sinh học chế tín chỉ.
Đến đầu thế kỷ 20 hệ thống tín chỉ được áp dụng rộng rãi hầu như trong
mọi trường đại học Hoa Kỳ. Tiếp sau đó, nhiều nước lần lượt áp dụng hệ
thống tín chỉ trong toàn bộ hoặc một bộ phận của trường đại học của mình:
các nước Bắc Mỹ, Nhật Bản, Philippin, Đài Loan, Hàn Quốc, Thái Lan,
Malaisia, Indonesia, Ấn Độ… Tại Trung Quốc từ cuối thập kỷ 80 đến nay hệ
thống tín chỉ cũng lần lượt được áp dụng ở nhiều trường đại học. Vào năm
1999, 29 Bộ trưởng đặc trách giáo dục đại học ở các nước trong Liên minh
Châu Âu đã ký Tuyên ngônBoglona nhằm hình thành Không gian Giáo dục
đại học Châu Âu thống nhất vào năm 2010, một trong các nội dung quan
trọng của Tuyên ngôn đó là triển khai áp dụng học chế tín chỉ trong toàn hệ
thống giáo dục đại học để tạo thuận lợi cho việc cơ động hoá, liên thông hoạt
động học tập của sinh viên trong khu vực Châu Âu và trên thế giới.
Trước năm 1975, một số trường đại học chịu ảnh hưởng của Mỹ tại
Miền Nam Việt Nam đã áp dụng tín chỉ: Viện Đại học Cần Thơ, Viện Đại học
Thủ Đức…

Footer Page 14 of 123.
14



Header Page 15 of 123.

Trong quá trình “Đổi mới” ở nước ta từ cuối 1986 chuyển nền kinh tế
kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ
nghĩa, GDĐH ở nước ta cũng có nhiều thay đổi. Hội nghị Hiệu trưởng đại học
tại Nha Trang hè 1987 đã đưa ra nhiều chủ trương đổi mới GDĐH, trong đó
có chủ trương triển khai trong các trường đại học quy trình đào tạo 2 giai
đoạn và môđun hoá kiến thức. Theo chủ trương đó, học chế “học phần” đã ra
đời và triển khai trong toàn bộ hệ thống các trường đại học và cao đẳng nước
ta từ năm 1988 đến nay. Học chế học phần được xây dựng trên tinh thần tích
luỹ dần kiến thức theo các môđun (môn học) trong quá trình học tập, tức là
theo ý tưởng học chế tín chỉ xuất phát từ Mỹ. Tuy nhiên, về một số phương
diện, học chế học phần chưa thật sự mềm dẻo như học chế tín chỉ của Mỹ, do
đó nó được gọi là “sự kết hợp niên chế với tín chỉ”, tuy nhiên những khó khăn
về đời sống xã hội nói chung và trong các trường đại học nói riêng lúc đó
chưa cho phép đặt vấn đề thực hiện học chế môđun hoá triệt để.
Vào năm 1993, khi những khó khăn chung của đất nước và của các
trường đại học có phần dịu bớt, Bộ Giáo dục và Đào tạo chủ trương tiến thêm
một bước, thực hiện học chế học phần triệt để hơn, theo mô hình học chế tín
chỉ của Mỹ. Trường Đại học Bách Khoa thành phố Hồ Chí Minh là nơi đầu
tiên áp dụng học chế tín chỉ từ năm 1993, rồi các trường Đại học Đà Lạt, Đại
học Cần Thơ, Đại học Thuỷ Sản Nha Trang… và một số trường đại học khác
áp dụng từ năm 1994 và các năm sau đó.
Trường Đại học Ngoại ngữ - ĐHQGHN bắt đầu chuyển đổi sang đào
tạo theo học chế tín chỉ từ năm học 2006-2007. Mặc dù trong các hội thảo về
nâng cao chất lượng học tập của sinh viên, hội nghị nghiên cứu khoa học cũng
đã đề cập nhiều đến vấn đề tự học của sinh viên nhưng nghiên cứu về hoạt
động tự học theo học chế tín chỉ thì vẫn còn mới lạ, nhất là đối với sinh viên
khoa Ngôn ngữ và Văn hoá Nga, nhiều sinh viên ngay từ khi đăng ký dự thi

vào khoa đó không phải vì học giỏi ngôn ngữ đó, cũng không phải vì niềm

Footer Page 15 of 123.
15


Header Page 16 of 123.

