Tải bản đầy đủ (.docx) (11 trang)

Nội dung và giá trị lịch sử của phương châm kháng chiến chống thực dân Pháp xâm luwocj (1946954)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (129.21 KB, 11 trang )

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài

Chiến tranh là một nghệ thuật. Ở đó có sự đối kháng giữa các lưc lượng tham
chiến.Chiến tranh chính là sự đối kháng trên tất cả các lĩnh vực: chính trị, kinh tế, văn
hóa, khoa học, quân sự. Trong suốt tiến trình phát triển của lịch sử các dân tộc trên thế
giới, không có một nước nào dựng nước và giữ nước mà không có chiến tranh. Mỗi
nước tham gia chiến tranh đều có thể đứng ở vị trí nước chủ chiến hoặc nước bị xâm
lược, hoặc cũng có thể là nước can thiệp. Nhưng dù ở bất cứ vị trí nào đi chăng nữa thì
trong chiến tranh việc đưa ra và thực hiện một đường lối chiến tranh đúng đắn sẽ quyết
định phần lớn khả năng chiến thắng của đất nước đó. Đường lối chiến tranh chính là
kết tinh của trí tuệ con người, nó chính là kim chỉ nam cho các hành động và cho sự
quyết tâm
Xuyên suốt lịch sử hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước, Việt Nam đã trải qua
rất nhiều cuộc chiến tranh. Và kết quả của những cuộc chiến tranh ấy chính là nền độc
lập dân tộc, là xã hội xã hội chủ nghĩa với tính chất công bằng, dân chủ, văn minh hôm
nay. Để đạt được kết quả này, toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta đã đổ rất nhiều mồ
hôi, xương máu và nước mắt. Và một trong những yếu tố quan trọng không thể thiếu
được để ta đạt thắng lợi trong các cuộc đấu tranh đó là nhờ ở đường lối lãnh đạo đúng
đắn và sáng suốt của nhà lãnh đạo. Nhìn ngược dòng lịch sử về với Việt Nam những
năm kháng chiến chống Pháp, ta sẽ thấy rõ hơn về vai trò của việc đề ra một đường lối
kháng chiến đúng đắn. Để hiểu sâu hơn về vấn đề này, em xin đi vào tìm hiểu đề tài:
“Nội dung và giá trị lịch sử của phương châm kháng chiến chống thực dân Pháp xâm
luwocj (1946-954) “
2. Tổng quan đề tài lịch sử

Đường lối cách mạng của Đảng cộng sản Việt Nam về thời kì kháng chiến chống Pháp là
một đề tài rộng và cần thời gian nghiên cứu nhất định để hiểu cũng như nắm được những điều
cần thiết nhất. Mặc dù vậy, đã có một số đề tài và sách chuyên khảo nghiên cứu đườ\\ng lối
cách mạng của Đảng cộng sản Việt Nam dưới nhiều góc độ khác nhau:
- Hồ Chí Minh toàn tập – Nhà xuất bản chính trị quốc gia Hà Nội 2000


- Giáo trình Lịch sử Đảng cộng sản Việt Nam – NXB chính trị quốc gia 2008
- Chiến tranh Động Dương (1946-1954) qua một số công trình của người Pháp – Tác giả

Hoàng Văn Tuấn, GS. Vũ Dương Ninh
- Hồ Chí Minh với cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp )1945-1954)- T.S Nguyễn Minh

Đức.
3. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu đề tài nhằm mục đích hiểu rõ về nội dung và giá trị lịch sử của phương châm
kháng chiến chống thực dân Pháp. Đồng thời giúp chúng ta thêm tự hào hơn về truyền thống


yêu nước cũng như mưu trí, dung cảm, đoàn kết chống giặc ngoại xâm. Qua đó, đề tài góp
phần làm sang tỏ hơn những cống hiến của Hồ Chí Minh vào thắng lợi của sự nghiệp cách mạng,
nền khoa học, nghệ thuật quân sự Việt Nam là việc làm mang ý nghĩa thiết thực.
4. Phạm vi nghiên cứu của đề tài

Trong phạm vi của đề tài bản thân em chỉ nghiên cứu một số nội dung chủ yếu của Đường lối
cách mạng Việt Nam trong phương châm kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược (19461954) và khảo sát quán triệt để hiể rõ hơn vai trò của Đảng nói chung và Hồ Chí Minh nói riêng
đối với cách mạng Việt Nam.
5. Phương pháp nghiên cứu đề tài

