Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

ÔN THI các NGÀNH LUẬT cơ bản của VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (219.09 KB, 21 trang )

Câu 01: Nêu khái quát về các ngành luật cơ bản của Việt Nam. Làm rõ vai
trò, vị trí của các ngành luật cơ bản trong hệ thống pháp luật Việt Nam.
Hệ thống pháp luật là cơ cấu bên trong của pháp luật được quy định bởi các điều
kiện kinh tế – xã hội, biểu hiện ở sự phân chia hệ thống đó thành các bộ phận cấu
thành (các chế định pháp luật, ngành luật) khác nhau phù hợp với đặc điểm tính chất
của các quan hệ xã hội mà nó điều chỉnh, được thể hiện trong các văn bản quy phạm
pháp luật do Nhà nước ban hành theo những trình tự thủ tục và hình thức nhất định.
Song, các bộ phận khác nhau đó có mối quan hệ qua lại chặt chẽ và thống nhất với
nhau.
Về mặt kết cấu, hệ thống pháp luật được phân chia ra thành các ngành luật, mỗi
ngành luật điều chỉnh một lĩnh vực các quan hệ xã hội cùng tính chất. Mỗi ngành luật
lại được chia ra các chế định pháp luật, mỗi chế định pháp luật điều chỉnh một nhóm
các quan hệ xã hội cùng loại. Mỗi chế định pháp luật lai bao gồm nhiều quy phạm
pháp luật.
* Các ngành luật cơ bản trong hệ thống pháp luật Việt Nam gồm:
Luật Hiến pháp;Luật Hành chính và Luật Tố tụng hành chính;Luật Tài
chính;Luật Đất đai; Luật Dân sự; Luật Lao động;Luật Hôn nhân gia đình;Luật Hình
sự;Luật Tố tụng hình sự;Luật Tố tụng dân sự;Luật Kinh tế;Luật Quốc tế.
Từ việc xác định vị trí, vai trò, đối tượng điều chỉnh của các ngành luật cơ bản
trong hệ thống pháp luật nêu trên, trong khoa học pháp lý người ta chia ra các ngành
luật thành luật nội dung và luật hình thức – trong đó Luật Hiến pháp giữ vai trò chủ
đạo, các luật tố tụng giữ vai trò là luật hình thức.
Vai trò, vị trí của các ngành luật cơ bản trong hệ thống pháp luật Việt Nam
1/ Luật Hiến pháp: là tổng thể các QPPL điều chỉnh các quan hệ cơ bản phát sinh
trong việc thực hiện quyền lực của nhân dân trên các lĩnh vực cơ bản của đời sống
chính trị xã hội : chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, chế độ bầu cử, tổ chức và hoạt
động của bộ máy Nhà nước, mối quan hệ giữa Nhà nước và công dân. Luật Hiến pháp
là ngành luật chủ đạo trong hệ thống pháp luật, là ngành luật điều chỉnh những quan
hệ xã hội quan trọng nhất của các quốc gia và tất cả các ngành luật khác đều được
hình thành trên cơ sở những nguyên tắc của Luật Hiến pháp. Phương pháp điều chỉnh
của Luật Hiến pháp là phương pháp mang tính tổng hợp, phù hợp với các chế định cụ


thể của nó. Nói chung, phương pháp mệnh lệnh, quyền uy là phương pháp điều chỉnh
chủ đạo của Luật Hiến pháp.
2/ Luật Hành chính: gồm tổng thể các QPPL điều chỉnh các quan hệ xã hội hình
thành trong quá trình tổ chức và thực hiện hoạt động chấp hành và hành chính Nhà
nước trêncác lĩnh vực của đời sống xã hội. Quan hệ pháp luật hành chính luôn là quan
hệ bất bình đẳng giữa một bên là cơ quan hành chính Nhà nước, một đoàn thể quần
chúng hoặc cán bộ, công chức Nhà nước được giao quyền quản lý Nhà nước, giữ
quyền lực Nhà nước với các bên hữu quan tương ứng có nghĩa vụ phụ tùng. Do đó,
phương pháp chủ yếu của Luật hành chính là phương pháp mệnh lệnh.
3/ Luật Tố tụng Hành chính: quy định thủ tục giải quyết các vụ án hành chính,
đóng vai trò quan trọng trong đời sống pháp luật hành chính, là cơ sở pháp lý vững
1


chắc cho việc giải quyết các khiếu kiện hành chính, nhằm đảm bảo tính đồng bộ và
thống nhất của hệ thống pháp luật, Luật Tố tụng Hành chính là công cụ sắc bén để cá
nhân, cơ quan tổ chức bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình, chống lại sự xâm
phạm từ phía công quyền, góp phần bảo vệ tốt hơn các quyền và lợi ích hợp pháp,
chính đáng của tổ chức, công dân.
4/ Luật Tài chính: Bao gồm những quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ
xã hội phát sinh trong lĩnh vực hoạt động tài chính của Nhà nước, hoạt động tín dụng,
việc kiểm tra và cho vay tín dụng, việc định và thu các loại thuế, quy định kỷ luật tài
chính trong các hoạt động kinh tế. Phương pháp điều chỉnh chủ yếu của Luật Tài
chính là phương pháp mệnh lệnh.
5/ Luật Đất đai: gồm tổng thể các QPPL điều chỉnh các quan hệ xã hội hình
thành trong lĩnh vực bảo vệ, quản lý và sử dụng đất đai...trên cơ sở đất đai thuộc sở
hữu toàn dân cho Nhà nước thống nhất quản lý. Phương pháp điều chỉnh của Luật đất
đai là phương pháp mệnh lệnh với khuyến khích động viên. Nguồn chủ yếu của Luật
đất đai là Hiến pháp.
6/ Luật Dân sự: là tổng thể các QPPL điều chỉnh các quan hệ tài sản dưới hình

thức hàng hóa – tiền tệ và một số quan hệ nhân thân phi tài sản như về : danh dự,
quyền tác giả, quyền phát minh, sáng chế... Phương pháp điều chỉnh của Luật dân sự
và bình đẳng, thỏa thuận giữa các chủ thể. Những chế định cơ bản Luật dân sự là: chế
định quyền sở hữu, chế định hợp đồng dân sự, chế địn về thừa kế, quyền tác giả,
quyền phát minh, sáng chế...
7/ Luật Lao động: là tổng thể các QPPL điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh
giữa người lao động và người sử dụng động và cá quan hệ xã hội khác có liên quan
đến quan hệ lao động. Nội dung chủ yếu của Luật lao động là các chế định: hợp đồng
lao động, thỏa ước lao động tập thể, thời giờ làm việc nghỉ ngơi, tiền lương, kỹ luật
lao động và trách nhiệm vật chất, an toàn và vệ sinh lao động, chế độ lao động nữ và
chưa thành niên, về tranh chấp lao động. Hiện nay, Nhà nước ta đã ban hành Bộ luật
lao động để điều chỉnh các quan hệ lao động phù hợp với quan hệ nền kinh tế hành
hóa nhiều thành phần kinh tế.
8/ Luật Hôn nhân và gia đình: là tổng thể các QPPL điều chỉnh các quan hệ hôn
nhân và quan hệ tài sản phát sinh do việc kết hôn và nhận nuôi con nuôi như : thủ tục
kết hôn, ly hôn, nhận nuôi con nuôi, giữa vợ và chồng, giữa cha mẹ và con cái, quyền
và nghĩa vụ của vợ chồng, bố mẹ con cái nhằm đạt mục đích đảm bảo chế độ hôn
nhân tự do, tiến bộ, bình đẳng nam nữ, một vợ một chồng, xây dựng gia đình hạnh
phúc, bảo vệ lợi ích của bà mẹ trẻ em, chăm sóc và giáo dục con cái.
9/ Luật Hình sự: là tổng thể các QPPL quy định hành vi nào là tội phạm và hình
phạt đối với những người phạm tội. Luật hình bảo vệ chế độ XHCN, hệ thống kinh tế,
chính trị, bảo vệ các quyền và tự do công dân. Nguồn cơ bản của Luật hình sự là Hiến
pháp. Phương pháp điều chỉnh của Luật hình sự là phương pháp quyền lực.


10/ Luật Tố tụng hình sự: là tổng thể các QPPL điều chỉnh các quan hệ xã hội
trong việc khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự, quyền và nghĩa vụ của
những người tham gia tố tụng hình sự. Luật tố tụng hình sự có nhiệm vụ bảo đảm
nhanh chóng phát hiện tội phạm, điều tra chính xác và xét xử nghiêm minh, bảo đảm


2


các quyền cơ bản của công dân. Luật tố tụng hình sự thể hiện rõ các nguyên tắc dân
chủ, pháp chế và nhân đạo.
11/ Luật Tố tụng dân sự: là tổng thể các QPPL điều chỉnh các quan hệ giữa cơ
quan xét xử, cơ quan kiểm sát, đương sự và những người tham gia khác trong quá
trình điều tra và xét xử vụ án dân sự. Phương pháp điều chỉnh chủ yếu của Luật tố
tụng dân sự là phương tôn trọng quyền tự định đoạt của đương sự, trách nhiệm hòa
giải của toà án trên tinh thần dân chủ, đoàn kết nhằm giải quyết mâu thuẫn, tranh chấp
trong nội bộ nhân dân.
12/ Luật Kinh tế : là tổng thể các QPPL điểu chỉnh các quan hệ kinh tế phát sinh
trong quản lý hoạt động kinh tế của Nhà nước và trong hoạt động kinh doanh giữa các
chủ thể kinh doanh với nhau. Các chế định chủ yếu của Luật kinh tế là xác định địa vị
pháp lý của các doanh nghiệp, về hợp đồng kinh tế, phá sản doanh nghiệp, vấn đề
cạnh tranh trong hoạt động kinh tế. Luật còn quy định những vấn đề về kinh tế tập thể,
bao gồm các QPPL điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong tổ chức và hoạt
động của các tổ chức kinh tế tập thể. Ở nước ta trong quá trình đổi mới, để thích ứng
với cơ chế thị trường nhiều loại hình hợp tác xã mới xuất hiện với nhiều hình thức sở
hữu đặc thù, quản lý có nhiều nét đặc thù. Luật hợp tác xã xác định địa vị pháp lý cho
các hợp tác xã hoạt động bình đẳng với các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh
tế khác.
13/ Ngoài ra bên cạnh hệ thống pháp luật của quốc gia còn có hệ thống pháp luật
quốc tế. Hệ thống pháp luật quốc tế điều chỉnh các quan hệ chính trị, kinh tế, văn hóa,
khoa học kỹ thuật giữa các và các tổ chức kinh tế, giữa các công dân, pháp nhân của
các nước khác nhau trong lĩnh vực dân sự, hôn nhân và gia đình, lao động và một số
quan hệ khác. Hệ thống pháp luật quốc tế bao gồm công pháp quốc tế và tư pháp quốc
tế.
- Công pháp quốc tế là tổng hợp những nguyên tắc, những chế định, những quy
phạm được các quốc gia và các chủ thể khác của Luật Quốc tế xây dựng trên cơ sở

