1
TÁC GIẢ: Đàm Quang Dụng
Phạm Manh Hùng Trần Thị Anh
Thư
TÓM TẮT CÔNG TRÌNH
1. Tính cấp thiết của đề tài
Cùng với sự phát triển như vũ bão của khoa học kỹ thuật, thế giới đang chuyển mình
mạnh mẽ từng phút, từng giây. Xu hướng quốc tế hóa, toàn cầu hóa đã và đang là xu hướng
chung của các quốc gia trong chiến lược phát triển kinh tế, xã hội. Toàn cầu đang bước vào nền
kinh tế tri thức. NCKH đã trở thành một hoạt động sôi nổi và rộng khắp trên toàn thế giới, là
động lực thúc đẩy sự tiến bộ của nhân loại. Không nằm ngoài quy luật của thế giới, Việt Nam
đã và đang đầu tư mạnh mẽ cho các hoạt động NCKH. Đảng và Chính phủ xác định đầu tư cho
khoa học công nghệ là một trong những quốc sách hàng đầu trong công cuộc đổi mới xây dựng
đất nước trở thành một nước công nghiệp hiện đại vào năm 2020. Trong đó, lĩnh vực giáo dục
là lĩnh vực được quan tâm hàng đầu. Vì vậy, phải phát động phong trào NCKH sôi nổi, mạnh
mẽ trong các trường đại học và trong khối sinh viên, giảng viên.
Trong những năm qua, phong trào NCKH của sinh viên các trường đại học trên địa bàn
thành phố Hồ Chí Minh đã được phát động mạnh mẽ, sâu rộng và nhận được sự hưởng ứng tích
cực, nhiệt tình từ phía sinh viên, giảng viên. Nhiều đề tài khoa học của sinh viên đã đạt những
giải cao trong các kỳ thi do Bộ GD & ĐT và các đơn vị phối hợp tổ chức. Tuy nhiên, nhìn trên
bình diện chung thì hoạt động NCKH của sinh viên trên địa bàn thành phố vẫn còn đang gặp rất
nhiều khó khăn và còn nhiều hạn chế về phương pháp nghiên cứu, chất lượng, tính khả thi của
đề tài, nhiều sinh viên vẫn chưa thực sự quan tâm đến hoạt động này. Những hạn ché đó làm
cho hiệu quả, chất lượng đề tài NCKH của sinh viên chưa cao, chưa đáp ứng được yêu cầu.
Thực tiễn đang đặt ra câu hỏi: Làm thế nào để nâng cao chất lượng NCKH của sinh viên trên
địa bàn thành phổ Hồ Chi Minh ?
2
Để trả lời câu hỏi trên, thiết nghĩ cần phải có những giải pháp cụ thể thật sự hữu hiệu
và mang tính khả thi cao cho hoạt động NCKH của sinh viên. Đó là lý do chúng tôi quyết định
chọn đề tài: “GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG NGHIÊN
cứu KHOA
HỌC CỦA SINH VIÊN CÁC TRUỜNG ĐẠI HỌC TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ
MINH” để nghiên cứu nhằm nâng cao chất lượng NCKH của sinh viên, giúp sinh viên tiếp cận
và vận dụng các phương pháp NCKH, giải quyết một số vấn đề khoa học và thực tiễn, góp công
sức vào công cuộc xây dựng và phát triển đất nước trong thời kỳ hội nhập quốc tế hiện nay.
2. Tinh hình nghiên cứu đề tài
Trước đề tài chưa có đề tài nào nghiên cứu về vấn đề này.
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục tiêu nghiên cứu
Đe xuất những giải pháp nâng cao chất lượng NCKH của sinh viên các trường đại học
trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt mục tiêu trên, đề tài cần phải tiến hành một số nhiệm vụ cụ thể sau:
- Nghiên cứu thực trạng tình hình NCKH của sinh viên các trường đại học trên địa
bàn thành phố Hồ Chí Minh.
- Tim ra những hạn chế và nguyên nhân của những hạn chế đó.
- Dự báo tình hình và đề xuất các giải pháp nâng cao chất lượng NCKH của sinh viên
các trường đại học trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh.
4. Đối tượng và phạm vỉ nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Hoạt động NCKH của sinh viên các trường đại học trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Địa bàn: Các trường đại học trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh.
3
Thời gian: Từ năm 2004 đến năm 2008.
5. Phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Dựa trên những nguyên lý của chủ nghĩa duy vật biện chứng và các văn bản pháp quy
về hoạt động NCKH của sinh viên.
5.2. Phương pháp cụ thể
- Phương pháp nghiên cứu tổng hợp, phân tích, so sánh tài liệu, số liệu.
- Phương pháp điều tra xã hội học.
- Phương pháp phỏng vấn, toạ đàm.
- Phương pháp nghiên cứu điển hình, tổng kết kinh nghiệm.
6. Cấu trúc nội dung của đề tài
Ngoài phần tóm tắt công trình, kết luận, mục lục và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung đề tài gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận và đặc điểm tình hình liên quan đến hoạt động NCKH của
sinh viên các trường đại học trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh
Chương 2: Thực trạng NCKH của sinh viên các trường đại học trên địa bàn thành phố
Hồ Chí Minh
Chương 3: Những giải pháp nâng cao chất lượng NCKH của sinh viên các trường đại
học trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh
4
Chương 1
Cơ SỞ LÝ LUẬN VÀ ĐẶC ĐIỂM TÌNH HÌNH
LIÊN QUAN ĐẾN HOẠT ĐỘNG NCKH CỦA SINH VIÊN
CÁC TRUỜNG ĐẠI HỌC TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
1.1. Cơ sở lý luận về NCKH
1.1.1. Nghiên cứu
Nghiên cứu là công trình khảo sát, nỗ lực tìm kiếm hay khám phá những sự kiện hay
thông tin, kiến thức mới bằng các biện pháp có hệ thống và khoa học về một lĩnh vực nào đó
với mục đích mở rộng hay đào sâu hơn kiến thức về một chủ đề trong lĩnh vực đã chọn.
Nghiên cứu là quá trình khảo sát hay thẩm tra một vấn đề, là công trình thí nghiệm đặc
biệt nhằm mục đích khám phá những kiến thức mới, hay hiệu đính, tu chỉnh những học thuyết,
định luật đã có, hoặc dựa theo những sự kiện mới tìm được để hình thành nên học thuyết hoàn
hảo hơn.
1.1.2. Khoa học
Khoa học là “Hệ thống tri thức về tự nhiên, xã hội và tư duy, được tích lũy trong quá
trình nhận thức trên cơ sở thực tiễn, được thể hiện bằng những khái niệm, phán đoán, học
thuyết”. Nhiệm vụ của khoa học là phát hiện ra bản chất, tính quy luật của các sự vật, hiện
tượng, quá trình. Từ đó mà dự báo về sự vận động, phát triển của chúng, định hướng cho hoạt
động của con người. Khoa học giúp con người ngày càng có khả năng chinh phục tự nhiên và
xã hội. Do đó, khoa học vừa là một hình thái ý thức xã hội vừa là một dạng hoạt động, một dạng
công cụ nhận thức.
Hệ thống khoa học được chia thành: khoa học tự nhiên, khoa học xã hội và khoa học
kỹ thuật. Mỗi loại khoa học nói trên đều có phần cơ bản và phàn ứng dụng, chúng quan hệ biện
chứng với nhau. Song, sự phân loại này chỉ mang tính chất rất tương đối. Trong điều kiện của
cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật, khoa học càng trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp.
5
Khoa học là quá trình nghiên cứu nhằm khám phá ra những kiến thức mới, học thuyết
mới về tự nhiên và xã hội. Những kiến thức hay học thuyết mới này có thể thay thế dần những
cái cũ, không còn phù hợp.