Ngoài các nguyên tắc phương pháp luận thường thấy, tiểu luận sử dụng các phương pháp cụ
thể, chú trọng phương pháp lịch sử kết hợp với logic, so sánh, phân tích, tổng hợp, thống kê và
phương pháp khảo sát, tổng kết thực tiễn,…
6. Đóng góp của đề tài

Góp phần làm sâu hơn và hiểu rõ thêm Đường lối cách mạng Việt Nam về phương châm
kháng chiến chống Pháp xâm lược (1946 – 1954 )
Đề tài góp phần làm sang tỏ những cống hiến của Hồ Chí Minh vào thắng lợi của sự nnghiệp

giải phóng dân tộc nước nhà.
7. Kết cấu của đề tài

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tham khảo, tiểu luận được kết cấu…


PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: HOÀN CẢNH LỊCH SỬ VIỆT NAM TRƯỚC CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG THỰC DÂN
PHÁP
1. Thuận lợi

Sau chiến tranh Thế giới thứ hai, hệ thống chủ nghĩa xã hội trên Thế giới đang dần
hình thành và phát triển, bao gồm Liên Xô và các nước Đông Âu. Các nước Tư bản chủ
nghĩa bị tàn phá nặng nề, phong trào đấu tranh đòi dân chủ ở các nước Tư bản phát
triển mạnh mẽ. Phong trào giải phóng dân tộc ngày càng phát triển mạnh ở Á - Phi –
Mỹ Latinh. Đặc biệt, sau thắng lợi của cách mạng tháng Tám, quần chúng nhân dân
ngày càng thêm tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước, tin tưởng vào sự lãnh
đạo của Chính phủ mà đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh. Niềm tự hào dân tộc, ý thức
đoàn kết quốc gia truyền thống yêu nước và tinh thần tương thân tương ái sẽ là động
lức thúc đẩy con thuyền cách mạng Việt Nam vượt qua mọi sóng gió, thác ghềnh để
cập bến bờ thắng lợi.
2. Khó khăn:
2.1 Đối ngoại:
- Sau chiến tranh thế giới thứ hai, mặc dù chủ nghĩa phát xít đã bị tiêu diệt, lực lượng
đế quốc đã suy yếu hơn trước, song với bản chất phản động, bọn Đế quốc ra sức đàn
áp phong trào cách mạng thế giới, đặc biệt là phong trào giải phóng dân tộc, giành giật
lại những thuộc địa đã mất. Việt Nam trở thành đối tượng đàn áp và giành giật của các
thế lực Đế quốc và tay sai. Theo quy định của hội nghị Ianta và Pôtxđam, vấn đề giải
giáp quân đội Nhật ở Đông Dương, mà cụ thể là ở Việt Nam được quy định như sau :
Phía Bắc vĩ tuyến 16 giao cho 20 vạn quân Tưởng, mà đằng sau quân Tưởng là

nước Mỹ.
Còn Nam vĩ tuyến 16 được giao cho quân Anh, mà đằng sau quân Anh là thực dân
Pháp.
Chưa bao giờ trong lịch sử dân tộc, Việt Nam lại cùng lúc phải đối phó với nhiều kẻ
thù đến như vậy. Đó là chưa kể đến lúc này ở Việt Nam còn có 6 vạn quân Nhật đang
chờ giải giáp. Lúc này, Đảng ta nhận định: Việt Nam nằm trong vòng vây trùng trùng
điệp điệp của chủ nghĩa Đế quốc. Trong tất cả các kẻ thù lúc bấy giờ, Pháp chính là kẻ
thù nguy hiểm nhất đối với nền độc lập của Việt Nam.
2.2 Đối nội
- Về chính trị : Hệ thống chính quyền còn non trẻ, chưa có nhiều kinh nghiệm lãnh đạo.
Khối đại đoàn kết toàn dân cần có thời gian củng cố. Chính phủ Hồ Chí Minh vừa mới


