Tải bản đầy đủ (.pdf) (27 trang)

Giáo dục đạo đức cho sinh viên các trường đại học, cao đẳng ở thành phố hồ chí minh hiện nay tt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (309.07 KB, 27 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

PHẠM HÙNG DŨNG
GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CHO SINH VIÊN
CÁC TRƢỜNG ĐẠI HỌC, CAO ĐẲNG
Ở THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH HIỆN NAY

Chuyên ngành

: Đạo đức học

Mã số

: 62 22 03 06

TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC

HÀ NỘI – 2017


Cơng trình được hồn thành tại:
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Hồ Việt Hạnh
Phản biện 1: GS.TS. Nguyễn Văn Tài
Phản biện 2: GS.TS. Nguyễn Hùng Hậu
Phản biện 3: PGS.TS. Nguyễn Anh Tuấn

Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm Luận án cấp Học viện
Họp tại Học viện Khoa học xã hội
Vào lúc ………….. giờ, ngày …………. tháng …… năm 2017



Có thể tìm hiểu luận án tại:
1. Thư viện Quốc gia Việt Nam
2. Thư viện Học viện Khoa học xã hội


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Giáo dục và đào tạo là một trong những lĩnh vực từ lâu đã
được Đảng và Nhà nước đặc biệt quan tâm, ngày nay vấn đề đó được
xem là “quốc sách hàng đầu”. Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản
Việt Nam, sau 30 năm đổi mới, Việt Nam đã đạt được những thành
tựu đáng tự hào. Kinh tế phát triển làm cho mọi mặt của đời sống xã
hội cũng phát triển theo. Song, mặt trái của nền kinh tế thị trường,
hội nhập quốc tế lại nảy sinh những yếu tố tiêu cực. Trên thực tế, ở
nước ta hiện nay nói chung và Thành phố Hồ Chí Minh nói riêng,
tình trạng suy thối đạo đức diễn ra ngày càng gây gắt, nhất là đối với
thanh niên, sinh viên. Văn kiện Đại hội đại biểu Đồn Thanh niên
Cộng sản Hồ Chí Minh TP.Hồ Chí Minh lần IX đã đánh giá: “Một bộ
phận thanh niên sống thiếu lý tưởng, thiếu ý thức chấp hành pháp
luật, có lối sống thực dụng, thích hưởng thụ, đua địi, lãng phí, tiêu
cực trong đạo đức, lối sống, sa vào tệ nạn xã hội và vi phạm pháp
luật”. Với vai trò đặc biệt quan trọng của sinh viên, nếu để tình trạng
suy thoái đạo đức kéo dài và trở thành hiện tượng phổ biến trong xã
hội sẽ dẫn đến hậu quả khôn lường.
Mặt khác, quan trọng hơn là mức độ quyết định việc nguồn lực
sinh viên đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước, đứng vững và phát huy sức mạnh chủ thể của nguồn
lực nội sinh trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa, hội nhập quốc tế lại phụ thuộc nhiều vào phẩm chất đạo đức,

phụ thuộc vào chất lượng chuyên môn nghiệp vụ. Trên thực tế, nguồn
lực sinh viên ở Thành phố Hồ Chí Minh cịn nhiều hạn chế, bất cập:
“Nguồn nhân lực chưa đáp ứng yêu cầu phát triển và hội nhập quốc
tế”. Vì vậy, việc nghiên cứu những yếu tố tác động đến đạo đức, giáo
dục đạo đức cho sinh viên Việt Nam nói chung cũng như sinh viên
Thành phố Hồ Chí Minh nói riêng hiện nay, trên cơ sở đó đề xuất
những giải pháp chủ yếu nhằm xây dựng những thế hệ sinh viên có
nhân cách và đạo đức góp phần phát triển nguồn nhân lực sinh viên
đông về số lượng và tốt về chất lượng, đáp ứng yêu cầu đổi mới đất
nước, hội nhập quốc tế hiện nay đang là vấn đề có ý nghĩa lý luận và
thực tiễn cấp bách. Đó là lý do chúng tôi chọn “Giáo dục đạo đức
cho sinh viên các trường đại học, cao đẳng ở Thành phố Hồ Chí
Minh hiện nay” làm đề tài luận án tiến sĩ Triết học.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu


Phân tích một số khái niệm cơng cụ của luận án: đạo đức, giáo
dục đạo đức, tầm quan trọng của việc giáo dục đạo đức, nội dung
giáo dục đạo đức cho sinh viên hiện nay. Phân tích và làm rõ thực
trạng đạo đức và việc giáo dục đạo đức cho sinh viên Thành phố Hồ
Chí Minh, từ đó luận án đề xuất phương hướng và một số giải pháp
cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục đạo đức cho sinh viên các
trường đại học, cao đẳng ở Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Trình bày tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài.
Góp phần làm sáng tỏ một số khái niệm cơng cụ của luận án:
đạo đức, giáo dục đạo đức cho sinh viên.
Làm rõ tầm quan trọng, nội dung giáo dục đạo đức cho sinh
viên Việt Nam nói chung, sinh viên ở Thành phố Hồ Chí Minh nói

riêng.
Phân tích, đánh giá thực trạng đạo đức, công tác giáo dục đạo
đức cho sinh viên Thành phố Hồ Chí minh hiện nay và chỉ ra nguyên
nhân của thực trạng đó.
Đề xuất phương hướng và một số giải pháp chủ yếu nhằm
nâng cao hiệu quả giáo dục đạo đức cho sinh viên các trường đại học,
cao đẳng ở Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận án chủ yếu tập trung nghiên cứu vấn đề giáo dục đạo đức
cho sinh viên các trường đại học, cao đẳng ở Thành phố Hồ Chí
Minh hiện nay.
3.2. Phạm vi nghiên cứu của luận án
Đề tài chỉ nghiên cứu trong phạm vi là sinh viên đang học
trong các trường đại học, cao đẳng ở Thành phố Hồ Chí Minh.
4. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lý luận
Luận án được nghiên cứu dựa trên quan điểm của chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản
Việt Nam về đạo đức và giáo dục đạo đức cho sinh viên Việt Nam.
Ngồi ra, tác giả cịn sử dụng thành tựu các cơng trình khoa
học khác có liên quan đến đề tài.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Ngoài phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, đề
tài còn sử dụng một số phương pháp nghiên cứu như: phương pháp
lơgíc, phương pháp lịch sử - cụ thể, phương pháp phân tích, so sánh,
tổng hợp, nghiên cứu khảo sát thực tiễn, điều tra xã hội học.


5. Những đóng góp khoa học của luận án

Luận án góp phần làm rõ khái niệm đạo đức, giáo dục đạo đức,
tầm quan trọng và nội dung giáo dục đạo đức cho sinh viên Việt Nam
hiện nay.
Phân tích, đánh giá thực trạng đạo đức và công tác giáo dục
đạo đức cho sinh viên Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay và chỉ ra
nguyên nhân của thực trạng đó.
Đề xuất phương hướng và một số giải pháp cơ bản nhằm nâng
cao hiệu quả giáo dục đạo đức cho sinh viên các trường đại học, cao
đẳng ở Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
Luận án góp phần làm sáng tỏ tầm quan trọng và đưa ra một số
giải pháp để nâng cao hiệu quả giáo dục đạo đức cho sinh viên các
trường đại học, cao đẳng ở Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay.
Luận án có thể làm tài liệu tham khảo trong công tác nghiên
cứu, giảng dạy trong các trường đại học, cao đẳng.
Luận án có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho các tổ chức,
đoàn thể, cá nhân trực tiếp làm công tác giáo dục sinh viên và hoạt
động phong trào của sinh viên Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và
phụ lục, luận án gồm có 4 chương, 10 tiết.
Chƣơng 1
TỔNG QUAN CÁC CƠNG TRÌNH NGHIÊN CỨU
LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
1.1. NHỮNG CƠNG TRÌNH NGHIÊN CỨU VỀ ĐẠO
ĐỨC, GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CHO SINH VIÊN
1.1.1. Những cơng trình bàn về đạo đức
Cùng với sự phát triển không ngừng của lịch sử xã hội, lịch sử
loài người, đạo đức học cũng trải qua một quá trình lịch sử hình
thành và phát triển hết sức phong phú. Với tư cách là một bộ phận

của tri thức triết học, những tư tưởng đạo đức đã xuất hiện hơn 26 thế
kỷ trước đây trong triết học Trung Quốc, Ấn Độ, Hy Lạp cổ đại.
Quyển sách “Bàn về đạo đức” của Mác – Ăngghen –
Lênin. Bàn về đạo đức C.Mác – Ph.Ăngghen – V.I.Lênin đã sử dụng
những khái niệm cũ như: thiện, ác, vinh dự, lương tâm, chủ nghĩa vị
tha và chủ nghĩa vị kỷ, chủ nghĩa khổ hạnh và chủ nghĩa hưởng lạc
v.v… C.Mác – Ph.Ăngghen – V.I.Lênin đã nghiên cứu, làm rõ những
vấn đề về bản chất nguồn gốc và quy luật của đạo đức: “Đạo đức là