Như vậy, Khoa học bao gồm một hệ thống tri thức về quy luật của vật chất và sự vận
động của vật chất, những quy luật của tự nhiên, xã hội và tư duy. Hệ thống tri thức này hình
thành trong lịch sử và không ngừng phát triển trên cơ sở thực tiễn xã hội. Phân biệt ra hai hệ
thống tri thức: tri thức kinh nghiệm và tri thức khoa học.
- Tri thức kinh nghiệm: là những hiểu biết được tích lũy qua hoạt động sống hàng ngày
trong mối quan hệ giữa con người với con người và giữa con người với thiên nhiên. Quá trình
này giúp con người hiểu biết về sự vật, về cách quản lý thiên nhiên và hình thành mối quan hệ
giữa con người với nhau trong xã hội. Tri thức kinh nghiệm được con người không ngừng sử
dụng và phát triển trong hoạt động thực tế. Tuy nhiên, tri thức kinh nghiệm chưa thật sự đi sâu
vào bản chất, chưa thấy được hết các thuộc tính của sự vật và mối quan hệ bên trong giữa sự
vật và con người. Vĩ vậy, tri thức kinh nghiệm chỉ phát triển đến một hiểu biết giới hạn nhất
định, nhưng tri thức kinh nghiệm là cơ sở cho sự hình thành tri thức khoa học.
- Tri thức khoa học: là những hiểu biết được tích lũy một cách có hệ thống nhờ hoạt
động NCKH, các hoạt động này có mục tiêu xác định và sử dụng phương pháp khoa học. Không
giống như tri thức kinh nghiệm, tri thức khoa học dựa trên két quả quan sát, thu thập được qua
những thí nghiệm và qua các sự kiện xảy ra ngẫu nhiên trong hoạt động xã hội, trong tự nhiên.
Tri thức khoa học được tổ chức trong khuôn khổ các ngành và bộ môn khoa học như: triết học,
sử học, kinh tế học, toán học, sinh học,...
1.1.3. Nghiên cứu khoa học
NCKH là một hoạt động xã hội, hướng vào tìm kiếm những điều mà khoa học chưa
biết, hoặc là phát hiện bản chất sự vật, phát triển nhận thức khoa học về thế giới hoặc là sáng
tạo phương pháp mới và phương tiện kỹ thuật mới để cải tạo thế giới.
6
NCKH là quá trình hoạt động nhằm thu nhận tri thức khoa học. NCKH có hai mức độ:
kinh nghiệm và lí luận, chúng luôn tác động qua lại với nhau. NCKH có cấu trúc phức tạp, gồm
nhiều yếu tố: xây dựng các nhiệm vụ nhận thức; nghiên cứu những phương pháp và tri thức đã
có trong lĩnh vực đang nghiên cứu; đưa ra và phân tích lý thuyết những giả thuyết; phân tích và
khái quát hóa những két quả đã nhận thức được; kiểm tra các giả thuyết có được trên cơ sở tổng
hợp toàn bộ các sự kiện; xây dựng các lý thuyết và hình thành những quy luật; nghiên cứu những
dự báo khoa học;... Sự phát triển của hệ thống NCKH phụ thuộc vào nhu cầu của xã hội. Trong
điều kiện hiện nay, có sự gắn bó chặt chẽ giữa nghiên cứu cơ bản và nghiên cứu ứng dụng,
nghiên cứu theo từng ngành và nghiên cứu liên ngành. Trong đó, nghiên cứu liên ngành là đặc
trưng của giai đoạn cách mạng khoa học - kỹ thuật hiện đại, nhằm giải quyết những vấn đề lớn,
phức tạp. Và để hoạt động NCKH đạt được hiệu quả cao, việc áp dụng những thành tựu tiến bộ
của khoa học kỹ thuật vào hoạt động nghiên cứu là hết sức cần thiết.
Theo từ điển Bách khoa toàn thư, NCKH là một hoạt động tìm kiếm, xem xét, điều tra
hoặc thử nghiệm, dựa trên những số liệu, tài liệu, kiến thức... đạt được từ các thí nghiệm NCKH
để phát hiện ra những cái mới về bản chất sự vật, về thế giới tự nhiên và xã hội, và để sáng tạo
phương pháp và phương tiện kỹ thuật mới cao hơn, giá trị hơn. Con người muốn làm NCKH
phải có kiến thức nhất định về lĩnh vực nghiên cứu và cái chính là phải rèn luyện cách làm việc
tự lực, có phương pháp làm việc hiệu quả.
Ba yêu cầu cơ bản của NCKH:
- Mục tiêu nghiên cứu: nghiên cứu để làm gì; phục vụ lợi ích cho ai; bản thân thu được
những két quả gì sau khi hoàn thành đề tài, đặc biệt là nếu xây dựng được một đề tài chất lượng.
- Xác định các dữ liệu cần thu thập: đặt câu hỏi cần thu thập những dữ liệu gì để phục
vụ cho đề tài nhằm đạt được mục tiêu đề ra.
- Lựa chọn phương pháp nghiên cứu: đề tài nên sử dụng những phương pháp nào để đạt
hiệu quả cao nhất.
7
1.1.4. Đề tàiNCKH
Đe tài là một hình thức NCKH, được đặc trưng bởi một nhiệm vụ nghiên cứu và do một
người hoặc một nhóm người thực hiện. Đe tài phải đáp ứng yêu cầu của khoa học, của thời đại,
phục vụ sản xuất và đời sống con người; phải thiết thực và có ý nghĩa đối với thực tiễn cuộc
sống. Do đó, việc xác định đề tài có một tầm quan trọng đặc biệt. Tiền đề, cơ sở của quá trình
chọn lựa này chính là việc phát hiện “vấn đề” cần nghiên cứu.
Các “vấn đề” NCKH thường được hình thành trong các tình huống sau:
- Trong quá trình nghiên cứu, đọc và thu thập tài liệu, người nghiên cứu phát hiện hoặc
nhận ra các “vấn đề”. Đó có thể là vấn đề mới hoặc vấn đề cũ nhưng người nghiên cứu chưa rõ
hoặc muốn chứng minh lại.
- Trong các hội nghị chuyên đề, báo cáo khoa học kỹ thuật, ... đôi khi việc tranh cãi và
tranh luận khoa học sẽ làm phát sinh vấn đề cần nghiên cứu.
- Trong quá trình lao động sản xuất hay trong các quan hệ xã hội, những khó khăn,
vướng mắc nảy sinh cũng đặt ra cho người nghiên cứu các câu hỏi hay người nghiên cứu phát
hiện ra các “vấn đề” cần nghiên cứu.
- “Vấn đề” nghiên cứu cũng được hình thành qua những thông tin bức xúc, lời nói phàn
nàn nghe được qua các cuộc nói chuyện từ những người xung quanh.
- Các “vấn đề” hay các câu hỏi nghiên cứu chợt xuất hiện trong suy nghĩ của người
nghiên cứu qua tình cờ quan sát các hiện tượng của tự nhiên, các hoạt động xảy ra trong xã hội
hàng ngày.
- Tính tò mò của người nghiên cứu về vấn đề nào đó cũng đặt ra các câu hỏi hay “vấn
đề” nghiên cứu.
- Nghĩ ngược lại quan niệm thông thường: Đây chính là việc tìm kiếm một khái niệm
đối lập với khái niệm đang tồn tại.
1.1.5. NCKH sinh viên
NCKH sinh viên là hoạt động NCKH do sinh viên thực hiện nhằm nghiên cứu sâu một
vấn đề khoa học thuộc phạm vi môn học, ngành học hoặc những lĩnh vực xã hội liên quan đến
nhiệm vụ học tập, rèn luyện và thực tiễn công tác.