thành lập, chưa được một nước nào trên thế giới công nhận nên gặp nhiều khó khăn
trong đối ngoại. Bọn phản động ngóc đầu dậy ráo riết hoạt động.
- Về kinh tế - tài chính : Kinh tế - tài chính lâm vào tình trạng kiệt quệ. Kinh tế Việt Nam
tiêu điều, xơ xác, nạn đói tràn lan, mùa màng thất bát. Nhà máy nằm trong tay tư bản
pháp, hàng hóa khan hiếm, giá cả tăng vọt. Tài chính khánh kiệt, ngân quỹ trống rống,
kho bạc Nhà nước chỉ còn 1,2 triệu, trong đó 58 vạn rách nát, ngân hàng Đông Dương
vẫn nằm trong tay tư bản Pháp. Quân Tưởng lại tung thêm tiền quan kim và quốc tệ
đang mất giá khiến tình hình tài chính càng thêm rối loạn. Bức tranh kinh tế - tài chính
ảm đạm.
- Về văn hóa – xã hội : Hậu quả chính sách văn hóa ngu dân để lại là 95% dân số mù
chữ, các tệ nạn xã hội tràn lan. Có thể nói, chưa bao giờ trong lịch sử dân tộc, Việt
Nam lại cùng lúc phải cùng lúc đối phó với nhiều kẻ thù đến như vậy. Vận mệnh dân tộc
ở trong tình trạng ngàn cân treo sợi tóc. Tổ quốc lâm nguy.


CHƯƠNG 2:PHƯƠNG CHÂM KHÁNG CHIẾN CHỐNG THỰC DÂN PHÁP XÂM
LƯỢC CỦA ĐẢNG

1. Cơ sở của đường lối kháng chiến chống thực dân Pháp của Đảng:

Sau cách mạng tháng Tám 1945, mặc dù phải đối mặt với rất nhiều khó khăn trong
đối nội nhưng Đảng và Chính phủ nước Việt Nam dân chủ cộng hòa vẫn luôn luôn chú
trọng đến công tác giải quyết những vấn đề đối ngoại. Đặt chủ trương giải quyết các
vấn đề đối nội và đối ngoại một cách song song. Trong đường lối đối ngoại của mình,
Đảng xác định rõ : Trong các kẻ thù của Việt Nam lúc bấy giờ thì Pháp chính là kẻ thù
nguy hiểm nhất đe dọa trực tiếp, hằng ngày, hằng giờ đến nền độc lập vừa mới giành
được của Việt Nam. Xét về mặt vị thế, Pháp là một Đế quốc với tiềm lực kinh tế, chính
trị và quân sự hùng mạnh, là một tên Đế quốc già và đã có vị thế nhất định trên thế giới.
Trong khi lúc này, Việt Nam vừa mới dành được nền độc lập, trải qua hàng ngàn năm
đấu tranh, lại là một dân tộc nhỏ bé với nền kinh tế nông nghiệp lúa nước lạc hậu, Việt
Nam thực sự còn rất non trẻ. Có thể nói so với Pháp, Việt Nam đứng ở thế yếu.
Tuy nhiên, sức mạnh tiềm tàng và cũng là thế mạnh của Việt Nam mà Pháp hay bất
cứ thế lực nào khác cũng không thể tác động đó là sức mạnh của tinh thần đoàn kết,
sức mạnh của niềm tự tôn dân tộc, sức mạnh của truyền thống yêu nước hàng ngàn
năm lịch sử, sức mạnh của ý thức tự giải phóng đất nước, giải phóng con người.
Sau cách mạng tháng Tám, trước vòng vây trùng trùng điệp điệp của chủ nghĩa Đế
quốc và các thế lực phản động, Đảng đã tích cực thực hiện các biện pháp chống ngoại
xâm và nội phản, bảo vệ chính quyền cách mạng. Với dã tâm xâm lược nước ta một
lần nữa, ngay sau khi Nhật đầu hàng đồng minh, chính phủ Đờ Gôn quyết định thành
lập một đạo quân viễn chinh tiến hành xâm lược Việt Nam. Đêm ngày 22, rạng sáng
ngày 23/9/1945, pháp nổ súng tấn công Trụ sở Ủy ban nhân dân Nam Bộ và cơ quan
tự vệ thành phố, mở đầu cuộc xâm lược Việt Nam lần thứ hai. Đảng ta đã nêu chủ
trương đánh Pháp để bảo vệ Nam Bộ, tổ chức lực lượng cả nước chi viện cho Nam Bộ.
Ngày 25/11/1945, Ban chấp hành Trung ương Đảng ra chỉ thị về ‘‘kháng chiến - kiến
quốc’’, vạch ra con đường đi lên cho cách mạng Việt Nam trong giai đoạn mới. Ở Miền
Bắc, Chính phủ Việt Nam đã thực hiện các biện pháp chống Đế quốc và bọn phản cách
mạng. Trong mối quan hệ với quân Tưởng và tay sai, chúng ta chủ trương tránh mọi
xung đột. Với Tưởng, ta nhận cung cấp một phần lương thực, thực phẩm, phương tiện