một hình thái ý thức xã hội, đạo đức thay đổi tùy theo sự thay đổi của
tồn tại xã hội”. Vì vậy, C.Mác – Ph.Ăngghen – V.I.Lênin khơng thừa
nhận có thứ đạo đức tồn tại vĩnh viễn.
Vũ Khiêu với tác phẩm “Đạo đức mới”. Tác giả cho rằng:
“Nói tới đạo đức là nói tới mối quan hệ giữa người và người, là nói
tới thái độ, trách nhiệm và những quy tắc xử lý mối quan hệ giữa bản
thân mình với những người chung quanh, với gia đình, với bạn bè,
với xóm làng và đất nước, với giai cấp và lồi người”. Mỗi hình thái
kinh tế - xã hội đều có những chuẩn mực đạo đức phù hợp.
Cuốn sách “Đạo đức học” tập I và tập II của G.Bandzeladze.
Trên cơ sở nghiên cứu lịch sử đạo đức nhân loại tác giả cho cho
rằng: “Đạo đức là hệ thống những chuẩn mực biểu hiện sự quan tâm
tự nguyện tự giác của những con người trong quan hệ với nhau và
trong quan hệ với xã hội nói chung”.
Thành Duy với cơng trình nghiên cứu “Tư tưởng Hồ Chí Minh
về đạo đức”. Trong cơng trình trên, tác giả đã trình bày có hệ thống
về nguồn gốc, đặc trưng và những nội dung cơ bản của hệ thống tư
tưởng đạo đức Hồ Chí Minh. Trong suốt cuộc đời hoạt động cách
mạng, Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến lĩnh vực đạo đức nhất là
đạo đức cách mạng, Hồ Chí Minh coi: “Đạo đức là gốc đồng thời

xem tài năng là quan trọng đối với người cán bộ cách mạng và con
người mới nói chung”.
Quyển sách “Chuẩn mực đạo đức con người Việt Nam hiện
nay” do nhóm tác giả của Viện Khoa học Xã hội và Nhân văn Quân
sự biên soạn. Trên cơ sở khái quát các vấn đề lý luận về đạo đức, tập
thể tác giả cho rằng đạo đức cần được nhận thức là: “Một hiện tượng
xã hội, thuộc lĩnh vực đời sống tinh thần, bao gồm hệ thống các quan
điểm, quan niệm, nguyên tắc, chuẩn mực xã hội… để điều chỉnh
hành vi ứng xử của con người (giữa người và người, giữa cá nhân và
cộng đồng, giữa con người và tự nhiên…) được thực hiện do sức
mạnh của phong tục, tập quán, dư luận xã hội và lương tâm của mỗi
con người cho phù hợp với lợi ích xã hội, hạnh phúc của con người
và tiến bộ xã hội”.
1.1.2. Những cơng trình bàn về giáo dục đạo đức
Tác giả Trần Hậu Kiêm, Đồn Đức Hiếu với cơng trình “Hệ
thống phạm trù đạo đức học và giáo dục đạo đức cho sinh viên”. Qua
nghiên cứu các phạm trù cơ bản của đạo đức, tập thể tác giả cho rằng
vấn đề GDĐĐ thì đối tượng chủ yếu phải là thanh, thiếu niên, đặc
biệt là SV. Bởi vì, SV là lớp người đang phát triển về mọi mặt, là


người chủ tương lai, là lực lượng thực hiện sự nghiệp CNH, HĐH đất
nước.
Cuốn sách “Hồ Chí Minh về giáo dục, bồi dưỡng thanh, thiếu
niên và nhi đồng” của Viện Hồ Chí Minh và các Lãnh tụ của Đảng.
Đây là cơng trình sưu tầm, biên soạn cơng phu, có hệ thống những
bài nói, bài viết, lời dạy bảo ân cần của Chủ tịch Hồ Chí Minh với
Thanh niên, Thiếu niên và Nhi đồng.
Quyển sách “Giáo dục với việc hình thành và phát triển nhân
cách sinh viên” của tác giả Hoàng Anh. Tác giả cho rằng: “GDĐĐ

cho SV là một trong bốn nhiệm vụ trọng yếu của nền giáo dục đại
học nước ta hiện nay. Nó khơng chỉ trực tiếp hình thành đạo đức SV,
mà hơn hết là tạo ra cơ sở tâm lý tích cực cho sự phát triển nhân cách
SV”. Hiện nay, trong điều kiện mở cửa, hội nhập với các nước trong
khu vực và trên thế giới đã tạo điều kiện cho việc giao lưu, trao đổi
văn hoá ngày càng sâu rộng. Tuy nhiên, hội nhập quốc tế đã tác động
tiêu cực và làm thay đổi các quan niệm sống, lối sống của một bộ
phận giới trẻ ngày nay, một bộ phận thanh niên có hiện tượng suy
thối về đạo đức, sống thực dụng, thiếu hoài bão, lý tưởng sống…
đặc biệt là SV.
Tác giả Nguyễn Thế Kiệt với quyển sách “Mấy vấn đề đạo
đức học Mácxít và xây dựng đạo đức trong điều kiện kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa”. Trong cơng trình này, tác giả
đã làm rõ khái niệm đạo đức, đạo đức học, các kiểu đạo đức trong
lịch sử và cho rằng: “Giai cấp vô sản là giai cấp bị áp bức cuối cùng
trong lịch sử loài người. Đạo đức của giai cấp vô sản là mầm mống
của đạo đức cộng sản chủ nghĩa tương lai”.
Quyển sách “Giáo dục đạo đức mới cho sinh viên trong điều
kiện kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay” của tác giả Lương Gia
Ban, Nguyễn Thế Kiệt. Qua nghiên cứu vấn đề đạo đức và đạo đức
mới (đạo đức xã hội chủ nghĩa) tác giả cho rằng: “GDĐĐ mới cho
SV là nhiệm vụ quan trọng đặc biệt mang tầm chiến lược và ở chừng
mực nào đó có ý nghĩa sống cịn đối với sự nghiệp xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc”. Bởi vì, thơng qua việc GDĐĐ sẽ góp phần hồn thiện
nhân cách, điều chỉnh hành vi của con người phù hợp với những
chuẩn mực đạo đức xã hội.
1.1.3. Những cơng trình bàn về giáo dục đạo đức cho
sinh viên các trƣờng đại học, cao đẳng ở TP.HCM
Bàn về GDĐĐ cho SV các trường đại học, cao đẳng ở
TP.HCM cho đến hiện nay, chủ yếu chỉ dừng lại ở các bài viết, các

báo cáo tại các Hội thảo khoa học.


Quyển sách “Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào giáo dục
đạo đức cho sinh viên ở thành phố Hồ Chí Minh hiện nay” của Phạm
Tấn Xuân Tước, Huỳnh Thị Gấm. Trong cơng trình này, tác giả đã
làm rõ quan niệm của Hồ Chí Minh về đạo đức, lối sống, về vai trò
của thanh niên và tầm quan trọng của công tác GDĐĐ, lối sống cho
thanh niên.
Bài viết “Giáo dục đạo đức cho sinh viên trong giai đoạn hiện
nay” của tác giả Phan Văn Bình. Trong xu thế giao lưu và hội nhập
quốc tế đã làm thay đổi những giá trị văn hố truyền thống của dân
tộc, trong đó có đạo đức. Vì vậy, việc GDĐĐ là hết sức cần thiết và
GDĐĐ nhằm giữ gìn và phát huy những giá trị đạo đức truyền thống,
loại bỏ những quan điểm đạo đức khơng cịn phù hợp, định hướng giá
trị đạo đức đúng đắn, phù hợp với sự tiến bộ và phát triển của xã hội.
Tác giả Nguyễn Thị Hoàng Anh với bài viết “Vai trò của
trường đại học trong việc giáo dục đạo đức cho sinh viên hiện nay”.
Trong sự nghiệp CNH, HĐH đất nước hiện nay, GDĐĐ cho SV sẽ
góp phần nâng cao chất lượng đào tạo toàn diện nguồn nhân lực.
GDĐĐ cho SV là trách nhiệm của mỗi cá nhân và tổ chức xã hội,
trong đó tác giả cho rằng: “Các trường đại học phải có trách nhiệm tổ
chức định hướng”.
Bàn về GDĐĐ và lối sống cho SV, tác giả Huỳnh Cơng Ba với
bài viết: “Giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức và lối sống cho sinh
viên trường đại học Sư phạm TP.Hồ Chí Minh trong thời kỳ hội nhập
và phát triển”. Ý thức được tầm quan trọng của cơng tác giáo dục
chính trị, tư tưởng, đạo đức và lối sống cho thế hệ trẻ, nhiều năm qua
trường đại học Sư phạm TP.HCM luôn chú trọng đến công tác này
nhằm đào tạo đội ngũ giáo viên chất lượng. Trong điều kiện hiện nay,

hầu hết SV trường đại học Sư phạm TP.HCM thích nghi với những
đổi mới của xã hội và tỏ rõ bản lĩnh sống, có trách nhiệm với xã hội,
với nhân dân.
Tác giả Nguyễn Thị Hằng, Phạm Xuân Hậu với bài viết: “Giáo
dục đạo đức cho sinh viên các trường cao đẳng, đại học – Sự nhìn
nhận toàn diện về đối tượng, nội dung và cách thức thực hiện”.
Trong thời kỳ CNH, HĐH theo cơ chế thị trường định hướng XHCN,
việc giáo dục các giá trị đạo đức là rất cần thiết. Nó phải giữ được vị
trí và vai trị đặc biệt quan trọng mới có thể xây dựng đất nước thành
cơng bởi sự tác động tích cực của q trình này.
1.2. NHỮNG CƠNG TRÌNH NGHIÊN CỨU VỀ THỰC
TRẠNG GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC VÀ PHƢƠNG HƢỚNG, GIẢI


PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC
CHO SINH VIÊN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
1.2.1. Những cơng trình nghiên cứu về thực trạng giáo
dục đạo đức cho sinh viên hiện nay Thành phố Hồ Chí Minh
Quyển sách “Rèn luyện đạo đức và ý thức công dân” của Phạm
Khắc Chương. Trên cơ sở chỉ ra thực trạng đạo đức, lối sống của
thanh thiếu niên, học sinh hiện nay, tác giả đã nêu lên một số phẩm
chất đạo đức cơ bản trong nhân cách con người cần phải rèn luyện,
như: Lòng nhân ái, khiêm tốn, lòng vị tha, lòng chân thành, biết
hướng vào mục tiêu cao thượng.
Tác giả Phạm Xuân Tước, Huỳnh Thị Gấm trong cơng trình:
“Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào giáo dục đạo đức cho sinh viên
ở Thành phố Hồ Chí Minh”. Trên cơ sở kết hợp việc kế thừa, sử dụng
thành quả nghiên cứu của các đề tài khác với kết quả nghiên cứu
khảo sát của cá nhân, các nhà nghiên cứu đã làm rõ mặt tích cực
trong đạo đức, lối sống của SV TP.HCM hiện nay. Tuy nhiên, bên

cạnh những ưu điểm, tiến bộ tác giả cũng chỉ ra mặt hạn chế trong
đạo đức, lối sống của SV Thành phố hiện nay.
Tác giả Nguyễn Văn Tuyên và Nguyễn Thị Tĩnh bài viết
“Giáo dục đạo đức cho sinh viên hiện nay theo 23 điều tư cách trong
tác phẩm Đường kách mệnh của Chủ tịch Hồ Chí Minh”. Trong xu
thế tồn cầu hố và hội nhập quốc tế hiện nay, một bộ phận SV do
không nghiêm túc trong rèn luyện, phấn đấu đã có những biểu hiện
tiêu cực đáng lo ngại như: lười học tập, nghiện ngập, vi phạm pháp
luật, sống bng thả. Do đó, cần chăm lo GDĐĐ cách mạng cho thế
hệ SV và coi đó là một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu.
Trần Thị Ngọc Lan, Nguyễn San Hà với bài viết “Giáo dục
đạo đức thông qua học tập của sinh viên tại Bảo tàng: Thực trạng và
giải pháp”. Hiện nay, hệ thống các Bảo tàng trong cả nước rất phong
phú về loại hình như: lịch sử, văn hố, danh nhân, di tích, thắng
cảnh… trong đó, Bảo tàng Lịch sử Việt Nam – TP.HCM thuộc một
trong những loại hình trên. Vì vậy, tập thể tác giả cho rằng việc
GDĐĐ cho HSSV hiện nay thì Nhà trường và các tổ chức Đồn ở
các trường đại học, cao đẳng cần thường xuyên thực hiện phong trào
“Hành trình đến với Bảo tàng” để SV có thể tham gia học tập thực tế
tại Bảo tàng.
“Vai trò người giảng viên trong việc giáo dục đạo đức cho
sinh viên ở các trường đại học, cao đẳng” của tác giả Ngô Minh
Oanh. Trong hệ thống giáo dục của một quốc gia thì giáo dục đại học
là khâu cuối cùng cung cấp sản phẩm, nguồn nhân lực cho xã hội,


phục vụ nhu cầu phát triển của một đất nước. Hiện nay, việc GDĐĐ
trong các trường đại học, cao đẳng đã được chú trọng hơn, nhưng
cũng chưa đạt yêu cầu mong muốn. Một bộ phận giảng viên các
trường đại học, cao đẳng cho rằng cơng tác giáo dục chính trị, tư

tưởng, đạo đức là cơng việc của Phịng Cơng tác Chính trị - Quản lý
SV, của Chi bộ, của Đồn và Hội Sinh viên, nói chung là cơng việc
của trường và Khoa chứ khơng phải là của mình”. Chính những yếu
tố trên là rào cản cho hoạt động GDĐĐ cho SV trong các trường đại
học, cao đẳng hiện nay.
1.2.2. Những cơng trình nghiên cứu về phƣơng hƣớng
và giải pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả GDĐĐ cho SV
Thành phố Hồ Chí Minh
Tác giả Trần Hậu Kiêm, Đồn Đức Hiếu trong cuốn sách “Hệ
thống phạm trù đạo đức học và giáo dục đạo đức cho sinh viên”.
Trên cơ sở nghiên cứu một số phạm trù cơ bản của đạo đức học, tác
giả đã đề xuất những giải pháp GDĐĐ cho SV. Tác giả cho rằng, để
GDĐĐ cho SV thì việc giáo dục thế giới quan khoa học, nhân sinh
quan cộng sản chủ nghĩa là một vấn đề cấp thiết, vì vậy phải không
ngừng nâng cao việc giảng dạy chủ nghĩa Mác – Lênin trong các
trường đại học.
Cuốn sách “Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào giáo dục đạo
đức cho sinh viên ở Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay” của tác giả
Phạm Tấn Xuân Tước, Huỳnh Thị Gấm. Trên cơ sở nghiên cứu thực
trạng đạo đức, lối sống của SV các trường đại học tại TP.HCM tập
thể tác giả đã đưa ra những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công
tác GDĐĐ, lối sống cho SV.
Bài viết “Giáo dục đạo đức thông qua học tập của sinh viên
tại Bảo tàng: Thực trạng và giải pháp” của tác giả Trần Thị Ngọc
Lan, Nguyễn San Hà. Bảo tàng có vị trí quan trọng trong việc học tập
nói chung và giáo dục nói riêng cho SV các trường đại học, cao đẳng.
Vì vậy, để nâng cao hiệu quả GDĐĐ cho SV, tập thể tác giả đã đề
xuất một số giải pháp cơ bản: Một là, cần có sự phối hợp tích cực
hơn nữa giữa Bộ Giáo dục & Đào tạo và hệ thống Bảo tàng trong cả
nước trong việc khuyến khích HSSV đến Bảo tàng. Hai là, hãy để

Bảo tàng là địa chỉ thân thuộc đối với mọi người. Đặc biệt là các em
học sinh, các bạn SV. Ba là, hướng đến việc thành lập Câu lạc bộ
tình nguyện viên, để trở thành hướng dẫn viên, thuyết minh viên Bảo
tàng có thể là những bạn SV. Bốn là, tăng cường thực hiện “Xã hội
hoá Bảo tàng”, “Đưa Bảo tàng đến với mọi người”. Năm là, các


trường đại học, cao đẳng nghiên cứu thiết kế giữa học tập trên lớp với
thực tế tại Bảo tàng.
Trần Mai Ước với bài viết “Những giải pháp cơ bản góp phần
nâng cao chất lượng và hiệu quả giáo dục đạo đức cho sinh viên
trường Đại học Ngân hàng TP.HCM trong giai đoạn hiện nay”.
Trong xu thế hội nhập và toàn cầu hoá về kinh tế và các lĩnh vực xã
hội khác, sự bùng nổ về thông tin đã tạo điều kiện cho SV Việt Nam
nói chung, cũng như SV đại học Ngân hàng TP.HCM nói riêng tiếp
thu, phát triển những tri thức tiến bộ của nhân loại. Bên cạnh đó,
cũng đặt ra những thách thức đối với SV, bởi vì khơng phải SV nào
cũng có hồi bão, ước mơ, lý tưởng. Hiện nay, vẫn còn một bộ phận
SV chỉ quan tâm đến lợi ích cá nhân, trước mắt mà khơng nghĩ đến
lợi ích tập thể, cộng đồng, vì sống khơng có lý tưởng, định hướng rõ
ràng, nhiều SV đi đến chỗ vướng vào các tệ nạn xã hội, tạo sự ảnh
hưởng không tốt tới sự phát triển của cá nhân và xã hội.
1.3. NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA ĐỂ LUẬN ÁN TIẾP TỤC
GIẢI QUYẾT
Trên cơ sở kế thừa có chọn lọc thành tựu nghiên cứu của các
nhà khoa học đi trước, chúng tơi xác định những vấn đề chính luận
án cần tiếp tục nghiên cứu, làm rõ và giải quyết là:
Một là, các cơng trình nghiên cứu và luận án kể trên đã trực
tiếp hoặc gián tiếp bàn đến nhiều khía cạnh khác nhau của đạo đức, ý
thức đạo đức, GDĐĐ truyền thống và hiện đại trong việc GDĐĐ cho