8
Đề tài NCKH của sinh viên được thực hiện bởi một người hoặc một nhóm người. Sinh
viên chọn đề tài nghiên cứu từ danh mục đề tài do Phòng, Ban Khoa học cơ sở cung cấp hoặc
có thể tự mình đề xuất một đề tài tâm đắc muốn nghiên cứu tìm hiểu.
Đe tài NCKH của sinh viên được chia thành hai lĩnh vực:
- Khoa học kỹ thuật
- Khoa học xã hội và nhân văn
1.2. Đặc điểm tình hình liên quan đến hoạt động NCKH của sinh viên
1.2.1. Tinh hình chung
Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm đến việc đầu tư cho sự
nghiệp giáo dục và xem đây như một quốc sách hàng đầu phát triển kinh tế đất nước. Vì vậy,
Bộ GD & ĐT không ngừng đưa ra các kế hoạch, biện pháp đổi mới chương trình giáo dục nhằm
nâng cao chất lượng dạy và học. Đối với bậc đại học, yêu cầu đặt ra cho sinh viên ngày càng
cao, đòi hỏi sinh viên phải tăng cường khả năng tư duy, sáng tạo, vận dụng những kiến thức từ
sách vở vào thực tiễn cuộc sống một cách khoa học hơn.
Hiện nay, số lượng thí sinh trúng tuyển vào các trường đại học ngày càng nhiều, cho
thấy trình độ của lực lượng lao động ngày một nâng cao, có thể thích ứng với yêu cầu của xã
hội hiện đại. Cùng với sự phát triển của đất nước, sự tiến bộ của khoa học kĩ thuật, tầm hiểu biết
của sinh viên ngày càng mở rộng, nhu cầu tìm tòi, khám phá tri thức khoa học càng trở nên phổ
biến. Đại bộ phận sinh viên có tinh thần cầu tiến, ham học hỏi, không ngừng tiếp thu tri thức
mới. Tuy nhiên, vẫn còn một bộ phận sinh viên thụ động trong học tập, ý thức học tập chưa cao,
chưa phát huy hết khả năng sáng tạo, có tư tưởng “trung bình chủ nghĩa”.
1.2.2. Đặc điểm sinh viên hệ chuẩn
Mỗi năm, các trường đại học tổ chức tuyển sinh theo quy chế tuyển sinh của Bộ GD &
ĐT quy định. Những học sinh sau khi vượt qua kỳ thi tốt nghiệp trung học phổ thông thì tiếp
tục ôn tập để thi vào các trường mà mình đã đăng ký theo nguyện vọng. Mỗi học sinh sẽ có từ
một đến ba nguyện vọng và tùy theo điểm số
9
thi tuyển sinh mà được xét theo thứ tự ưu tiên: nguyện vọng 1, nguyện vọng 2, nguyện vọng 3.
Sau khi vượt qua kỳ thi tuyển sinh đại học do Bộ GD & ĐT tổ chức, thí sinh trúng tuyển sẽ
được học tập tại trường mình đã đãng ký. Mỗi trường có mức điểm và tiêu chuẩn xét tuyển
riêng. Điều đó phản ánh mặt bằng trình độ chung của sinh viên toàn trường.
Có thể nói, những sinh viên đang học tại các trường đại học là những sinh viên đã có
những tiêu chuẩn nhất định về trình độ cơ bản vĩ đã trải qua sự sàng lọc khắt khe của kỳ thi
tuyển sinh đại học để được đào tạo chính quy hơn, trở thành đội ngũ lao động chuyên nghiệp,
có khả năng thích nghi với sự phát triển của thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, từng bước
khẳng định vị trí làm chủ đất nước trong tương lai.
1.2.3. Các quy định về hoạt động NCKH của sinh viên
1.2.3.1. Mục đích và yêu cầu của NCKH
* Mục đích NCKH
- Giúp cho sinh viên tiếp cận và làm quen với môi trường khoa học, phương pháp
NCKH cũng như rèn luyện khả năng tư duy sáng tạo, năng lực nghiên cứu của sinh viên và tạo
phong cách làm việc khoa học.
- Góp phần nâng cao chất lượng đào tạo bậc đại học.
- Góp phần làm sáng tỏ một số vấn đề của khoa học và giải quyết những yêu cầu thực
tiễn.
* Yêu cầu về NCKH
- Phù hợp với định hướng hoạt động khoa học và công nghệ của các trường đại học.
- Phù hợp với nội dung của chương trình đào tạo và một số đòi hỏi của thực tiễn xã
hội.
- Phù hợp với khả năng, nguyện vọng của sinh viên.
- Không ảnh hưởng đến học tập chính khóa của sinh viên.
- Đảm bảo đúng các quy định về NCKH theo Luật Khoa học và Công nghệ.
10
1.2.3.2.
Nội dung và hình thức NCKH
- Nghiên cứu những vấn đề thuộc lĩnh vực được đào tạo.
- Tham gia triển khai áp dụng những tiến bộ khoa học và công nghệ vào sản xuất, kinh
doanh, đời sống và quốc phòng an ninh.
- Tham gia các hội nghị, hội thảo khoa học, hội thi sáng tạo khoa học công nghệ tuổi
trẻ, thông tin khoa học công nghệ, câu lạc bộ khoa học sinh viên.
1.2.3.3.
Đối tượng và tiêu chuẩn tham gia NCKH
* Đối tượng
Theo quy định của Bộ GD & ĐT, sinh viên đào tạo bậc đại học được tham gia đãng ký
nghiên cứu đề tài khoa học. Ngoài ra, các trường còn có những quy định riêng phù hợp với điều
kiện, đặc điểm của từng trường, không trái với quy định chung của Bộ GD & ĐT.
* Tiêu chuẩn
Bộ GD & ĐT không quy định cụ thể về tiêu chuẩn để sinh viên NCKH mà mỗi trường
có một quy định riêng. Đa số các trường không quy định tiêu chuẩn để khuyến khích bất kỳ sinh
viên nào có dam mê, yêu thích khoa học đều có thể nghiên cứu, ví dụ như trường Đại học Giao
thông Vận tải Hồ Chí Minh, Đại học Ngân hàng, Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn... Tuy
nhiên, một số trường lại có những quy định rất cụ thể và chặt chẽ về tiêu chuẩn sinh viên tham
gia NCKH.
1.2.3.4.
Trách nhiệm và quyền lợi
* Đối với sinh viên
- Trách nhiệm:
+ Chấp hành mọi quy định hiện hành về hoạt động khoa học và công nghệ của Bộ GD
& ĐT, quy định của các trường đại học.
+ Sau khi nhận đề tài của giáo viên hướng dẫn, sinh viên phải thực hiện nghiêm túc kế
hoạch nghiên cứu đã được duyệt. Trường hợp sinh viên không hoàn thành đề tài theo tiến độ
phải có lý do hợp lý và báo cáo khoa, phòng có liên quan bằng vãn bản (có xác nhận của cán bộ
hướng dẫn).
11
+ Mỗi sinh viên, nhóm sinh viên tham gia nghiên cứu đề tài khoa học phải đảm bảo
đúng tiến độ, thủ tục, trình tự đãng ký, xét duyệt, hội thảo, kiểm tra đánh giá, nghiệm thu, thanh
lý hợp đồng theo quy định của cơ quan chủ quản đề tài NCKH và đảm bảo về hĩnh thức, cấu
trúc của sản phẩm NCKH theo quy định.
- Quyền lợi:
+ Sinh viên NCKH được hưởng mọi quyền lợi do Bộ GD & ĐT, các trường đại học
quy định.
