Tải bản đầy đủ (.pdf) (20 trang)

VẤN ĐỀ QUYỀN CON NGƯỜI TRONG PHÁP LUẬT QUỐC TẾ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (968.4 KB, 20 trang )

BỘ GIÁO DỤC ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
KHOA LUẬT QUỐC TẾ
----

TIỂU LUẬN
Đề tài:
VẤN ĐỀ QUYỀN CON NGƯỜI TRONG
PHÁP LUẬT QUỐC TẾ

LỚP: 39 – QT38A.2

Thành viên:
1.

Huỳnh Ngọc Linh

135380101.5127

2.

Mai Thị Khánh Linh

135380101.5129

3.

Nguyễn Trần Trúc Linh

135380101.5133


4.

Phạm Ngọc Linh

135380101.5134

5.

Lê Thị Bích Loan

135380101.5135

6.

Nguyễn Hùng Lĩnh

1155050121


VẤN ĐỀ QUYỀN CON NGƯỜI TRONG PHÁP LUẬT QUỐC TẾ | 39-QT38A2

MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU .................................................................................................................................... 2
I.

KHÁI NIỆM................................................................................................................................ 3
1. Định nghĩa ................................................................................................................................ 3
2. Các nguyên tắc của Luật quốc tế về quyền con người ............................................................. 3
3. Nguồn của Luật quốc tế về quyền con người ........................................................................... 4


II. QUYỀN CƠ BẢN CỦA CON NGƯỜI TRONG LUẬT QUỐC TẾ ....................................... 6
1. Khái niệm Quyền con người ..................................................................................................... 6
2. Các thế hệ Quyền con người..................................................................................................... 7
3. Các quyền và tự do cụ thể trong luật nhân quyền quốc tế ........................................................ 8
III. CƠ CHẾ BẢO VỆ VÀ THÚC ĐẨY QUYỀN CON NGƯỜI TRONG LUẬT QUỐC TẾ ... 8
1. Cấp độ Quốc tế - Các cơ chế của Liên hợp quốc về bảo vệ và thúc đẩy quyền con người ..... 9
2. Cấp độ khu vực ......................................................................................................................... 11
3. Cấp độ quốc gia ........................................................................................................................ 12
IV. THỰC THI NGHĨA VỤ THÀNH VIÊN CÁC ĐIỀU ƯỚC QUỐC TẾ VỀ QUYỀN CON
NGƯỜI CỦA CÁC QUỐC GIA .............................................................................................. 14
1. Các nghĩa vụ bắt buộc của quốc gia ......................................................................................... 14
2. Các nghĩa vụ mang tính chất khuyến nghị của quốc gia .......................................................... 15
V. PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ QUYỀN CON NGƯỜI ............................................................ 15
1. Các văn kiện quốc tế về quyền con người mà Việt Nam đã tham gia ...................................... 15
2. Pháp luật Việt Nam về quyền con người .................................................................................. 15
KẾT LUẬN ......................................................................................................................................... 17
PHỤ LỤC ............................................................................................................................................ 18

2


VẤN ĐỀ QUYỀN CON NGƯỜI TRONG PHÁP LUẬT QUỐC TẾ | 39-QT38A2

LỜI MỞ ĐẦU
Trong tương quan với Luật pháp Quốc gia, Luật Quốc tế hình thành, tồn tại và phát triển
muộn hơn, xuất phát từ sự nảy sinh nhu cầu liên kết, hợp tác nhằm thiết lập các quan hệ giữa các
quốc gia để giải quyết các vấn đề liên quan như phân định lãnh thổ, biên giới, thiết lập quan hệ
buôn bán, trao đổi hàng hóa, quan hệ ngoại giao giải quyết các vấn đề về chiến tranh, hoà
bình….Tuy nhiên bất chấp sự non trẻ đó, Luật Quốc tế đã và đang ngày một khẳng định vị thế quan
trọng của mình trong tiến trình duy trì hòa bình, ổn định và phát triển của thế giới. Trước tình hình

ngày một nóng lên của chính trị toàn cầu - vấn đề vô cùng bức thiết và nan giải, thì không có một
quy tắc nào khác ngoài luật quốc tế có khả năng đứng ra giải quyết, làm dịu bớt những căng thẳng
đó. Nhận thức được tầm quan trọng của hệ thống pháp luật này, các quốc gia trên thế giới luôn rất
lưu tâm, không ngừng hoàn thiện, bổ sung, sửa đổi, kí kết để tăng tính hiệu quả trong điều chỉnh
của Luật Quốc tế.
Manh nha từ thời kỳ chiếm hữu nô lệ, trải qua hàng nghìn năm lịch sử, cho đến ngày nay,
trong thế kỷ 21 đầy những biến động, hệ thống Luật Quốc tế ngày càng mở rộng và bao quát rất
nhiều vấn đề mà tính bức thiết của chúng là không cần phải bàn cãi. Cùng với sự phát triển nhanh
chóng của quá trình quốc tế hóa nhanh chóng mọi mặt của đời sống xã hội, số lượng tổ chức quốc tế
liên chính phủ ngày càng tăng, làm cho luật quốc tế luôn có chủ thể mới. Hiện nay, trên toàn thế
giới có trên 300 tổ chức quốc tế liên chính phủ được thành lập và hoạt động trong các lĩnh vực khác
nhau như Liên hợp quốc, tổ chức thương mại thế giới WTO, Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á –
ASEAN, Liên minh châu Âu-EU…thông qua các cơ quan tổ chức này, mối gắn kết thế giới được
điều chỉnh và từ đó các cơ sở cho việc giải quyết các vấn đề quốc tế được củng cố. Thực tiễn là
bằng chứng trực quan sinh động nhất cho điều này. Như vậy, bất cứ một quan hệ quốc tế, một xung
đột hay tranh chấp nào cũng cần được đặt ra để pháp luật quốc tế điều chỉnh hoặc tạm thời hoặc
triệt để.
Từ nhận thức trên, xem xét vào bối cảnh hiện nay, một trong những điểm nóng gây nên bất ổn
trên toàn thế giới cần được quan tâm và cần thiết được giải quyết một cách triệt để chính là quyền
con người. Đây là vấn đề không còn mới mẻ nhưng vẫn luôn là tâm điểm, được nhấn mạnh trong
suốt các chương trình nghị sự của Liên hợp quốc và là sự quan tâm hàng đầu của cộng đồng thế
giới. Với diễn biến gay gắt của tình hình chiến sự ở nhiều khu vực trên thế giới hiện nay đã gây rất
nhiều nhức nhối cho cộng đồng, đưa đến một câu hỏi liệu quyền con người có đang được bảo đảm
hay đang bị xâm hại trầm trọng. Dường như, quyền con người đang gây rất nhiều tranh cãi cho quốc
tế, xung đột này dẫn đến những vấn đề mới ngày càng phức tạp, trở ngại cho việc giải quyết. Chính
vì vậy, thiết nghĩ, cần nghiên cứu, tìm hiểu một cách toàn diện hơn về Quyền con người, đặc biệt là
quyền con người trong luật Quốc tế để thấy rõ chức năng, tính điều chỉnh của Luật Quốc tế.
Xuất phát từ mục tiêu này, chúng ta sẽ lần lượt đi làm sáng tỏ những vấn đề sau:
(1) Khái niệm Luật Quốc tế vầ quyền con người và các nguyên tắc của Luật Quốc tế về quyền
con người;

(2) Các quyền cơ bản của con người trong Luật Quốc tế;
(3) Cơ chế bảo vệ và phát triển quyền con người trong Luật Quốc tế;
(4) Thực thi nghĩa vụ thành viên trong các Điều ước quốc tế về quyền con người của các quốc
gia;
(5) Liên hệ thực tế trong pháp luật Việt Nam.

3


VẤN ĐỀ QUYỀN CON NGƯỜI TRONG PHÁP LUẬT QUỐC TẾ | 39-QT38A2

Với việc nghiên cứu lần lượt các vấn đề trên, chúng ta sẽ phần nào nắm bắt sâu sắc hơn
quyền con người mà chính chúng ta cũng là những chủ thể được thụ hưởng, đồng thời có cái nhìn
thấu đáo toàn diện đối với vấn đề quyền con người trong giai đoạn hiện nay ở Việt Nam cũng như
trên thế giới, thấy được những động thái của pháp luật quốc gia và quốc tế để giải quyết vấn đề này.
I.

KHÁI NIỆM
1. Định nghĩa

Quyền con người hay còn gọi là nhân quyền, là một khái niệm có nguồn gốc từ thời Hy Lạp
dưới dạng các quyền tự nhiên của con người như quyền được sống, quyền được có tài sản riêng,
v.v.
Quyền con người là một phạm trù đa diện, do đó có nhiều định nghĩa khác nhau. Mỗi định
nghĩa tiếp cận vấn đề từ một góc độ nhất định, chỉ ra những thuộc tính nhất định, nhưng không định
nghĩa nào bao hàm hết tất cả các thuộc tính của quyền con người. Theo định nghĩa về quyền con
người của Văn phòng Cao ủy Liên hiệp quốc thì quyền con người là những bảo đảm pháp lý toàn
cầu có tác dụng bảo vệ các cá nhân và các nhóm chống lại những hành động hoặc sự bỏ mặc mà
làm tổn hại đến nhân phẩm, những sự cho phép và tự do cơ bản của con người.
Đối với khuynh hướng xem quyền con người là quyền tự nhiên, có từ thời cổ đại thì quyền