thanh niên, SV Việt Nam hiện nay. Tuy nhiên, những nghiên cứu trên
cịn chung chung, chưa có cơng trình nào đi vào nghiên cứu về đặc
điểm, đời sống SV và sự tác động, ảnh hưởng của KTTT, tồn cầu
hóa tới đời sống đạo đức và việc GDĐĐ cho SV các trường đại học,
cao đẳng ở TP.HCM. Vì vậy, vấn đề đặt ra cho luận án là tiếp tục kế
thừa, bổ sung, làm rõ tầm quan trọng và nội dung của việc GDĐĐ
cho SV TP.HCM hiện nay.
Hai là, những cơng trình nghiên cứu trong thời gian vừa qua
chủ yếu mô tả, đánh giá chung về đạo đức, lối sống và công tác
GDĐĐ cho thanh niên, SV nhưng chưa nhiều và còn chung chung.
Ba là, các cơng trình của các nhà khoa học đã nghiên cứu và
công bố đã đưa ra hệ thống các phương hướng và giải pháp cơ bản
mang tính tồn diện, sâu sắc nhằm GDĐĐ cho SV hiện nay. Tuy
nhiên, chưa có cơng trình nào tập trung nghiên cứu một cách tồn
diện, tập trung và mang tính cụ thể là SV TP.HCM, để từ đó đề xuất
phương hướng và một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả
GDĐĐ cho SV các trường đại học, cao đẳng ở TP.HCM.


Chƣơng 2
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC
CHO SINH VIÊN CÁC TRƢỜNG ĐẠI HỌC, CAO ĐẲNG
Ở THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH HIỆN NAY
2.1. ĐẠO ĐỨC VÀ VAI TRÕ CỦA ĐẠO ĐỨC TRONG
ĐỜI SỐNG XÃ HỘI
2.1.1. Khái niệm đạo đức
Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội đã xuất hiện cách đây
hơn 2.600 năm trong triết học Trung Quốc, Ấn Độ và Hy Lạp cổ
đại. Danh từ đạo đức bắt nguồn từ tiếng Latinh là mos (moris) – lề
thói (moralis nghĩa là có liên quan với lề thói, đạo nghĩa). Cịn “ln

lý” được xem như đồng nghĩa với “đạo đức” có gốc từ tiếng Hy Lạp
là ethicos – lề thói, tập tục.
Ở phương Tây, vấn đề đạo đức từ lâu đã thu hút sự quan tâm
của nhiều nhà tư tưởng. Socrates (470 - 399 tr. CN) là người đầu tiên
đặt nền móng cho khoa học đạo đức học. Về phương diện đạo đức
học, Socrates đặc biệt quan tâm đến vấn đề con người, ông cho rằng
một người có đạo đức là phải nhận thức được chính mình, tuy nhiên
nhận thức của chính mình khơng thể tách khỏi nhận thức chung của
xã hội mới mang tính khách quan, đó là cơ sở để xác định chân lý
một cách đích thực và đúng đắn.
Ở phương Đơng, các học thuyết về đạo đức của người Trung
Quốc cổ đại xuất hiện sớm, bắt nguồn từ cách hiểu về đạo và đức của
họ. Đạo có nghĩa là con đường, đường đi, về sau khái niệm đạo được
vận dụng trong triết học để chỉ con đường của tự nhiên. Đức dùng để
nói đến nhân đức, đức tính và nhìn chung đức là biểu hiện của đạo, là
đạo nghĩa, là nguyên tắc luân lý.
Ngày nay, đạo đức có thể được định nghĩa như sau:
Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội bao gồm những nguyên
tắc, quy tắc và chuẩn mực xã hội nhằm điều chỉnh hành vi và đánh
giá cách ứng xử của con người cho phù hợp với lợi ích, hạnh phúc
của mình và sự tiến bộ xã hội trong mối quan hệ người – người.
2.1.2. Vai trò của đạo đức trong đời sống xã hội
Đạo đức có vai trò quan trọng đối với sự phát triển của xã hội,
điều đó được thể hiện:
Thứ nhất, đạo đức là nhu cầu khách quan trong đời sống xã
hội của con người, đạo đức là vấn đề thường xuyên được đặt ra và
giải quyết nhằm đảm bảo cho các cá nhân và cộng đồng tồn tại, phát
triển.



Thứ hai, đạo đức có vai trị trong việc duy trì trật tự, bình ổn và
phát triển xã hội.
Thứ ba, đạo đức có tác dụng cảm hố con người, giúp con
người nhận thức và hành động theo lẽ phải.
2.2. GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC VÀ TẦM QUAN TRỌNG
CỦA GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CHO SINH VIÊN CÁC TRƢỜNG
ĐẠI HỌC, CAO ĐẲNG Ở TP.HCM HIỆN NAY
2.2.1. Khái niệm giáo dục đạo đức
Giáo dục, hiểu theo nghĩa rộng của từ này: “Là sự hình thành
có mục đích và có tổ chức những sức mạnh thể chất và tinh thần của
con người, hình thành thế giới quan, bộ mặt đạo đức và thị hiếu thẩm
mĩ cho con người”.
Hiểu theo nghĩa hẹp: “Giáo dục là một quá trình hình thành và
phát triển nhân cách người được giáo dục chỉ liên quan đến giáo dục
đạo đức”.
GDĐĐ không chỉ góp phần nâng cao nhận thức các giá trị,
truyền thống đạo đức của dân tộc mà còn tạo ra những giá trị đạo đức
mới. Bên cạnh đó, GDĐĐ cũng góp phần xố bỏ những tư tưởng lạc
hậu, đạo đức lệch lạc trong xã hội.
Từ sự phân tích trên, có thể diễn đạt khái niệm giáo dục đạo
đức như sau: Giáo dục đạo đức là quá trình biến các chuẩn mực đạo
đức, từ những địi hỏi bên ngồi của xã hội đối với cá nhân thành
những đòi hỏi bên trong của bản thân, thành niềm tin, nhu cầu, thói
quen của người được giáo dục.
2.2.2. Sinh viên và tầm quan trọng của GDĐĐ cho SV các
trƣờng đại học, cao đẳng ở TP.HCM hiện nay
2.2.2.1. Sinh viên và vị trí, vai trị của SV các trường đại học,
cao đẳng ở TP.HCM
Khái niệm sinh viên
Thuật ngữ “sinh viên” có nguồn gốc từ tiếng Latinh

“students” dùng để chỉ những người đang học tập ở các trường đại
học và cao đẳng.
Về mặt sinh học, SV ở giai đoạn thanh niên của đời người, cơ
thể đang dần đi đến hoàn thiện về mọi mặt: cơ bắp, chiều cao, trọng
lượng tăng nhanh, các đặc điểm sinh lý, giới tính phát triển đến độ
chín muồi, đặc biệt là sự phát triển của bộ não.
Về mặt tâm lý, từ 18 đến 23 tuổi là thời kỳ phát triển trí tuệ,
biểu hiện rõ nhất ở khả năng tư duy sâu sắc và mở rộng, có khả năng
giải quyết độc lập những nhiệm vụ trí tuệ ngày càng khó khăn hơn,
có khả năng lập luận lơgíc, chặt chẽ.


Về mặt xã hội, SV khi nhập học, với tư cách là một cộng đồng
xã hội mới, hoạt động chính chi phối họ là học tập.
Vị trí, vai trị của sinh viên các trường đại học, cao đẳng ở
TP.HCM trong sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước
Thanh niên, SV là lực lượng xã hội to lớn, một trong những
nhân tố quan trọng quyết định tương lai, vận mệnh dân tộc; là lực
lượng chủ yếu trên nhiều lĩnh vực, đảm nhiệm những cơng việc địi
hỏi hy sinh, gian khổ, sức khỏe và sáng tạo.
2.2.2.2. Vai trò quan trọng của GDĐĐ cho SV các trường
đại học, cao đẳng ở TP.HCM hiện nay
Thứ nhất, GDĐĐ hướng tới mục tiêu hoàn thiện nhân cách
giúp SV trở thành những cơng dân hữu ích cho xã hội.
Hai là, GDĐĐ là biện pháp tốt nhất giúp SV tránh được những
tác động tiêu cực của tàn dư đạo đức cũ, của KTTT, hội nhập quốc tế
và nhận thức rõ trách nhiệm của mình với dân tộc.
Ba là, GDĐĐ góp phần xây dựng hài hồ giữa đời sống vật
chất và đời sống tinh thần cho SV.
2.2.3. Nội dung GDĐĐ cho SV các trƣờng đại học, cao