giao thông, đồng thời đấu tranh hòa bình với chúng.
Đối với bọn Việt quốc, Việt cách, chúng ta thực hiện nhân nhượng có nguyên tắc với
chúng, nhường 70 ghế trong Quốc hội, trong đó có một ghế phó chủ tịch nước cho
chúng. Đổi lại, Hồ Chí Minh vẫn giữ chức Chủ tịch nước, lực lượng cách mạng vẫn
nắm ưu thế trong Chính phủ và Quốc hội.Với bọn phản cách mạng, ta kiên quyết vạch
trần và trừng trị theo pháp luật.


Ngày 11/11/1945, Đảng cộng sản Đông Dương tuyên bố tự giải tán nhưng thực chất
là rút vào hoạt động bí mật, tiếp tục lãnh đạo phong trào cách mạng. Ngày 28/2/1946,
Pháp và Tưởng ký kết Hiệp ước Hoa – Pháp, đặt nước ta trước một tình hình mới. Lúc
này, nếu chúng ta cầm súng chống Pháp có nghĩa là cùng lúc chúng ta sẽ cùng phải đối
phó với cả Pháp, cả Tưởng và quân đồng minh. Đây là điều hoàn toàn không có lợi cho
ta. Vì vậy, giải pháp tốt nhất là chúng ta phải nhượng bộ có điều kiện với Pháp. Lúc
này, Pháp cũng đang muốn đàm phán với Việt Nam để xúc tiến nhanh chóng việc đưa
quân ra Miền Bắc, loại bỏ Tưởng. Đó chính là cơ sở dẫn đến việc ký kết Hiệp định Sơ
bộ (6/3/1946) giữa Việt Nam và Pháp. Trong hiệp định ta đã nhân nhượng Pháp, cho
Pháp đưa 15000 quân ra Bắc thay Tưởng giải giáp quân đội Nhật, số quân này đóng tại
những địa điểm quy định và rút dần trong vòng 5 năm.
Nhưng mặt khác, Hiệp định thể hiện sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng ta, nó chính là
sự thừa nhận của Chính phủ Pháp về sự tồn tại của Việt Nam với tư cách một quốc gia
dân chủ cũng như thừa nhận địa vị đại diện cho nhân dân Việt Nam của Chủ tịch Hồ
Chí Minh, đập tan âm mưu liên kết chống Việt Nam của Pháp và Tưởng. Tuy ta đã hết
sức nhân nhượng nhưng Pháp vẫn lấn tới, chúng liên tục vi phạm: vi phạm lệnh ngừng
bắn ở Miền Bắc, cho quân đánh chiếm trái phép một số vùng ở Bắc Bộ, thành lập chính
phủ Nam kỳ tự trị hòng tách Nam Bộ ra khỏi Việt Nam. Các cuộc đàm phán hòa bình
giữa Việt Nam và Pháp không thành công do dã tâm của Pháp.
Trước nguy cơ cuộc chiến tranh Việt - Pháp đang đến gần, Chính phủ ta quyết định
nhân nhượng với Pháp thêm một lần nữa, ký với Pháp bản Tạm ước ngày 14/9/1946,
tiếp tục nhân nhượng cho Pháp một số quyền lợi về kinh tế - văn hóa ở Việt Nam để

tạo thời gian hòa hoãn cho ta xây dựng, chuẩn bị lực lượng bước vào cuộc chiến tranh
không thể tránh khỏi, chuẩn bị cho kháng chiến lâu dài. Đảng và Chính phủ ta đã tỏ rõ
thiện chí hòa bình, cố gắng làm những việc có thể để đẩy lùi chiến tranh. Trong khi
chúng ta đã hết lòng nhân nhượng và chấp hành đúng những gì đã thỏa thuận, ký kết
thì thực dân Pháp lại liên tục bội ước. Chúng xem sự nhân nhượng của ta là hành động
hèn nhát đầu hàng, chúng kiêu căng ngạo mạn về sức mạnh của mình, cho nên càng
ngày chúng càng lấn tới. Với dã tâm cướp nước ta một lần nữa, thực dân Pháp thi
hành chính sách việc đã rồi, tăng cường khiêu khích và lấn chiếm. Ngày 20/11/1946,
quân Pháp mở cuộc tấn công chiếm đóng thành phố Hải Phòng, thị xã Lạng Sơn và đổ
bộ lên Đà Nẵng. Ngày 16/12/1946, những tên trùm thực dân Pháp ở Đông Đương đã
họp tại Hải Phòng bàn triển khai kế hoạch đánh chiếm Hà Nội và khu vực Bắc vĩ tuyến
16. Ngày 17 và 18/12/1946, tại Hà Nội, quân Pháp tàn sát thảm khốc đồng bào ta tại
phố Hàng Bún, Yên Ninh, đòi kiểm soát an ninh trật tự ở thủ đô. Trắng trợn hơn, chúng
còn gửi tối hậu thư buộc ta phải giao quyền kiểm soát thủ đô cho chúng, nếu không,
chậm nhất là sáng 20/12/1946, quân Pháp sẽ hành động.
Lịch sử đã đặt dân tộc ta trước một sự lựa chọn mới. Thực tế cho thấy khả năng hòa
hoãn không còn. Hành động của thực dân Pháp đã đặt Đảng và Chính phủ ta trước
một tình thế không thể nhân nhượng thêm được nữa, vì nhân nhượng sẽ dẫn đến họa