con người là tất cả những sự cho phép mà tất cả thành viên của cộng đồng nhân loại, không phân
biệt giới tính, chủng tộc, tôn giáo, địa vị xã hội v.v. đều có ngay từ khi sinh ra, đơn giản vì họ là
người. Đây là thuyết vẫn được sử dụng nhiều cho đến ngày nay.
Bên cạnh khuynh hướng xem quyền con người là quyền tự nhiên thì hiện nay vẫn còn tồn tại
một số học thuyết khác có định nghĩa về quyền con người không thống nhất. Khuynh hướng thực
định thì cho rằng, quyền con người là tất cả những gì mà nhà nước thông qua pháp luật để quy định
cho cá nhân và do vậy, tất cả những gì mà pháp luật cho phép tự do làm hay không làm thì mới là
quyền con người. Khuynh hướng “kinh tế” thì xem quyền con người là những quyền nảy sinh từ
nhu cầu sản xuất, kinh doanh hay nói cách khác thì quyền con người có nguồn gốc từ kinh tế, chính
đời sống kinh tế của con người trao cho con người các quyền. Còn khuynh hướng “quan niệm” thì
cho rằng quyền con người là tất cả những gì con người cho là cần thiết và có giá trị đối với cuộc
sống con người như quyền lợi, nhu cầu, lợi ích và tất cả những giá trị tinh thần đều có thể trở thành
quyền con người. Hay nói một cách đơn giản thì có thể nói gọn lại, nhân quyền tồn tại, phát triển tự
do và bình đẳng.
Ở Việt Nam, một số định nghĩa về quyền con người cũng không thống nhất nhưng nhìn chung
thì quyền con người được hiểu là những nhu cầu, lợi ích tự nhiên vốn có và khách quan của con
người được ghi nhận và bảo vệ trong pháp luật quốc gia và các điều ước quốc tế.
Tóm lại, tuy có nhiều định nghĩa, quan điểm khác nhau về quyền con người nhưng nhìn chung
thì quyền con người chứa đựng những yếu tố khách quan và chủ quan, tự nhiên và xã hội, kinh tế,
văn hóa và chính trị, đạo lý và luật pháp. Đó là sự kết hợp giữa các yếu tố dân tộc và quốc tế, giai
cấp và nhân loại. Khi xem xét quyền con người cần phải đặt trong một không gian và thời gian nhất
định để có được cái nhìn khách quan nhất về quyền con người.
2. Các nguyên tắc của Luật quốc tế về quyền con người
a) Nguyên tắc dân tộc tự quyết
Luật quốc tế về quyền con người thừa nhận về mặt pháp lý các giá trị tự nhiên, xã hội và nhân
loại của quyền con người, trong đó giá trị nhân loại của quyền con người với tư cách là quyền tập
thể chính là độc lập, chủ quyền, bình đẳng giữa các dân tộc. Nói cách khác, quyền con người cơ bản
là sự gắn kết của quyền cá nhân và quyền tập thể. Chính vì vậy, trong quan hệ quốc tế, tôn trọng
quyền tự quyết của mỗi dân tộc có ý nghĩa là sự tôn trọng các chuẩn mực quốc tế về quyền con
4



VẤN ĐỀ QUYỀN CON NGƯỜI TRONG PHÁP LUẬT QUỐC TẾ | 39-QT38A2

người nhằm mục đích bảo vệ chủ quyền và lợi ích quốc gia, dân tộc. Đây cũng chính là cơ sở của
hòa bình và an ninh quốc tế, của hợp tác và phát triển trong xu thế toàn cầu hóa, khu vực hóa.
Nguyên tắc nêu trên của luật quốc tế về quyền con người thể hiện xu thế của thời đại là phát triển
quyền con người gắn với hòa bình, độc lập dân tộc, an ninh, dân chủ và tiến bộ xã hội. Nhiều văn
bản pháp lý quốc tế đã ghi nhận nội dung của nguyên tắc này thông qua các quyền dân tộc cơ bản
như quyền độc lập dân tộc, quyền được phát triển, chủ quyền vĩnh viễn đối với tài nguyên thiên
nhiên, quyền được sống trong hòa bình, an ninh và môi trường trong sạch… của từng dân tộc.
b) Nguyên tắc các quốc gia có nghĩa vụ tôn trọng các quyền cơ bản của con người và hợp tác
quốc tế trong việc bảo vệ, phát triển quyền con người
Nguyên tắc này của luật quốc tế về quyền con người xuất phát từ các đặc trưng mang tính
khách quan hóa, tính xã hội hóa, tính quốc tế hóa và tính quy phạm hóa của quyền con người. Đối
với việc bảo vệ và phát triển quyền con người, đây là một trong những điều kiện để xây dựng hòa
bình và an ninh quốc tế đồng thời là căn cứ để xác định trách nhiệm riêng biệt của quốc gia đối với
các vấn đề về quyền con người, nảy sinh trong nội bộ từng quốc gia cũng như trong quan hệ hợp tác
quốc tế về quyền con người. Mặt khác, thực hiện nguyên tắc trên sẽ tạo ra giới hạn cần thiết cho
hành động của mỗi quốc gia trong lĩnh vực quyền con người theo hướng vừa đảm bảo tính hiệu quả
của quan hệ hợp tác quốc tế về nhân quyền, vừa không xâm phạm tới chủ quyền của quốc gia, dân
tộc khác.
c) Nguyên tắc bình đẳng và không phân biệt đối xử
Tất cả các quốc gia đều bình đẳng về chủ quyền. Các quốc gia bình đẳng về quyền và nghĩa
vụ và là những thành viên bình đẳng của cộng đồng quốc tế, bất chấp sự khác biệt về chế độ kinh tế,
chính trị và xã hội.
3. Nguồn của Luật quốc tế về quyền con người
a) Các công ước quốc tế phổ cập về quyền con người
Đây là các công ước quốc tế có tính chất chuyên môn, được ký kết trong khuôn khổ các tổ
chức quốc tế hoặc quan hệ hợp tác đa phương giữa các quốc gia về các vấn đề liên quan đến lĩnh

vực quyền con người. Các công ước này có đặc điểm:
* Thường xác định rõ ràng các mục tiêu hành động như mục tiêu về hòa bình, an ninh, phát
triển, tự do, bình đẳng,… Đặc điểm này của những điều ước như trên là cơ sở để cộng đồng quốc tế
thực hiện sự kiểm soát cần thiết đối với việc thực thi nghĩa vụ thành viên của mỗi quốc gia. Mặc dù
trong nội dung của từng công ước có thể chấp nhận những hạn chế nhất định đối với việc thực hiện
một nghĩa vụ nào đó của quốc gia về quyền con người nhưng những hạn chế này phải được thông
báo theo cơ chế quy định và không được xuất phát từ sự phân biệt sắc tộc, tôn giáo, quốc tịch, giới
tính, ngôn ngữ hoặc địa vị xã hội. Tương tự, cũng có những nghĩa vụ liên quan đến một số lĩnh vực
mà quốc gia không được phép hạn chế việc thực hiện nó, dù với lý do nào. Ví dụ, nghĩa vụ của quốc
gia đối với việc bảo đảm quyền không bị bắt làm nô lệ và quyền được thừa nhận như một con người
của công dân trước pháp luật, hay nghĩa vụ hợp tác quốc tế trong bảo vệ, phát triển quyền con người
trong cộng đồng quốc tế.
* Có sự tác động của các tổ chức quốc tế đến sự hình thành và thực hiện các công ước này.
Có thể nhận thấy rõ điều này qua sự định hình những khái niệm, chuẩn mực và tiêu chí pháp lý
quốc tế về quyền con người trong những nghị quyết của tổ chức quốc tế. Trên thực tế, nhiều chuẩn
mực hay tiêu chí về lĩnh vực quyền con người đã được các quốc gia thừa nhận và thực thi theo tinh
thần nghị quyết của các tổ chức quốc tế trước khi được thỏa thuận trong nội dung của một công ước
cụ thể. Ví dụ, việc thực hiện tiêu chí trong Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền, năm 1938. Trong
lĩnh vực quyền con người, các công ước quốc tế phổ cập có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc
bảo vệ và phát triển quyền con người, trong đó những văn bản sau có giá trị đặc biệt quan trọng:
5


VẤN ĐỀ QUYỀN CON NGƯỜI TRONG PHÁP LUẬT QUỐC TẾ | 39-QT38A2

- Hiến chương Liên hợp quốc
Hiến chương Liên hợp quốc được Liên hợp quốc thông qua ngay sau khi Chiến tranh thế giới
thứ hai kết thúc vào năm 1945. Đây là văn bản quốc tế rất quan trọng, cơ bản và là văn bản quốc tế
đầu tiên trải qua hơn 60 năm thử thách vẫn giữ nguyên giá trị pháp lý và các ý nghĩa xã hội, trong
đó có các điều khoản về bảo vệ và thực hiện “quyền con người cho tất cả mọi người” (human rights

for all). Hiến chương đã đặt nền móng đầu tiên cho việc thiết lập một cơ chế pháp lý quốc tế về bảo
vệ và thúc đẩy các quyền con người trên thế giới. Lời mở đầu của Hiến chương khẳng định: “tin
tưởng vào những quyền cơ bản, nhân phẩm và giá trị của con người, vào quyền bình đẳng nam nữ,
vào quyền bình đẳng giữa các nước lớn và nhỏ”. Điều 3 kêu gọi các quốc gia “thúc đẩy và khuyến
khích sự tôn trọng quyền con người và các quyền tự do cơ bản cho tất cả mọi người mà không phân
biệt chủng tộc, giới tính, ngôn ngữ hay tôn giáo”. Hiến chương kêu gọi tất cả các nước hành động
phối hợp với Liên hợp quốc để đạt được việc tôn trọng và thực hiện quyền con người trên toàn thế
giới.
- Các công ước về quyền dân sự và chính trị 1966 và Công ước về các quyền kinh tế, xã
hội và văn hóa 1966 của Liên hợp quốc
Các nhóm quyền con người cơ bản là dân sự, chính trị, kinh tế, xã hội và văn hoá được xác
định cụ thể trong Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị năm 1966 (the International
Covenant on Civil and Political Rights) và Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội và văn
hoá năm 1966 (the International Covenant on Economic, Social and Cultural Rights) được Đại hội
đồng Liên hợp quốc thông qua ngày 16-12-1966. Đây là hai công ước bao quát về cơ bản nội dung
các quyền và tự do chủ yếu của con người từ góc độ khoa học và pháp lý quốc tế. Các nghĩa vụ của
quốc gia thành viên vì vậy cũng được xác định và nhìn nhận với tính chất vừa tổng quát, vừa cụ thể,
vừa ở phạm vi quốc gia, vừa ở phạm vi quốc tế. Đây là những thoả thuận về quyền con người đầu
tiên của Liên hợp quốc có tính chất ràng buộc chặt chẽ mang tính pháp lý dưới hình thức công ước những trụ cột đầu tiên của pháp luật quốc tế về quyền con người.
Có ba điểm chung giữa hai công ước này là:
+ Quyền tự quyết dân tộc (dẫn tới việc phi thực dân hoá và nhiều quốc gia được độc lập rồi
trở thành thành viên Liên hợp quốc).
+ Nguyên tắc bình đẳng nam nữ và không phân biệt đối xử trên cơ sở giới tính, sắc tộc, chủng
tộc, mầu da, tín ngưỡng...
+ Nguyên tắc không tách rời mà gắn nối, liên kết giữa 5 nhóm quyền.
Hai công ước này và hai nghị định thư bổ sung là Nghị định thư không bắt buộc thứ nhất của
Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị năm 1966 (the First Optional Protocol to the
International Covenant on Civil and Political Rights) và Nghị định thư không bắt buộc thứ hai của
Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị nhằm xoá bỏ án tử hình năm 1989 (the Second
Optional Protocol to the International Covenant on Civil and Political Rights, aiming at the