đẳng ở TP.HCM hiện nay
2.2.3.1. Giáo dục lòng yêu nước, thương nòi; tinh thần tự
hào dân tộc và lòng trung thành với Tổ quốc, với nhân dân
Lòng yêu nước, thương nòi và tinh thần tự hào dân tộc là
truyền thống quý báo từ ngàn đời xưa, là sợi chỉ đỏ xuyên suốt trong
lịch sử dựng nước và giữ nước của ông cha ta. Lòng yêu nước của
người dân Việt Nam bắt nguồn từ cội nguồn của nền văn hoá, văn
minh của cả dân tộc và đã trở thành nét truyền thống đặc sắc của dân
tộc Việt Nam.
2.2.3.2. Giáo dục sinh viên sống có lý tưởng cách mạng và
có hồi bão, nghị lực, chí tiến thủ
SV là một nhóm xã hội lớn, đặc thù trong cơ cấu xã hội, họ
vừa là nguồn nhân lực phát triển của hiện tại, vừa là chủ nhân tương
lai của đất nước. Ở họ, cũng có những hồi bão, lý tưởng và hành
động thực hiện lý tưởng, hướng tới các giá trị truyền thống tốt đẹp
của xã hội, nhưng chưa đủ kinh nghiệm, bản lĩnh và sự từng trải để
có thể suy xét, đánh giá, lựa chọn các giá trị theo sự chỉ dẫn sáng suốt
của lý trí. Do đó, việc rèn luyện, giáo dục lý tưởng cách mạng cho thế
hệ trẻ nói chung, cho SV nói riêng là một trong những vấn đề quan
trọng.
2.2.3.3. Giáo dục sinh viên tinh thần hiếu học


Việt Nam là một đất nước ngàn năm văn hiến, vốn có truyền
thống hiếu học, được hình thành từ bao đời nay và trở thành một
truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta. Dân tộc Việt Nam là một dân tộc
thông minh, hiếu học. Coi trọng học vấn là nét bộc lộ khá rõ trong
tâm lý người dân. Ông cha ta vốn có câu: “Nhất tự vi sư, bán tự vi
sư” và thường khuyên con cháu phải có tinh thần hiếu học, kính trọng
thầy giáo: “Qua sơng thì bắc cầu kiều. Muốn con hay chữ phải yêu

lấy thầy”. Vì vậy, người Việt Nam luôn lấy sự học làm điều căn bản
để thực hiện đạo lý làm người.
2.2.3.4. Giáo dục cho SV tình bạn, tình yêu trong sáng,
đúng mực
Ở SV, do đặc điểm tâm sinh lý lứa tuổi, tình bạn, tình yêu trở
thành vấn đề thu hút sự quan tâm đặc biệt và là vấn đề khá nhạy cảm,
tế nhị. Đối với SV, tình bạn chân chính và tình u trong sáng là biểu
hiện của lối sống khiêm nhường, bao dung, nhân ái thuỷ chung; là sự
yêu thương, quan tâm giúp đỡ nhau một cách vô tư, không vụ lợi,
không toan tính từ những ích kỷ của cuộc sống đời thường.
2.2.3.5. Giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho SV, đáp ứng
yêu cầu của sự nghiệp CNH, HĐH và hội nhập quốc tế
GDĐĐ nghề nghiệp là vấn đề đặc biệt quan trọng trong quá
trình phát triển nghề nghiệp của mỗi SV. Mục tiêu của GDĐĐ nghề
nghiệp là bên cạnh việc đào tạo người lao động có kiến thức, kỹ năng
nghề nghiệp ở các trình độ khác nhau cần quan tâm, đẩy mạnh
GDĐĐ, lương tâm nghề nghiệp, ý thức kỷ luật, tác phong công
nghiệp, rèn luyện sức khoẻ nhằm tạo điều kiện cho người lao động có
khả năng tìm việc làm, tự tạo việc làm hoặc tiếp tục học tập nâng cao
trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế xã hội, giải quyết những vấn đề thực tiễn cuộc sống đặt ra.
2.2.3.6. Giáo dục cho SV tinh thần đoàn kết, tinh thần tập
thể, chống chủ nghĩa cá nhân
Đại đoàn kết dân tộc là truyền thống quý báu của dân tộc ta,
được hun đúc qua hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước. Ngày
nay, trong công cuộc xây dựng đất nước, nhằm phát huy tư tưởng đại
đoàn kết của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng ta khơng ngừng củng cố
và mở rộng các tổ chức mặt trận để thu hút mọi tầng lớp trong toàn
thể dân tộc, phấn đấu xây dựng một nước Việt Nam hịa bình, thống
nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh. Vì vậy, trong quá trình GDĐĐ
cho SV, cần và phải giáo dục tinh thần đoàn kết, ý thức cộng đồng

trong mọi hoạt động, SV cần phải hịa hợp quyền lợi của cá nhân
mình trong quyền lợi chung của tập thể, của dân tộc.


2.3. NHỮNG NHÂN TỐ ẢNH HƢỞNG ĐẾN GIÁO DỤC
ĐẠO ĐỨC CHO SINH VIÊN CÁC TRƢỜNG ĐẠI HỌC, CAO
ĐẲNG Ở THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH HIỆN NAY
2.3.1. Ảnh hƣởng của kinh tế thị trƣờng đến đạo đức,
GDĐĐ cho SV các trƣờng đại học, cao đẳng ở TP.HCM hiện nay
Từ năm 1986, cùng với cả nước, TP.HCM thực hiện đường lối
đổi mới toàn diện của Đảng và Nhà nước: “Chuyển từ nền kinh tế kế
hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế hàng hoá
nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của
Nhà nước theo định hướng XHCN”. Tuy nhiên, như chúng ta đã biết,
trong bất cứ nền kinh tế nào cũng có tính hai mặt của nó. Nền KTTT
định hướng XHCN ở nước ta cũng khơng ngoại lệ, nó mang tính hai
mặt: tích cực và tiêu cực. Biểu hiện tích cực của KTTT:
- Một là, KTTT thúc đẩy nhanh quá trình xã hội hố sản xuất,
làm cho sự phân cơng, chun mơn hoá sản xuất ngày càng sâu sắc,
sự hợp tác lao động ngày càng cao.
- Hai là, KTTT chịu sự tác động của những quy luật vốn có
của sản xuất và trao đổi hàng hoá như: quy luật cung – cầu, quy luật
cạnh tranh, quy luật giá trị… Do đó, KTTT buộc con người muốn tồn
tại, thành cơng phải có năng lực thực sự, phải tinh thông nghề nghiệp,
nắm vững chuyên môn.
- Ba là, KTTT dẫn đến những biến đổi căn bản về định hướng
và sự lựa chọn giá trị cuộc sống, đạo đức và nhân cách SV.
- Bốn là, trong KTTT con người khơng thể khép mình, khơng
thể phát triển trong trạng thái biệt lập mà phải giao lưu, trao đổi, tác
động qua lại, ảnh hưởng và phụ thuộc lẫn nhau. Nhờ đó, con người

phải ln tìm kiếm những cơ hội cho phát triển, đồng thời phải dự
đoán những thay đổi, rủi ro, bất trắc. Đó là mơi trường rèn luyện nghị
lực, bản lĩnh và ý chí cho con người hiện đại.
Bên cạnh những mặt tích cực, KTTT cũng có mặt tiêu cực của
nó, gây ảnh hưởng và tác động bất lợi đến đạo đức và GDĐĐ cho thế
thanh niên, SV.
- Một là, KTTT đặc biệt chú trọng tới lợi ích vật chất và lợi
nhuận cá nhân, khiến người ta thường xun tìm kiếm những biện
pháp, thậm chí dùng những thủ đoạn để tìm kiếm lợi nhuận, để làm
giàu và khơng ngừng trở nên giàu có trong xã hội.
- Hai là, trong nền KTTT sự phân hoá giàu nghèo ngày càng
trở nên sâu sắc, khoảng cách giữa vùng sâu, vùng xa, nông thôn và
thành thị ngày càng lớn.