mất nước, nhân dân sẽ trở lại cuộc đời nô lệ. Trong thời điểm lịch sử quyết đoán
này,Hội nghị của Ban Thường vụ Trung ương Đảng họp tại làng Vạn Phúc – Hà Đông
ngày 19/12/1946 đã quyết định hạ quyết tâm phát động kháng chiến toàn quốc. Mệnh
lệnh kháng chiến được phát đi. Vào lúc 20h ngày 19/12/1946,tất cả các chiến trường
trong cả nước đồng loạt nổ súng. Rạng sáng ngày 20/12/1946, ‘‘Lời kêu gọi toàn quốc
kháng chiến’’ của Chủ tịch Hồ Chí Minh được phát đi trên đài tiếng nói Việt Nam.
Lúc này, nhân dân Việt Nam bước vào cuộc đấu tranh chống Pháp với vai trò bảo vệ
Tổ quốc, tính chất của cuộc chiến tranh là cuộc chiến tranh chính nghĩa, chiến tranh
nhân dân bảo vệ hòa bình, chống lại kẻ thù xâm lược, nhân dân ta có thiên thời, địa lợi,
nhân hòa. Mặt khác, trải qua một quá trình lâu dài thực hiện hòa hoãn với Pháp, giờ

đây ta đã loại bỏ được các kẻ thù, chỉ còn lại kẻ thù duy nhất là Pháp, các công tác đối
nội cũng đã được giải quyết về cơ bản, các điều kiện cần thiết chuẩn bị cho chiến tranh
đã sẵn sàng, Đảng và nhân dân có đủ niềm tin để chiến đấu và chiến thắng. Trong khi
đó, lúc này Pháp vấp phải không ít khó khăn về kinh tế, chính trị, quân sự ở trong nước
và tại Đông Dương, những khó khăn này không dễ gì chúng khắc phục được ngay
trong ngày một, ngày hai.
Tuy nhiên, bên cạnh những thuận lợi cơ bản đó, chúng ta cũng vấp phải một số khó
khăn nhất định. Lực lượng của ta so với Pháp còn yếu, vũ khí trang bị lạc hậu hơn. Ta
bị cô lập, bao vây bốn phía, chưa được công nhận địa vị trên trường quốc tế. Trong khi
Pháp lại có vũ khí tối tân và đã chiếm đóng được Lào, Cămpuchia và một số nơi ở Nam
Bộ Việt Nam, có quân đội đứng chân trong các thành thị lớn ở Miền Bắc.
Những đặc điểm của sự khởi đầu và những thuận lợi, khó khăn đó chính là cơ sở để
Đảng xác định đường lối cho cuộc kháng chiến.
2. Nội dung phương châm kháng chiến chống thực dân Pháp của Đảng:

Đường lối kháng chiến của Đảng được hình thành từng bước qua thực tiễn đối phó
với âm mưu, thủ đoạn xâm lược của thực dân Pháp.
Ngay sau ngày cách mạng tháng Tám thành công, trong chỉ thị thị về kháng chiến –
kiến quốc, Đảng đã nhận định kẻ thù chính, nguy hiểm nhất của dân tộc ta là thực dân
Pháp xâm lược, phải tập trung mũi nhọ đấu tranh vào chúng.
Trong quá trình chỉ đạo cuộc kháng chiến, trước những âm mưu, thủ đoạn của kẻ
thù, Đảng đã đưa ra những chủ trương, chỉ thị chỉ đạo kháng chiến thích hợp, kịp thời.
Những văn kiện này đã cấu thành đường lối kháng chiến chống Pháp của Đảng ta.
Những nội dung cơ bản trong đường lối kháng chiến chống thực dân Pháp của Đảng
được thể hiện trong các văn kiện: Chỉ thị Kháng chiến – kiến quốc (25/11/1945) của
Ban chấp hành Trung ương Đảng, Chỉ thị Toàn dân kháng chiến (12/12/1946) của Ban
chấp hành Trung ương Đảng, Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến (19/12/1946) của Chủ
tịch Hồ Chí Minh, tác phẩm Kháng chiến nhất định thắng lợi (9/1947) của đồng chí
Trường Chinh và Chính cương của Đảng lao động Việt Nam sau này.



Đường lối kháng chiến chống thực dân Pháp của Đảng toát lên những nội dung cơ
bản sau:
- Về mục đích kháng chiến: Kế tục và phát triển sự nghiệp của Cách mạng tháng
Tám, đánh phản động thực dân Pháp, giành thống nhất và độc lập.
- Về tính chất kháng chiến: Cuộc kháng chiến của dân tộc ta là một cuộc chiến tranh
cách mạng của nhân dân, chiến tranh chính nghĩa. Nó có tính chất toàn dân, toàn diện
và lâu dài. Là một cuộc chiến tranh tiến bộ vì tự do, độc lập, dân chủ và hòa bình. Đó là
cuộc kháng chiến có tính chất dân tộc giải phóng và dân chủ mới.
- Chính sách kháng chiến: Liên hiệp với dân tộc Pháp, chống phản động thực dân
Pháp. Đoàn kết với Miên, Lào và các dân tộc yêu chuộng tự do, hòa bình. Đoàn kết
chặt chẽ toàn dân. Thực hiện toàn dân kháng chiến... Phải tự cấp, tự túc về mọi mặt.
- Chương trình và nhiệm vụ kháng chiến: Đoàn kết toàn dân, thực hiện quân, chính,
dân nhất trí... Động viên nhân lực, vật lực, tài lực, thực hiện toàn dân kháng chiến, toàn
diện kháng chiến, trường kỳ kháng chiến. Giành quyền độc lập, bảo toàn lãnh thổ,
thống nhất Trung, Nam, Bắc. Củng cố chế độ cộng hòa dân chủ... Tăng gia sản xuất,
thực hiện
- Phương châm tiến hành kháng chiến: Tiến hành cuộc chiến tranh nhân dân, thực hiên
kháng chiến toàn dân, toàn diện, lâu dài, dựa vào sức mình là chính. + Kháng chiến
toàn dân: Xác định kháng chiến toàn dân, Đảng dựa vào cơ sỏ lý luận và thực tiễn: *
Cơ sở lý luận: Nguyên lý của chủ nghĩa Mác – Lênin đã chỉ ra rằng: Cách mạng là sự
nghiệp của quần chúng nhân dân, do nhân dân tiến hành. Trong suốt quá trình phát
triển của lịch sử dân tộc, mỗi khi đất nước đứng trước những thử thách to lớn, để chiến
thắng được kẻ thù thì điều cơ bàn là phải dựa vào dân, lấy dân làm gốc. * Cơ sở thực
tiễn: Tiếp tục kế thừa và phát triển truyền thống dựng nước và giữ nước của ông cha
ta. Đó là truyền thống cả nước chung lòng, toàn dân đánh giặc. kinh tế tự túc...
- Phương châm tiến hành kháng chiến: Tiến hành cuộc chiến tranh nhân dân, thực
hiên kháng chiến toàn dân, toàn diện, lâu dài, dựa vào sức mình là chính.
Pháp có tiềm lực kinh tế, quân sự mạnh hơn ta gấp nhiều lần, do đó buộc ta phải huy
động sức mạnh toàn dân. Kháng chiến toàn dân sẽ đem lại cho cách mạng Việt Nam

một sức mạnh to lớn cả về vật chất và tinh thần, góp phần đánh thắng mọi kế hoạch
của Pháp.
Chúng ta tiến hành chiến tranh nhằm mục đích bảo vệ Tổ quốc, do đó cuộc chiến
tranh của ta là cuộc chiến tranh chính nghĩa chống lại chiến tranh phi nghĩa. Chiến
tranh Việt Nam là chiến tranh nhân dân do đó phải dựa vào dân, phải kháng chiến toàn
dân, toàn diện. Có thể nói, chiến tranh bao giờ cũng là cuộc đối đầu toàn diện giữa hai
bên tham chiến. Ở đây, thực dân Pháp tiến hành xâm lược Việt Nam trên tất cả mọi