Abolition of the Death Penalty) cùng Tuyên ngôn thế giới về quyền con người tạo thành bộ luật
quốc tế về quyền con người.
b) Các công ước điều chỉnh chuyên biệt
Loại công ước điều chỉnh chuyên biệt như Công ước về xóa bỏ tất cả các hình thức phân biệt
đối xử với phụ nữ 1970 (CEDEW), Công ước về quyền trẻ em 1989,… hướng đến các đối tượng
đặc thù trong xã hội, cần một sự bảo vệ đặc biệt, ngoài các yêu cầu chung với tính chất là các nhóm
quyền của nhân loại mà các Công ước 1966 đã bảo hộ.
Ngoài các văn kiện pháp lý quốc tế trên, trong lĩnh vực quyền con người, từ năm 1948 đến
nay, Tuyên ngôn thế giới về quyền con người đã được sử dụng làm nền tảng cơ sở cho việc xây
dựng và thông qua hàng loạt các công ước khác về quyền con người của Liên hợp quốc về cấm và
6


VẤN ĐỀ QUYỀN CON NGƯỜI TRONG PHÁP LUẬT QUỐC TẾ | 39-QT38A2

trừng trị những tội ác chống loài người như Công ước về trấn áp và trừng trị tội diệt chủng năm
1948 (the Convention on the Prevention and Punishment of the Crime of Genocide), Công ước quốc
tế về xóa bỏ tất cả các hình thức phân biệt chủng tộc năm 1965 (the International Convention on the
Elimination of All Forms of Racial Discrimination), Nghị đinh thư về sửa đổi Công ước về chế độ
nô lệ năm 1953 (the Protocol amending the Slavery Convention), Công ước về trấn áp việc buôn
người và bóc lột mại dâm người khác năm 1949 (theConvention for the Suppression of the Traffic
in Persons and of the Exploitation of the Prostitution of Others), Công ước bổ xung về xoá bỏ chế
độ nô lệ, buôn bán nô lệ và các thể chế, tập tục tương tự như chế độ nô lệ năm 1956 (the
Supplementary Convention on the Abolition of Slavery, the Slave Trade, and Institutions and
Practices Similar to Slavery), Công ước về chống tra tấn và những hành động đối xử hoặc trừng
phạt mang tính độc ác, vô nhân đạo hay hạ nhục năm 1984 (Convention against Torture and Other
Cruel, Inhuman or Degrading Treatment or Punishment)...
Liên hợp quốc cũng đã thông qua những công ước và nghị định thư về bảo vệ quyền con
người của những nhóm dân cư dễ bị tổn thương, lạm dụng và bóc lột mà cơ bản nhất gồm Công ước
về vị thế người tị nạn năm 1951 (the Convention relating to the Status of Refugees), Công ước về

xóa bỏ tất cả các hình thức phân biệt đối xử chống lại phụ nữ năm 1979 (the Convention on the
Elimination of All Forms of Discrimination against Women), Công ước về quyền trẻ em năm 1989
(the Convention on the Rights of the Child), Công ước quốc tế về bảo vệ các quyền của tất cả người
lao động di cư và thành viên gia đình của họ năm 1990 (theInternational Convention on the
Protection of the Rights of All Migrant Workers and Members of Their Families), Công ước về
quyền của người tàn tật năm 2006 (the Convention on the Rights of Persons with Disabilities)...
Ngoài ra, Liên hợp quốc đã thông qua hàng trăm văn kiện khác gồm các tuyên bố, tuyên
ngôn, quy ước đạo đức, quy tắc, nguyên tắc...liên quan đến việc bảo vệ và thực hiện quyền con
người.
Một số khu vực cũng đã có những thoả thuận có tính chất ràng buộc pháp lý như Công ước
châu Âu về quyền con người năm 1950 (the European Convention on Human Rights), Công ước
châu Mỹ về quyền con người năm 1969 (the American Convention on Human Rights), Hiến
chương châu Phi về quyền con người và quyền của các dân tộc năm 1981 (the African Charter on
Human and People’s Rights), Hiến chương Ả rập về quyền con người năm 1994 (the Arab Charter
of Human Rights)...Hiện khu vực châu Á chưa có một văn bản pháp lý tương tự.

II.

QUYỀN CƠ BẢN CỦA CON NGƯỜI TRONG LUẬT QUỐC TẾ
1. Khái niệm

Có rất nhiều định nghĩa về quyền con người (nhân quyền), mỗi định nghĩa là một sự biểu hiện
khác nhau ở góc độ nhìn nhận về vấn đề nhân quyền. Tuy nhiên, tổng hợp lại có thể chia thành ba
nhóm quan niệm chủ yếu về quyền con người như sau:
- Quan niệm thứ nhất: Bắt nguồn từ chỗ coi con người là một thực thể tự nhiên, nên quyền
con người phải là quyền "bẩm sinh", là "đặc quyền", nghĩa là quyền con người, quyền lợi của con
người với tư cách là người, gắn liền với cá nhân con người, không thể tách rời.
- Quan niệm thứ hai: Trái với quan niệm thứ nhất, quan niệm này lại chỉ đặt con người và
quyền con người trong mối quan hệ xã hội. Quan niệm này cho rằng, con người chỉ là một thực thể
xã hội, nên quyền của nó chỉ được xác định trong mối tương quan với các thực thể xã hội khác và vì

là quan hệ xã hội nên nó được chế độ nhà nước, pháp luật điều chỉnh bảo vệ.
- Quan niệm thứ ba: Quan niệm của chủ nghĩa Mác - Lênin về vấn đề quyền con người. Xuất
phát từ quan niệm coi con người vừa là sản phẩm tự nhiên, vừa là sản phẩm của xã hội, chủ nghĩa
Mác - Lênin cho rằng vấn đề quyền con người: "Về bản chất bao hàm cả hai mặt tự nhiên và xã hội"
7


VẤN ĐỀ QUYỀN CON NGƯỜI TRONG PHÁP LUẬT QUỐC TẾ | 39-QT38A2

Có một định nghĩa đang được sử dụng phổ biến trong giảng dạy, nghiên cứu về nhân quyền ở
nước ta hiện nay: "Nhân quyền (hay quyền con người) là những năng lực và nhu cầu vốn có và chỉ
có ở con người, với tư cách là thành viên cộng đồng nhân loại, được thể chế hóa bằng pháp luật
quốc gia và các thỏa thuận pháp lý quốc tế".
Như vậy, có thể hiểu quyền con người là một phạm trù tổng hợp, vừa là "chuẩn mực tuyệt
đối" mang tính phổ biến, vừa là "sản phẩm tổng hợp của một quá trình lịch sử lâu dài luôn luôn tiến
hóa và phát triển". Quyền con người "không thể tách rời", đồng thời cũng không hoàn toàn phụ
thuộc vào trình độ phát triển kinh tế - xã hội... Quyền con người là một tổng thể những quyền gắn
bó với nhau trong mối tương quan biện chứng, đó là quyền cá nhân và quyền của dân tộc cộng
đồng, quyền chính trị - dân sự và kinh tế văn hóa xã hội, quyền của cá nhân đi đôi với nghĩa vụ đối
với xã hội...
Có thể thấy, mặc dù cho đến nay vẫn còn tồn tại nhiều cách nhìn nhận khác nhau về quyền
con người, nhưng có một điều rõ ràng rằng quyền con người là những giá trị cao cả cần được tôn
trọng và bảo vệ trong mọi xã hội và mọi giai đoạn lịch sử. Trong thời đại ngày nay, quyền con
người không thể tách khỏi hòa bình, dân chủ và phát triển.
2. Các thế hệ quyền con người
Năm 1977, Karel Vasak đưa ra ý tưởng về ba “thế hệ nhân quyền“ (generations of human
rights) nhằm phân tích lịch sử phát triển của quyền con người.
Thế hệ thứ nhất, các quyền dân sự, chính trị: Thế hệ nhân quyền này hướng vào hai vấn đề
chính, đó là tự do và sự tham gia vào đời sống chính trị của các cá nhân. Nó bao gồm các quyền và
tự do cá nhân về phương diện dân sự và chính trị; tiêu biểu như quyền sống, quyền tự do tư tưởng,

tự do tôn giáo tín ngưỡng, tự do biểu đạt, quyền được bầu cử, ứng cử, quyền được xét xử công
bằng... Thế hệ nhân quyền này gắn liền với cuộc đấu tranh của giai cấp tư sản lật đổ chế độ phong
kiến. Những văn kiện pháp lý quốc tế tiêu biểu hiện nay đề cập đến thế hệ quyền này là Tuyên
ngôn toàn thế giới về quyền con người, 1948 (sau đây viết tắt là UDHR) và Công ước quốc tế về
các quyền dân sự, chính trị, 1966 (sau đây viết tắt là ICCPR).
Thế hệ thứ hai, các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa: Thế hệ nhân quyền này hướng vào việc
tạo lập những điều kiện và sự đối xử bình đẳng, công bằng cho mọi công dân trong xã hội. Chúng
được đề xướng và vận động từ cuối thế kỷ XIX, và bắt đầu được quan tâm bởi một số chính phủ kể
từ sau Chiến tranh thế giới I. Các quyền tiêu biểu thuộc về thế hệ quyền này bao gồm quyền có việc
làm, quyền được bảo trợ xã hội, quyền được chăm sóc y tế, quyền có nhà ở... Sự ra đời của nhà
nước xã hội chủ nghĩa đầu tiên (nước Nga Xô viết) vào năm 1917 và sau đó là hệ thống các nước xã
hội chủ nghĩa trên thế giới trong nửa sau thế kỷ XX đã góp phần thúc đẩy mạnh mẽ quá trình pháp
điển hóa thế hệ quyền này trong pháp luật quốc gia và quốc tế. Văn kiện pháp lý quốc tế tiêu biểu
nhất đề cập đến thế hệ quyền này là Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, văn hoá, xã hội, 1966
(sau đây viết tắt là ICESCR).
Thế hệ thứ ba, các quyền tập thể: Thế hệ quyền này bao gồm các quyền tập thể, tiêu biểu
như quyền tự quyết dân tộc (right to self‐determination); quyền phát triển (right to development);
quyền với các nguồn tài nguyên thiên nhiên (right to natural resources); quyền được sống trong hoà
bình (right to peace); quyền được sống trong môi trường trong lành (right to a healthy
environment)... Danh mục các quyền thuộc thế hệ quyền này vẫn đang được bổ sung, trong đó
những quyền được đề cập gần đây bao gồm: quyền được thông tin và các quyền về thông tin (right
to communicate; communication rights); quyền được hưởng thụ các giá trị văn hóa (right to
participation in cultural heritage). Những văn kiện pháp lý quốc tế tiêu biểu hiện nay đề cập đến thế
hệ quyền này là Tuyên ngôn về trao trả độc lập cho các quốc gia và dân tộc thuộc địa, 1960; Hai
công ước cơ bản về nhân quyền năm 1966 là ICCPR (Điều 1), ICESCR (Điều 1); Tuyên bố về
quyền của các dân tộc được sống trong hoà bình, 1984; Tuyên bố về quyền phát triển, 1986...
8