- Ba là, nền KTTT ở nước ta hiện nay cịn ở giai đoạn thấp, hệ
thống pháp luật chưa hồn chỉnh và thiếu đồng bộ, còn nhiều kẻ hở
và bất cập. Do đó, đã tạo cơ hội cho các chủ thể kinh tế vi phạm pháp
luật như: buôn lậu, trốn thuế, làm hàng giả, tham nhũng…
2.3.2. Ảnh hƣởng của toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế
đến GDĐĐ cho SV các trƣờng đại học, cao đẳng ở TP.HCM hiện
nay
Ngày nay, “Tồn cầu hố” (Globalization) là xu thế tất yếu,
khách quan, đang diễn ra mạnh mẽ và tác động đến hầu hết các quốc
gia trong khu vực và trên thế giới, trong đó có Việt Nam.
Trong xu thế tồn cầu hố và hội nhập quốc tế, phát triển kinh
tế tri thức, sự bùng nổ thơng tin như hiện nay, q trình hợp tác song
phương và đa phương giữa các quốc gia với nhau tạo ra sự giao lưu
trao đổi về kinh tế, văn hố, khoa học và cơng nghệ. Đây là yếu tố
thuận lợi giúp cho SV Việt Nam nói chung và SV các trường đại học,

cao đẳng ở TP.HCM nói riêng có dịp tiếp thu, học hỏi những cái hay,
cái đẹp, cái tích cực và sự tiến bộ của nhiều nền văn hố khác nhau.
Như vậy, tồn cầu hố tạo ra cơ hội rất lớn cho các quốc gia
đang phát triển, trong đó có Việt Nam. Tuy nhiên, q trình tồn cầu
hố cũng đặt ra những thách thức đối với nước ta.
Tồn cầu hố và hội nhập quốc tế đặt nước ta trước nguy cơ
bị các giá trị ngoại lai, trong đó có lối sống thực dụng, chạy theo
đồng tiền, nhất là các giá trị văn hoá phương Tây xâm nhập ồ ạt,
làm tổn hại bản sắc văn hoá dân tộc.
2.3.3. Sự tác động của các chủ thể trong việc GDĐĐ cho
SV các trƣờng đại học, cao đẳng ở TP.HCM hiện nay
2.3.3.1. Sự quan tâm của Đảng, Nhà nước và các tổ chức
chính trị - xã hội ở TP.HCM đối với việc GDĐĐ cho SV
Công tác GDĐĐ cho SV ở Thành phố trong thời gian vừa qua
luôn nhận được sự quan tâm của Thành uỷ, Sở Giáo dục & Đào tạo,
các trường đại học, cao đẳng và Đoàn Thanh niên, Hội Sinh viên ở
TP.HCM hiện nay.
 Vai trò của Thành uỷ, Sở Giáo dục và Đào tạo TP.HCM
Nhằm góp phần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng
yêu cầu CNH, HĐH và GDĐĐ, lối sống cho SV Thành phố, trong
những năm gần đây ngân sách hàng năm dành cho giáo dục bình
quân đều tăng trong kỳ kế hoạch 5 năm 2011 – 2015 đạt tỷ lệ trên
26%, đây là tỷ lệ khá cao, thể hiện sự quan tâm đầu tư cho giáo dục
của Thành uỷ, Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân Thành phố.


Công tác giáo dục truyền thống dân tộc và lý tưởng cách mạng
cho HSSV luôn được các cấp uỷ Đảng và Nhà trường quan tâm đẩy
mạnh thực hiện bằng nhiều hoạt động phong phú, sáng tạo như: Hội
trại 09/1, hội thi “Cùng non sơng cất cánh”… những hoạt động trên

có tác dụng đến việc giáo dục truyền thống, GDĐĐ trong HSSV.
 Vai trò của các trường đại học, cao đẳng ở TP.HCM
Giáo dục đại học, cao đẳng là sự tiếp nối của giáo dục gia đình
và các bậc học phổ thơng, nhằm đào tạo những con người có trình độ,
năng lực và phẩm chất đạo đức. Hai nhiệm vụ cơ bản, song hành mà
các trường đại học, cao đẳng cần nhận thức rõ và thực hiện tốt, đó là
rèn đức và luyện tài cho SV, nhằm tạo nên những thế hệ công dân
vừa “hồng”, vừa “chuyên” cho đất nước. Đánh giá và nhận thức được
tầm quan trọng của GDĐĐ cho SV, từ lâu các trường đại học, cao
đẳng ở TP.HCM đã quan tâm, đầu tư, qua đó đã thu được nhiều kết
quả tốt đẹp.
 Vai trị của Đồn Thanh niên, Hội Sinh viên TP.HCM
Cơng tác GDĐĐ, chính trị, tư tưởng trong thời gian vừa qua đã
được các cơ sở Đoàn, Hội đổi mới về nội dung và phương thức, trong
đó chú trọng hình thức học tập thực tế. Cơng tác nắm bắt tình hình và
định hướng dư luận trong SV được các cơ sở Đoàn, Hội chú trọng
triển khai thực hiện. Hội Sinh viên các trường đã xây dựng các tổ, đội
nhóm nắm bắt tư tưởng, tình hình SV, chú trọng đến các diễn đàn SV
trên mạng xã hội.
2.3.3.2. Sự quan tâm của gia đình trong GDĐĐ cho SV
các trường đại học, cao đẳng ở TP.HCM hiện nay
Gia đình có vai trò quan trọng trong GDĐĐ cho thế hệ trẻ, đó
là điều khơng bậc làm cha mẹ nào phủ nhận. Văn hóa nước ta là nền
văn hóa trọng gia đình, với nền giáo dục trong các gia đình truyền
thống, bao thế hệ Việt Nam đã trưởng thành, biết trọng lễ, nghĩa, biết
yêu thương, chung thủy, trách nhiệm, biết hy sinh vì nghĩa lớn... và
những con người như thế đã tạo nên nhiều thành tựu lớn lao cho đất
nước. Những phẩm chất nêu trên là những giá trị đạo đức mà bất cứ
thời đại xã hội nào cũng cần đến.
2.3.4. Sự tích cực chủ động, tự giác của bản thân SV các

trƣờng đại học, cao đẳng ở TP.HCM trong quá trình rèn luyện
nhân cách, GDĐĐ
Ngày nay, phần lớn SV các trường đại học, cao đẳng ở
TP.HCM ln có sự tích cực, tự giác, phấn đấu trong học tập và rèn
luyện đạo đức, nhân cách. Tình trạng SV bỏ học, vi phạm nội quy,
quy chế trong học tập và thi cử ngày càng giảm dần. SV Thành phố


đã có những hiểu biết và hành động cụ thể để chứng tỏ vị trí, vai trị
của mình trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Bên cạnh việc ra sức học tập, nâng cao trình độ chun mơn,
SV đã ra sức rèn luyện những phẩm chất đạo đức trong sáng, những
truyền thống đạo đức tốt đẹp của dân tộc, do đó trong điều kiện phát
triển KTTT, tồn cầu hoá và hội nhập quốc tế hiện nay, được tiếp xúc
với nhiều luồng văn hố, nghệ thuật từ bên ngồi, nhưng đa số SV
Thành phố vẫn giữ được phong cách, lối sống lành mạnh, giữ gìn
những giá trị đạo đức truyền thống dân tộc.
Tiểu kết chƣơng 2
SV là một lực lượng xã hội đặc thù, là nguồn lực bổ sung
quan trọng cho đội ngũ trí thức tương lai. Với những đặc điểm tâm –
sinh lý và nhận thức đặc biệt, SV với sức trẻ, ước mơ và hoài bão
lớn, họ đang gánh trên vai một trọng trách là chủ nhân tương lai của
đất nước. Vì vậy, vận mệnh của Tổ quốc, đất nước ta có “sánh vai
với các cường quốc năm châu” được hay không phần lớn phụ thuộc
rất nhiều vào thế hệ SV. Để có được những thế hệ SV vừa có tài, vừa
có đức, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp CNH, HĐH đất nước một mặt
phải không ngừng nâng cao trình độ văn hố, trình độ chun môn
nghiệp vụ; mặt khác phải không ngừng GDĐĐ, lối sống, những giá
trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, bồi dưỡng lý tưởng cách mạng
cho SV nhằm hình thành và hoàn thiện dần ở họ bản lĩnh, lối sống và

nhân cách, đủ sức là lực lượng chủ lực trong sự nghiệp xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc.
Chƣơng 3
GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CHO SINH VIÊN CÁC TRƢỜNG
ĐẠI HỌC, CAO ĐẲNG Ở THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
HIỆN NAY – THỰC TRẠNG VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA
3.1. THỰC TRẠNG GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CHO SINH
VIÊN CÁC TRƢỜNG ĐẠI HỌC, CAO ĐẲNG Ở THÀNH PHỐ
HỒ CHÍ MINH HIỆN NAY
3.1.1. Một số đặc điểm của SV các trƣờng đại học, cao
đẳng ở TP.HCM hiện nay
Ngồi những đặc điểm chung vốn có của SV Việt Nam, nét
đặc thù nổi bật của SV các trường đại học, cao đẳng ở TP.HCM là
hầu hết đến từ các tỉnh miền Trung, miền Đông Nam Bộ, miền Tây
Nam Bộ, đa dạng về thành phần, phong phú về nghề nghiệp tương
lai. TP.HCM là trung tâm kinh tế, chính trị, văn hoá lớn của cả nước,
là nơi thường xuyên diễn ra các hoạt động ngoại giao, trao đổi kinh


tế, là cơ hội để SV được tiếp cận thông tin, giao lưu văn hố. Vì vậy,
SV Thành phố là những người năng động, sáng tạo, nhạy cảm về tình
hình kinh tế - chính trị, dễ thích nghi với cuộc sống, có khả năng
thích nghi nhanh, khơng ngại tiếp nhận cái mới, có khát vọng phấn
đấu vươn lên, có ý chí tự lực, tự cường trong học tập cũng như trong
cuộc sống.
3.1.2. Những kết quả đạt đƣợc của chủ thể đối với việc
GDĐĐ cho SV các trƣờng đại học, cao đẳng ở TP.HCM hiện nay
Thứ nhất, những kết quả đạt được từ phía nhà trường đối với
việc GDĐĐ cho SV các trường đại học, cao đẳng ở TP.HCM hiện
nay.