+ Được tạo điều kiện sử dụng các cơ sở vật chất, các trang thiết bị sẵn có của trường để
tiến hành NCKH theo kế hoạch. Được giới thiệu đến các đơn vị, cơ sở để thu thập số liệu, tài
liệu thực tế phục vụ cho việc nghiên cứu.
+ Sinh viên đang học trong nhà trường có công trình đạt giải thưởng “Sinh viên NCKH”
do Bộ GD & ĐT tổ chức hoặc đạt giải thưởng sinh viên NCKH cấp trường thì được cộng điểm
thưởng vào điểm trung bình chung học tập cuối năm hoặc được khen thưởng bằng vật chất tùy
theo kết quả của các đề tài NCKH.
Tổng số điểm tối đa cho một công trình là:
+ Giải nhất : 0,4 điểm
+ Giải nhì : 0,3 điểm
+ Giải ba
: 0,2 điểm
+ Khuyến khích : 0,1 điểm
+ Sinh viên có thành tích NCKH khi đang học tập tại trường được ưu tiên khi xét thi
đua, cấp học bổng hàng năm và là một trong những điều kiện được xét chuyển tiếp ở bậc Sau
đại học và được hưởng các quyền lợi khác theo quy định.
+ Kết quả NCKH của sinh viên đạt chất lượng cao có thể được đăng công bố trên các
tạp chí, kỷ yéu, tập san, Thông báo khoa học và các phương tiện thông tin khác của nhà trường
và của Bộ GD & ĐT.
* Đổi với cán bộ hướng dẫn
- Trách nhiệm: Cán bộ, giảng viên có trách nhiệm hướng dẫn sinh viên NCKH (giúp
sinh viên lựa chọn đề tài, xây dựng mục tiêu, nội dung, phạm vi và phương pháp nghiên cứu,
giúp sinh viên vạch kế hoạch đề cương nghiên cứu và các
12
bước tiến hành); theo dõi và giúp đỡ sinh viên giải quyết những khó khăn, vướng mắc và phải
tuân thủ thực hiện đúng các quy định về NCKH của sinh viên.
- Quyền lợi: Căn cứ vào kết quả NCKH của sinh viên mà cán bộ hướng dẫn được tính
thêm giờ NCKH. Cụ thể: Thủ trưởng các cơ sở căn cứ vào kết quả NCKH của sinh viên để tính
thêm giờ NCKH cho cán bộ hướng dẫn sinh viên NCKH (số giờ tối đa cho một công trình là 20
giờ).
1.2.3.5. Xử lý vi phạm
Trường hợp phát hiện thấy công trình NCKH của sinh viên thiếu trung thực, thủ trưởng
các cơ sở tùy theo vào mức độ vi phạm để thi hành các hình thức kỷ luật khác nhau đối với tác
giả công trình.
1.2.3.6. Tiêu chí đánh giá
Theo công vãn số 4393/BGDĐT-KHCNMT ngày 29 tháng 5 năm 2009 của Bộ GD &
ĐT về việc tổ chức xét tặng giải thưởng “Sinh viên nghiên cứu khoa học” năm 2009 thì đề tài
NCKH của sinh viên được đánh giá theo các tiêu chí sau:
- Phương pháp nghiên cứu và nội dung khoa học của công trình: 7-8 điểm.
- Hiệu quả kinh tế, xã hội, giáo dục, an ninh, quốc phòng và cách trình bày công trình
(bố cục, diễn đạt, sơ đồ, hình vẽ...): 2-3 điểm.
Tổng số điểm đánh giá là 10 điểm.
Điều kiện để một công trình được xem xét xếp giải nhì, ba và khuyến khích phải có
điểm đánh giá trung bình tối thiểu lần lượt là 8,5; 7,5 và 6,5. Các công trình có điểm đánh giá
trung bình từ 8,75 trở lên sẽ được xét giải nhất thông qua các hội đồng đánh giá của Bộ GD &
ĐT.
Trên cơ sở quy định chung của Bộ GD & ĐT, các trường sẽ có những tiêu chí riêng cụ
thể. Có trường thì coi trọng hiệu quả thực tiễn của đề tài, có trường thì đánh giá cao phương
pháp nghiên cứu của sinh viên. Riêng đề tài của sinh viên trường Đại học Cảnh sát Nhân dân
được đánh giá theo 4 tiêu chí và phân loại như sau:
- Tiêu chí đánh giá
+ Phương pháp nghiên cứu
: 5 điểm.
13
+ Nội dung khoa học
: 2 điểm.
+ Hiệu quả (kinh tế, xã hội, giáo dục...) : 2 điểm.
+ Hình thức trình bày
: 1 điểm.
1.3. Một số vấn đề khác có liên quan
1.3.1.
Cán bộ hướng dẫn NCKH
Tất cả sinh viên tham gia NCKH đều có cán bộ hướng dẫn. Cán bộ hướng dẫn là những
giảng viên, cán bộ nghiên cứu của các trường đại học có kinh nghiệm NCKH. Những cán bộ
hướng dẫn sinh viên NCKH phải được thống nhất với các khoa, bộ môn chủ quản đề tài và được
Hiệu trưởng các trường duyệt và quyết định. Tuy nhiên, tại một số trường, sinh viên có thể tự
liên hệ với cán bộ hướng dẫn. Việc lựa chọn cán bộ hướng dẫn do sinh viên tự quyết định căn
cứ vào tính chất, nội dung của đề tài và mối quan hệ của từng sinh viên.
1.3.2.
1.3.2.1.
Trách nhiệm của các đơn vị chức năng
Phòng, Ban Khoa học
- Đe xuất kế hoạch, nội dung, biện pháp tổ chức NCKH hàng năm của sinh
viên.
- Chủ trì phối hợp với Phòng (Ban) Đào tạo, Công tác chính trị - sinh viên, Đoàn Thanh
niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội sinh viên và các tổ chức khác trong công tác NCKH của sinh
viên.
- Đề xuất các phương án ứng dụng kết quả công trình NCKH của sinh viên vào thực
tiễn, phù hợp với mục tiêu phát triển kinh té - xã hội của đất nước và trong phạm vi cho phép
của cơ sở.
1.3.2.2.
Hiệu trưởng các trường đại học
- Xây dựng văn bản hướng dẫn thực hiện quy ché về NCKH sinh viên để phù hợp với
mục tiêu, nội dung, chương trình đào tạo và điều kiện NCKH của cơ sở.
- Xem xét và lựa chọn các công trình đưa vào ứng dụng, các biện pháp triển khai và
quy định cụ thể chế độ đãi ngộ đối với các tác giả cũng như những người đã đóng góp trong
việc ứng dụng thành công kết quả công trình NCKH của sinh viên vào thực tiễn.
14
1.3.3. Cff sở vật chất phục vụ hoạt động NCKH
Nhìn chung, tất cả các trường đều có thư viện phục vụ cho hoạt động giảng dạy, học
tập và NCKH. Ngoài ra, tùy theo điều kiện và đặc điểm của từng trường mà có thể trang bị thêm
phòng đọc trực tuyến hoặc hệ thống Internet. Quy mô của thư viện, phòng đọc, hệ thống Internet
có sự khác nhau tùy theo mức độ đầu tư và khả năng tài chính của mỗi trường.
Ket quả khảo sát tại trường Đại học Cảnh sát Nhân dân cho thấy hiện trường có một thư
viện phục vụ hoạt động giảng dạy, học tập nói chung và hoạt động NCKH nói riêng. Ngoài ra,
còn có một phòng đọc trực tuyến phục vụ việc tra cứu tài liệu mật. Theo thống kê mới nhất của
Trung tâm Thông tin khoa học và Tư liệu giáo khoa thuộc trường Đại học Cảnh sát Nhân dân,
hiện thư viện trường có tổng số 12.078 đầu sách (2.385 nhan đề) và 3.886 tạp chí (55 nhan đề).