VẤN ĐỀ QUYỀN CON NGƯỜI TRONG PHÁP LUẬT QUỐC TẾ | 39-QT38A2


Ngoại trừ một số quyền như quyền tự quyết dân tộc, nhiều quyền trong thế hệ thứ ba chưa
được pháp điển hóa bằng các điều ước quốc tế, mà chủ yếu mới chỉ được đề cập trong các tuyên
bố, tuyên ngôn (các văn kiện luật mềm ‐ soft law). Vì vậy, tính pháp lý và tính hiện thực của hầu
hết các quyền trong thế hệ này hiện vẫn đang là chủ đề gây tranh cãi.
3. Các quyền và tự do cụ thể trong luật nhân quyền quốc tế
Luật nhân quyền quốc tế là tập hợp các tiêu chuẩn quốc tế về các quyền và tự do cơ bản của
mọi cá nhân và những quyền đặc thù áp dụng cho một nhóm xã hội dễ bị tổn thương. Do tính chất
rộng lớn của vấn đề và quy định tổng quát trong các văn kiện quốc tế về nhân quyền nên quan điểm
về số lượng (và kèm theo đó là tên gọi) của các quyền ít nhiều khác nhau; tùy nhiên, dưới đây là
danh mục những quyền tự do cơ bản của cá nhân đã được thừa nhận một cách rộng rãi. Danh mục
này được chia thành hai nhóm lớn là nhóm quyền dân sự, chính trị và nhóm quyền kinh tế, xã hội,
văn hóa:
* Nhóm quyền dân sự, chính trị
1)

Quyền sống;

2)
Quyền tự do và an ninh cá nhân (không bị bắt giữ, giam cầm tùy tiện, không bị bẳt
làm nô lệ, nô dịch hay bị cưỡng bức lao động);
3)

Quyền bình đẳng trước pháp luật và được pháp luật bảo vệ một cách bình đẳng;

4)

Quyền có quốc tịch;

5)


Quyền tự do lập hội, hội họp hòa bình, đi lại và cư trú;

6)

Quyền tự do tư tưởng, tín ngưỡng và tôn giáo;

7)

Quyền tự do ngôn luận và biểu đạt;

8)

Quyền được bầu cử, ứng cử và tham gia quản lý nhà nước;

9)

Quyền được bảo vệ đời tư;

10)

Quyền không bị tra tấn, đối xử tàn ác, vô nhân đạo hay hạ nhục;

11)

Quyền được xét xử công bằng;

* Nhóm quyền kinh tế, xã hội, văn hóa
1)


Quyền được bảo đảm điều kiện làm việc an toàn và công bằng;

2)

Quyền được hưởng mức độ sức khỏe cao nhất có thể đạt được;

3)

Quyền được học tập;

4)

Quyền có mức sống thích đáng;

5)
Quyền được tham gia đời sống văn hóa của cộng đồng và được hưởng thành quả
của các tiến bộ khoa học, công nghệ.

III.

CƠ CHẾ BẢO VỆ VÀ THÚC ĐẨY QUYỀN CON NGƯỜI TRONG LUẬT
QUỐC TẾ

Kể từ khi Liên hợp quốc ra đời (năm 1945) đến nay, một hệ thống đồ sộ các quyền con người,
cả quyền cá nhân và quyền tập thể đã được ghi nhận bởi pháp luật quốc gia và quốc tế. Tuy nhiên,
việc ghi nhận các quyền con người trong pháp luật là điều kiện cần nhưng chưa đủ. Điều kiện đủ là
9


VẤN ĐỀ QUYỀN CON NGƯỜI TRONG PHÁP LUẬT QUỐC TẾ | 39-QT38A2


phải có những biện pháp để bảo vệ các quyền khỏi bị vi phạm và thúc đẩy sự tôn trọng và thực hiện
các quyền trên thực tế.
Do các quyền con người rất phong phú và những vi phạm quyền rất đa dạng, được thực hiện
bởi nhiều loại chủ thể (nhà nước, các pháp nhân và cá nhân) nên việc bảo vệ và thúc đẩy quyền đòi
hỏi có sự tham gia của nhiều dạng chủ thể (cá nhân, cộng đồng, tổ chức phi chính phủ, cơ quan nhà
nước, tổ chức quốc tế…) thông qua nhiều biện pháp, từ phổ biến, giáo dục, nâng cao nhận thức cho
đến theo dõi, giám sát, và xử lý những hành vi vi phạm về quyền...
Các cơ chế bảo vệ và thúc đẩy quyền con người (Human Rights Mechanisms) gồm 3 cấp độ
cơ bản: Cấp độ Quốc tế (của Liên hợp quốc), cấp khu vực (châu Âu, châu Phi, Đông Nam Á,...)
và cấp quốc gia.
1. Cấp độ Quốc tế - Các cơ chế của Liên hợp quốc về bảo vệ và thúc đẩy quyền con
người:
Về cơ bản, cơ chế quốc tế về bảo vệ và thúc đẩy quyền con người được thể hiện ở bộ máy các
cơ quan và quy tắc, thủ tục về thúc đẩy, bảo vệ quyền con nguởi trong tổ chức Liên hợp quốc. Dựa
trên địa vị pháp lý, chức năng, nhiệm vụ và tổ chức bộ máy thì các cơ quan về quyền con người của
Liên hợp quốc được chia thành hai dạng: các cơ quan được thành lập theo (dựa trên) Hiến
chương (charter-based organ hoặc charter bodies) và các cơ quan được thành lập theo (hoặc
dựa trên) một số công ước quan trọng về quyền con người (treaty bodies). Một số tài liệu gọi hệ
thống các cơ quan và thủ tục này là cơ chế dựa trên Hiến chương (charter-based mechanism) và cơ
chế dựa trên công ước (treaty-based mechanism).
1.1.

Cơ chế dựa trên Hiến chương:

Do bảo vệ và thúc đẩy các quyền con người được xác định là một trong những mục tiêu cơ
bản của Liên hợp quốc nên cả 6 cơ quan chính Đại hội đồng (General Assembly), Hội đồng Bảo
an (Security Council), Hội đồng Kinh tế và Xã hội (Economic and Social Council - ECOSOC),
Hội đồng Quản thác (Trusteeship Council) và Toà án quốc tế (International Court of Justice ICJ) đều có trách nhiệm trên lĩnh vực này. Một số cơ quan chính thiết lập một mạng lưới các cơ
quan giúp việc về quyền con người, đồng thời xây dựng một quy chế để huy động sự tham gia, hỗ

trợ của các tổ chức phi chính phủ (quốc tế, khu vực và quốc gia) vào hoạt động thúc đẩy và bảo vệ
quyên con người.
* Hội đồng Quyền con người của Liên hợp quốc:
Hội đồng quyền con người của Liên hợp quốc (UN Human Rights Council - HRC) là cơ quan
mới được thành lập theo Nghị quyết số 60/251 ngày 3/4/2006 của ĐHĐ để thay thế cho Ủy ban
quyền con người (CHR). Do CHR trước đây và HRC hiện nay đóng vai trò “đầu tàu” trong bộ máy
các cơ quan về quyền con người Liên hợp quốc nên sự kiện này được nhiều tổ chức và chuyên gia
đánh giá là hứa hẹn mở ra “một trang mới” trong hoạt động của Liên hợp quốc trên lĩnh vực này.
a) Chức năng, nhiệm vụ:
Theo Nghị quyết 60/251 của ĐHĐ, HRC có các chức năng, nhiệm vụ sau:
+
Thúc đẩy các hoạt động giáo dục, nghiên cứu, dịch vụ tư vấn, trợ giúp kỹ thuật và
xây dựng năng lực về quyền con người ở các quốc gia;
+
+
người;

Thúc đẩy việc thực thi đầy đủ các nghĩa vụ về quyền con người ở các quốc gia;
Đóng vai trò là một diễn đàn để đối thoại về những chủ đề cụ thể về quyền con

10


VẤN ĐỀ QUYỀN CON NGƯỜI TRONG PHÁP LUẬT QUỐC TẾ | 39-QT38A2

+
Đưa ra những khuyến nghị với Đại hội đồng về sự phát sự phát triển của luật quốc tế
về quyền con người;
+
Thực hiện việc đánh giá định kỳ toàn thể việc tuân thủ các nghĩa vụ và cam kết về

quyền con người của các quốc gia;
+
Thông qua đối thoại và hợp tác để góp phần phòng ngừa những vi phạm quyền con
người và phản ứng kịp thời với những tình huống khẩn cấp về quyền con người;
+
Hợp tác chặt chẽ với các chính phủ, các tổ chức khu vực, các cơ quan quyền con
người quốc gia, các tổ chức xã hội dân sự trong các hoạt động về quyền con người;
+

Báo cáo hàng năm về hoạt động với Đại hội đồng.

b) Cơ cấu tổ chức:
Theo Điều 5 Nghị quyết 60/251 của ĐHĐ, HRC sẽ bao gồm 47 nước thành viên (CHR trước
đây có 53 nước thành viên). Các nước thành viên được bầu trực tiếp bằng phiếu kín bởi đa số thành
viên ĐHĐ, phục vụ với nhiệm kỳ 3 năm và chỉ được bầu lại sau hai nhiệm kỳ kế tiếp. Các nước
thành viên được phân bổ theo khu vực địa lý, cụ thể như sau: Nhóm các nước châu Phi: 13 ghế;
Nhóm các nước châu Á: 13 ghế; Nhóm các nước Đông Âu: 6 ghế; Nhóm các nước Châu Mỹ Latin
và Caribe: 8 ghế; Nhóm các nước Tây Âu và các quốc gia khác: 7 ghế. Đứng đầu HRC là một Chủ
tịch phục vụ với nhiệm kỳ một năm, do các nước thành viên của HRC bầu ra.
* Ủy ban cố vấn
Tương tự như mô hình Tiểu ban thúc đẩy và bảo vệ quyền con người của CHR trước đây,
HRC thành lập một Ủy ban cố vấn để hỗ trợ Hội đồng trong các hoạt động chuyên môn. Ủy ban này
bao gồm 18 chuyên gia được Hội đồng bầu ra bằng cách bỏ phiếu kín từ danh sách các ứng cử viên
mà các quốc gia thành viên đề cử. Mặc dù vậy, các chuyên gia thành viên của Ủy ban hoạt động với
tư cách cá nhân. Nhiệm kỳ của mỗi chuyên gia là 3 năm, chỉ được bầu lại một lần.
Cơ cấu của Ủy ban cố vấn được cân nhắc để đảm bảo tính cân bằng về giới và về khu vực địa
lý. Cụ thể, để đảm bảo sự cân bằng về khu vực địa lý, thành phần của Ủy ban được phân bổ như
sau: Các quốc gia châu Phi: 5 ghế; Các quốc gia Châu Á: 5 ghế; Các quốc gia Đông Âu: 2 ghế; Các
quốc gia Châu Mỹ La tinh và Caribê: 3 ghế; Các quốc gia Tây Âu và các quốc gia ở khu vực khác:
3 ghế.