phương diện. Vì thế, cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam cũng sẽ diễn ra trên tất
cả các lĩnh vực. Kháng chiến trên mọi lĩnh vực biểu hiện:
Về chính trị: Thực hiện đoàn kết toàn dân, tăng cường xây dựng Đảng, chính quyền,
các đoàn thể nhân dân; Đoàn kết Mên, Lào và các dân tộc yêu chuộng tự do hòa bình.
Về quân sự: Thực hiện vũ trang toàn dân,xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, tiêu
diệt địch, giải phóng nhân dân và đất đai, thực hiện du kích chiến tiến lên vận động
chiến, đánh chính quy, là ‘‘Triệt để dùng du kích, vận động chiến. Bảo toàn thực lực,
kháng chiến lâu dài,...Vừa đánh vừa võ trang thêm; vừa đánh vừa đào tạo thêm cán
bộ’’. Lần lượt đánh bại các kế hoạch, chiến lược chiến tranh của Pháp, tiêu diệt lực
lượng địch trên đất nước ta, đè bẹp ý chí xâm lược của chúng, giành độc lập cho đất
nước.
Về kinh tế: Tiêu thổ kháng chiến, xây dựng kinh tế tự cung tự túc, tập trung phát triển
nông nghiệp, thủ công nghiệp, thương nghiệp và công nghiệp quốc phòng. Chúng ta
đưa ra khẩu hiệu: ‘‘Xây dựng kinh tế ta, phá hoại kinh tế địch’’, chống lại kế hoạch ‘‘lấy
chiến tranh nuôi chiến tranh’’ của Pháp.
Về văn hóa: Xóa bỏ văn hóa thực dân, phong kiến. Xây dựng nền văn hóa dân chủ
mới theo ba nguyên tắc: dân tộc, khoa học, đại chúng. Thực hiện khẩu hiệu: ‘‘Văn hóa
hóa kháng chiến, kháng chiến hóa văn hóa’’.
Về ngoại giao: Thực hiện thêm bạn bớt thù, biểu dương thực lực. ‘‘Liên hiệp với dân
tộc Pháp, chống phản động thực dân Pháp’’, sẵn sàng đàm phán nếu Pháp công nhận
Việt Nam độc lập. Thoát khỏi thế bị bao vây cô lập. Có thể nói, kháng chiến toàn diện

chính là một biểu hiện của kháng chiến toàn dân. Kháng chiến toàn diện giúp phát huy
triệt để lợi thế của mỗi giai cấp, mỗi cá nhân trong cuộc kháng chiến chống Pháp xâm
lược.
Mặc dù gian khổ, lâu dài, khó khăn nhưng “ Trường kì kháng chiến nhất định thắng
lợi”.
Như vậy, Đảng đã nhận định tình hình, đánh giá hợp lý, khích lệ tinh thần nhân dân
về một cuộc chiến nhất định thành công một cách đúng lúc khi cuộc kháng chiến mới
bắt đầu, giúp cuộc kháng chiến có thể sớm đi vào đúng quỹ đạo và phát triển ổn định.
3. Ý nghĩa phương châm kháng chiến chống thực dân Pháp của Đảng

Phương châm kháng chiến với những nội dung cơ bản như trên là hoàn toàn đúng
đắn và sang tạo. Đường lối kháng chiến của thực dân Pháp là sự kế thừa và nâng lên
tầng cao mới tư tưởng truyền thống quân sự của tổ tiên, đúng với các nguyên lý vrrf
chiến tranh cách mạng của chủ nghĩa Mác- Lenin, vừa phù hợp với thực tế đất nước
lúc bấy giờ. Phương châm kháng chiến chính là sự vận dụng sáng tạo nguyên lý chiến
tranh cách mạng của chủ nghĩa Mác-Lenin và kinh nghiệm quân sự của nước ngoài