say mê mà chủ yếu là giải pháp tình thế dẫn đến kết quả học tập của các em
không được cao. Chính vì vậy, là một cán bộ quản lý sinh viên của khoa, tác
giả đi sâu vào việc nghiên cứu tìm ra các biện pháp quản lý hoạt động tự học
của sinh viên khoa Ngôn ngữ và Văn hoá Nga trường Đại học Ngoại ngữ ĐHQGHN góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động tự học của sinh viên khoa
NN&VH Nga nói riêng và nâng cao chất lượng giáo dục của Nhà trường
trong xu hướng đào tạo theo học chế tín chỉ.
1.2. Một số khái niệm cơ bản của đề tài
1.2.1. Sinh viên:
Thuật ngữ “sinh viên” có nguồn gốc từ tiếng La tinh “student” có nghĩa
là người làm việc, học tập nhiệt tình, người tìm kiếm, khai thác tri thức. Nó
được dùng tương đương với từ “student” trong tiếng Anh, “Etudiant” trong
tiếng Pháp và “Cmgenm” trong tiếng Nga để chỉ những người đang theo học
ở bậc đại học, được phân biệt với học sinh đang học ở phổ thông.
Theo X.L.Rubinsen quan niệm: “sinh viên” là đại biểu của một nhóm
xã hội đặc biệt được đào tạo trong các trường đại học, cao đẳng để chuẩn bị
cho hoạt động lao động và sản xuất vật chất cho xã hội. Nhóm sinh viên rất cơ
động được tổ chức theo một mục đích xã hội nhất định nhằm chuẩn bị thực
hiện vai trò xã hội với trình độ nghề nghiệp cao trong lĩnh vực xã hội, sinh
viên là nguồn lực bổ sung cho đội ngũ tri thức được đào tạo thành người lao
động có tay nghề cao tham gia hoạt động tích cực.
Quy chế công tác HSSV trong các trường đạo tạo của Bộ Giáo dục và
đào tạo thì “sinh viên” là người đang học hệ Đại học và Cao đẳng.

Như thế, nếu không xét về hình thức gọi tên thì sự ra đời của thuật ngữ
“sinh viên” đã gắn liền với lịch sử ra đời của trường đại học (hơn 700 năm đối
với SV thế giới và gần 300 năm đối với sinh viên Việt nam).

Footer Page 16 of 123.
16


Header Page 17 of 123.

Theo cách phổ biến hiện nay trong xã hội thì khái niệm “sinh viên”
được Nhà nước thể chế hoá, pháp lý hoá thuật ngữ này bằng luật định. Trong
Luật giáo dục đã thống nhất cách gọi đối với sinh viên như sau:
Sinh viên là người đang học tại các trường cao đẳng, trường đại học
[3,tr.73].
Như vậy, tất cả những người đang học ở bậc cao đẳng và đại học đều
được gọi là sinh viên.
Ngày nay, “học, học nữa, học mãi” (Lênin) là khẩu hiệu của toàn xã hội
và học tập là công việc suốt đời. Các trường cao đẳng và đại học mở rộng cửa
cho tất cả những ai có nguyện vọng và điều kiện không phân biệt lứa tuổi,
giới tính, giàu nghèo… đều có thể học bằng nhiều con đường, hình thức khác
nhau: chuyên tu, tại chức, văn bằng 2… Do đó, với khái niệm SV như trên thì
ngoại diên của nó rất rộng.
Tuy nhiên, trong giới hạn của đề tài này chỉ nghiên cứu với đối tượng
là sinh viên hệ chính quy thì có thể thu hẹp nội hàm của khái niệm này như sau:
- Đó là những người đã tốt nghiệp trung học phổ thông
- Họ đã vượt qua kỳ thi tuyển sinh đại học và đỗ vào trường
- Họ thuộc nhóm thanh niên nam, nữ từ 17 đến 25 tuổi
- Họ chưa có nghề nghiệp, việc làm xác định do đó còn lệ thuộc gia
đình về kinh tế

- Họ là nhóm xã hội đặc biệt gồm những thanh niên xuất thân từ các
tầng lớp xã hội khác nhau đang trong quá trình học tập, chuẩn bị
nghề nghiệp chuyên môn để bước vào một nhóm xã hội mới là tầng
lớp tri thức trẻ.
1.2.2. Quản lý, các chức năng quản lý
1.2.2.1. Quản lý:

Footer Page 17 of 123.
17


Header Page 18 of 123.