Bên cạnh nguồn tài liệu tại thư viện, sinh viên còn có thể khai thác nguồn thông tin khổng lồ từ
Internet qua mạng không dây (WIFI). Ngoài ra, nhà trường còn trang bị cho mỗi phòng ở sinh
viên một line mạng nội bộ. Với cách làm này, trường Đại học Cảnh sát Nhân dân đã trở thành
một thư viện tổng hợp, sinh viên có thể tra cứu thông tin phục vụ học tập, nghiên cứu tại phòng
ở của mình một cách thuận lợi.
1.3.4. Thời gian NCKH
Bộ GD & ĐT không quy định cụ thể về thời gian nghiên cứu đối với một đề tài khoa
học của sinh viên. Các trường căn cứ vào đặc điểm, điều kiện của mình và tính chất, quy mô
của từng đề tài mà có những quy định khác nhau. Thông thường, một đề tài NCKH của sinh
viên được thực hiện trong khoảng thời gian tù năm đến bảy tháng. Khoảng thời gian nghiên cứu
của mỗi đề tài được tính từ khi sinh viên nhận đề tài đến khi hoàn chỉnh và chuyển giao về đơn
vị quản lý.
1.3.5. Kinh phí NCKH
Hàng năm, Hiệu trưởng các trường quyết định dành một khoản kinh phí thích hợp để
hỗ trợ hoạt động NCKH của sinh viên. Kinh phí này được trích từ các nguồn sau:
- Nguồn ngân sách nhà nước cấp cho các hoạt động khoa học và công nghệ.
15
- Kinh phí đào tạo thường xuyên của trường.
- Kinh phí khác của trường.
- Nguồn tài trợ của các tổ chức, đoàn thể và cá nhân trong và ngoài nước.
Trên cơ sở những quy định chung của Bộ GD & ĐT, mỗi trường có mức quy
định cụ thể đối với đề tài NCKH sinh viên theo quan điểm của từng trường, đảm bảo không trái
với quy định chung.
Nắm vững kiến thức cơ bản về NCKH và những vấn đề có liên quan đến hoạt động
NCKH có ý nghĩa quan trọng để đi sâu tìm hiểu, nghiên cứu về tình hình NCKH của sinh viên.
NCKH là hoạt động mang tính tư duy, sáng tạo cao, được thể chế hóa thành những vãn bản cụ
thể, chặt chẽ. Trong các trường đại học, hoạt động NCKH nói chung và hoạt động NCKH của
sinh viên nói riêng chủ yếu phục vụ cho nhiệm vụ giáo dục và đào tạo của nhà trường. Hoạt
động đó chịu sự tác động của nhiều yếu tố khách quan và chủ quan. Đe có cái nhìn toàn diện,
đầy đủ về hoạt động này, nhóm nghiên cứu phân tích thực trạng NCKH của sinh viên trong
những năm qua. Trên cơ sở đó tìm ra những hạn chế và nguyên nhân của những hạn chế nhằm
đề ra những giải pháp thiết thực nâng cao chất lượng NCKH của sinh viên.
16
Chưomg 2
THựC TRẠNG NCKH CỦA SINH VIÊN CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC
TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
2.1. Quy trình NCKH của sinh viên các trường đại học trên địa bàn thành phố
Hồ Chí Minh
2.1.1. Chọn đề tài nghiên cứu
Tùy thuộc vào những điều kiện, đặc điểm của trường đang theo học mà sinh viên có
những cách thức lựa chọn đề tài nghiên cứu khác nhau. Việc lựa chọn đề tài có thể do các khoa,
phòng, bộ môn hay giảng viên thực hiện hoặc do sinh viên lựa chọn những vấn đề mình tâm đắc
để nghiên cứu.
Kết quả khảo sát cho thấy:
Tại trường Đại học Ngân hàng, phong trào NCKH của sinh viên hàng năm được được
tổ chức làm hai đợt theo hai học kỳ cho tất cả sinh viên học tập tại trường. Đe tài do sinh viên
tự lựa chọn về vấn đề, lĩnh vực mà mình yêu thích.
Tại trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, tất cả sinh viên đều có thể tham gia
NCKH. Giảng viên sẽ cung cấp một số tên đề tài cho sinh viên trong lớp lựa chọn. Sau đó, sinh
viên nghiên cứu lựa chọn đề tài mình muốn nghiên cứu, đãng ký lại với giáo viên.
Riêng tại trường Đại học Cảnh sát Nhân dân: Hàng năm, khi nhà trường triển khai ké
hoạch NCKH, sinh viên có thể đề xuất những đề tài mà mình tâm đắc muốn nghiên cứu và gửi
về phòng Quản lý NCKH. Trên cơ sở những đề tài do các khoa, bộ môn xây dựng và sinh viên
đề xuất, Hội đồng khoa học nhà trường sẽ duyệt danh mục đề tài. Sinh viên được tự do lựa chọn
nhưng chỉ được đăng ký trong số các đề tài có trong danh mục.
2.1.2. Thu thập và xử lý tài liệu
Sinh viên NCKH luôn bắt đầu quá trình nghiên cứu bằng việc thu thập tài liệu phục vụ
cho đề tài của mình.
17
Sách, giáo trình trong thư viện là những nguồn tài liệu phong phú và đa dạng được sinh
viên lựa chọn nhiều nhất. Hiện nay, thư viện các trường đã được trang bị rất nhiều loại sách, đa
dạng về chủng loại cũng như số lượng, sinh viên có thể tự do tra cứu một cách dễ dàng để tìm
đọc những tài liệu có liên quan đến đề tài nghiên cứu. Tuy nhiên, nhìn chung các thư viện vẫn
chưa đáp ứng được nhu cầu tìm kiếm thông tin của sinh viên.
Ngoài nguồn tài liệu từ thư viện, sinh viên có thể tìm kiếm ưên mạng Internet những
thông tin cần thiết. Internet là một thư viện khổng lồ với nguồn thông tin phong phú, có khả
năng đáp ứng mọi nhu cầu tìm hiểu của sinh viên. Có nhiều sinh viên đã biết cách khai thác một
cách có hiệu quả nguồn tài liệu này. Tuy nhiên, nhiều đề tài được sao chép gần như toàn bộ
những thông tin tìm được trên mạng Internet mà không có sự chọn lọc, kiểm tra tính xác thực
làm cho đề tài thiếu tính tư duy, thậm chí làm sai lệch nội dung nghiên cứu.
Ngoài ra, sinh viên còn bổ sung nguồn tài liệu từ những thông tin trên các phương tiện
thông tin đại chúng như báo, đài, truyền hình... Tuy nhiên, khi sử dụng những thông tin này,
sinh viên thường không nắm bắt một cách chính xác, rõ ràng khiến thông tin được sử dụng chưa
thật sự thuyết phục. Bên cạnh đó, sinh viên còn thu thập tài liệu theo sự hướng dẫn của giáo
viên hoặc từ khoa, phòng, bộ môn. Đây thường là nguồn tài liệu chính xác và cụ thể đối với
hoạt động nghiên cứu của sinh viên.
Sinh viên cũng có thể thu thập tài liệu từ các đơn vị, địa phương. Với các đề tài thuộc
chuyên ngành kinh tế, sinh viên thường đến các doanh nghiệp để khảo sát. Với những đề tài liên
quan đến nông nghiệp thì các trang trại hoặc những vùng chuyên canh nông nghiệp là địa bàn
thích hợp... Bằng cách đi thực té, sinh viên thu được những kết quả quan trọng phục vụ cho
công trình nghiên cứu. Những đề tài này thường được đánh giá cao hơn vì có tính ứng dụng
cao.