Về hoạt động, Ủy ban cố vấn họp tối đa 2 kỳ một năm, mỗi kỳ tối đa 10 ngày, ngoài ra có thể
họp các kỳ bổ sung với sự chấp thuận của HRC. Về trách nhiệm, Ủy ban chịu sự điều phối của
HRC. Hội đồng có thể yêu cầu toàn bộ, một nhóm thành viên hoặc một cá nhân thành viên của Ủy
ban thực hiện những nhiệm vụ nhất định.
1.2. Cơ chế dựa trên công ước:
Cơ chế này được dựa trên các ủy ban giám sát việc thực hiện một số công ước quốc tế về
quyền con người (treaty-based bodies),được thành lập theo quy định của chính các công ước đó
(ngoại trừ Uỷ ban về các quyền kinh tế, xã hội, văn hoá được thành lập theo một Nghị quyết của
ECOSOC).
Nếu như các cơ quan trong cơ chế dựa trên Hiến chương có những chức năng đa dạng, bao
gồm cả việc nghiên cứu, xây dựng các dự thảo văn kiện, thẩm định, theo dõi, giám sát và điều hành
các chương trình, hoạt động về quyền con người..., thì hệ thống ủy ban công ước có chức năng hẹp
hơn. Các ủy ban này được thiết lập chỉ để giám sát, thúc đẩy việc thực hiện các điều ước quốc tế về
quyền con người, thông qua việc nhận, xem xét và ra khuyến nghị liên quan đến các báo cáo về việc
thực hiện các công ước này của những quốc gia thành viên (và với một số ủy ban, còn thông qua
thẩm quyền nhận, xem xét và xử lý các khiếu nại về việc vi phạm các quyền con người được ghi
nhận trong một số công ước).
11


VẤN ĐỀ QUYỀN CON NGƯỜI TRONG PHÁP LUẬT QUỐC TẾ | 39-QT38A2

Hiện tại, có 9 công ước được coi là điều ước quốc tế căn bản về quyền con người (core
international human riẹhts treaties) của Liên hợp quốc. Một trong số đó hiện chưa có hiệu lực là
Công ước về cưỡng bức đưa đi mất tích. Các công ước còn lại được giám sát bởi các ủy ban giám
sát và một cơ quan tương tự là nhóm công tác. Các ủy ban công ước bao gồm những chuyên gia
được thừa nhận là có uy tín, đạo đức và năng lực trong các lĩnh vực của công ước liên quan. Các
chuyên gia này được lựa chọn (thông qua bỏ phiếu ở các ủy ban) từ những người được các quốc gia
thành viên đề cử (thường là công dân của nước mình). Tuy nhiên, khi được bầu là thành viên các ủy
ban thì các chuyên gia hoạt động với tư cách cá nhân, số lượng thành viên của các ủy ban công ước

được quy định ngay trong mỗi công ước và có thể khác nhau, nhưng thông thường không ít hơn 10
người và không nhiều hơn 30 người.
Các ủy ban công ước thực hiện một số chức năng, nhiệm vụ căn cứ vào quy định cụ thể của
từng công ước, trong đó, đáng chú ý là các chức năng: Xem xét báo cáo của các quốc gia thành
viên; xem xét khiếu nại của các cá nhân; đưa ra các bình luận, khuyến nghị chung để giải thích nội
dung và các biện pháp thực hiện công ước.
2. Cấp độ khu vực:
Cơ chế bảo vệ và thúc đẩy quyền con người khu vực là các thể chế, thiết chế và hệ thống pháp
luật cùng quy tắc, tiêu chuẩn và nguyên tắc nhằm bảo vệ và thúc đẩy quyền con người ở phạm vi
khu vực. Các cơ chế này thường bao gồm: Hiến chương, Công ước Nhân quyền khu vực, Tòa án
Nhân quyền khu vực, các tổ chức giám sát thực hiện nhân quyền ở khu vực…
Hệ thống bảo vệ và thúc đẩy quyền con người mang tính khu vực phát triển khá sớm. Ưu
điểm của các hệ thống nhân quyền khu vực là bên cạnh việc phối hợp hành động trong việc giải
quyết nhiều vấn đề nhân quyền chung của khu vực, khả năng xem xét, giải quyết các khiếu kiện của
cơ chế này nhanh chóng và hiệu quả hơn. Các hệ thống khu vực có thể đưa ra những tiêu chuẩn
nhân quyền và biện pháp thực thi cao hơn hệ thống nhân quyền của Liên hợp quốc.
Sau khi Tuyên ngôn Nhân quyền ra đời, các khu vực châu Âu, châu Mỹ, châu Phi đã lần lượt
hình thành được các cơ chế nhân quyền khu vực. Các cơ chế nhân quyền khu vực này luôn được bổ
sung, hoàn thiện nhẳm thích ứng với sự biến đổi chung về kinh tế, chính trị, xã hội.
2.1. Cơ chế bảo vệ và thúc đẩy nhân quyền Châu Âu:
Châu Âu là nơi hình thành đầu tiên cơ chế bảo vệ và thúc đẩy quyền con người ở cấp độ khu
vực; được tổ chức và hoạt động một cách hiệu quả và hiệu lực hơn cả trong các khu vực có cơ chế
tương tự này.bao gồm: Hệ thống của Hội đồng Châu Âu (hiện tại có 47 thành viên, của Tổ chức
An ninh và Hợp tác Châu Âu (OSCE) (56 thành viên) và của Liên minh Châu Âu (EU) (27 thành
viên). Một trong những cơ quan thiết chế quan trọng của cơ chế châu Âu đó chính là Ủy ban châu
Âu về Nhân quyền, Tòa án Nhân quyền châu Âu. Một trong những cơ quan thiết chế quan trọng của
cơ chế châu Âu đó chính là Ủy ban châu Âu về Nhân quyền, Tòa án Nhân quyền châu Âu.
Cơ chế bảo vệ và thúc đẩy quyền con người ở châu Âu được cấu thành từ hệ thống các văn
kiện khu vực về quyền con người cùng các bộ máy thực thi, bao gồm: Công ước châu Âu về Bảo vệ
quyền con người và Tự do cơ bản được Hội đồng châu Âu thông qua năm 1950, có hiệu lực năm

1953; Ủy ban Quyền con người trực thuộc Hội đồng châu Âu (thành lập năm 1954); Tòa án Quyền
con người châu Âu (1959); Ủy ban các Bộ trưởng của Hội đồng châu Âu (gồm ngoại trưởng hoặc
đại diện của các quốc gia thành viên).
Cơ chế giải quyết các khiếu kiện về tình trạng vi phạm quyền con người ở châu Âu được thực
hiện thông qua cơ chế giải quyết trực tiếp theo thẩm quyền của Công ước châu Âu về quyền con
người (ECHR) hoặc trực tiếp tại Tòa án Nhân quyền châu Âu được thành lập theo Nghị định thư số
11 của Công ước.
2.2. Cơ chế bảo vệ và thúc đẩy nhân quyền châu Mỹ:
12


VẤN ĐỀ QUYỀN CON NGƯỜI TRONG PHÁP LUẬT QUỐC TẾ | 39-QT38A2

Cơ chế châu Mỹ được cấu thành từ những văn kiện chính trị và pháp lý cùng các thể chế thực
thi trong lĩnh vực bảo vệ và thúc đẩy quyền con người, bao gồm: Tuyên ngôn châu Mỹ về các
quyền và nghĩa vụ của con người được Tổ chức các quốc gia châu Mỹ (OAS) thông qua năm 1948;
Ủy ban Liên Mỹ về quyền con người thành lập năm 1959 (IACHR); Công ước Liên Mỹ về quyền
con người được thông qua năm 1969; Tòa án Liên Mỹ về quyền con người Mỹ.
Tòa án Quyền con người châu Mỹ cùng với Ủy ban Quyền con người châu Mỹ (IACHR) là
hai bộ phận quan trọng và cốt lõi nhất của cơ chế bảo vệ và thúc đẩy quyền con người ở khu vực
này. Giống như cơ chế nhân quyền châu Âu, Ủy ban và Tòa án Nhân quyền có vai trò đặc biệt quan
trọng trong việc bảo đảm quyền con người.
2.3. Cơ chế bảo vệ và thúc đẩy nhân quyền châu Phi:
Các quốc gia châu Phi cũng hướng tới việc xây dựng mô hình bảo đảm quyền con người ở
cấp khu vực tương tự như châu Âu và châu Mỹ. Cơ chế châu Phi trong việc thúc đẩy và bảo vệ
quyền con người bao gồm hệ thống văn kiện khu vực về quyền con người ở châu Phi cùng các thể
chế tương ứng, bao gồm: Hiến chương châu Phi về Quyền con người và Quyền các dân tộc, được
Tổ chức Liên minh châu Phi thông qua năm 1981; Ủy ban Quyền con người và Quyền các dân tộc
châu Phi năm 1981; Tòa án châu Phi về Quyền con người và Quyền các dân tộc được thành lập theo
Nghị định thư bổ sung của Hiến chương châu Phi về Quyền con người và Quyền của các dân tộc