thoả thuận tự nguyện và bình đẳng, nhằm điều chỉnh các quan hệ trong lĩnh vực chính
trị giữa các quốc gia.
- Tư pháp quốc tế bao gồm các quy phạm pháp luật xác định pháp luật nước nào
được áp dụng điều chỉnh các quan hệ về dân sự, hôn nhân và gia đình, lao động và tố
tụng dân sự nảy sinh giữa công dân với cá nhân, tổ chức nước ngoài.

Câu 02: Phân tích các yếu tố cấu thành của quan hệ pháp luật. Cho ví dụ.
-Khái niệm: Quan hệ pháp luật là quan hệ xã hội được các quy phạm pháp luật
điều chỉnh, trong đó các bên tham gia đáp ứng được những điều kiện do Nhà nước quy
định, có những quyền và nghĩa vụ nhất định theo quy định của pháp luật.
-Đặc điểm của quan hệ pháp luật: Quan hệ pháp luật là các quan hệ xã hội được
các quy phạm pháp luật điều chỉnh, quan hệ pháp luật là hình thức pháp lý của quan hệ
xã hội, quan hệ pháp luật mang tính ý chí của Nhà nước, quan hệ pháp luật có cơ cấu
chủ thể xác định, quan hệ pháp luật là quan hệ mà các bên tham gia quan hệ đó có
quyền và nghĩa vụ pháp lý được Nhà nước bảo đảm thực hiện.

3


-Các yếu tố cấu thành của quan hệ pháp luật: bao gồm chủ thể của quan hệ
pháp luật, nội dung của quan hệ pháp luật và khách thể của quan hệ pháp luật.
1. Chủ thể của quan hệ pháp luật: Cá nhân, tổ chức đáp ứng được những điều
kiện do Nhà nước quy định cho mỗi loại quan hệ pháp luật và tham gia vào quan hệ
pháp luật đó thì được gọi là chủ thể của quan hệ pháp luật.
- Những điều kiện mà cá nhân, tổ chức đáp ứng được để có thể trở thành chủ thể
của quan hệ pháp luật được gọi là năng lực chủ thể.
- Năng lực chủ thể gồm hai yếu tố: Năng lực pháp luật và năng lực hành vi.
+ Năng lực pháp luật: Là khả năng hưởng quyền và thực hiện nghĩa vụ theo quy
định của pháp luật.
+ Năng lực hành vi: Là khả năng của cá nhân, tổ chức được Nhà nước thừa nhận,

bằng hành vi của chính mình xác lập và thực hiện các quyền và nghĩa vụ pháp lý cũng
như độc lập chịu trách nhiệm về những hành vi của mình.
- Mối quan hệ giữa năng lực pháp luật và năng lực hành vi:
+ Năng lực pháp luật là điều kiện cần, năng lực hành vi là điều kiện đủ để cá nhân,
tổ chức trở thành chủ thể của quan hệ pháp luật.
+ Nếu chủ thể có năng lực pháp luật mà không có hoặc mất năng lực hành vi hay
bị Nhà nước hạn chế năng lực hành vi thì họ không thể tham gia một cách tích cực vào
các quan hệ pháp luật. Chủ thể chỉ có thể tham gia thụ động vào các quan hệ pháp luật
thông qua hành vi của người thứ ba hoặc được Nhà nước bảo vệ trong một số quan hệ
pháp luật nhất định.
+ Năng lực pháp luật là tiền đề của năng lực hành vi nên không thể có chủ thể
pháp luật không có năng lực pháp luật mà lại có năng lực hành vi. Vì khi không quy
định các quyền, nghĩa vụ pháp lý cho chủ thể thì Nhà nước cũng không cần phải tính
đến điều kiện để cá nhân, tổ chức có thể thực hiện các quyền, nghĩa vụ pháp lý đó.
+ Năng lực pháp luật của cá nhân mở rộng dần theo năng lực hành vi của họ.
- Năng lực pháp luật và năng lực hành vi không phải là thuộc tính tự nhiên mà là
thuộc tính pháp lý của chủ thể.
- Năng lực pháp luật và năng lực hành vi đều được quy định cụ thể trong các văn
bản quy phạm pháp luật.
- Đối với các quốc gia khác nhau, hoặc trong mỗi giai đoạn lịch sử khác nhau ở mỗi
Nhà nước, năng lực chủ thể của cá nhân, tổ chức được quy định khác nhau.
Các loại chủ thể: Cá nhân (công dân, người nước ngoài, người không có quốc tịch)
- Đối với công dân:
+ Năng lực pháp luật của công dân có từ khi người đó được sinh ra và chấm dứt
khi người đó chết.
+ Năng lực hành vi của công dân xuất hiện muộn hơn năng lực pháp luật và phát
sinh theo quá trình phát triển tự nhiên của con người. Khi công dân đạt những điều kiện
do pháp luật quy định như độ tuổi, khả năng nhận thức, trình độ chuyên môn, … thì
được xem là có năng lực hành vi.
+ Đối với người nước ngoài và người không có quốc tịch: Năng lực chủ thể của

họ bị hạn chế hơn so với công dân.
- Pháp nhân: Là một khái niệm pháp lý phản ánh địa vị pháp lý của một tổ chức.
Để một tổ chức được công nhận là pháp nhân thì tổ chức đó phải có các điều kiện sau:
+ Là tổ chức được thành lập một cách hợp pháp;
+ Có cơ cấu tổ chức chặt chẽ;
4


+ Có tài sản riêng và tự chịu trách nhiệm bằng tài sản đó khi tham gia quan hệ pháp
luật.
+ Nhân danh mình tham gia các quan hệ pháp luật một cách độc lập.
Năng lực chủ thể của pháp nhân:
+ Năng lực pháp luật của pháp nhân mang tính chuyên biệt;
+ Phát sinh từ thời điểm được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền thành lập, cho
phép thành lập. Đối với các pháp nhân phải đăng ký hoạt động thì năng lực pháp luật
của pháp nhân phát sinh từ thời điểm được cấp giấy phép hoạt động.
+ Chấm dứt từ thời điểm chấm dứt sự tồn tại của pháp nhân trong một số trường
hợp như: phá sản, giải thể, chia nhỏ, hợp nhất, …
+ Năng lực hành vi của pháp nhân phát sinh và chấm dứt cùng thời điểm với năng
lực pháp luật của pháp nhân.
Ngoài pháp nhân còn có các thực thể nhân tạo khác tuy không phải là pháp nhân
nhưng có thể trở thành chủ thể của quan hệ pháp luật khi có năng lực chủ thể như công
ty hợp danh, tổ hợp tác, xí nghiệp thành viên của công ty, …
Nhà nước là chủ thể đặc biệt của quan hệ pháp luật, vì Nhà nước là chủ thể của
quyền lực chính trị của toàn xã hội, là chủ sở hữu lớn nhất trong xã hội. Nhà nước là
chủ thể của các quan hệ pháp luật quan trọng.
2. Nội dung của quan hệ pháp luật: Bao gồm quyền chủ thể và nghĩa vụ pháp lý
của các bên tham gia quan hệ pháp luật.
a) Quyền chủ thể: Là khả năng xử sự của chủ thể được pháp luật cho phép trong
quan hệ pháp luật.

- Đặc điểm:
+ Là khả năng của chủ thể xử sự theo cách thức nhất định được pháp luật cho
phép;
+ Khả năng của chủ thể yêu cầu các chủ thể có liên quan thực hiện đầy đủ nghĩa
vụ của họ hoặc yêu cầu họ chấm dứt những hành vi cản trở nhằm đảm bảo việc thực
hiện quyền chủ thể của mình;
+ Khả năng của chủ thể yêu cầu các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền bảo vệ
quyền, lợi ích của mình.
b) Nghĩa vụ pháp lý: Là cách xử sự mà Nhà nước bắt buộc chủ thể phải tiến hành
theo quy định của pháp luật nhằm đáp ứng việc thực hiện quyền của chủ thể khác.
- Đặc điểm:
+ Chủ thể phải thực hiện cách xử sự nhất định do pháp luật quy định nhằm đáp
ứng quyền của chủ thể kia;
+ Chủ thể phải chịu trách nhiệm pháp lý khi không thực hiện nghĩa vụ;
3. Khách thể của quan hệ pháp luật: Là những lợi ích mà các bên tham gia quan
hệ pháp luật mong muốn đạt được: lợi ích vật chất, tinh thần, … Khách thể là yếu tố
thúc đẩy chủ thể tham gia quan hệ pháp luật.
4. Sự kiện pháp lý:
Khái niệm: Sự kiện pháp lý là điều kiện, hoàn cảnh, tình huống của đời sống thực
tế mà sự xuất hiện hay mất đi của chúng được quy phạm pháp luật gắn với sự phát sinh,
thay đổi hay chấm dứt quan hệ pháp luật.
Phân loại:

5


Căn cứ vào số lượng sự kiện pháp lý và mối quan hệ giữa chúng trong việc làm
phát sinh, thay đổi, chấm dứt quan hệ pháp luật, sự kiện pháp lý được chia thành hai
loại:
+ Sự kiện pháp lý đơn giản;