Thuật ngữ “quản lý” (từ Hán Việt) gồm hai quá trình tích nhau. Quá
trình “quản” gồm coi sóc, giữ gìn, duy trì ở trạng thái “ổn định”. Quá trình
“lý” gồm sửa sang, sắp xếp, đổi mới đưa hệ thống (tổ chức) vào thế “phát
triển”. Nếu chỉ “quản” thì tổ chức dễ trì trệ, nếu chỉ “lý” thì tổ chức phát triển
không bền vững. Do đó trong “quản” phải có “lý” và ngược lại để làm cho hệ
thống ở trạng thái cân bằng động, vận động phù hợp, thích ứng và có hiệu quả
trong môi trường tương tác giữa các nhân tố bên trong và các nhân tố bên
ngoài tổ chức [9, tr.1].
Quản lý là sự điều khiển một hệ thống hoạt động xã hội ở tầm vĩ mô
cũng như vi mô vì vậy có nhiều cách tiếp cận khác nhau, ở mỗi cách tiếp cận
có những định nghĩa khác nhau.
K.Marx đã từng nói đến sự cần thiết của quản lý: “Bất kỳ một lao động
xã hội nào được tiến hành trên một quy mô tương đối lớn cũng đều cần có sự
quản lý, nó xác lập mối quan hệ hài hoà giữa các công việc riêng rẽ và thực
tiễn những chức năng chung nhất xuất phát từ sự vận động của toàn cơ cấu
sản xuất khác với vận động của từng bộ phận độc lập trong nền sản xuất ấy.
Một nghệ sĩ vĩ cầm tự điều khiển mình, còn dàn nhạc thì phải có nhạc trưởng”

[4, tr.480].
Còn theo H.Koontz “ Quản lý là một hoạt động thiết yếu, nó đảm bảo
sự phối hợp những nỗ lực của cá nhân nhằm đạt được mục đích của tổ chức.
Mục đích của mọi nhà quản lý là hình thành môi trường mà trong đó con
người có thể đạt được các mục đích của mình với thời gian, tiền bạc, vật chất
và sự bất mãn cá nhân ít nhất” [12, tr.33].
F.W.Taylor (1856-1915), người được coi là cha đẻ của thuyết quản lý
khoa học đã nêu lên tư tưởng cốt lõi trong quản lý là: “Mọi loại công việc dù
nhỏ nhất đều phải chuyên môn hoá và phải quản lý chặt chẽ”. Theo ông:
“Quản lý là nghệ thuật biết rõ ràng chính xác cái gì cần làm và cái đó làm thế
nào bằng phương pháp tốt nhất và rẻ nhất”.

Footer Page 18 of 123.
18


Header Page 19 of 123.

Các tác giả Nguyễn Quốc Chí và Nguyễn Thị Mỹ Lộc cho rằng: “Hoạt
động quản lý là tác động có định hướng, có chủ định của chủ thể quản lý
(người quản lý) đến khách thể quản lý (người bị quản lý) trong một tổ chức
nhằm cho tổ chức vận hành và đạt mục đích của tổ chức” [19, tr.1].
Tác giả Nguyễn Minh Đạo cho rằng: “Quản lý là sự tác động có tổ
chức, định hướng của chủ thể quản lý lên khách thể quản lý về mặt chính trị,
văn hoá, xã hội, kinh tế… bằng một hệ thống các luật lệ, các chính sách, các
nguyên tắc, các phương pháp và biện pháp cụ thể nhằm tạo ra môi trường và
điều kiện cho sự phát triển của đối tượng”[20, tr.7].
Tóm lại, hoạt động quản lý luôn tồn tại hai thành tố đó là chủ thể quản
lý và khách thể quản lý. Chủ thể quản lý có thể là cá nhân hay một nhóm
người có chức năng quản lý, điều khiển tổ chức để tổ chức vận hành và đạt