Thu thập tài liệu là khâu quan trọng để xây dựng đề tài. Những sinh viên ý thức rõ tầm
quan trọng của việc thu thập tài liệu đã dùng nhiều phương pháp, tận dụng các mối quan hệ để
có được nguồn số liệu phong phú, đa dạng và hữu ích cho
18
việc nghiên cứu đề tài. Tuy nhiên, trong thục tế, vẫn còn nhiều sinh viên chua thực hiện hoạt
động này một cách đúng đắn. Ket quả khảo sát cho thấy, có đến 35% sinh viên trả lời việc làm
đầu tiên sau khi nhận đuợc đề tài là đến thu viện tìm những đề tài có nội dung gần giống để sao
chép thông tin nhằm giảm bớt thời gian thu thập số liệu hay đầu tu suy nghĩ; 12% sinh viên ưả
lời nội dung đề tài phần lớn là đuợc sao chép, chắp vá thông tin từ nhiều nguồn khác nhau, thậm
chí nội dung cốt lõi của đề tài là nguyên nhân và giải pháp cũng đuợc sao chép, chỉ chỉnh sửa
về mặt câu chữ. Đặc biệt, đa số sinh viên NCKH lần đầu chỉ làm theo lối mòn của các đề tài
cùng tên truớc hoặc sao chép ý tuởng của nguời khác một cách giản đơn, máy móc. Chính vì
vậy, khi nghiên cứu các đề tài cùng tên, nhóm nghiên cứu dễ nhận thấy những tồn tại, nguyên
nhân và giải pháp gần giống nhau, khó tìm thấy cái mới, cái hay, điểm đặc trung của mỗi đề tài.
Khi đuợc hỏi có đến 7% sinh viên tự nhận đã sử dụng “số liệu ảo” trong đề tài. Những
sinh viên này tụ nghĩ ra số liệu rồi dùng chính số liệu ấy phục vụ cho hoạt động nghiên cứu,
không tôn ưọng sụ thật khách quan, các lập luận và cơ sở của lập luận phần lớn là do suy luận
chủ quan mà không căn cứ trên tình hình thực tiễn.
Sau khi thu thập tài liệu, sinh viên tiến hành sắp xếp, hệ thống lại những tài liệu đã có,
xử lý các số liệu thô theo yêu cầu nghiên cứu. Việc sắp xếp tài liệu của sinh viên dựa trên nhiều
tiêu chí nhung phổ biến nhất vẫn là sắp xếp theo các đề mục trong đề cuơng nghiên cứu. Trên
cơ sở đó sinh viên bắt tay vào việc xây dựng bản thảo đề tài.
2.1.3. Viết bản thảo đề tàiNCKH
Trên cơ sở những tài liệu đã thu thập đuợc, qua phân tích, so sánh, tổng hợp và đánh
giá các số liệu, tài liệu có liên quan, sinh viên bắt tay vào việc viết bản thảo đề tài. Hầu hết các
bản thảo đều bám sát vào đề cuơng chi tiết đã đuợc duyệt. Đe xây dựng bản thảo, mỗi nhóm có
những cách làm khác nhau. Qua tìm hiểu, nhóm nghiên cứu nhận thấy có một số cách làm việc
tiêu biểu sau:
19
- Phân công mỗi người phụ trách một công việc: Một người thu thập số liệu, tài liệu,
một người viết đề tài và người còn lại có nhiệm vụ đánh máy. Ưu điểm của cách làm này là có
sự phân công chuyên môn hóa, từ đó, sinh viên sẽ đầu tư cho công việc của mình nhiều hơn,
đặc biệt là nội dung đề tài sẽ liền mạch hơn, logic hơn vì đó là két quả tư duy của một người.
Tuy nhiên, như vậy sẽ không phát huy được tính sáng tạo, năng lực tư duy và sức mạnh của tập
thể, một số sinh viên sau khi hoàn thành đề tài vẫn không nắm được các phương pháp nghiên
cứu (do chỉ đánh máy hoặc thu thập số liệu). Qua kết quả điều tra xã hội học được biết có 9,7%
sinh viên lựa chọn cách làm này.
- Phân công mỗi người đảm trách một chương của đề tài. Ưu điểm của cách làm này
là sinh viên chủ động sắp xếp thời gian để hoàn thành phần việc của mình, nội dung của từng
chương có sự liền mạch vì chỉ do một người viết. Tuy nhiên, cách làm này vẫn chưa phát huy
tối đa sự hợp tác của nhóm nghiên cứu. Khi được phân công, các cá nhân thường làm việc độc
lập, tính tập thể không cao. Cá biệt có trường hợp khi hoàn chỉnh đề tài thì nội dung các chương
không phù hợp với nhau (Ví dụ: Giải pháp không gắn với hạn chế và nguyên nhân). Ket quả
khảo sát chỉ ra có 35,8% sinh viên áp dụng cách làm này.
- Phân công mỗi người một mục, một phần của chương: Trong mỗi chương của đề tài
bao gồm nhiều mục nhỏ và mỗi người đảm nhận một mục, tổng hợp bài viết của nhóm sẽ tạo
thành chương. Cách làm này phát huy được khả năng tư duy của nhóm nghiên cứu, có sự bổ
sung kịp thời cho nhau. Tuy nhiên, vì mỗi người có cách trình bày vấn đề khác nhau nên khi
hoàn chỉnh thì khó liên kết các đoạn, các phần của đề tài, tiến độ làm việc phụ thuộc lẫn nhau.
Qua kết quả khảo sát có 41,8% sinh viên lựa chọn cách làm này.
- Cả nhóm cùng viết một nội dung, sau đó trao đổi và thống nhất trên cơ sở các bài viết
của cả nhóm. Cách làm này phát huy tối đa khả năng tư duy của nhóm, mang tính tập thể cao,
bài viết chất lượng. Tuy nhiên, nhược điểm là tiến độ làm việc phụ thuộc lẫn nhau, tốn nhiều
thời gian và công sức. Qua kết quả khảo sát cho thấy có 12,7% sinh viên lựa chọn cách làm này.
20
Như vậy, tùy mỗi nhóm đề tài mà có sự phân công công việc khác nhau. Tuy cách thức
làm việc không ảnh hưởng trực tiếp đến nội dung nhưng nó phản ánh tính khoa học của quá
trình thực hiện đề tài và tác động không nhỏ đến chất lượng và hiệu quả làm việc của nhóm sinh
viên nghiên cứu.
2.1.4. Hoàn chỉnh đề tài
Đây là khâu cuối cùng của việc xây dựng đề tài. Khâu này gồm ba bước:
- Bước thứ nhất: Sinh viên chỉnh sửa bản thảo và tạm in hoặc gửi thiết bị lưu trữ tài liệu
(USB) cho cán bộ hướng dẫn. Ở bước này, việc chỉnh sửa đề tài của sinh viên chỉ mang tính
tương đối. Mục đích chủ yếu là xin ý kiến cán bộ hướng dẫn về nội dung và cấu trúc của đề tài.
- Bước thứ hai: Cán bộ hướng dẫn chỉnh sửa đề tài. Ở bước này, cán bộ hướng dẫn
thường xem xét một cách tổng thể tính hợp lý của cấu trúc đề tài và tính logic, thống nhất của
các đề mục, nội dung.