+ Sự kiện pháp lý phức tạp.
Căn cứ theo tiêu chuẩn ý chí, sự kiện pháp lý được chia thành hai loại:
+ Sự biến pháp lý;
+ Hành vi pháp lý.
Căn cứ vào kết quả tác động của sự kiện pháp lý đối với quan hệ pháp luật, sự
kiện pháp lý được chia thành ba loại:
+ Sự kiện pháp lý làm phát sinh quan hệ pháp luật;
+ Sự kiện pháp lý làm thay đổi quan hệ pháp luật;
+ Sự kiện pháp lý làm chấm dứt quan hệ pháp luật.
Cho ví dụ: Như phần trình bày ở phần trên, quan hệ pháp luật là các quan hệ xã
hội được quy phạm pháp luật điều chỉnh. Cấu thành quan hệ pháp luật gồm chủ thể,
khách thể và nội dung. (Mỗi Anh, Chị chỉ cần chọn 1-2 ví dụ)
Ví dụ: Quan hệ mua bán hàng hóa.
Trước hết, các bên mua và bán phải có năng lực chủ thể đó là năng lực pháp luật
và năng lực hành vi theo luật định.
Nội dung: Là các bên phải thực hiện quyền và nghĩa vụ theo pháp luật quy định.
Khách thể là những yếu tố vật chất hoặc tinh thần mà các bên cùng hướng đến. Ỏ
đây đó là hành vi của mỗi bên: Bên bán đó là bên mua nhận hàng hóa, chuyển quyền sở
hữu và nhận thanh toán, bên mua đó là bên bán chuyển giao hàng hóa và quyền sở hữu
hàng hóa cho mình.
Ví dụ: Muốn trở thành chủ thể của quan hệ lao động trong việc sản xuất, kinh
doanh, dịch vụ liên quan đến thực phẩm, đòi hỏi người đó không mắc bệnh truyền
nhiễm. Đối với tổ chức, muốn trở thành chủ thể của quan hệ pháp luật về kinh tế đòi hỏi
tổ chức đó phải được thành lập một cách hợp pháp và có tài sản riêng để thực hiện
quyền và nghĩa vụ về tài sản trong quan hệ pháp luật về kinh tế.
VD: Quyền của chủ thể Bên A là buộc chủ thể Bên B phải trả tiền đúng ngày giờ
theo quy định của hợp đồng cho vay. Chủ thể Bên A có quyền yêu cầu cơ quan nhà
nước có thẩm quyền áp dụng biện pháp cưỡng chế đối với Bên B để họ thực hiện nghĩa
vụ trong trường hợp quyền của mình bị chủ thể bên kia vi phạm. Nếu bên vay không
trả tiền đúng hạn, người cho vay có thể yêu cầu tòa án giải quyết. Nghĩa vụ pháp lý là

sự bắt buộc Bên B có những xử sự nhất định theo quy phạm của pháp luật, nhằm thục
hiện quyền của chủ thể Bên A. Trong trường hợp này chủ thể Bên B không thực hiện
nghĩa vụ pháp lý thì Nhà nước sẽ đảm bảo thực hiện bằng việc cưỡng chế.
VD: Công dân điều khiển xe máy đến ngã tư, vượt đèn đỏ thì bị công an phạt,
nghĩa vụ pháp lý trong trường hợp này là phải dừng lại theo quy định, nếu vi phạm thì
sẽ bị xử lý hành chính theo luật định.
Câu 3: Làm rõ các loại vi phạm pháp luật và trách nhiệm pháp lý. Cho ví dụ
minh họa. (Đang bổ sung thêm)
1. Các loại vi phạm pháp luật:

6


- VPPL hình sự: VPPL nguy hiểm nhất vì nó xâm phạm tới các quan hệ xã hội
quan trọng nhất được luật hình sự bảo vệ và gây nguy hiểm nhất cho xã hội.
VD: hiếp dâm, giết người.
- VPPL dân sự: những vi phạm liên quan tới tài sản và quyền tài sản giữa các cá
nhân, tổ chức được luật dân sự bảo vệ.
VD: tranh chấp quyền sử dụng đất giữa các hộ gia đình.
- VP hành chính: những vi phạm liên quan đến quá trình quản lí hành chính nhà nước
và được luật bảo vệ.
VD: lấn chiếm lòng đường, vỉa hè, vi phạm luật giao thông.
- VP kỉ luật: những vi phạm liên quan tới nội quy, quy định của các cơ quan nhà
nước, đơn vị, trường học.
VD: học sinh vi phạm kỉ luật nhà trường như trốn học, đánh nhau...
2. Trách nhiệm pháp lí
a. TNPL hình sự: chỉ dành cho VPPL hình sự, nghiêm khắc nhất và nặng nhất.
Hiện nay hệ thống này được chia thành
- Hệ thống hình phạt chính: cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ, trục xuất,
tù có thời hạn, tù chung thân, tử hình.

- Hệ thống hình phạt bổ sung: phạt tiền, cấm cư trú tại địa phương trong một thời
gian, cấm đảm nhiệm hoặc giữ các chức vụ trong một khoảng thời gian nhất định.
VD: A đánh người bị thương (thương tích nặng đã được giám định, xếp vào vi phạm
hình sự) thì ngoài hình phạt chính là phạt tù có thời hạn, A có thể còn phải chịu hình
phạt bổ sung là bồi thường thiệt hại cho nạn nhân.
b. Trách nhiệm dân sự: áp dụng với vi phạm dân sự, chủ yếu là phạt tiền, bồi
thường thiệt hại.
VD: A xây nhà, cố ý lấn chiếm sang đất của B, làm cho nhà của B bị hư hỏng,
thiệt hại. Khi đó, A sẽ phải bồi thường cho B theo luật định, đồng thời phải phá dỡ khu
vực đã lấn chiếm.
c. Trách nhiệm hành chính: áp dụng với các hành vi vi phạm hành chính, chủ yếu
là phạt tiền, buộc tháo dỡ các công trình vi phạm.
VD: B vượt đèn đỏ thì buộc phải nộp phạt.
d. Trách nhiệm kỉ luật: áp dụng với các vi phạm kỉ luật, chủ yếu là cảnh cáo,
thuyên chuyển công tác, hạ bậc lương, buộc thôi việc.
VD: A thường xuyên bỏ học, quay cóp trong kì thi, bị giáo viên nhắc nhở nhiều
lần. Khi sự sai phạm xảy ra nhiều lần, vượt quá giới hạn quy định, hội đồng kỉ luật nhà
trường sẽ đưa trường hợp của A ra xem xét và có quyết định kỉ luật. Có thể là phê bình
hoặc cảnh cáo trước toàn trường hoặc buộc thôi học có thời hạn hoặc đuổi học.

7


Câu 4. Làm rõ đối tượng điều chỉnh của ngành luật Hiến pháp. So sánh với
đối tượng điều chỉnh của 1 ngành luật bất kỳ.
4. 1: Đối tượng điều chỉnh của Ngành Luật HP
- Đối tượng điều chỉnh của Luật HP VN: là những qhệ XH (những qhệ phát sinh
trong hoạt động của con người) quan trọng gắn liền với việc thực hiện quyền lực NN
- Phạm vi đối tượng điều chỉnh: Những qhệ XH cơ bản và quan trọng nhất gắn
liền với việc xác định: Chế độ chính trị; Chế độ kinh tế, Chính sách VH - XH, quốc

phòng - an ninh, Quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, Tổ chức và hoạt động của bộ
máy NN Cộng hòa XHCN VN.
+ QHXH trong lĩnh vực chính trị: Luật HP điều chỉnh: NN với ndân; NN với tổ
chức ctrị, NN với nước ngoài.
+ Trong lĩnh vực ktế: Những quy định chính sách phát triển ktế quốc dân; NN quy
định chế độ sở hữu; NN quy định những thành phần ktế; NN quy định nguyên tắc qlý
nền ktế quốc dân.
+ Lĩnh vực VH, giáo dục, KH công nghệ: Mục đích và chính sách của NN để phát
triển nền VH, GD, KHCN.+ Lĩnh vực tổ chức và hoạt động của bộ máy NN: Những
qhệ phát sinh trong bầu cử; Trật tự hình thành tổ chức của các cqNN từ TW địa
phương.
Luật HP có phạm vi đối tượng điều chỉnh rất rộng, liên quan đến nhiều lĩnh vực
của cuộc sống XH và NN. Qhệ mà Luật HP điều chỉnh là quan trọng và làm cơ sở cho
các ngành luật khác cụ thể hóa, chi tiết hóa.
Ngành Luật HP là hệ thống các QPPL điều chỉnh những qhệ XH cơ bản và quan
trọng gắn với việc xác định chế độ chính trị, chế độ kinh tế, chính sách văn hóa - XH,
quốc phòng - an ninh, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, tổ chức và hoạt động
của bộ máy NN.
4.2 So sánh với đối tượng điều chỉnh của 1 ngành luật bất kỳ: Luật hành chính
và luật hiến pháp
Luật hiến pháp là ngành luật có đối tượng điều chỉnh là những quan hệ xã hội cơ
bản nhất, quan trọng nhất như chính sách cơ bản của nhà nước trong lĩnh vực đối nội
đối ngoại; chế độ kinh tế - chính trị; các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của hệ thống
chính trị của nước ta; thiết lập bộ máy nhà nước. Ðối tượng điều chỉnh của luật hiến
pháp rộng hơn đối tượng điều chỉnh của luật hành chính.
Luật hành chính giữ vai trò quan trọng trong việc cụ thể hóa, chi tiết hóa các quy
phạm pháp luật nhà nước để từ đó điều chỉnh những quan hệ xã hội phát sinh trong hoạt
động chấp hành và điều hành của nhà nước. Ngược lại, các vấn đề quyền công dân, về
tổ chức bộ máy bộ máy nhà nước được qui định cơ bản trong hiến pháp, thể hiện rõ tính
ưu việt trong các qui phạm pháp luật hành chính.