được thông qua năm 1998, năm 2004 mới có hiệu lực.
2.4. Cơ chế bảo vệ và thúc đẩy nhân quyền châu Á:
Châu Á hiện chưa xây dựng được cơ chế nhân quyền liên chính phủ như nhiều khu vực khác
trên thế giới. Tuy nhiên, nhiều ý tưởng và nỗ lực vận động cho một cơ chế nhân quyền chung đang
được thúc đẩy. Trong khi chưa có hệ thống nhân quyền khu vực, một số tổ chức ở châu Á đã nỗ lực
hoạt động nhằm khắc phục những thiếu hụt trên lĩnh vực nhân quyền. Tuy không gây nhiều ảnh
hưởng, nhưng những nỗ lực trên cho thấy nhu cầu về việc hình thành một hệ thống nhân quyền khu
vực châu Á.
Trong khi các quốc gia châu Á chưa đi đến đồng thuận về quan điểm và việc hình thành cơ
chế khu vực châu Á về quyền con người, nhiều tiểu vùng châu Á khác, đặc biệt là khu vực Đông
Nam Á đã và đang xây dựng, hoàn thiện một cơ chế bảo vệ và thúc đẩy quyền con người. Dấu mốc
quan trọng của quá trình ấy là sự ra đời Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) vào năm
1967 và Hiến chương ASEAN vào năm 2008. Cùng với Hiến chương ASEAN, hàng loạt các văn
kiện quan trọng khác đã góp phần vào việc hoàn thiện khung pháp luật và thể chế cho việc bảo vệ
và thúc đẩy quyền con người ở khu vực được xem là năng động nhất trên thế giới hiện nay.
3. Cấp quốc gia:

Bên cạnh cơ chế quốc tế và khu vực, các quốc gia thường có cơ quan chuyên trách bảo vệ và
thúc đẩy nhân quyền. Tuy nhiên, các quốc gia lại lựa chọn các mô hình tương đối khác nhau.
Cơ chế quốc gia về bảo vệ và thúc đẩy quyền con người xuất phát từ và nhằm thực hiện
những nghĩa vụ của các nhà nước được nêu trong tất cả các văn kiện quốc tế về quyền con người.
Các cơ chế quốc gia bảo vệ quyền con người, nếu xét theo nghĩa rộng, rất đa dạng. Về lý thuyết, các
cơ quan nhà nước có chức năng duy trì ổn định, trật tự xã hội và bảo đảm quyền của người dân. Các
chính quyền dân chủ tồn tại để phục vụ nhân dân, do đó, các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư
pháp đều có chức năng bảo vệ quyền con người. Tuy nhiên, chính các cơ quan và viên chức nhà
nước cũng đồng thời là chủ thể chính vi phạm quyền con người, vì vậy, nhiều quốc gia trên thế giới
đã thiết lập các cơ quan độc lập hoặc bán độc lập với bộ máy nhà nước để tăng cường hiệu quả của
việc bảo vệ và thúc đẩy các quyền con người. Dưới đây khái quát một số dạng chính của các cơ
quan quốc gia quốc gia về bảo vệ và thúc đẩy quyền con người (national institution on the
protection and promotion of human rights hoặc national human rights íntitutions – NHRIs) mà đã

được thành lập ở nhiều nước trên thế giới.
13


VẤN ĐỀ QUYỀN CON NGƯỜI TRONG PHÁP LUẬT QUỐC TẾ | 39-QT38A2

3.1. Ủy ban quyền con người quốc gia (National Commissions of Human Rights):
Thiết chế này thường bao gồm nhiều thành viên đại diện cho nhiều nhóm xã hội, nghề nghiệp.
Tên gọi của thiết chế này có thể khác nhau giữa các nước, ví dụ như Ủy ban/Trung tâm Quyền con
người quốc gia, Ủy ban quyền con người và bình đẳng…Cơ sở pháp lý cho việc thành lập và hoạt
động của thiết chế này cũng khác nhau giữa các nước. Ví dụ, nó có thể được quy định trong Hiến
pháp (Philipines, Thailand…), bằng một đạo luật cụ thể (Malaysia…), bởi một nghị quyết của Nghị
viện (Danmark..), hoặc theo một quyết định của Tổng thống (Indonesia…).
Nhìn chung, chức năng cơ bản của các ủy ban quyền con người quốc gia là bảo vệ các cá
nhân khỏi sự phân biệt đối xử và thúc đẩy các quyền con người, đặc biệt là quyền của các nhóm xã
hội dễ bị tổn thương như phụ nữ, trẻ em, người thiểu số, người bản địa...Có những ủy ban được giao
thẩm quyền xử lý tất cả vi phạm các quyền được nêu lên trong Hiến pháp, trong khi một số khác chỉ
có thẩm quyền xử lý những vi phạm về chủng tộc, tôn giáo, giới, quan điểm chính trị…Một chức
năng quan trọng nữa của các ủy ban quyền con người quốc gia là tiếp nhận, điều tra và giải quyết
những khiếu nại của các cá nhân và các nhóm về những vi phạm quyền con người theo pháp luật
quốc gia.
Bên cạnh các chức năng kể trên, nhiều ủy ban quyền con người quốc gia được giao thẩm
quyền nghiên cứu chính sách và hoạt động liên quan đến quyền con người của chính phủ để phát
hiện những hạn chế và đề xuất các biện pháp khắc phục và thúc đẩy sự tiến bộ. Các ủy ban cũng có
thể được giao quyền giám sát hoạt động của các cơ quan nhà nước trong việc tuân thủ pháp luật
quốc gia và quốc tế về quyền con người. Cuối cùng, nhiều ủy ban quyền con người quốc gia còn
được giao chức năng giáo dục, tuyên truyền nâng cao nhận thức của người dân về quyền con người.
3.2. Thanh tra Quốc hội (Ombudsman):
Cơ chế Ombudsman xuất hiện đầu tiên tại Nghị viện Thụy Điển vào năm 1809. Thuật ngữ
“Ombudsman” có nguồn gốc từ tiếng Thụy Điển (có nghĩa là người đại diện). Tại một số quốc gia,

Ombudsman tương đương với thanh tra Quốc hội hoặc thanh tra nhà nước. Ombudsman có một bộ
máy giúp việc, thường gọi là Văn phòng Ombudsman.
Nhìn chung, chức năng chủ yếu của Ombudsman là giám sát sự công bằng và hợp pháp của
bộ máy hành chính công. Cụ thể, văn phòng Ombudsman có trách nhiệm bảo vệ quyền của những
người là nạn nhân của những hành vi, quyết định của cơ quan hành pháp. Do đó, ở các nước có định
chế này, Ombudsman thường được coi là trung gian hòa giải giữa cá nhân có quyền bị xâm phạm
với chính quyền. Hiện tại, một số quốc gia trên thế giới đã thành lập Ombudsman như là một cơ chế
quốc gia để thúc đẩy và bảo vệ quyền con người (Danmark, Sweden, Austria, Spain, Venezuela …).
Quy trình hoạt động của Ombudsman ở các quốc gia tương đối giống nhau. Ombudman nhận
khiếu nại từ công chúng và tiến hành điều tra nếu vụ việc thuộc thẩm quyền của mình. Ở một số
quốc gia, người dân có thể gửi đơn khiếu nại trực tiếp đến văn phòng Ombudsman, nhưng ở một số
quốc gia khác, người dân chỉ có thể gửi qua trung gian như thông qua các nghị sỹ quốc hội ở địa
phương. Các đơn khiếu nại thường được giữ bí mật danh tính và Ombudman không được tiết lộ về
người khiếu nại nếu chưa được sự đồng ý của họ.
Không chỉ giải quyết các vụ việc khi được yêu cầu, giống như các ủy ban quyền con người
quốc gia, ở nhiều nước, Ombudsman còn có thẩm quyền chủ động tiến hành điều tra những vi phạm
quyền con người trên phạm vi rộng hoặc thu hút sự quan tâm lớn của công chúng. Nhìn chung,
thẩm quyền của Ombudsman và ủy ban quyền con người quốc gia có nhiều điểm giống nhau liên
quan đến tiếp nhận và giải quyết khiếu nại. Tuy nhiên, hai cơ chế này vẫn có những điểm khác biệt
(đó là lý do mà một số quốc gia có cả hai loại cơ chế, ví dụ như Đan Mạch). Sự khác nhau thể hiện
ở chỗ Ombudsman chủ yếu đảm bảo công bằng và pháp chế trong quản lý hành chính, trong khi các
ủy ban quyền con người quốc gia chủ yếu quan tâm đến những vi phạm quyền con người ở phạm vi
rộng hơn, đặc biệt là các vi phạm liên quan đến vấn đề phân biệt đối xử. Thêm vào đó, Ombudsman
14


VẤN ĐỀ QUYỀN CON NGƯỜI TRONG PHÁP LUẬT QUỐC TẾ | 39-QT38A2

chủ yếu tập trung vào những vi phạm quyền con người của các cơ quan và viên chức nhà nước,
trong khi các ủy ban quyền con người quốc gia quan tâm cả đến cả các vi phạm quyền con người

của các cá nhân và chủ thể tư nhân.
IV.

THỰC THI NGHĨA VỤ THÀNH VIÊN CÁC ĐIỀU ƯỚC QUỐC TẾ VỀ
QUYỀN CON NGƯỜI CỦA CÁC QUỐC GIA

Quốc gia là chủ thể xuất hiện đầu tiên của pháp luật quốc tế, là hạt nhân của hệ thống pháp
luật quốc tế và là cơ sở để phát sinh, tồn tại và phát triển luật quốc tế.1 Một khi quốc gia tham gia
vào một Điều ước quốc tế bất kì thì cũng sẽ phát sinh quyền và nghĩa vụ tương ứng. Các quốc gia
có thể thực hiện quyền và nghĩa vụ cơ bản của quốc gia một cách độc lập trong quan hệ quốc tế
theo ý chí của quốc gia mình hoặc hợp tác với quốc gia khác. Do vậy, với hoàn cảnh khác biệt về
lịch sử, chế độ chính trị, trình độ phát triển, giá trị truyền thống, văn hóa... nên cách tiếp cận quyền
con người trong Điều ước quốc tế ở mỗi quốc gia là khác nhau. Việc tiếp cận với vấn đề nghĩa vụ
quốc gia đó có thể xuất phát từ các căn cứ khác nhau nhưng suy cho cùng, thì việc tiếp cận đó sẽ
chủ yếu dựa vào tính chất của từng loại nghĩa vụ theo thỏa thuận quốc tế mà quốc gia đó đã kí kết,
ta có thể chia việc thực thi nghĩa vụ của các thành viên nhu sau:
1.

Các nghĩa vụ bắt buộc của quốc gia

a.