được mục tiêu. Khách thể quản lý là những người chịu sự tác động chỉ đạo
của chủ thể quản lý nhằm đạt mục tiêu chung.
1.2.2.2. Chức năng quản lý:
Chức năng của quản lý là tập hợp các nhiệm vụ mà chủ thể quản lý
phải thực hiện để đạt mục đích, mục tiêu quản lý đề ra. Có nhiều cách phân
chia về chức năng quản lý nhưng cơ bản thống nhất ở bốn chức năng cơ bản:
- Chức năng lập kế hoạch:
Lập kế hoạch là quá trình ấn định những nhiệm vụ, những mục tiêu và
phương pháp tốt nhất để thực hiện những mục tiêu, nhiệm vụ đó.
Lập kế hoạch là phương pháp tiếp cận hợp lý để đạt những mục tiêu
định trước, là chức năng cơ bản nhất trong các chức năng quản lý vì nó gắn
liền với việc lựa chọn chương trình hành động trong tương lai.
Kế hoạch là văn bản trong đó xác định mục tiêu, mục đích của một tổ
chức và những con đường, các biện pháp, cách thức để đạt được mục tiêu,
mục đích đó. Chức năng kế hoạch hoá có 3 nội dung cơ bản là:
+ Xác định, hình thành mục tiêu (phương hướng) đối với tổ chức;

Footer Page 19 of 123.
19


Header Page 20 of 123.

+ Xác định và đảm bảo (có tính chắc chắn, có tính cam kết) về
các nguồn lực của tổ chức để đạt được mục tiêu này.
+ Quyết định xem những hoạt động nào là cần thiết để đạt được
các mục tiêu, xác định các hoạt động ưu tiên.
- Chức năng tổ chức:
Tổ chức thực hiện kế hoạch là quá trình sắp xếp và phân phối các
nguồn lực để thực hiện các mục tiêu đã đề ra, là sự sắp đặt một cách khoa học

cho con người, công việc một cách hợp lý, là sự phối hợp các tác động bộ
phận tạo nên một tác động tích hợp mà hiệu quả của nó lớn hơn nhiều so với
tổng số các hiệu quả của các tác động thành phần. Công tác tổ chức bao gồm:
+ Xác định cấu trúc bộ máy
+ Tiếp nhận và phân phối các nguồn lực theo cấu trúc bộ máy.
+ Xác lập cơ chế phối hợp giữa các bộ phận, các thành viên trong
tổ chức
- Chức năng chỉ đạo:
Chỉ đạo là quá trình điều khiển, điều hành, tác động, huy động và giúp
đỡ con người, tổ chức trong hệ thống thực hiện nhiệm vụ. Chỉ đạo là quá trình
tác động, liên kết các thành viên trong tổ chức, tập hợp, động viên họ hoàn
thành những công việc nhất định để đạt được mục tiêu của tổ chức.
Nội dung của chức năng chỉ đạo bao gồm:
+ Chỉ huy, ra lệnh.
+ Động viên, khen thưởng
+ Theo dõi, giám sát
+ Uốn nắn, sửa chữa, chỉnh lý
- Chức năng kiểm tra:
Để hoàn thành chức năng lãnh đạo, người lãnh đạo hệ thống cần thiết
và phải thực hiện chức năng kiểm tra của quản lý. Lãnh đạo mà không kiểm
tra thì coi như không lãnh đạo.

Footer Page 20 of 123.
20


Header Page 21 of 123.

Kiểm tra theo lý thuyết hệ thống chính là thiết lập mối quan hệ ngược
trong quản lý. Có 3 yếu tố cơ bản của công tác kiểm tra:

+ Xây dựng chuẩn thực hiện
+ Đánh giá việc thực hiện trên chính sách so với chuẩn
+ Nếu có sự chênh lệch thì cần điều chỉnh hoạt động.
Bốn chức năng của quản lý có mối quan hệ mật thiết với nhau tạo thành
một chu trình quản lý. Chu trình quản lý bao gồm bốn giai đoạn với sự tham
gia của hai yếu tố quan trọng thông tin và quyết định. Trong đó thông tin có
vai trò là huyết mạch của hoạt động quản lý đồng thời cũng là tiền đề của một
quá trình quản lý tiếp theo.
Sơ đồ 1.1. Các chức năng trong một chu trình quản lý
Lập
kế hoạch

Kiểm tra

TT QL

Tổ chức

Chỉ đạo

1.2.3. Dạy - học:
Theo tác giả Nguyễn Ngọc Quang, dạy học bao gồm hai hoạt động:
hoạt động dạy của thầy và hoạt động học của trò.
Dạy là quá trình hoạt động của thầy, thông qua sự truyền đạt nội dung
mà chỉ đạo (tổ chức, hướng dẫn, kiểm tra) hoạt động của trò, nhằm làm cho
trò đạt tới mục đích dạy học [21, tr.91].

Footer Page 21 of 123.
21



Header Page 22 of 123.