8


Câu 5: Hoàn cảnh ra đời của Hiến pháp năm 2013? Nêu những điểm mới của
Hiến pháp năm 2013?
5. 1. Hoàn cảnh ra đời của Hiến pháp năm 2013:
Hiến pháp năm 1992 được ban hành trong bối cảnh những năm đầu thực hiện
công cuộc đổi mới đất nước do Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (năm
1986) đề ra và để thể chế hóa Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội năm 1991. Hiến pháp năm 1992 đã tạo cơ sở chính trị - pháp lý quan
trọng trong việc thực hiện công cuộc đổi mới.
Qua 20 năm thực hiện Hiến pháp năm 1992, đất nước ta đã có nhiều thay đổi
trong bối cảnh tình hình quốc tế có những biến đổi to lớn, sâu sắc và phức tạp. Cương
lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển
năm 2011) và các văn kiện khác của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng đã
xác định mục tiêu, định hướng phát triển toàn diện, bền vững đất nước trong giai đoạn
cách mạng mới nhằm xây dựng nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa dân giàu, nước mạnh,
dân chủ, công bằng, văn minh.
Triển khai thực hiện quan điểm đổi mới của Đảng, tại Kỳ họp thứ I, Quốc hội
Khóa XIII diễn ra vào tháng 8/2011 đã quyết định sửa đổi Hiến pháp năm 1992 và
thành lập Ủy ban soạn thảo Hiến pháp. Qua tổng kết việc thi hành Hiến pháp và lấy ý
kiến sâu rộng trong nhân dân, dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 đã được trình Quốc
hội xem xét, thảo luận tại 3 Kỳ họp của Quốc hội (Kỳ 4, Kỳ 5, Kỳ 6), 3 lần trình Hội
nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam Khóa XI (Hội nghị Trung
ương V, VII, VIII) và rất nhiều lần xin ý kiến của Bộ chính trị và các cơ quan, tổ chức,
các nhà chính trị, các nhà khoa học có uy tín. Ngày 28 tháng 11 năm 2013, sau nhiều
ngày thảo luận, thống nhất ý kiến, trong không khí trang nghiêm và thể hiện sự đồng
thuận cao, với đa số tuyệt đối 486/498, chiếm 97,59% Quốc hội Khóa XIII, Kỳ họp thứ
VI đã thông qua Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013. Đây

là sự kiện chính trị - pháp lý đặc biệt quan trọng đánh dấu một cột mốc mới trong lịch
sử lập hiến Việt Nam.
5. 2. Những điểm mới của Hiến pháp năm 2013 so với Hiến pháp năm 1992:
5.2.1. Về cấu trúc của Hiến pháp:
Cấu trúc của Hiến pháp 2013 gọn nhẹ hơn Hiến pháp năm 1992. Nếu Hiến pháp
năm 1992 có 12 chương, 147 điều thì Hiến pháp 2013 đã rút gọn được một chương và
27 điều, chỉ còn 11 chương và 120 điều. Lời nói đầu của Hiến pháp 2013 khái quát về
lịch sử Việt Nam và mục tiêu của bản Hiến pháp mới được quy định ngắn gọn và khúc
chiết hơn so với Hiến pháp năm 1992. Vị trí các chương trong Hiến pháp cũng hợp lý
hơn so với Hiến pháp năm 1992. Chương V trong Hiến pháp năm 1992 được gọi là
“Quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân” thì nay được chuyển vào vị trí Chương II và
được đổi tên thành: “Quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân”. Việc
quy định quyền con người, quyền nghĩa vụ cơ bản của công dân ở Chương II thể hiện
sự coi trọng quyền con người, quyền công dân của nhà nước ta trong giai đoạn phát
triển và đổi mới toàn diện của đất nước. Chương “Tòa án nhân dân và Viện kiểm sát
nhân” được chuyển từ vị trí Chương X về Chương VIII trước chương “ Chính quyền
địa phương”. Sự điều chỉnh này trong cấu trúc Hiến pháp là hợp lý theo tư duy lô gíc
chính quyền Trung ương quy định trước, chính quyền địa phương quy định sau.

9


Ngoài việc ghép Chương XI vào Chương I, Chương II và Chương III (của Hiến
pháp năm 1992) vào Chương III, Hiến pháp mới cũng sáng tạo thêm một chương mới
đó là Chương X:“Hội đồng bầu cử quốc gia, Kiểm toán nhà nước”. So với các Hiến
pháp trước đây, đây là một chương hoàn toàn mới. Chương mới này là kết quả của việc
tiếp nhận tư duy lập hiến mới về các thiết chế hiến định độc lập trong Hiến pháp nước
ngoài.
5.2.2. Về chế độ chính trị và cách thức tổ chức quyền lực nhà nước(Có thể rút
ngắn)

Chế độ chính trị và cách thức tổ chức quyền lực nhà nước Hiến pháp của năm
2013 thể hiện những điểm mới sau đây:
- Tại khoản 3 Điều 2 Hiến pháp năm 2013 đã xác định:“ Quyền lực nhà nước là
thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong
việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp”. So với Hiến pháp năm
1992, Hiến pháp năm 2013 bên cạnh quy định về phân công, phối hợp đã bổ sung thêm
việc kiểm soát quyền lực giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập
pháp, hành pháp và tư pháp. Sự bổ sung này là cần thiết để khắc phục những yếu kém
trong kiểm soát quyền lực nhà nước của bộ máy nhà nước ta theo Hiến pháp năm 1992
(sửa đổi, bổ sung năm 2001).
- Về các hình thức thực hiện quyền lực nhân dân, Điều 6 Hiến pháp năm 2013 quy
định: “Nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước bằng các biện pháp dân chủ trực tiếp và
dân chủ đại diện thông qua Quốc hội, Hội đồng nhân dân và các cơ quan nhà nước
khác”. So với Hiến pháp năm 1992, quy định này của Hiến pháp năm 2013 thể hiện sự
tiến bộ rõ ràng của tư duy lập hiến Việt Nam. Hiến pháp năm 1992 chỉ mới quy định
các hình thức dân chủ đại diện, còn Hiến pháp năm 2013 đã quy định đầy đủ hai hình
thức dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện trong Hiến pháp.
- Về địa vị pháp lý của Đảng Cộng sản Việt Nam, ngoài việc tiếp tục xác định vai
trò lãnh đạo nhà nước và xã hội của Đảng, Hiến pháp năm 2013 đã bổ sung thêm khoản
2 quy định: “Đảng Cộng sản Việt Nam gắn bó mật thiết với nhân dân, phục vụ nhân
dân, chịu sự giám sát của nhân dân, chịu trách nhiệm trước nhân dân về những quyết
định của mình”. Đồng thời bên cạnh việc quy định “Các tổ chức của Đảng hoạt động
trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật” như Hiến pháp năm 1992, Hiến pháp 2013 đã
quy định bổ sung “các đảng viên Đảng cộng sản Việt Nam hoạt động trong khuôn khổ
Hiến pháp và pháp luật”. Các quy định mới trên đây là hoàn toàn hợp lý và cần thiết.
Những quy định này xác định nghĩa vụ của các tổ chức của Đảng và các đảng viên
Đảng Cộng sản Việt Nam phải gắn bó mật thiết với nhân dân, phục vụ nhân dân, chịu
sự giám sát của nhân dân, chịu trách nhiệm trước nhân dân về các quyết định của mình.
Các quy định này là cơ sở pháp lý để nhân dân giám sát các tổ chức của Đảng và các
Đảng viên hoạt động theo đúng các yêu cầu của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa;

- Trong chương Chế độ chính trị còn có quy định bổ sung mới về vai trò của Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam, đó là “vai trò phản biện xã hội, tham gia xây dựng Đảng, nhà
nước, hoạt động đối ngoại nhân dân, góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”. Vai trò
phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là bổ sung quan trọng trong Hiến
pháp năm 2013. Chế độ chính trị nhất nguyên của các nước xã hội chủ nghĩa có ưu thế
là sự thống nhất chính trị cao, sự ổn định của đường lối và quyết sách chính trị, tuy

10


nhiên cũng có hạn chế là thiếu sự phân tích phản biện đúng mức nên đôi khi các quyết
sách chưa được nhìn nhận, xem xét trên nhiều bình diện khác nhau một cách khách
quan và đầy đủ. Việc bổ sung quy định trên đây về vai trò của Mặt trận là hoàn toàn
phù hợp với điều kiện hội nhập quốc tế, toàn cầu hóa hiện nay ở Việt Nam.
- Hiến pháp năm 2013 thể hiện sự tiếp nhận những hạt nhân hợp lý của học thuyết
phân chia quyền lực trong tổ chức bộ máy nhà nước khi xác lập vị trí, tính chất của
Quốc hội, Chính phủ, Tòa án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân một cách rõ ràng.
Hiến pháp năm 2013 đã xác định rõ Quốc hội là cơ quan thực hiện quyền lập hiến,
quyền lập pháp (Điều 69), Chính phủ là cơ quan thực hiện quyền hành pháp (Điều 94),
Tòa án nhân dân thực hiện quyền tư pháp (Điều 102);Viện kiểm sát nhân dân thực hiện
quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp (Điều 107).
- Thực hiện chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, cùng với việc xác định tòa
án là cơ quan xét xử, thực hiện quyền tư pháp, Hiến pháp năm 2013 đã xác định nhiệm
vụ của Tòa án nhân dân là bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân,
bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp
của tổ chức, cá nhân. Về cách thức thực hiện quyền tư pháp Hiến pháp năm 2013 đã có
những quy định mới so với Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi năm 2001). Nếu Hiến pháp
năm 1992 tại Điều 132 quy định: “quyền bào chữa của bị cáo được đảm bảo. Bị cáo có
thể tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa cho mình” thì Hiến pháp năm 2013 đã
quy định thêm cả quyền bào chữa của bị can: “quyền bào chữa của bị can, bị cáo, quyền