- Bước thứ ba: Sinh viên hoàn chỉnh đề tài. Trên cơ sở góp ý của cán bộ hướng dẫn,
sinh viên tiếp tục chỉnh sửa đề tài một lần nữa cả về nội dung lẫn hình thức. Lần chỉnh sửa này
có ý nghĩa quyết định vỉ là lần chỉnh sửa cuối cùng. Với những đề tài cán bộ hướng dẫn chỉnh
sửa ít thì việc hoàn chỉnh đề tài khá đơn giản. Tuy nhiên, có trường hợp cán bộ hướng dẫn thay
đổi cấu trúc đề tài, bổ sung thêm nhiều nội dung mới thì đây thực sự là vấn đề nan giải vì đã cận
hạn nộp đề tài, việc chỉnh sửa của sinh viên bị lúng túng và không hiệu quả.
2.1.5. Bảo vệ đề tài
Bảo vệ đề tài là ngưỡng cửa mà sinh viên phải vượt qua bằng cách khẳng định giá trị
khoa học và giá trị thực tiễn của đề tài mình nghiên cứu trước Hội đồng khoa học. Quá trình
này phản ánh sự nhận thức, hiểu biết của sinh viên về vấn đề mình nghiên cứu. Sinh viên phải
thể hiện sự am hiểu cũng như tâm huyết của mình về lĩnh vực nghiên cứu không chỉ thông qua
những gì đã viết trong đề tài mà còn phải truyền tải thông tin một cách cô đọng, hàm súc bằng
ngôn ngữ nói hoặc minh họa thêm bằng hình ảnh để tăng tính thuyết phục cho đề tài. Trong quá
trình bảo vệ,
21
Hội đồng khoa học sẽ đặt những câu hỏi, đưa ra ý kiến phản biện và yêu cầu sinh viên trả lời để
làm sáng tỏ những vấn đề chưa rõ hay mở rộng vấn đề nghiên cứu.
Việc trình bày và trả lời những câu hỏi của Hội đồng khoa học sẽ quyết định đến sự
đánh giá chất lượng đề tài khoa học của sinh viên. Vĩ vậy, đòi hỏi sinh viên phải nắm vững kiến
thức, có sự mở rộng ngoài lĩnh vực mình nghiên cứu. Trong quá trình bảo vệ đề tài của mình,
sinh viên cần bình tĩnh, nhạy bén để trả lời những câu hỏi được đặt ra. Trên thực tế, có những
đề tài đã được chuẩn bị kỹ, nội dung chất lượng nhưng khi bảo vệ trước Hội đồng, sinh viên lại
lúng túng, trình bày không rõ ràng, khoa học dẫn đến việc đánh giá của Hội đồng khoa học
không cao.
Bảo vệ đề tài là khâu quan trọng mà các trường đặc biệt quan tâm khi đánh giá chất
lượng đề tài. Nhiều trường đã tổ chức bảo vệ đề tài một cách nghiêm túc để chọn ra những đề
tài thật sự giá trị. Tuy nhiên, một số trường lại không xem trọng khâu này và tổ chức bảo vệ đề
tài một cách sơ sài, hình thức, thậm chí bỏ qua bước bảo vệ đề tài.
Hầu hết sinh viên đều áp dụng quy trình nghiên cứu trên đây khi xây dựng đề tài. Đe
đảm bảo tính khoa học của hoạt động nghiên cứu, quy trình trên cần được tuân thủ một cách
chặt chẽ. Trong mỗi bước nghiên cứu, tùy theo từng đề tài và sự linh động của mỗi sinh viên
mà có thể có những cách thức thực hiện khác nhau. Những sinh viên nắm vững quy trình nghiên
cứu và phân bổ thời gian hợp lý cho từng bước sẽ có nhiều thuận lợi hơn trong quá trình thực
hiện đề tài. Đây là yếu tố góp phần không nhỏ cho sự thành công của đề tài NCKH sinh viên.
2.2. Tinh hình kết quả NCKH của sinh viên các trường đại học trên địa bàn thành
phố Hồ Chí Minh
2.2.1. Tinh thần, thái độ NCKH của sinh viên và mối quan hệ với cán bộ hướng dẫn
2.2.1.1. Tinh thần, thái độ NCKH của sinh viên
Hầu hết sinh viên khi bước chân vào trường đại học đều xác định mục tiêu học tập, rèn
luyện đúng đắn. Tinh thần thái độ học tập của sinh viên được thể hiện
22
qua quá trình phấn đấu tại trường và hoạt động NCKH là một lĩnh vực thể hiện rõ nét điều đó.
Phần lớn sinh viên yêu thích NCKH và tham gia nghiên cứu với niềm hăng say, thích
thú. Đây là yếu tố rất quan trọng góp phần tạo nên hiệu quả cao trong hoạt động NCKH. Két
quả điều tra xã hội học cho thấy có 69% sinh viên thích NCKH; 64,9% sinh viên NCKH để rèn
luyện khả năng tư duy và tìm hiểu sâu về lĩnh vực mình yêu thích. Như vậy, NCKH đã thu hút
được sự quan tâm của phần lớn sinh viên và nhiều sinh viên đã xác định được động cơ, mục
đích NCKH đúng đắn.
Sinh viên đã chủ động tìm tòi, nghiên cứu tài liệu, thu thập kiến thức từ những nguồn
khác nhau như trên sách, báo, Internet hay tham khảo các đề tài trước... để làm phong phú, tìm
ra cái mới, cái hay cho đề tài của mình. Nhiều sinh viên đã hăng hái đăng ký tham gia NCKH
khi nhà trường phát động, trong đó có những sinh viên đã nghiên cứu trong nhiều năm liền. Dù
còn gặp khó khăn trong quá trình nghiên cứu đề tài như cơ sở vật chất chưa tốt, hạn chế trong
việc lấy số liệu hoặc nguồn kinh phí hạn hẹp... nhưng đa số sinh viên đều cố gắng hoàn thành
đề tài đúng thời hạn và đạt kết quả tốt nhất.
Phần lớn sinh viên tham gia NCKH đều làm việc với một thái độ nghiêm túc và quyết
tâm cao. Sinh viên thường xuyên chủ động liên hệ với cán bộ hướng dẫn, tìm hiểu cách tiến
hành đề tài, tiếp thu sự chỉ dẫn của cán bộ hướng dẫn để hoàn thiện đề tài của mình. Có những
sinh viên quyết tâm xây dựng một đề tài chất lượng, hướng đến những giải thưởng cao hơn nên
đã tích cực nghiên cứu ngay sau khi nhận được đề tài, chuẩn bị và đầu tư cho đề tài một cách
kỹ lưỡng. Con số này chiếm 25,5% số lượng sinh viên được điều tra.
Bên cạnh đó, còn một bộ phận sinh viên không có ý định tham gia NCKH. Theo kết
quả khảo sát đối với gần 300 sinh viên các trường đại học ở thành phố Hồ Chí Minh chưa từng
NCKH thì có đến 63% sinh viên trả lời không có ý định NCKH trong thời gian học tập tại
trường, chủ yếu là những sinh viên năm thứ ba và năm thứ tư. Trong số đó có 46,9% sinh viên
trả lời không thật sự quan tâm đến hoạt
23
động này. Kết quả khảo sát cho thấy sinh viên trường Đại học Ngân hàng ít quan tâm đến hoạt
động NCKH của sinh viên nhất, tiếp theo là trường Đại học Nông lâm và Đại học Luật (xem
phụ lục 3). Điều đó cho thấy trong mỗi trường đại học vẫn còn nhiều sinh viên chưa thấy được
lợi ích của NCKH, dẫn tới có thái độ hời hợt đối với hoạt động NCKH.