Nghĩa vụ thuộc hoạt động lập pháp

Cũng như các điều ước quốc tế khác, yêu cầu thực thi các điều ước quốc tế về quyền con
người phải trên cơ sở các nguyên tắc của Luật quốc tế. Bên cạnh đó, do đây liên quan đến quyền
con người nên cũng hình thành một số yêu cầu riêng biệt:
Quốc gia thành viên có nghĩa vụ xây dựng một hệ thống pháp luật phù hợp với yêu cầu của
việc thực hiện cam kết về quyền con người. Bởi khi một quốc gia làm thành viên của một điều ước
quốc tế thì pháp luật quốc gia đó không thể trái với pháp luật quốc tế. Việc chuẩn hóa các tiêu chí

quyền con người theo quy định với từng quốc gia là một trong những nghĩa vụ bắt buộc, mặc dù
công ước chấp nhận có những hạn chế nhất định. Cụ thể, có thể thấy rõ trong quy định tại Điều 26,
Điều 27 của Công ước Viên 1969: “Mọi điều ước đã có hiệu lực đều ràng buộc các bên tham gia
và phải được các bên thi hành với thiện chí.” Hay việc pháp luật trong nước và việc tôn trọng điều
ước cũng được nhắc đến cụ thể: “Một bên không thể viện dẫn những quy định của pháp luật trong
nước của mình làm lý do cho việc không thi hành một điều ước. Quy tắc này không phương hại gì
đến các quy định của Điều 46.”
Trong một số công ước liên quan đến quyền con người, có quy định nghĩa vụ của các thành
viên trong việc thực hiện hoạt động mang tính chất lập pháp như việc ban hành Hiến pháp, các văn
bản pháp luật trong nước: “2. Trong trường hợp quy định trên đây chưa được thể hiện bằng các
biện pháp lập pháp hoặc các biện pháp khác, thì mỗi quốc gia thành viên Công ước cam kết sẽ tiến
hành các bước cần thiết, phù hợp với trình tự pháp luật nước mình và những quy định của Công
ước này, để ban hành pháp luật và những biện pháp cần thiết khác nhằm thực hiện các quyền được
công nhận trong Công ước này.”2 Hoặc “Mỗi Quốc gia thành viên sẽ có những biện pháp hữu hiệu
để rà soát lại các chính sách của chính phủ trung ương và chính quyền các địa phương và sẽ sửa
đổi, hủy bỏ hoặc vô hiệu hóa bất cứ đạo luật hay quy định nào có thể tạo ra hoặc tạo điều kiện cho
sự phân biệt chủng tộc ở bất cứ đâu”3
Hoạt động nhằm xây dựng cơ chế pháp luật quốc gia đảm bảo cho việc thực thi các cam kết
quốc tế về quyền con người tại các quốc gia thành viên không chỉ giới hạn trong hoạt động pháp lí
1

Ts. Ngô Hữu Phước, Luật Quốc tế, Nxb. CTQG, 2013, tr. 163

2

Khoản 2, Điều 2, ICCPR 1966

3

Điểm c, Khoản 1, Điều 2, ICEFRD 1965


15


VẤN ĐỀ QUYỀN CON NGƯỜI TRONG PHÁP LUẬT QUỐC TẾ | 39-QT38A2

của nhà nước để ban hành văn bản pháp luật. Nghĩa vụ này còn yêu cầu cao hơn đó chính là sự
tương thích giữa luật các nước với cam kết quốc tế của quốc gia tại công ước quốc tế trong lĩnh vực
này.
b.

Nghĩa vụ thuộc hoạt động hành pháp

Các nghĩa vụ được thực hiện bằng việc xây dựng cơ chế quốc gia nhằm phát triển, bảo vệ các
quyền, tự do cơ bản của con người và thực hiện các hoạt động hợp tác quốc tế trong lĩnh vực con
người. Hoạt động này tạo ra căn cứ để cộng đồng quốc tế có cơ sở giám sát việc thực hiện các nghĩa
vụ thành viên công ước quốc tế về quyền con người trong các hoạt động hành pháp bao gồm cả hoạt
động thực thi các điều ước.
2.

Các nghĩa vụ mang tính khuyến nghị của quốc gia

Bên cạnh các nghĩa vụ bắt buộc trên còn có những nghĩa vụ không hoàn toàn bắt buộc nhưng
vẫn hết sức cần thiết như xây dựng thể chế, chính sách nhà nước nhằm đảm bảo cho việc thực hiện
quyền con người, song song với đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục, nâng cao hiểu biết trong cộng
đồng về các vấn đề khoa học pháp lý về quyền con người.4

V.

Pháp luật Việt Nam về quyền con người

1. Các văn kiện quốc tế về con người mà Việt Nam đã tham gia

Ngay sau khi cuộc kháng chiến chống Mỹ kết thúc, trở thành thành viên Liên hiệp quốc
(1977), Việt Nam đã tham gia nhiều công ước quốc tế về quyền con người, tích cực đóng góp vào
hoạt động bảo vệ nhân quyền quốc tế. Vào những năm 80, Việt Nam đã tham gia phê chuẩn một
loạt các công ước quốc tế về quyền con người như: Công ước về ngăn ngừa và trị tội ác diệt chủng
(1948); công ước về loại trừ tất cả các hình thức phân biệt chủng tộc (1965); công ước quốc tế về
ngăn ngừa và trừng trị tội ác A-pác-thai...; đặc biệt là hai công ước quốc tế về các quyền dân sự,
chính trị (ICCPR) và công ước quốc tế về quyền kinh tế, xã hội và văn hóa (ICESCR). Từ năm
1990 đến nay, Việt Nam đã ký và phê chuẩn công ước quốc tế về quyền trẻ em và gia nhập một loạt
các công ước quốc tế khác về quyền trẻ em hoặc liên quan đến trẻ em do tổ chức Lao động quốc tế
(ILO) thông qua, đưa tổng số công ước do tổ chức này thông qua được Việt Nam phê chuẩn, gia
nhập lên đến 16 công ước. Tháng 12/2001, Việt Nam đã phê chuẩn 2 nghị định thư bổ sung công
ước quốc tế về quyền trẻ em. Ngày 22/10/2007, Việt Nam đã ký công ước của Liên hiệp quốc về
quyền của người khuyết tật (2006), và hiện đang tiếp tục tiến hành nghiên cứu để chuẩn bị tham gia
một số công ước quốc tế quan trọng khác.
Tính đến nay, Việt Nam đã ký kết 9 công ước, 2 nghị định bổ sung công ước trong tổng số
gần 20 công ước và nghị định bổ sung công ước về nhân quyền của Liên hiệp quốc ban hành và một
loạt các công ước về quyền con người hoặc liên quan đến quyền con người do các tổ chức khác
thông qua.5
2. Pháp luật Việt Nam về quyền con người
Nhân quyền vừa là kết quả, thước đo, vừa là động lực cho sự phát triển, ổn định của một quốc
gia văn minh. Quyền con người về chính trị, dân sự, kinh tế - xã hội, văn hóa, đặc biệt, quyền có
việc làm, thu nhập, nhà ở, học tập, được chăm sóc sức khỏe, sống trong môi trường an toàn ngày
càng trở thành những quyền cơ bản, thiết thực và có ý nghĩa cao nhất về nhân quyền... Chính vì thế,
tinh thần này được khẳng định, trở thành điểm nhấn quan trọng trong Hiến pháp mới và các luật
chuyên ngành.
4

Đại học Luật Hà Nội: Giáo trình Luật quốc tế, Nxb. Công an Nhân dân, Hà Nội, 2004, tr.149


5

Xem Phụ lục

16


VẤN ĐỀ QUYỀN CON NGƯỜI TRONG PHÁP LUẬT QUỐC TẾ | 39-QT38A2

- Trong Hiến pháp Việt Nam năm 2013 ghi nhận quyền con người chủ yếu trong chương II
Quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân.
Tại Điều 14 Hiến Pháp 2013 qui định: “Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các
quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn
trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật.”
Quyền con người được thể hiện dưới hình thức “mọi người”, “không ai”,…
Quyền con người được qui định rất nhiều quyền, trong đó có một số quyền chính như sau:
+

Quyền bình đẳng: “Mọi người đều bình đẳng trước pháp luật.” (Điều 16 Hiến pháp

2013)
+
Quyền sống: “Mọi người có quyền sống.” (Điều 19 Hiến pháp 2013)
+
Quyền bất khả xâm phạm về thân thể: “Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về thân
thể, được pháp luật bảo hộ về sức khỏe, danh dự và nhân phẩm”. (khoản 1 Điều 20 Hiến pháp
2013)
+
Quyền hiến mô, bộ phận cơ thể, hiến xác: “Mọi người có quyền hiến mô, bộ phận cơ thể

người và hiến xác theo qui định của luật.”.(khoản 3 Điều 20 Hiến pháp 2013).
+
Quyền bất khả xâm phạm đời sống riêng tư: “Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về
đời sống riêng tư, bí mật cá nhân và bí mật gia đình; có quyền bảo vệ danh dự, uy tín của
mình.”(khoản 1 Điều 21 Hiến pháp 2013)
+
Quyền bất khả xâm phạm đời sống riêng tư: “Mọi người có quyền bí mật thư tín, điện
thoại, điện tín và các hình thức trao đổi thong tin khác.” (khoản 3 Điều 21 Hiến pháp 2013)
+
Quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở: “Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về chỗ
ở.Không ai được tự ý vào chỗ ở của người khác nếu không có sự đồng ý của người đó.” (khoản 2
Điều 22 Hiến pháp 2013)
+
Quyền tự do tín ngưỡng: “Mọi người có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc
không theo một tôn giáo nào.” (khoản 1 Điều 24 Hiến pháp 2013)
+
Quyền khiếu nại, tố cáo: “Mọi người có quyền khiếu nại, tố cáo với cơ quan, tổ chức, cá
nhân có thẩm quyền về những việc làm trái pháp luật của cơ quan, tổ chức, cá nhân.” (khoản 1
Điều 30 Hiến pháp 2013)
+
Quyền tư hữu cá nhân: “Mọi người có quyền sở hữu về thu nhập hợp pháp, của cải để
dành, nhà ở, tư liệu sinh hoạt, tư liệu sản xuất, phần vốn góp trong doanh nghiệp hoặc trong các tổ
chức kinh tế khác.” (khoản 1 Điều 32 Hiến pháp 2013)
+
Quyền tự do kinh doanh: “Mọi người có quyền tự do kinh doanh trong những ngành
nghề mà pháp luật không cấm.” (Điều 33 Hiến pháp 2013)
+
Quyền được bảo vệ, chăm sóc sức khỏe: “Mọi người có quyền được bảo vê, chăm sóc
sức khỏe, bình đẳng trong việc sử dụng các dịch vụ y tế” (khoản 1 Điều 38 Hiến pháp 2013)
+