bảo vệ lợi ích hợp pháp của đương sự được bảo đảm” (Khoản 7 Điều 103). Ngoài
những nguyên tắc tố tụng đã được quy định trong Hiến pháp năm 1992, như nguyên tắc
tòa án xét xử công khai trừ trường hợp do luật định, nguyên tắc khi xét xử sơ thẩm có
Hội thẩm tham gia, nguyên tắc Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo
pháp luật, nguyên tắc tòa án xét xử tập thể và quyết định theo đa số, Hiến pháp năm
2013 còn xác định thêm các nguyên tắc: “nguyên tắc tranh tụng được bảo đảm” (khoản
5 Điều 103) và “chế độ xét xử sơ thẩm và phúc thẩm được bảo đảm” (khoản 6 Điều
103). Để bảo đảm tính độc lập của Tòa án, Hiến pháp năm 2013 không quy định Chánh
án tòa án địa phương chịu trách nhiệm báo cáo công tác trước Hội đồng nhân dân như
quy định của Hiến pháp năm 1992. Thực hiện chủ trương tổ chức tòa án theo thẩm
quyền xét xử và cụ thể hóa quy định của Hiến pháp năm 2013, Luật tổ chức tòa án năm
2014 đã thành lập thêm Tòa án nhân dân cấp cao trong hệ thống tòa án nhân dân, có
chức năng xét xử phúc thẩm các bản án của Tòa án nhân dân tỉnh thành phố trực thuộc
Trung ương thuộc phạm vi thẩm quyền theo lãnh thổ, chưa có hiệu lực pháp luật, bị
kháng nghị, kháng cáo và xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm các bản án đã có hiệu lực
pháp luật của tòa án nhân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và tòa án nhân dân
huyện, quận, thành phố thuộc tỉnh và tương đương thuộc phạm vi thẩm quyền theo lãnh
thổ bị kháng nghị theo quy định của luật tố tụng. Do việc thành lập thêm Tòa án nhân
dân cấp cao nên Tòa án nhân dân tối cao sẽ không còn thẩm quyền xét xử phúc thẩm
các bản án của Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và Tòa án nhân
dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương cũng không còn thẩm quyền xét xử giám đốc
thẩm và tái thẩm các bản án của tòa án nhân dân cấp huyện, quận, thị xã, thành phố
thuộc tỉnh. Các thẩm quyền nói trên theo Luật tổ chức tòa án năm 2014 được chuyển
cho Tòa án nhân dân cấp cao. Để tăng cường việc bảo vệ các quyền con người và
quyền công dân, mà đặc biệt là quyền của phụ nữ và trẻ em, Luật tổ chức tòa án nhân

11


dân năm 2014 đã thành lập thêm Tòa gia đình và người chưa thành niên trong Tòa án

nhân dân cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, Tòa án cấp cao và có thể thành lập
tòa này ở Tòa án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh. Để tăng cường
tính độc lập và ổn định nghề nghiệp của thẩm phán, Luật tổ chức tòa án nhân dân năm
2014 cũng đã kéo dài thời gian từ nhiệm kỳ thứ hai của thẩm phán từ 5 năm lên 10
năm (Điều 74 Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014).
Tương ứng với tổ chức hệ thống Tòa án nhân dân, Luật tổ chức viện kiểm sát
nhân dân năm 2014 đã thành lập thêm Viện kiểm sát nhân dân cấp cao trong hệ thống
tổ chức của Viện kiểm sát nhân dân.
- Về chế định Chủ tịch nước, Hiến pháp năm 2013 đã xác định rõ hơn quyền hạn
của Chủ tịch nước khi xác định Chủ tịch nước quyết định phong, thăng, giáng tước
quân hàm cấp tướng, chuẩn đô đốc, phó đô đốc, đô đốc hải quân, bổ nhiệm, miễn
nhiệm, cách chức Tổng tham mưu trưởng, Chủ nhiệm Tổng cục chính trị quân đội nhân
dân Việt Nam thay cho quy định quyết định phong hàm, cấp “sĩ quan cấp cao” trong
các lực lượng vũ trang nhân dân như quy định trong Hiến pháp năm 1992. Trên thực tế
theo Hiến pháp năm 1992, Chủ tịch nước chỉ quyết định phong sĩ quan cấp thượng
tướng và đại tướng, còn thẩm quyền quyết định phong sĩ quan cấp thiếu tướng và trung
tướng thuộc thẩm quyền của Thủ tướng.
- Một điểm mới khác cần phải kể đến trong việc tổ chức quyền lực nhà nước theo
Hiến pháp năm 2013 là tổ chức chính quyền địa phương. Trong Hiến pháp năm 1992,
Chương IX có tên gọi là Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân còn trong Hiến pháp
năm 2013, Chương IX có tên gọi là: “Chính quyền địa phương”. Việc khẳng định trong
Hiến pháp chính quyền địa phương gồm Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân là cần
thiết. Do Hiến pháp năm 1992 không xác định rõ chính quyền địa phương bao gồm
những cơ quan nào nên ở một số địa phương quan niệm Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát
nhân dân ở địa phương cũng là chính quyền địa phương, từ đó đã can thiệp cản trở tính
độc lập của Tòa án trong xét xử.
- Một điểm mới khác cũng cần lưu ý là ngoài ba cấp chính quyền tỉnh, thành phố
trực thuộc Trung ương; huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh; xã, phường, thị trấn,
Hiến pháp mới còn quy định thêm đơn vị hành chính - lãnh thổ đặc biệt do Quốc hội
thành lập. Mặt khác để tạo điều kiện thuận lợi cho việc đa dạng hóa chính quyền địa

phương, khoản 2 Điều 111 quy định: “Cấp chính quyền địa phương gồm có Hội đồng
nhân dân và Ủy ban nhân dân được tổ chức phù hợp với đặc điểm nông thôn, đô thị, hải
đảo, đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt do luật định.”
- Về tổ chức thực hiện và kiểm soát quyền lực nhà nước, Hiến pháp năm 2013 còn
có điểm mới là đã có quy định về hai cơ quan hiến định độc lập là Hội đồng bầu cử
Trung ương và Kiểm toán nhà nước. Ở nước ngoài, ngoài hai cơ quan nói trên, các cơ
quan hiến định độc lập còn có Tòa án Hiến pháp, Ủy ban Phòng chống tham nhũng, Ủy
ban Thông tin quốc gia, Ủy ban Nhân quyền. Các cơ quan hiến định độc lập do được
Hiến pháp quy định nên thể hiện tính độc lập cao trong tổ chức và hoạt động của mình,
nhờ đó mà các thiết chế này có thể hoạt động có hiệu lực, hiệu quả cao và không phụ
thuộc vào các thiết chế khác trong bộ máy nhà nước, đảm bảo quyền lực nhà nước được
kiểm soát chặt chẽ.
5.2.3.Về chế định quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân

12


So với Hiến pháp năm 1992, Hiến pháp năm 2013 là một bước tiến vượt bậc
trong việc bảo vệ các quyền con người và quyền công dân. Bên cạnh việc quy định về
quyền công dân, quyền con người cũng được quy định một cách chi tiết và đầy đủ. Nếu
trong Hiến pháp năm 1992 chương Quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân chỉ có 29
điều thì chương Quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân trong Hiến
pháp năm 2013 có 36 điều (tăng 7 điều so với Hiến pháp năm 1992). Hiến pháp năm
2013 đã dành 21 điều quy định về quyền con người, 15 điều quy định về quyền công
dân. Tại Điều 14 khoản 1 Hiến pháp năm 2013 đã xác định: “ Ở nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế,
văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp
luật”. Việc quy định cụ thể về quyền con người được thể hiện trên các bình diện:
quyền bình đẳng trước pháp luật (khoản 1 Điều 16), quyền không bị phân biệt đối xử
(Khoản 2 Điều 16), quyền của người Việt Nam định cư ở nước ngoài (Điều 18), quyền

sống, tính mạng được pháp luật bảo hộ (Điều 19); quyền bất khả xâm phạm về thân thể
(Điều 20, khoản 1), quyền bất khả xâm phạm về đời sống riêng tư, quyền bí mật thư tín,
điện thoại, điện tín (Điều 21). Ngoài ra quyền con người trên các lĩnh vực khác được
quy định tại các Điều 22, 24, 26, 30, 31, 32, 33,35, 36, 37, 38, 40, 41, 43, 48,49. Nhìn
chung, quyền con người có phạm vi chủ thể rộng hơn quyền công dân. Trong khi quyền
công dân Việt Nam chỉ dành cho người có quốc tịch Việt Nam thì quyền con người có
phạm vi chủ thể rộng hơn là công dân Việt Nam, công dân nước ngoài, người không có
quốc tịch (bao gồm cả người nước ngoài và người Việt Nam). Quyền công dân Việt
Nam được pháp luật Việt Nam điều chỉnh, trong khi đó quyền con người vừa được
pháp luật quốc tế và pháp luật Việt Nam điều chỉnh.
Từ những phân tích trên đây có thể khẳng định rằng Hiến pháp năm 2013 là một
cột mốc mới đánh dấu sự phát triển, tiến bộ của nền lập hiến Việt Nam về tư tưởng dân
chủ; tổ chức, kiểm soát quyền lực nhà nước; bảo vệ các quyền con người, quyền công
dân và kỹ thuật lập hiến./.
Câu 6: Phân tích các yếu tố cấu thành tội phạm (Lấy ví dụ minh họa).
*Khái niệm Tội phạm:
- Điều 8 bộ luật hình sự nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1999 có
hiệu lực thi hành từ ngày 01/-7/2000 đã định nghĩa tội phạm như sau:
+ Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội, được quy định trong bộ luật hình sự
do người có trách nhiệm, năng lực hình sự thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm hại
đến chế độ chính trị chế độ kinh tế nền văn hóa quốc phòng, an ninh trật tự an toàn xã
hội quyền lợi ích hợp pháp của Tổ quốc xâm hại tính mạng, sức khỏi danh dự, nhân
phẩm, tự do, tài sản, các quyền lợi ích hợp pháp của công dân, xâm hại những lĩnh vực
khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa.
* Các yếu tố cấu thành tội phạm: gồm mặt khách quan, chủ quan, chủ thể,
khách thể:
- Mặt khách quan của tội phạm là những biểu hiện của tội phạm diễn ra hoặc tồn
tại bên ngoài thế giới khách quan. Những dấu hiệu thuộc về khách quan của tội phạm
gồm những hành vi nguy hiểm cho xã hội : tính trái pháp luật của hành vi, hậu quả
nguy hiểm cho xã hội, mối quan hệ của tội phạm còn có các dâu hiệu khác nhau như:


13


phương tiện, công cụ tội phạm, phương pháp thủ đoạn, thời gian, địa điểm, thực hiện
phạm tội.
- Mặt chủ quan của tội phạm là những diễn biến tâm lý bên trong của tội phạm
bao gồm : lỗi, mục đích, va động cơ phạm tội. Bất cư tội phạm cụ thể nào cũng phải là
hành vi được thực hiện một cách có lỗi. Lỗi có hai loại lỗi : lỗi cố ý hoặc lỗi vô ý.
- Cố ý phạm tội là phạm tội trong những trường hợp sau:
+ Người phạm tội nhận thức được hành vi của mình là nguy hại cho xã hội, thấy
được hậu quả của hành vi đó và mong muốn cho hành vi đó xảy ra.
+ Người phạm tội nhận thức được hành vi của mình là nguy hiềm cho xã hội, thấy
trước hậu quả của hành vi đó, tuy không mong muốn những vẫn có ý thức để mặc nó
xảy ra.
- Vô ý phạm tội là phạm tội trong những trường hợp sau
+ Người phạm tội tuy thấy trước được hành vi của mình có thể gây nguy hại cho
xã hội nhưng cho rằng hậu quả đó sẽ không xảy ra hoặc có thể ngăn ngừa được.
+ Người phạm tội không thấy được hành vi của mình có thể gây ra nguy hại cho
xã hội, mặc dù có thể thấy trước và có thể thấy hậu quả đó.
- Khách thể của tội phạm là quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ và bị tội
phạm gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại ở mức độ đáng kể.
- Chủ thể của tội phạm là con người cụ thể đã thực hiện hành vi nguy hiểm cho
xã hội được luật hình sự quy định là tội phạm, có năng lực trách nhiệm hình sự và đạt
độ tuổi theo quy định của luật hình sự
- Năng lực chịu trách nhiệm là khả năng nhận thức và điều khiển hành vi của
người phạm tội. tuổi chịu trách nhiệm hình sự : Người từ 14 tuổi đến 16 tuổi thì phải
chịu trách nhiệm hình sự với những tội rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội đặc biệt
nghiêm trọng người từ 16 tuổi trở lên chịu trách nhiệm hình sự với mọi loại tội phạm
Vậy: Một hành vi được coi là phạm tội phải có đầy đủ 4 yếu tố trên. Khi đã được

coi là tội phạm thì phải chịu trách nhiệm hình sự quy định.

Ví dụ: Vi phạm pháp luật hình sự
1. Tình huống
- Chị Thanh (40 tuổi, không chồng), có quan hệ với anh Lê Mạnh H (đã có vợ), và
sinh được một đứa con (cháu Minh). Sau khi chấm dứt quan hệ với anh H, chị luôn bị
một người tên Đỗ Thị Kim Duân (43 tuổi) - vợ của H, gọi điện thoại chửi mắng.
- Ngày 06/11/2009, Duân đến nhà chị Thanh (Đông Anh, Hà Nội). Tại đây, Duân
xin được bế đứa trẻ, chị Thanh đồng ý. Lấy cớ nghe điện thoại, Duân bế cháu xuống
bếp và dùng chiếc kim khâu lốp dài 7cm mang theo đâm vào đỉnh thóp đầu cháu. Sợ bị
phát hiện, Duân lấy mũ đậy vết đâm lại, nhưng máu chảy quá nhiều, cháu khóc thét lên
nên bị mọi người phát hiện. Sau khi đưa đi cấp cứu, cháu Minh (40 ngày tuổi) qua đời.
- Duân (sinh năm 1974, Đông Anh, Hà Nội) không có bệnh về thần kinh, chưa có
tiền án, là một người làm ruộng.
2. Cấu thành vi phạm pháp luật

14


¤ Về mặt khách quan:
- Hành vi: việc làm của Duân (dùng kim khâu lốp đâm xuyên đầu đứa trẻ sơ sinh
40 ngày tuổi) là hành vi dã man, lấy đi tính mạng đứa trẻ, gây nguy hiểm cho xã hội
được quy định tại Bộ luật hình sự.
- Hậu quả: gây nên cái chết của cháu Minh, gây tổn thương tinh thần gia đình đứa
trẻ và bất bình trong xã hội. Thiệt hại được gây ra trực tiếp bởi hành vi trái pháp luật.
- Thời gian: diễn ra vào sáng ngày 06/11/2009
- Địa điểm: tại nhà bếp của chị Thanh.
- Hung khí: là một chiếc kim khâu lốp dài 7cm đã được chuẩn bị từ trước
¤ Mặt khách thể:
Hành vi của Duân đã xâm phạm tới quyền được bảo đảm về tính mạng, sức khỏe,

danh dự, nhân phẩm của công dân, vi phạm đến quan hệ xã hội được pháp luật bảo vệ.
¤ Mặt chủ quan:
- Lỗi: hành vi của Duân là lỗi cố ý trực tiếp. Bởi Duân là người có đủ năng lực
trách nhiệm pháp lý, biết rõ việc mình làm là trái pháp luật gây hậu quả nghiêm trọng,
nhưng vẫn mong muốn hậu quả xảy ra. Duân có mang theo hung khí và có thủ đoạn
tinh vi (lấy cớ nghe điện thoại, che đậy vết thương của bé Minh).
- Động cơ: Duân thực hiện hành vi này là do ghen tuông với mẹ đứa trẻ.
- Mục đích: Duân muốn giết chết đứa trẻ để trả thù mẹ đứa trẻ.
¤ Chủ thể vi phạm:
- Chủ thể của vi phạm pháp luật là Đỗ Thị Kim Duân (43 tuổi) là một công dân có
đủ khả năng nhận thức và điểu khiển hành vi của mình.
- Như vậy, xét về các mặt cấu thành nên vi phạm pháp luật có thể kết luận đây là
một hành vi vi phạm pháp luật hình sự nghiêm trọng. Cần được xử lý nghiêm minh
theo quy định của PL.

Câu 7: Nội dung cơ bản của chế định quyền sở hữu trong ngành Luật Dân
sự. Cho ví dụ minh họa về đối với từng loại quyền năng.
Khái niêm về quyền sở hữu: Điều 164 Bộ luật Dân sự 2005 của Việt Nam quy
định: “Quyền sở hữu bao gồm quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền định đoạt
tài sản của chủ sở hữu theo quy định của pháp luật”. Theo định nghĩa trên thì quyền
sở hữu bao gồm ba quyền năng cơ bản: Quyền chiếm hữu, quyền định đoạt và quyền
sử dụng.
a. Quyền chiếm hữu được hiểu một cách thông thường nhất là sự nắm giữ, chi
phối, quản lý một hoặc nhiều tài sản. Điều 182 Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định:
“Quyền chiếm hữu là quyền nắm giữ, quản lí tài sản”.
Ví dụ: cất giữ tiền, vàng…. trong tủ, két sắt của mình…
Quyền chiếm hữu bao gồm hai loại: Chiếm hữu có căn cứ pháp luật và chiếm
hữu không có căn cứ pháp luật.

15



- Chiếm hữu có căn cứ pháp luật bao gồm các căn cứ: Chủ sở hữu chiếm hữu tài
sản; Chủ sở hữu uỷ quyền quản lý tài sản trong phạm vi uỷ quyền; Được chuyển giao
quyền chiếm hữu thông qua các giao dịch dân sự phù hợp với ý chí của chủ sở hữu
(người đang chiếm hữu hợp pháp chỉ được sử dụng hoặc chuyển giao quyền chiếm
hữu tài sản cho người khác nếu được chủ sở hữu đồng ý); Người phát hiện và giữ tài
sản vô chủ, tài sản không xác định được chủ sở hữu; tài sản bị đánh rơi, bị bỏ quên, bị
chôn giấu, bị chìm đắm phù hợp với các điều kiện do pháp luật qui định; Người phát
hiện và giữ gia súc, gia cầm, vật nuôi dưới nước bị thất lạc phù hợp với các điều kiện
do pháp luật quy định và các trường hợp khác do pháp luật quy định.
Ví dụ: Chị A nhặt được vàng, nộp lại cơ quan chức năng. Sau 12 tháng cơ quan
chức năng làm đủ các thủ tục theo quy định không ai đến nhận thì chị A nhận được
50% số vàng này.
Theo đó, số vàng phát hiện được nếu có giá trị đến 10 tháng lương tối thiểu do
Nhà nước quy định thì thuộc sở hữu của người phát hiện ra số vàng đó. Nếu số vàng
đó có giá trị lớn hơn 10 tháng tiền lương tối thiểu do Nhà nước quy định thì người
phát hiện ra chỉ được hưởng giá trị bằng 10 tháng tiền lương tối thiểu do Nhà nước
quy định và 50% giá trị phần vượt quá 10 tháng lương tối thiểu, phần còn lại thuộc
vào tài sản Nhà nước.
- Chiếm hữu không có căn cứ pháp luật: là sự chiếm hữu không dựa trên bất ỳ
một căn cứ nào luật quy định. Trong chiếm hữu không có căn cứ pháp luật lại bao
gồm:
+ Chiếm hữu không có căn cứ pháp luật nhưng ngay tình là trường hợp người
chiến hữu không biết và không thể biết mình chiếm hữu không dựa trên cơ sở pháp
luật.
Ví dụ A mượn của B chiếc máy ảnh. A thấy C khen máy ảnh đẹp nên cho C
chiếc máy ảnh đó. Như vậy C là người chiếm hữu tài sản của B không có căn cứ pháp
luật nhưng ngay tình.
+ Chiếm hữu không có căn cứ pháp luật không ngay tình đó là trường hợp người

chiếm hữu biết hoặc pháp luật buộc phải biết là mình chiếm hữu không dựa trên cơ sở
pháp luật.
Ví dụ: A mượn xe máy EBlack của B, sau đó đem tặng cho C. Theo quy định thì
C được coi là Chiếm hữu không có căn cứ pháp luật không ngay tình do C phải hiểu
bắt buộc phải xem giấy tờ xe để biết ai là chủ sở hữu.
b. Quyền định đoạt:
Điều 195 Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định: “Quyền định đoạt tài sản là
quyền chuyển giao quyền sở hữu tài sản hoặc từ bỏ quyền sở hữu đó”.
VD: tuyên bố hoặc có hành vi vứt bỏ một chiếc ti vi thuộc quyền sở hữu của bản
thân
Quyền định đoạt thực chất là việc định đoạt số phận “thực tế” hoặc “pháp lý”
của một tài sản. Định đoạt “thực tế” là bằng hành vi của mình làm cho tài sản không
còn như phá hủy, sử dụng…. Còn định đoạt pháp lý được hiểu là việc chuyển quyền
sở hữu sang cho chủ thể khác như: tặng cho, mua bán…