Không phải tất cả những sinh viên khi đãng ký tham gia nghiên cứu đều có thái độ tích
cực với công trình nghiên cứu của mình. Sinh viên không hứng thú với đề tài mình nghiên cứu
do không chọn được đề tài yêu thích hay gặp phải những khó khăn trong quá trình nghiên cứu
như có quá nhiều số liệu phải tìm, đề tài không có ý nghĩa thực tiễn hoặc sinh viên mới nghiên
cứu lần đầu nên không biết cách làm đề tài nghiên cứu... Những điều này ảnh hưởng đến chất
lượng đề tài của sinh viên, khiến cho sinh viên không muốn đầu tư cho đề tài của mình. Ngoài
ra, sinh viên vẫn chưa chủ động sắp xếp thời gian một cách tốt nhất để thực hiện đề tài dẫn đến
tình trạng phải gấp rút hoàn thành đề tài trong một thời gian ngắn. Kết quả khảo sát tại một số
trường cho thấy có đến 84,6% sinh viên không tích cực nghiên cứu ngay khi nhận được đề tài,
trong số đó có đến 16,8% sinh viên chỉ bắt đầu xử lý số liệu và tiến hành viết bản thảo khi đã
gần hết thời gian. Cũng theo kết quả khảo sát, có đến 27,2% sinh viên trong suốt quá trình
nghiên cứu chỉ gặp gỡ cán bộ hướng dẫn để trao đổi về đề tài dưới năm lần. Điều này phản ánh
thái độ chưa tích cực của sinh viên với đề tài mình nghiên cứu... Như vậy, một bộ phận sinh
viên vẫn lười tư duy nghiên cứu, tham gia NCKH với mục đích chưa rõ ràng, làm sai lệch giá
trị của một lĩnh vực quan trọng và hữu ích.
Trong bất kỳ hoạt động nào, động lực bên trong thôi thúc người thực hiện luôn là yéu
tố quan trọng ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng, hiệu quả công việc. Tuy nhiên, đối với một bộ
phận sinh viên ở các trường đại học, hoạt động NCKH vẫn chưa thực sự trở thành động lực.
NCKH là một hoạt động mang ý nghĩa thực tiễn cao. Tuy nhiên, trái với mục đích mà
ngành giáo dục muốn hướng đến đối với hoạt động này thì có đến 45% sinh viên NCKH chỉ để
được cộng điểm học tập, tính điểm phong trào hay có cơ hội
24
nhận học bổng... chứ không phải để tìm hiểu sâu thêm lĩnh vực mình yêu thích, nâng cao khả
năng tư duy bản thân... Qua khảo sát, sinh viên trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn
chiếm tỷ lệ NCKH không đúng mục đích cao nhất (xem phụ lục 4). Thực trạng trên cho thấy
vẫn còn một bộ phận sinh viên có nhận thức chưa đúng về hoạt động NCKH dẫn tới không có
động lực để tích cực nghiên cứu. Điều này chính là kết quả của việc tuyên truyền kém hiệu quả
về hoạt động NCKH trong suốt thời gian qua.
Như vậy, đa số sinh viên khi tham gia NCKH đều xác định được động cơ và mục đích
đúng đắn: muốn tìm hiểu sâu về lĩnh vực yêu thích, muốn nâng cao khả năng tư duy của bản
thân hoặc để biết cách nghiên cứu một đề tài khoa học. Từ đó, sinh viên đã chủ động tìm tòi,
nghiên cứu, phát huy khả năng, quyết tâm xây dựng một đề tài chất lượng. Bên cạnh đó, vẫn
còn một bộ phận sinh viên chưa thực sự quan tâm đến lĩnh vực này hoặc nhận thức không đúng
đắn về ý nghĩa của hoạt động NCKH, có thái độ chưa tích cực khi tham gia nghiên cứu. Tuy
nhiên, qua hàng năm, hoạt động NCKH ở các trường đại học trên địa bàn thành phố Hồ Chí
Minh vẫn đảm bảo về số lượng sinh viên tham gia và chất lượng đề tài nghiên cứu, thậm chí số
lượng sinh viên tham gia NCKH ngày càng tăng và càng có nhiều đề tài chất lượng.
2.2.1.2. Moi quan hệ giữa sinh viên với cán bộ hướng dẫn
Trong hoạt động NCKH của sinh viên, bản thân sinh viên và cán bộ hướng dẫn vừa là
hai chủ thể tham gia vào quá ưình nghiên cứu, vừa là hai nhân tố vô cùng quan trọng quyết định
chất lượng đề tài. Mối quan hệ giữa sinh viên và cán bộ hướng dẫn được đánh giá qua số lần
tiếp xúc giữa cán bộ hướng dẫn và sinh viên. Theo két quả điều tra xã hội học, trong suốt thời
gian nghiên cứu và thực hiện đề tài, số lần tiếp xúc giữa nhóm nghiên cứu và cán bộ hướng dẫn
được thống kê như sau: dưới 05 lần: 27,1%; từ 05 lần đén 10 lần: 36,4%; trên 10 lần: 36,5%.
Những con số này cho thấy sự trao đổi giữa sinh viên và cán bộ hướng dẫn chỉ ở mức trên trung
bình. Thậm chí có trường hợp từ khi được duyệt đề cương nghiên cứu, sinh viên không hề liên
lạc với cán bộ hướng dẫn cho đến khi hoàn thành đề tài (gần hết
25
thời gian quy định) mới in và nộp đề tài, khiến cán bộ hướng dẫn không thể góp ý, sửa chữa
được vì không còn đủ thời gian.
về phía cán bộ hướng dẫn, qua khảo sát có 33% sinh viên đánh giá nhiệt tình trong quá
trình làm việc; 53,5% sinh viên đánh giá bình thường; 13,5% sinh viên đánh giá chưa nhiệt tình.
Điều đó cho thấy vẫn còn một số cán bộ hướng dẫn chưa tận tâm với công việc được giao. Trên
thực tế, bên canh những cán bộ, giảng viên rất nhiệt tình với quá trình nghiên cứu của sinh viên
thì vẫn có những cán bộ, giảng viên không quan tâm đến đề cương nghiên cứu hoặc tiến độ
nghiên cứu của sinh viên. Đen khi sinh viên nộp đề tài xin ý kiến thì cán bộ, giảng viên điều
chỉnh cả cấu trúc đề tài lẫn bổ sung nội dung mới khiến nhiều nhóm sinh viên bị động, lúng
túng vì thời gian nghiên cứu không còn nhiều.
Có thể nói, để xây dựng được một đề tài chất lượng thì chỉ với bản thân sinh viên là
chưa đủ, mà sự giúp đỡ của cán bộ hướng dẫn cũng đóng một vai trò rất quan trọng. Hầu hết
sinh viên đều ý thức được điều này và luôn tiếp thu sự hướng dẫn, chỉ bảo của cán bộ hướng
dẫn một cách nghiêm túc. Trong mối quan hệ giữa sinh viên và cán bộ hướng dẫn thì sinh viên
là người phụ thuộc. Do vậy, sự nhiệt tình của cán bộ hướng dẫn sẽ là một yếu tố tác động không
nhỏ đến kết quả nghiên cứu của sinh viên. Nếu phát huy tốt mối quan hệ giữa sinh viên và cán
bộ hướng dẫn thì hoạt động NCKH của sinh viên sẽ được nâng lên một tầm cao mới.
2.2.2. Phương pháp NCKH của sinh viên
Tất cả các đề tài đều dựa trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng của chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, những quan điểm của Đảng và nhà nước trong quá trình
nghiên cứu. Trên cơ sở đó, các đề tài thường sử dụng những phương pháp nghiên cứu cụ thể
sau:
2.2.2.1. Phương pháp nghiên cứu tài liệu
* Thu thập tài liệu
Bước đầu tiên của phương pháp nghiên cứu tài liệu chính là việc thu thập tài liệu, đây
là một yêu cầu thiết yếu. về nguồn tài liệu, sinh viên có thể nghiên cứu