Học là quá trình con người lĩnh hội những kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo
và những phương thức hành vi mới, do vậy ta thấy học chính là hoạt động
nhằm tạo ra sự thay đổi kinh nghiệm của người học một cách bền vững. Để
lĩnh hội được những kinh nghiệm xã hội, con người có nhiều cách chiếm lĩnh
khác nhau. Đó có thể là do được truyền thụ, do tự quan sát, đúc kết từ lao
động, môi trường sống…v.v.
Học có thể diễn ra một cách ngẫu nhiên trong cuộc sống hàng ngày và
nó diễn ra mọi nơi, mọi lúc. Cách học này diễn ra khi tiến hành công việc qua
lao động sản xuất, hoạt động vui chơi…, cách học này không có chủ định dẫn
đến kết quả tri thức mà người học nắm được sẽ rời rạc và không có hệ thống.
Ở người học chỉ hình thành những năng lực thực tiễn do kinh nghiệm mang lại.
Nhưng thực tiễn có thể tự cải tạo tự nhiên, xã hội và bản thân con
người thì đòi hỏi con người phải nắm được các quy luật của tự nhiên, xã hội
và quy luật về sự hình thành, phát triển con người. Nói cách khác, ngoài việc
lĩnh hội những tri thức mang tính kinh nghiệm ra, con người cần phải nắm bắt
được những tri thức khoa học, những năng lực thực tiễn mới mà cách học
ngẫu nhiên không tạo ra được. Để có được những năng lực đó người ta tiến
hành một hoạt động hướng vào để thực hiện mục tiêu đó là hoạt động học (có
chủ định).
Quá trình dạy học là sự phối hợp thống nhất của hoạt động chỉ đạo của
thầy với hoạt động lĩnh hội tự giác, tích cực, tự lực, sáng tạo của trò, nhằm
làm cho cho trò đạt được mục đích dạy học [21, tr.91].
Quá trình dạy - học là một hệ thống toàn vẹn gồm ba thành tố cơ bản:
thầy, trò, tri thức. Ba thành tố này luôn tương tác với nhau, thâm nhập vào
nhau, quy định lẫn nhau theo những quy luật riêng nhằm kết hợp chặt chẽ quá
trình dạy của thầy với quá trình học của trò làm cho dạy học cộng hưởng với
tự học tạo ra chất lượng và hiệu quả trong giáo dục.


Footer Page 22 of 123.
22


Header Page 23 of 123.

Sơ đồ 1.2. Cấu trúc của quá trình dạy - học
Tri thức

Dạy

Học

Truyền đạt

Lĩnh hội

Điều khiển

Tự điều khiển

1.2.4. Tự học
Tự học (self-learning) là quá trình nỗ lực chiếm lĩnh tri thức của bản
thân người học bằng hành động của chính mình, hướng tới những mục đích
nhất định.
Giáo sư Nguyễn Cảnh Toàn cho rằng: “Tự học là tự mình động não,
suy nghĩ, sử dụng các năng lực trí tuệ (quan sát, so sánh, phân tích, tổng
hợp…) và có khi cả cơ bắp (khi sử dụng công cụ), cùng các phẩm chất của
mình, rồi cả động cơ tình cảm, cả nhân sinh quan, thế giới quan (như trung

thực, khách quan, có chí tiến thủ, không ngại khó, ngại khổ, kiên trì, nhẫn nại,
lòng say mê khoa học, ý muốn thi đỗ, biết biến khó khăn thành thuận lợi…)
để chiếm lĩnh một lĩnh vực hiểu biết nào đó của nhân loại, biến lĩnh vực đó
thành sở hữu của mình” [22, tr59-60].
Theo giáo sư Vũ Văn Tảo: “Học, cốt lõi là tự học, là quá trình phát
triển nội tại, trong đó chủ thể tự thể hiện và biến đổi mình, tự làm phong phú
giá trị con người mình bằng cách thu nhận, xử lý và điều chỉnh thông tin từ
môi trường sống xung quanh mình”[24, tr.1].
Theo quan điểm của tác giả Lê Khánh Bằng: “Tự học là tự mình suy
nghĩ, sử dụng các năng lực trí tuệ và phẩm chất tâm lý để chiếm lĩnh một lĩnh
vực khoa học nhất định” [16, tr.3].

Footer Page 23 of 123.
23


Header Page 24 of 123.