Trong những năm vừa qua nhiều trường đại học, cao đẳng ở
Thành phố đã quan tâm hơn đến việc GDĐĐ, lối sống cho SV. Công
tác GDĐĐ luôn được tổ chức sâu rộng trong đời sống SV thông qua
các bài giảng trên lớp của đội ngũ giảng viên, thông qua các phong
trào hoạt động của Nhà trường. Hiện nay, đại đa số các trường đại
học, cao đẳng ở Thành phố nhà trường luôn quan tâm đến việc hỗ trợ
cho Đoàn Thanh niên, Hội Sinh viên nguồn kinh phí để hoạt động và
xây dựng các tư liệu sinh hoạt Đồn, Hội, phịng truyền thống của
Đồn, Hội. Qua đó, ngày càng góp phần nâng cao hiệu quả của cơng
tác giáo dục chính trị, tư tưởng và đạo đức cho SV.
Thứ hai, những kết quả đạt được của Đồn Thanh niên Cộng
sản Hồ Chí Minh và các tổ chức chính trị - xã hội trong việc phát huy
các giá trị đạo đức truyền thống nhằm GDĐĐ cho SV các trường đại
học, cao đẳng ở TP.HCM hiện nay.
Đoàn Thanh niên, Hội Sinh viên là những tổ chức không thể
thiếu trong công tác GDĐĐ, lối sống cho SV. Thời gian vừa qua
Thành Đoàn TP.HCM, Hội Sinh viên TP.HCM đã tổ chức, phát động
nhiều phong trào hướng về cội nguồn, mang ý nghĩa giáo dục truyền
thống sâu sắc như: “Phụng dưỡng, chăm sóc mẹ Việt Nam Anh
hùng”, “Hội thi tìm hiểu truyền thống lịch sử”, “Lễ hội sinh hoạt
truyền thống”, “Trại truyền thống”. Các hoạt động trên đã tạo môi
trường để SV cống hiến và trưởng thành, hiểu thêm về lịch sử dân tộc
và trên hết là hướng SV đến với những giá trị làm người cao đẹp,
hình thành nơi họ lối sống nhân văn, có nghĩa tình, lịng nhân ái vì
cộng đồng.
Thứ ba, những kết quả đạt được từ phía gia đình trong việc
GDĐĐ cho SV các trường đại học, cao đẳng ở TP.HCM hiện nay.
Trong điều kiện hội nhập quốc tế hiện nay, mặc dù đã có nhiều
sự thay đổi trong cách giáo dục gia đình; tuy nhiên, cách giáo dục gia



đình ở Thành phố vẫn chú trọng đến việc giáo dục con cái những quy
tắc ứng xử, những giá trị đạo đức truyền thống như: hiếu thảo với cha
mẹ, uống nước nhớ nguồn, lá lành đùm lá rách, tôn sư trọng đạo, cần
cù, hiếu học.
3.1.3. Những kết quả đạt đƣợc từ phía SV các trƣờng
đại học, cao đẳng ở TP.HCM đối với việc học tập, giữ gìn và phát
huy các giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc
Thứ nhất, đa số SV các trường đại học, cao đẳng ở TP.HCM
trân trọng và phát huy tinh thần yêu nước, lòng tự hào dân tộc.
Đặc trưng nổi bật về mục đích, lý tưởng sống của con người
Việt Nam trong quá trình dựng nước và giữ nước đến nay đó là tinh
thần yêu nước, lòng tự hào dân tộc. Kế thừa tinh thần yêu nước,
truyền thống nổi bật, bậc thang cao nhất trong hệ giá trị đạo đức
truyền thống Việt Nam. Truyền thống quý báu này đã và đang được
SV Thành phố kế thừa và phát huy trong điều kiện đổi mới đất nước.
Thứ hai, SV các trường đại học, cao đẳng ở TP.HCM sống có
mục đích, lý tưởng, ước mơ và hồi bão.
Nhận thức được vai trị và tầm quan trọng của mình trong xã
hội, SV TP.HCM đã xác định một cách đúng đắn lý tưởng sống của
mình. Mục đích, lý tưởng sống của SV Thành phố hiện nay là ra sức
học tập, rèn luyện, phấn đấu khơng chỉ vì tương lai của bản thân, của
gia đình mà cịn xuất phát từ mong muốn được góp một phần cơng
sức nhỏ bé của mình trong cơng cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
XHCN, nhanh chóng đưa Việt Nam thốt khỏi tình trạng nghèo nàn,
lạc hậu, đuổi kịp các nước trong khu vực và trên thế giới.
Thứ ba, SV các trường đại học, cao đẳng ở TP.HCM cần cù,
tích cực, chủ động trong học tập và nghiên cứu khoa học.
Sự hình thành và phát triển nền kinh tế tri thức là xu thế tất yếu
khách quan của xã hội loài người. Trước bối cảnh hội nhập quốc tế

sâu rộng và nhanh chóng như hiện nay, quốc gia nào đi nhanh vào
nền kinh tế tri thức, quốc gia đó sẽ có lợi thế trên mọi mặt. Nhận thức
được trách nhiệm và nghĩa vụ của mình, SV Thành phố đã ra sức học
tập, chủ động, tích cực khắc phục những khó khăn trong cuộc sống,
sáng tạo vươn lên trong học tập để có tri thức, kỹ năng, chuyên môn,
vừa là để tự thân lập nghiệp, làm giàu cho bản thân mình, cho gia
đình, vừa là để cống hiến cho xã hội, cho Tổ quốc, góp phần thực
hiện thắng lợi, thành cơng sự nghiệp CNH, HĐH.
Thứ tư, SV các trường đại học, cao đẳng ở TP.HCM đã kế
thừa, phát huy truyền thống yêu thương con người, đoàn kết, tương
thân tương ái.


Yêu thương, quý trọng con người không chỉ là chuẩn mực đạo
đức của Nho giáo mà còn là truyền thống, là đạo đức, phẩm chất của
con người Việt Nam. SV Thành phố đã tham gia nhiều hoạt động
thiết thực như: phụng dưỡng chăm sóc Mẹ Việt Nam Anh hùng, ba
má phong trào, các hoạt động thăm hỏi các gia đình thương binh, liệt
sĩ, gia đình có cơng với cách mạng, giúp đỡ người già neo đơn…
3.1.4 Những hạn chế trong GDĐĐ cho SV các trƣờng
đại học, cao đẳng ở TP.HCM hiện nay
3.1.4.1. Những hạn chế của các chủ thể đối với việc
GDĐĐ cho SV các trường đại học, cao đẳng ở TP.HCM hiện nay
Thứ nhất, hạn chế từ phía Đảng uỷ, Ban Giám hiệu, Đoàn
Thanh niên, Hội Sinh viên các trường đại học, cao đẳng ở TP.HCM
hiện nay.
Thứ hai, những hạn chế từ phía gia đình đối với việc GDĐĐ
cho SV các trường đại học, cao đẳng ở Thành phố Hồ Chí Minh hiện
nay.
3.1.4.2. Những hạn chế của SV các trường đại học, cao

đẳng ở TP.HCM đối với việc rèn luyện nhân cách, đạo đức và lối
sống hiện nay
Thứ nhất, vẫn cịn một bộ phận SV chưa có thái độ, tinh thần
học tập nghiêm túc, vi phạm kỷ luật học tập.
Thứ hai, một bộ phận SV các trường đại học, cao đẳng ở
TP.HCM chạy theo lối sống thực dụng, buông thả, ảnh hưởng lối
sống, văn hoá phương Tây làm ảnh hưởng đạo đức truyền thống dân
tộc.
3.2. NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA ĐỐI VỚI VIỆC GIÁO
DỤC ĐẠO ĐỨC CHO SINH VIÊN CÁC TRƢỜNG ĐẠI HỌC,
CAO ĐẲNG Ở THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH HIỆN NAY
Thứ nhất, mâu thuẫn giữa yêu cầu ngày càng cao trong việc
giáo dục các giá trị đạo đức truyền thống cho sinh viên Thành phố và
những tác động tiêu cực từ mặt trái của nền kinh tế thị trường, tồn
cầu hố và hội nhập quốc tế.
Thứ hai, mâu thuẫn giữa yêu cầu không ngừng nâng cao hiệu
quả giáo dục đạo đức cho sinh viên với khả năng hạn chế của các chủ
thể giáo dục ở nước ta hiện nay.
Thứ ba, mâu thuẫn giữa mục tiêu đào tạo nguồn nhân lực chất
lượng cao, có phẩm chất đạo đức trong sáng với nguy cơ suy thoái
đạo đức, lối trong trong một bộ phận sinh viên Thành phố Hồ Chí
Minh hiện nay.
Tiểu kết chƣơng 3