vào Việt Nam. Đây là đường lối chiến tranh nhân dân, chiến tranh chính nghĩa “lấy yếu
chống mạnh”, “lấy ít địch nhiều”, “lấy chính nghĩa chống hung tàn”.
Phương châm, đường lối của Đảng được công bố sớm đã có tác dụng đưa cuộc
kháng chiến nhanh chóng đi vào ổn định và đúng hướng, từng bước đi tới thắng lợi vẻ
vang mà đỉnh cao là thắng lợi trong Đông – Xuân 1953-1954 với chiến thắng Điện Biên
Phủ. Bảo vệ thắng lợi của cuộc cách mạng tháng Tám, làm thất bại âm mưu xâm lược
của Pháp và can thiệp của Mỹ, buộc chúng công nhận độc lập, chủ quyền toàn vẹn
lãnh thổ của ba nước Đông Dương. Nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế,
đồng thời cũng mang trong mình ý nghĩa quốc tế, cổ vũ mạnh mẽ phong trào đấu tranh
giải phóng thuộc địa, là tiếng chuông báo tử cho hệ thông thực dân cũ trên toàn thế
giới.
4. Bài học kinh nghiệm


Trải qua quá trình lãnh đạo kháng chiến kiến quốc, Đảng ta đã tích lũy được nhiều
kinh nghiệm quý báu.
-

-

-

-

-

Đề ra phương châm, đường lối đúng đắn và quán triệt sâu rộng phương
châm, đường lối đó cho toàn Đảng, toàn dân, toàn quân thực hiện, đó là
đường lối chiến tranh nhân dân, kháng chiến toàn dân, toàn diện, lâu dài,
dựa vào sức mình là chính.
Kết hợp chặt chẽ, đúng đắn nhiệm vụ chống đế quốc với nhiệm vụ chống
phong kiến và xây dựng chế độ dân chủ nhân dân, đặt nền móng cho chủ
nghĩa xã hội, trong đó nhiệm vụ tập trung hàng đầu là chống đế quốc giải
phóng dân tộc, bảo vệ chính quyền cách mạng.
Thực hiện phương châm vừa kháng chiến, vừa xây dựng chế độ mới, xây
dựng hậu phương vững mạnh để có tiềm lực mọi mặt, đáp ứng yêu cầu
ngày càng cao của cuộc kháng chiến.
Quán triệt tư tưởng kháng chiến gian khổ và lâu dài, đồng thời tích cực,
chủ động đề ra và thực hiện phương thức tiến hành chiến tranh và nghệ
thuật quân sự sang tạo, kết hợp đấu tranh quân sự với đấu tranh ngoại
giao, đưa kháng chiến đến thắng lợi.
Tăng cường công tác xây dựng Đảng, nâng cao sức chiến đấu và hiệu
lực lãnh đạo của Đảng trong chiến tranh.



-

KẾT LUẬN

Phương châm, đường lối cách mạng chính là một trong những yếu tố quan trọng
quyết định đến sự thắng lợi của cách mạng. Nó là cơ sở để dẫn dắt cách mạng đi đến
thành quả cuối cùng. Một đường lối cách mạng đúng đắn kết hợp với việc thực hiện
triệt để sẽ dẫn tới cuộc cách mạng thành công và ngược lại, một phương châm đường
lối cách mạng chưa xác định chính xác những vấn đề chính của cách mạng thì sẽ dẫn
tới một kết quả không như mong muốn. Đảng ta căn cứ vào những điều kiện cụ thể của
đất nước ta, vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác- Leenin để vạch ra đường lối cách
mạng đúng đắn, sáng tạo, đưa kháng chiến đến thắng lợi vẻ vang. Có thể nói, phương
châm đường lối kháng chiến chống xâm lược của thực dân Pháp của Đảng ta chính là
kết tinh của trí tuệ con người, thể hiện năng lực lãnh đạo vững vàng của Đảng ta. Nó
góp phần khẳng định Đảng cộng sản Việt Nam hoàn toàn xứng đáng với vai trò lãnh
đạo dân tộc Việt Nam.

Trong quá trình tìm hiểu và thu thập thông tin để hoàn thành bài tiểu luận ,chắc
chắn em sẽ có không ít thiếu sót. Rất mong được sự góp ý và đánh giá của
Thầy/cô để đề tài được hoàn thiên hơn. Xin chân thành cảm ơn!


Tài liệu tham khảo:
- Giáo trình đường lối cách mạng của Đảng cộng sản Việt Nam- NXB chính trị
2008
- Hồ Chí Minh với cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp )1945-1954)- T.S Nguyễn Minh
Đức.
- Hồ Chí Minh toàn tập – Nhà xuất bản chính trị quốc gia Hà Nội 2000

- Diễn biến cuộc chiến tranh chống Pháp 1945- 1954 ( luanvan.net)
- Chiến tranh Đông Dương ( tailieu.vn)



×