Có nhiều cách tự học:
- Tự mình mò mẫm (người học không có điều kiện đi học, các tri thức
họ có được là do sự tìm tòi trải nghiệm của chính bản thân họ trong cuộc sống)
- Tự học không cần thầy hướng dẫn (người học đã có một trình độ học
vấn nhất định, đã có một thời gian dài học với thầy)
- Tự học với sự hướng dẫn của thầy (hoạt động tự học này gắn với quá
trình dạy học).
1.3. Dạy học theo học chế tín chỉ đòi hỏi sinh viên phải biết tự học
1.3.1. Học chế tín chỉ:
1.3.1.1. Khái niệm tín chỉ.
Hệ thống tín chỉ cho phép sinh viên đạt được văn bằng qua việc tích luỹ
các kiến thức, kỹ năng khác nhau được đo lường bằng một đơn vị xác định,

căn cứ trên khối lượng lao động học tập trung bình của một sinh viên, gọi là
tín chỉ (credit).
1.3.1.2. Đặc điểm của học chế tín chỉ:
- Kiến thức được cấu trúc thành các mô-đun (học phần)
+ Học phần là môn học có cấu trúc chặt chẽ, được giảng dạy
trọn vẹn trong một học kỳ và được đánh giá độc lập với các học phần khác.
+ Đơn vị đo khối lượng học tập của sinh viên và tín chỉ. Một tín
chỉ được quy định bằng một số tiết học trên lớp tương đương với 15 tiết lý
thuyết; 30-45 tiết thực hành, thí nghiệm hoặc thảo luận; 45-90 giờ thực tập tại
cơ sở; 45-60 giờ làm tiểu luận, bài tập lớn
+ Đối với học phần lý thuyết hoặc thực hành, thí nghiệm, để tiếp
thu được một tín chỉ sinh viên phải dành ít nhất 30 giờ chuẩn bị bài ở nhà.
+ Một tiết học được tính bằng 50 phút.
- Quá trình học tập là sự tích luỹ kiến thức của người học theo từng
học phần (tín chỉ).

Footer Page 24 of 123.
24


Header Page 25 of 123.

- Lớp học tổ chức theo từng học phần, sinh viên đăng ký học các học
phần ở đầu mỗi kỳ học. Một năm học có thể gồm 2 học kỳ chính (15 tuần học
và 3 tuần thi ) và có thể có một học kỳ hè (5 tuần học và 1 tuần thi), hay gồm
3 học kỳ (12 tuần học và 3 tuần thi) hoặc chia làm 4 học kỳ (10 tuần học và 2
tuần thi)
- Đánh giá thường xuyên, thang điểm 4 bậc (A, B, C, D hay 4, 3, 2, 1)
- Quy định khối lượng kiến thức phải tích luỹ cho từng văn bằng. Dựa
vào khối lượng tín chỉ đã tích luỹ để xếp năm học phù hợp cho người học.

- Có hệ thống cố vấn học tập: Mỗi cố vấn học tập phụ trách một số sinh
viên kể từ lúc vào trường cho đến khi ra trường. Cố vấn học tập phải nắm
vững tình hình học tập của sinh viên mình phụ trách, tư vấn cho sinh viên
chọn chương trình và tiến trình học phù hợp và giúp sinh viên đăng ký học
từng học kỳ.
- Chương trình đào tạo mềm dẻo, có nhiều khả năng lựa chọn cho sinh
viên và tạo điều kiện dễ dàng cho sinh viên chuyển ngành hoặc học một lúc 2
chương trình.
- Không có thi tốt nghiệp, không tổ chức bảo vệ khoá luận tốt nghiệp
đối với các chương trình cao đẳng và đại học
(Theo Quy chế đào tạo đại học và cao đẳng hệ chính quy theo hệ thống tín chỉ
ban hành theo Quyết định số 43/QĐ-BGD&ĐT ngày 15/8/2007)
1.3.1.2. Các ưu điểm của học chế tín chỉ:
- Hiệu quả trong giáo dục và đào tạo:
Học chế tín chỉ cho phép ghi nhận kịp thời tiến trình tích luỹ kiến thức
và kỹ năng của sinh viên để dẫn đến văn bằng. Với học chế này, sinh viên
được chủ động thiết kế kế hoạch học tập cho mình, được quyền lựa chọn cho
mình tiến độ học tập thích hợp với khả năng, sở trường và hoàn cảnh riêng.
Điều đó đảm bảo cho quá trình đào tạo trong các trường đại học trở nên mềm

Footer Page 25 of 123.
25


×