16


Quyền định đoạt không có nghĩa tuyệt đối, trong những trường hợp nhất định mà
pháp luật ràng buộc chủ thể có quyền định đoạt phải tuân theo những quy định để
tránh vi phạm Hiến pháp và pháp luật.
c. Quyền sử dụng: Điều 192 Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định: “ Quyền sử
dụng là quyền khai thác công dụng, hưởng hoa lợi, lợi tức tài sản”. Quyền sử dụng có
thể hiểu một cách đơn giản là việc khai thác và hưởng lợi ích từ tài sản được khai
thác. Cũng như quyền chiếm hữu, quyền sử dụng không chỉ thuộc về chủ sở hữu tài
sản mà còn thuộc về những người không phải chủ sở hữu nhưng được chủ sở hữu giao
quyền hoặc theo qui định của pháp luật.
VD: cho người khác thuê nhà của mình để hưởng lợi tức…
Với 3 quyền năng cơ bản được pháp luật dân sự quy định thì có thể thấy rằng:
chủ sở hữu có toàn quyền đối với tài sản thuộc sở hữu của mình.


Câu 8: Làm rõ địa vị pháp lý của các loại hình doanh nghiệp theo pháp luật
Doanh nghiệp hiện hành. Cho ví dụ minh họa.
Ngày nay Việt Nam đang chuyển sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần
theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước. Nhằm định hướng chính xác cho
sự phát triển, nhằm quản lý có hiệu quả hệ thống doanh nghiệp nói chung và trong nội
bộ từng doanh nghiệp nói riêng, vấn đề nắm vững địa vị pháp lý của các loại hình
doanh nghiệp có ý nghĩa quan trọng.
Điều 4 của Luật doanh nghiệp ( năm 2014) có định nghĩa rằng: " Doanh nghiệp là
tổ chức có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch, được đăng ký thành lập theo quy
định của pháp luật nhằm mục đích kinh doanh”. Theo định nghĩa pháp lý đó thì doanh
nghiệp phải là những đơn vị tồn tại trước hết vì mục đích kinh doanh. Những thực thể
pháp lý, không lấy kinh doanh làm mục tiêu chính cho hoạt động của mình thì không
được coi là doanh nghiệp.
Địa vị pháp lý của doanh nghiệp là xác định tư cách pháp nhân của doanh nghiệp
trước pháp luật, các quyền và nghĩa vụ cơ bản của doanh nghiệp. Trên thực tế tồn tại
nhiều loại hình doanh nghiệp khác nhau. Do đó mỗi loại hình doanh nghiệp có địa vị
pháp lý khác nhau. Theo Luật Doanh nghiệp, có các loại hình doanh nghiệp sau:
Công ty trách nhiệm hữu hạn là doanh nghiệp trong đó thành viên có thể là tổ
chức, cá nhân. Các thành viên chịu các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của doanh
nghiệp trong phạm vi số vốn cam kết góp vào doanh nghiệp. Bao gồm:
- Công ty TNHH 1 thành viên là Doanh nghiệp do 1 tổ chức làm chủ sở hữu
(chủ sở hữu Công ty): Chủ sở hữu chịu trách nhiệm về các khoản nợ và các nghĩa vụ,
tài sản khác của doanh nghiệp trong phạm vi số vốn điều lệ. Đặc trưng pháp lý của
Công ty TNHH 1 thành viên:Chỉ có 1 thành viên và thành viên đó phải là tổ chức. Tổ
chức là chủ sở hữu công ty TNHH 1 thành viên phải là pháp nhân. Có tư cách pháp
nhân và chỉ chịu trách nhiệm hữu hạn trong phạm vi vốn Điều lệ của Công ty. Công ty
được quyền chuyển nhượng toàn bộ hoặc một phần vốn điều lệ của Công ty cho các tổ
chức cá nhân khác. Không được quyền phát hành cổ phiếu.


17


Ví dụ: Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên Dịch vụ công ích quận; Công
ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên nhựa Long Thành.
- Công ty TNHH có từ 2 thành viên trở lên là một tổ chức kinh doanh có tư cách
pháp nhân, trong đó thành viên có thể là cá nhân hoặc tổ chức số lượng thành viên ít
nhất là 2 và nhiều nhất không vượt quá 50 người. Là doanh nghiệp có tư cách pháp
nhân, có tài sản riêng tách bạch với tài sản của các thành viên Công ty. Thành viên có
thể là tổ chức hoặc cá nhân nhưng số lượng thành viên ít nhất phải là 2 và không vượt
quá 50 người. Không được quyền phát hành cổ phiếu. Công ty chịu trách nhiệm về
mọi hoạt động sản xuất kinh doanh bằng tài sản của Công ty, các thành viên Công ty
chịu trách nhiệm về các khoản nợ và các nghĩa vụ tài sản khác của Công ty trong phạm
vi số vốn cam kết góp vào Công ty.
Ví dụ: Công ty TNHH Du lịch Lửa Việt; Công ty TNHH Nhựa Bình Minh.
- Công ty cổ phần: doanh nghiệp trong đó vốn điều lệ được chia thành nhiều
phần bằng nhau gọi là cổ phần; Cổ đông (người sở hữu cổ phần của công ty) chỉ chịu
trách nhiệm về các khoản nợ của công ty trong phạm vi số vốn đã góp vào doanh
nghiệp. Đặc điểm pháp lý: Số lượng thành viên tối thiểu là 3, thành viên có thể là cá
nhân hoặc tổ chức; Vốn điều lệ của Công ty được chia thành nhiều phần bằng nhau gọi
là cổ phần.Giá trị mỗi cổ phần gọi là mệnh giá cổ phần và được phản ánh trong cổ
phiếu. Việc góp vốn vào công ty được thực hiện bằng cách mua cổ phần; Cổ đông có
quyền tự do chuyển nhượng phần vốn góp (cổ phần) của mình cho người khác; Phần
vốn góp của các thành viên được thể hiện dưới hình thức cổ phiếu. Các cổ phiếu do
công ty phát hành. Người có cổ phiếu có thể tự do chuyển nhượng theo quy định của
pháp luật; Tài sản của công ty tách bạch với tài sản của thành viên công ty. Công ty cổ
phần chịu trách nhiệm về các khoản nợ của công ty bằng tài sản của công ty. Các cổ
đông chịu trách nhiệm về các khoản nợ và các nghĩa vụ tài sản khác của công ty trong
phạm vi số vốn đã góp vào công ty; Công ty cổ phần có quyền phát hành chứng khoán
ra công chúng theo quy định của pháp luật về chứng khoán để huy động vốn. Công ty

cổ phần là doanh nghiệp có tư cách pháp nhân chịu trách nhiệm hữu hạn về các khoản
nợ của công ty trong phạm vi vốn điều lệ.
Ví dụ: Công ty Cổ phần sữa Việt Nam (Vinamilk); Công ty cổ phần Xuất nhập
khẩu Khánh Hội, Công ty cổ phần kinh doanh thiết bị y tế…
- Công ty hợp danh : là doanh nghiệp mà trong đó các thành viên cùng nhau cam
kết thành lập doanh nghiệp để kinh doanh trên cơ sở uy tín nghề nghiệp và trình độ
chuyên môn của các thành viên.
Ví dụ: Công ty hợp danh Văn phòng Luật sư: cung ứng các dịch vụ về tư vấn
pháp luật.
- Doanh nghiệp tư nhân Là doanh nghiệp do 1 cá nhân làm chủ và tự chịu
trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về mọi hoạt động của doanh nghiệp. Địa
vị pháp lý: Là doanh nghiệp không có tư cách pháp nhân. Do 1 cá nhân bỏ vốn ra
thành lập và làm chủ, chủ doanh nghiệp tư nhân có toàn quyền quản lý Công ty. Chủ
doanh nghiệp tư nhân chịu trách nhiệm vô hạn về mọi khoản nợ của doanh nghiệp.
Chủ doanh nghiệp tư nhân là đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp.
Ví dụ: Doanh nghiệp tư nhân Vàng Hoài Linh kinh doanh, gia công vàng.