GDĐĐ, lối sống cho SV giữ một vai trò hết sức quan trọng,
góp phần cơ bản hồn thiện nhân cách, đạo đức cho những con người
mới XHCN. Việc GDĐĐ cho SV ở các trường đại học, cao đẳng ở
TP.HCM trong những năm vừa qua đã đạt được nhiều thành tích
đáng tự hào, qua đó góp phần hình thành, phát triển và hoàn thiện

nhân cách, đạo đức, lối sống của SV Thành phố.
Bên cạnh những thành tựu đạt được, vẫn còn những hạn chế
nhất định cần phải khắc phục, đẩy lùi. Đó là tình trạng một số ít SV
hiện nay chưa ý thức được trách nhiệm, nghĩa vụ của mình với xã
hội, có những biểu hiện ham chơi, lười học tập, lao động, vi phạm
pháp luật, sống ích kỉ, thờ ơ, làm ảnh hưởng đến những chuẩn mực
đạo đức nói chung và đạo đức SV nói riêng.
Chƣơng 4
MỘT SỐ PHƢƠNG HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP CƠ BẢN
NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC
CHO SINH VIÊN CÁC TRƢỜNG ĐẠI HỌC, CAO ĐẲNG
Ở THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH HIỆN NAY
4.1. MỘT SỐ PHƢƠNG HƢỚNG NHẰM GIÁO DỤC
ĐẠO ĐỨC CHO SINH VIÊN CÁC TRƢỜNG ĐẠO HỌC, CAO
ĐẲNG Ở THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH HIỆN NAY
4.1.1. Quán triệt sâu sắc nguyên lý học đi đôi với hành,
lý luận gắn liền với thực tiễn trong công tác giáo GDĐĐ cho SV
các trƣờng đại học, cao đẳng ở TP.HCM
Để gắn lý luận với thực tiễn, học đi đôi với hành trong công
tác GDĐĐ cho SV đạt hiệu quả cao, đòi hỏi các trường đại học, cao
đẳng, Đoàn Thanh niên và Hội Sinh viên cần lưu ý giải quyết tốt các
vấn đề sau đây:
Một là, cần tổ chức các phong trào hoạt động mang tính chất
chính trị - xã hội - thực tiễn.
Hai là, nêu những tấm gương đạo đức cách mạng, người tốt
việc tốt, sáng kiến hay trong học tập và trong phong trào SV.
Ba là, phải giáo dục cho SV những hiểu biết nhất định về
những giá trị, chuẩn mực đạo đức truyền thống của dân tộc.
4.1.2. Quán triệt quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin,
tƣ tƣởng Hồ Chí Minh và của Đảng ta trong việc GDĐĐ cho SV

các trƣờng đại học, cao đẳng ở TP.HCM hiện nay
Trên lập trường, quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, quán
triệt tư tưởng Hồ Chí Minh, trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt
Nam, Đảng ta rất coi trọng thanh niên – sinh viên và công tác giáo


dục thanh niên nói chung, SV nói riêng. Do vậy, sau 30 năm đổi mới,
Đảng ta đã ban hành nhiều Nghị quyết về thanh niên và công tác
thanh niên như: Nghị quyết 26 của Bộ Chính trị khố VI, Nghị quyết
Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng lần thứ tư khoá VII, Nghị
quyết Hội nghị lần thứ bảy Ban chấp hành Trung ương khố X. Bên
cạnh đó, Quốc hội cũng đã thông qua Luật thanh niên, Chủ tịch nước
ban hành vào năm 2005 và gần đây nhất, Chính phủ đã phê duyệt
“Chiến lược phát triển thanh niên Việt Nam giai đoạn 2011 – 2020”
ngày 30-12-2011.
4.1.3. Gắn bó chặt chẽ hoạt động GDĐĐ cho SV Thành
phố với sự nghiệp đổi mới, phát triển kinh tế thị trƣờng định
hƣớng xã hội chủ nghĩa
Đạo đức là một hình thái của ý thức xã hội phản ánh tồn tại xã
hội, phản ánh hiện thực đời sống đạo đức xã hội. Đạo đức với tính
cách là một hình thái đặc biệt của ý thức xã hội, là sản phẩm của tồn
tại xã hội vì vậy nó vẫn bị chi phối bởi đời sống vật chất, điều kiện
kinh tế của xã hội đó. Ph.Ăngghen đã chỉ rõ: “Xét đến cùng mọi học
thuyết về đạo đức đã có từ trước đến nay đều là sản phẩm của tình
hình kinh tế của xã hội lúc bấy giờ”. Vì vậy, việc GDĐĐ cho SV nói
riêng và con người nói chung cần được xây dựng trên một nền tảng
kinh tế - xã hội phát triển.
4.2. MỘT SỐ GIẢI PHÁP CƠ BẢN NHẰM NÂNG CAO
HIỆU QUẢ GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CHO SINH VIÊN CÁC
TRƢỜNG ĐẠI HỌC, CAO ĐẲNG Ở THÀNH PHỐ HỒ CHÍ

MINH HIỆN NAY
4.2.1. Kết hợp chặt chẽ giữa gia đình, nhà trƣờng và các
tổ chức chính trị - xã hội trong GDĐĐ cho SV các trƣờng đại
học, cao đẳng ở TP.HCM hiện nay
Để góp phần khắc phục những hạn chế và bất cập trong quá
trình GDĐĐ cho SV TP.HCM hiện nay, theo chúng tôi, trước hết
phải bắt đầu từ việc làm tốt công tác giáo dục ở gia đình, nhà trường
và xã hội.
Khác với lứa tuổi học sinh, một bộ phận SV Thành phố hiện
nay là những người sống xa gia đình, thiếu sự quản lý, giáo dục một
cách trực tiếp từ gia đình. Vì vậy, phụ huynh càng phải quan tâm,
theo dõi sát sao, khơng nên có tư tưởng ỷ lại hoặc phó thác hồn tồn
việc giáo dục cho phía nhà trường.
4.2.2. Đổi mới nội dung, hình thức và phƣơng pháp
GDĐĐ cho SV TP.HCM hiện nay


Trong bối cảnh hiện nay, để thực hiện được mục tiêu mà giáo
dục đề ra là giáo dục thế hệ trẻ vừa “hồng” vừa “chuyên” thì một
trong những giải pháp mang tính chiến lược là tiến hành đổi mới nội
dung, hình thức và phương pháp GDĐĐ cho SV các trường đại học,
cao đẳng.
4.2.3. Kết hợp giữa GDĐĐ và giáo dục pháp luật cho SV
trong các trƣờng đại học, cao đẳng ở TP.HCM hiện nay
Để GDĐĐ cho SV TP.HCM hiện nay, cần có sự phối hợp và
tác động tích cực từ nhiều phía. Ngồi sự giáo dục của gia đình, nhà
trường và xã hội thì pháp luật nói chung và giáo dục pháp luật nói
riêng đóng vai trị đặc biệt quan trọng. Pháp luật là công cụ không thể
thiếu, bảo đảm cho sự tồn tại, vận hành bình thường của xã hội nói
chung và của nền đạo đức nói riêng.

4.2.4. Phát huy tính tích cực, tự giác và chủ động trong
học tập, tự rèn luyện đạo đức của SV các trƣờng đại học, cao
đẳng ở TP.HCM hiện nay
Con người là chủ thể của quá trình nhận thức, quá trình cải tạo
thế giới, là chủ thể trong mọi hoạt động xã hội. Trong quá trình
GDĐĐ, các giải pháp về gia đình, nhà trường và xã hội cho dù có
thực hiện tốt đến mấy cũng khơng thể thay thế vai trị tự giáo dục, rèn
luyện của chính SV. Thơng qua hoạt động tự giáo dục, con người có
khả năng biến đổi đạo đức, nhân cách và lối sống của mình một cách
có ý thức. Vì vậy, cùng với giáo dục gia đình, nhà trường và xã hội
thì cần phải phát huy tính tích cực, tự giác trong rèn luyện và tu
dưỡng của SV.
4.2.5. Xây dựng môi trƣờng kinh tế - xã hội trong sạch,
lành mạnh để có sự tác động tích cực đến việc GDĐĐ cho SV các
trƣờng đại học, cao đẳng ở TP.HCM hiện nay
Để nâng cao hiệu quả GDĐĐ cho SV, cần xây dựng một môi
trường kinh tế - xã hội trong sạch, lành mạnh, tạo điều kiện cho việc
hình thành những chuẩn mực đạo đức tốt đẹp trong SV. Bởi vì, mơi
trường sống và điều kiện kinh tế - xã hội có ảnh hưởng rất lớn đến
nhận thức, nhân cách, lối sống của mỗi người.
4.2.6. Đẩy mạnh phong trào học tập và làm theo tấm
gƣơng đạo đức Hồ Chí Minh cho SV các trƣờng đại học, cao
đẳng ở TP.HCM hiện nay
Trong công cuộc đổi mới và xây dựng đất nước hiện nay, để
góp phần tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về ý thức tu dưỡng, rèn luyện
và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh sâu rộng trong tồn xã
hội, đặc biệt là trong cán bộ đảng viên, đoàn viên, thanh niên, Bộ



×