Quyền nghiên cứu khoa học: “Mọi người có quyền nghiên cứu khoa học và công nghệ,
sang tạo văn học, nghệ thuật và thụ hưởng lợi ích từ những hoạt động đó.” (Điều 40 Hiến pháp
2013)
+
Quyền hưởng thụ và tiếp cận các giá trị văn hóa: ”Mọi người có quyền hưởng thụ và
tiếp cận các giá trị văn hóa, tham gia vào đời sống văn hóa, sử dụng các cơ sở văn hóa.” (Điều 41
Hiến pháp 2013)
+
Quyền được sống trong môi trường lành mạnh: “Mọi người có quyền được sống trong
môi trường lành mạnh” (Điều 43 Hiến pháp 2013)
- Trong bộ luật Tố tụng hình sự: Trong luật tố tụng hình sự cũng có những qui định nhằm bảo
vệ quyền con người. Trong đó có các qui định như:
+
Quyền tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa: “Người bị tạm giữ, bị can, bị cáo
có quyền tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa. Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án có
nhiệm vụ bảo đảm cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo thực hiện quyền bào chữa của họ theo qui
định của luật này.” (Điều 11 Bộ luật tố tụng hình sự)
17


VẤN ĐỀ QUYỀN CON NGƯỜI TRONG PHÁP LUẬT QUỐC TẾ | 39-QT38A2

+
Quyền dùng tiếng nói và chữ viết của mình khi tham gia tố tụng: “Người tham gia tố
tụng có quyền dùng tiếng nói và chữ viết của dân tộc mình” (Điều 24 Bộ luật tố tụng hình sự)
+
Bảo đảm quyền khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự qui định tại Điều 31 Bộ luật tố
tụng hình sự.
- Trong bộ luật Tố tụng dân sự: Quyền con người cũng có mặt trong các qui định của bộ luật
Tố tụng dân sự. Cụ thể tại các điều như:

+
Quyền bình đẳng về quyền và nghĩa vụ: “Các đương sự đều bình đẳng về quyền và
nghĩa vụ trong tố tụng dân sự.” (Điều 8 bộ luật Tố tụng dân sự)
+
Quyền dùng tiếng nói chữ viết của dân tộc mình (Điều 20).
+
Quyền bảo đảm quyền khiếu nại, tố cáo trong tố tụng dân sự (Điều 24)
- Trong luật Hôn Nhân và Gia Đình:
+
Trong dự thảo sửa đổi Hiến pháp, các nhà làm luật rất quan tâm đến việc kết hôn giữa
2 người đồng tính. Hầu hết, đều đồng ý việc bỏ qui định cấm kết hôn giữa 2 người đồng tính. Điều
này, góp phần bảo vệ quyền con người.

KẾT LUẬN
Thông qua việc tìm hiểu nguồn gốc, tiến trình xây dựng cũng như phát triển của chế định
Quyền con người trong cả hệ thống pháp luật quốc gia cũng như pháp luật quốc tế, chúng ta có thể
chốt lại một số vấn đề quan trọng. Thứ nhất, về khái niệm, hiện nay có rất nhiều quan điểm về
Quyền con người từ rất nhiều góc độ, đặt trong rất nhiều mối quan hệ, tuy nhiên có thể khái quát
rằng đó là một quyền tự nhiên dành cho tất cả các thành viên của cộng đồng xã hội, không phân biệt
sắc tộc, tôn giáo, giới tính, địa vị xã hội…. cần được công nhận bởi tất cả các quốc gia, dân tộc trên
thế giới. Thứ hai, ta có thể nhận thấy sự đặc biệt quan tâm, đề cao của Luật pháp quốc tế trong vấn
đề này thể hiện trong rất nhiều và ngày càng nhiều văn bản pháp lý quốc tế. Cộng đồng quốc tế luôn
rất chú trọng đến việc thi hành quyền con người trên toàn thế giới, không ngừng thiết chặc các biện
pháp bảo đảm để quyền con người được thực thi, bất cứ sự vi phạm nào về quyền lợi cơ bản này
đều bị lên án gay gắt. Ngoài ra ta cũng nhận thấy sự tiến bộ trong pháp luật Việt Nam trong việc
quy định về Quyền con người trong lập pháp cũng như trong việc tích cực tham gia các công ước
quốc tế về bảo vệ quyền con người.
Một điều phải khẳng định là quyền con người rất cơ bản, rất nền tảng và không bao giờ là vấn
đề thôi làm nóng tình hình thế giới. Điều này có lẽ xuất phát từ yếu tố con người đối với mỗi quốc
gia. Con người chính là nguồn lực quý giá của một đất nước. Nó khẳng định sự tồn tại của một quốc

gia, khẳng định địa vị pháp lý của quốc gia đó và là nền tảng để quốc gia phát triển. Con người
quan trọng là thế cho nên Quyền con người có lẽ mặc nhiên phải được tôn trọng, bất cứ một cá nhân
nào cũng cần được đảm bảo đầy đủ quyền lợi của mình. Luật pháp quốc tế dường như đã đánh giá
điều này một cách thấu đáo, hệ thống luật pháp quốc tế về chế định này cũng khá toàn diện, tuy
nhiên thực tế những quy định này vẫn gặp rất nhiều khó khăn khi áp dụng và dường như chưa thể
giải quyết triệt để những mâu thuẫn phát sinh ngày càng phức tạp như hiện nay. Đây quả là một vấn
đề rất quan trọng và đáng để nghiên cứu. Từ việc tìm hiểu vấn đề quyền con người trong luật quốc
tế, ta nhận thức đúng hơn vai trò của chế định này, hiểu rõ hơn khái niệm, phạm vi, tình hình diễn
biến thực thi trên thực tế….Và nhận thức đúng đắn sẽ đưa đến những hành vi, cách nhìn nhận đúng
đắn, tích cực của bản thân đối với quyền lợi đặc biệt này.

18


VẤN ĐỀ QUYỀN CON NGƯỜI TRONG PHÁP LUẬT QUỐC TẾ | 39-QT38A2

PHỤ LỤC
MỘT SỐ CÔNG ƯỚC QUỐC TẾ VỀ QUYỀN CON NGƯỜI VIỆT NAM
ĐÃ PHÊ CHUẨN, GIA NHẬP

Hội nghị tổ
chức thông qua

Thời điểm Việt
Nam phê chuẩn,
gia nhập

STT

Tên điều ước


Thời điểm được
thông qua

1

Công ước về ngăn
ngừa và trừng trị tội ác diệt
chủng

9/12/1948

Đại hội đồng
Liên hiệp quốc

Gia nhập ngày
9/6/1981

Công ước quốc tế về
loại trừ tất cả các hình thức
phân biệt chủng tộc

21/12/1965

Đại hội đồng
Liên hiệp quốc

Gia nhập ngày
9/6/1981


Công ước quốc tế về
ngăn ngừa và trừng trị tội ác
A-pác-thai

30/11/1973

Đại hội đồng
Liên hiệp quốc

Gia nhập ngày
9/6/1981

4

Công ước quốc tế về
các quyền dân sự và chính trị

16/12/1966

Đại hội đồng
Liên hiệp quốc

Gia nhập ngày
24/9/1982

5

Công ước quốc tế về
các quyền kinh tế, xã hội và
văn hóa


16/12/1966

Đại hội đồng
Liên hiệp quốc

Gia nhập ngày
24/9/1982

Công ước về xóa bỏ tất
cả các hình thức phân biệt
đối xử với phụ nữ

18/12/1979

Đại hội đồng
Liên hiệp quốc

Phê chuẩn ngày
18/12/1982

Công ước về không áp
dụng các hạn chế luật định
đối với

26/11/1968

Đại hội đồng
Liên hiệp quốc


Gia nhập ngày
4/6/1983

Đại hội đồng
Liên hiệp quốc

Phê chuẩn ngày
20/2/1990

Đại hội đồng
Liên hiệp quốc

Phê chuẩn ngày
20/12/2001

Đại hội đồng
Liên hiệp quốc

Phê chuẩn ngày
20/12/2001

2

3

6

7

Công ước về quyền trẻ


8
em
9

10

11

12

Nghị định thư không
bắt buộc về trẻ em trong
xung đột vũ trang
Nghị định thư không
bắt buộc về chống sử dụng
trẻ em trong mại dâm, tranh
ảnh khiêu dâm.

20/11/1989

25/5/2000

25/5/2000

Công ước về cấm và
hành động ngay để xóa bỏ
hình thức lao động trẻ em tồi
tệ nhất


17/6/1999

Công ước về trả công
bình đẳng giữa lao động nam

6/6/1951
19

Tổ chức Lao
động quốc tế

Tổ chức Lao

Gia nhập năm


VẤN ĐỀ QUYỀN CON NGƯỜI TRONG PHÁP LUẬT QUỐC TẾ | 39-QT38A2

và lao động nữ cho những
công việc có giá trị ngang
nhau (Công ước số 100)
13

Công ước về tuổi lao
động tối thiểu

14

Công ước về chống
phân biệt đối xử trong việc

làm và nghề nghiệp (Công
ước số 111)

15

16

17

18

19

20

21

Công ước về áp dụng
nghỉ hàng tuần trong các cơ
sở công nghiệp (Công ước số
14)
Công ước về sử dụng
phụ nữ vào những công việc
dưới mặt đất trong hầm mỏ
(Công ước số 45)
Công ước về Tuổi tối
thiểu được làm những công
việc dưới mặt đất trong hầm
mỏ (Công ước 123)
Công ước về việc Kiểm

tra y tế cho thiếu niên làm
việc dưới mặt đất trong hầm
mỏ (Công ước 124)
Công ước về an toàn
lao động, vệ sinh lao động và
môi trường lao động (Công
ước 155)

26/7/1973

4/6/1958

25/10/1921

4/6/1935

2/6/1965

2/6/1965

3/6/1981

Công ước về việc cấm
và những hành động tức thời
để loại bỏ những hình thức
lao động trẻ em tồi tệ nhất
(Công ước số 182)

17/6/1999


Công ước về Tuổi tối
thiểu được đi làm việc (Công
ước 138)

26/7/1973

20

động quốc tế

1994

Tổ chức Lao
động quốc tế

Gia nhập ngày
24/6/2003

Tổ chức Lao
động quốc tế

Gia nhập ngày
7/10/1997

Tổ chức Lao
động quốc tế

Gia nhập năm
1994


Tổ chức Lao
động quốc tế

Gia nhập năm
1994

Tổ chức Lao
động quốc tế

Gia nhập năm
1994

Tổ chức Lao
động quốc tế

Gia nhập năm
1994

Tổ chức Lao
động quốc tế

Gia nhập năm
1994

Tổ chức Lao
động quốc tế

Phê chuẩn ngày
19/12/2000


Tổ chức Lao
động quốc tế

Gia nhập ngày
9/6/2003



×