18


- Doanh nghiệp Nhà nước : là tổ chức kinh tế do Nhà nước đầu tư vốn, thành
lập và tổ chức quản lý, hoạt động kinh doanh hay hoạt động công ích nhằm thực hiện
các mục tiêu kinh tế xã hội do Nhà nước giao. Doanh nghiệp Nhà nước có tư cách
pháp nhân, có quyền và nghĩa vụ dân sự, tự chịu trách nhiệm về toàn bộ hoạt động
kinh doanh trong phạm vi vốn do doanh nghiệp quản lý.
Địa vị pháp lý: Doanh nghiệp Nhà nước có tên gọi, có con dấu riêng và có trụ
sở chính trên lãnh thổ Việt Nam. Là tổ chức kinh tế do Nhà nước đầu tư vốn và trực
tiếp thành lập. Doanh nghiệp Nhà nước đều do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền trực
tiếp ký quyết định thành lập khi thấy việc thành lập Doanh nghiệp là cần thiết. Việc
thành lập doanh nghiệp Nhà nước dựa trên nguyên tắc chỉ thành lập theo những ngành,

lĩnh vực then chốt, xương sống của nền kinh tế dựa trên những đòi hỏi thực tiễn của nền
kinh tế thời điểm dó và chủ trương của Đảng và ngành nghề lĩnh vực đó. Doanh nghiệp
Nhà nước do Nhà nước đầu từ vốn nên nó thuộc sở hữu Nhà nước, tài sản của doanh
nghiệp Nhà nước là một bộ phận của tài sản Nhà nước. Doanh nghiệp Nhà nước sau
khi được thành lập là một chủ thể kinh doanh, tuy nhiên chủ thể kinh doanh này không
có quyền sở hữu đối với tài sản trong doanh nghiệp mà chỉ là người quản lý tài sản và
kinh doanh trên cơ sở sở hữu của Nhà nước. Nhà nước giao vốn cho doanh nghiệp,
doanh nghiệp phải chịu trách nhiệm trước Nhà nước về việc bảo toàn và phát triển vốn
mà Nhà nước giao. Doanh nghiệp Nhà nước do Nhà nước tổ chức quản lý và hoạt
động theo mục tiêu kinh tế xã hội do Nhà nước giao. Doanh nghiệp Nhà nước là một
pháp nhân chịu trách nhiệm hữu hạn về mọi hoạt động sản xuất kinh doanh trong phạm
vi số vốn Nhà nước giao.
Ví dụ: Công ty xổ số kiến thiết; Tổng công ty Xây dựng Sông Đà; Tổng Công ty
Thuốc lá Việt Nam.
- Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam: là hình thức đầu tư mà
ở đó các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư một phần hoặc toàn bộ vốn để lập ra pháp nhân
mới tại Việt Nam theo quy định của luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam nhằm thực
hiện mục tiêu chung của các nhà đầu tư. Địa vị pháp lý : Là hình thức đầu tư mang
tính ổn định, tính vững bền và tính tổ chức. Được thành lập dưới hình thức công ty
TNHH. Điều đó có nghĩa là các nhà đầu tư nước ngoài chỉ chịu trách nhiệm trong
phạm vi phần vốn đầu tư vào doanh nghiệp đối với các khoản nợ của doanh nghiệp.
Các nhà đầu tư vốn nước ngoài có quyền sở hữu 1 phần hay toàn bộ tài sản của doanh
nghiệp. Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chịu sự điều chỉnh của luật đầu tư
nước ngoài tại Việt Nam. Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài bao gồm các loại
như sau:
- Doanh nghiệp liên doanh: là doanh nghiệp được thành lập tại Việt Nam trên
cơ sở hợp đồng liên doanh ký giữa 2 bên hoặc nhiều bên để tiến hành đầu tư, kinh
doanh tại Việt Nam.
Địa vị pháp lý: Doanh nghiệp liên doanh được thành lập dưới hình thức công ty
TNHH, các bên tham gia liên doanh chỉ chịu trách nhiệm trong phạm vi phần vốn

cam kết góp vào vốn pháp định của doanh nghiệp. Doanh nghiệp liên doanh có thể do
2 bên hoặc nhiều bên hợp tác thành lập. Doanh nghiệp liên doanh là doanh nghiệp
luôn có vốn của bên nước ngoài đầu tư trực tiếp bên cạnh vốn của bên Việt Nam
trong cơ cấu vốn pháp định của doanh nghiệp. Doanh nghiệp liên doanh là doanh
nghiệp được thành lập tại Việt Nam trên cơ sở hợp đồng liên doanh hoặc hiệp định
19


giữa chính phủ Việt nam và chính phủ nước ngoài. Doanh nghiệp liên doanh có tư
cách pháp nhân theo pháp luật Việt Nam, chịu sự điều chỉnh của pháp luật Việt Nam,
là chủ thể pháp lý độc lập, bình đẳng với các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh
tế.
Ví dụ: Công ty liên doanh Thép Việt – Úc.
- Doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài là doanh nghiệp thuộc sở hữu
của nhà đầu tư nước ngoài, do nhà đầu tư nước ngoài thành lập tại Việt Nam, tự quản
lý và tự chịu trách nhiệm về kết quả kinh doanh.
Địa vị pháp lý: Có thể do 1 tổ chức, 1 cá nhân nước ngoài đầu tư vốn thành lập
hoặc có thể do nhiều tổ chức, cá nhân nước ngoài cùng đầu tư vốn thành lập để thực
hiện hoạt động kinh doanh. Có tư cách pháp nhân theo pháp luật Việt Nam, chịu sự
điều chỉnh của pháp luật Việt Nam, là chủ thể pháp lý độc lập, bình đẳng với các
doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế. Được thành lập dưới dạng công ty
TNHH , chỉ chịu trách nhiệm hữu hạn bằng số vốn đưa vào kinh doanh. Tài sản của
doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài thuộc quyền sở hữu của 1 hoặc nhiều tổ chức cá
nhân nước ngoài. Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài do tổ chức cá nhân nước ngoài
tự quản lý và tự chịu trách nhiệm về kết quả hoạt động kinh doanh. ( Nhà nước Việt
Nam chỉ quản lý thông qua việc cấp giấy phép đầu tư và kiểm tra họ có thực hiện đúng
pháp luật hay không. Nhà nước Việt Nam không can thiệp vào việc tổ chức quản lý
của doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài).
Ví dụ: Công ty TNHH Sakura (có 100% vốn đầu tư của Nhật Bản, chuyên đầu tư
vào lĩnh vực nhà hàng, dịch vụ ); Công ty TNHH phụ tùng ô tô Schlemmer Việt Nam là

công ty 100% vốn nước ngoài do Đức và Trung Quốc hợp tác.Công ty chuyên sản xuất
và kinh doanh phụ tùng ô tô như: linh kiện bảo vệ hệ thống cáp ô tô, hệ thống dẫn khí
và chất lỏng.
- Hợp tác xã là tổ chức kinh tế tự chủ do những người lao động có nhu cầu, lợi
ích chung tự nguyện cùng góp vốn, góp sức lập ra theo những qui định của pháp luật
để phát huy sức mạnh của tập thể và của từng xã viên nhằm giúp nhau thực hiện có
hiệu quả hơn các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và cải thiện đời sống góp
phần phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Hợp tác xã là một tổ chức kinh tế có
quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm trong hoạt động sản xuất kinh doanh, bình đẳng
trước pháp luật với các doanh nghiệp thuộc các thành phần kình tế khác, có số lượng
thành viên tối thiểu theo quy định tại điều lệ mẫu của các HTX, có tư cách pháp nhân
và chịu trách nhiệm hữu hạn trong phạm vi vốn của mình.
Ví dụ: Hợp tác xã Nông nghiệp; Hợp tác xã vận tải, Hợp tác xã Coop Mart.
Nắm vững địa vị pháp lý của các doanh nghiệp sẽ giúp chủ doanh nghiệp lựa chọn
mô hình doanh nghiệp phù hợp với yêu cầu của mình.

Câu 9: Bài tập về thừa kế
Ông A kết hôn với bà B, sinh ra M, H, C. Ông A và bà B có tài sản chung là 300
triệu đồng. M kết hôn với E, sinh ra X và Y. Năm 1990 M chết. Năm 1993 bà B chết.
Năm 1996 ông A kết hôn với bà D. Bà D có con riêng là K đã lớn, ra ở riêng. Năm

20


1998 A và D sinh ra T. Tài sản chung của A và D là 100 triệu đồng. Năm 2002 ông A
chết. Năm 2005 bà D chết. Hãy chia thừa kế và tính tổng số tiền mà mỗi người được
hưỡng ?
Bài làm
M (chết 1990) : con của M là X và Y
A và B ------> các con

H
C
Tài sản chung của A và B = 300 triệu.
1/ Năm 1993: bà B chết, di sản của B để lại là 300 triệu / 2 = 150 triệu.
- Phân chia di sản của bà B: Di sản của bà B chia cho chồng và các con gồm: A,
M, H, C. Do M chết năm 1990 nên X và Y là con của M được hưởng thừa kế thế vị.
150 triệu / 4 = 37,5 triệu / suất.
- X và Y được 37,5 triệu / 2 = 18,75 triệu / người.
2/ Năm 1996 ông A kết hôn với bà D, sinh ra T, tài sản chung của A và D = 100
triệu.
Năm 2002 ông A chết, di sản của ông A để lại gồm:
- Tài sản của A và B: 300 triệu / 2 = 150 triệu;
- Phần di sản của B mà A được hưởng = 37,5 triệu;
- Tài sản chung của A và D = 100 triệu, suy ra di sản của A = 50 triệu;
Cộng chung: 150 triệu + 37,5 triệu + 50 triệu = 237,5 triệu.
- Những người được hưởng di sản của A gồm: M (X, Y), H, C, D, T:
237,5 triệu / 5 = 47,5 triệu / suất.
- H và C mỗi người được hưởng tổng cộng: 37,5 triệu + 47,5 triệu = 85 triệu /
người.
- Do M đã chết nên X và Y được hưởng thừa kế thế vị là: 47,5 triệu / 2 = 23,75
triệu/người.
- Cộng chung X và Y được hưởng tổng cộng: 18,75 triệu + 23,75 triệu = 42,5
triệu.
3/ Năm 2005 bà D chết, di sản của bà D để lại là:
- Phần tài sản của bà D là 50 triệu,
- Phần di sản mà bà D thừa kế của ông A là 47,5 triệu
Cộng chung: 50 triệu + 47,5 triệu = 97,5 triệu.
- Chia cho 02 con là K và T, mỗi người được 97,5 triệu / 2 = 48,75 triệu.
- Cộng chung phần di sản của ông A mà T được hưởng là 47,5 triệu và phần di sản
của bà D mà T được hưởng là 48,75 triệu = 96,25 triệu.


21



×