Header Page 1 of 258.
HC VIN CHNH TR QUC GIA H CH MINH
NGUYN TRN IN
THựC HIệN PHáP LUậT Về
BảO Vệ MÔI TRƯờNG LàNG NGHề ở CáC TỉNH
ĐồNG BằNG SÔNG HồNG VIệT NAM
LUN N TIN S
CHUYấN NGNH: Lí LUN V LCH S NH NC V PHP LUT
H NI - 2016
Footer Page 1 of 258.
Header Page 2 of 258.
HC VIN CHNH TR QUC GIA H CH MINH
NGUYN TRN IN
THựC HIệN PHáP LUậT Về
BảO Vệ MÔI TRƯờNG LàNG NGHề ở CáC TỉNH
ĐồNG BằNG SÔNG HồNG VIệT NAM
LUN N TIN S
CHUYấN NGNH: Lí LUN V LCH S NH NC V PHP LUT
Mó s: 62 38 01 01
NGI HNG DN KHOA HC:
PGS.TS. PHM VN LI
H NI - 2016
Footer Page 2 of 258.
Header Page 3 of 258.
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu
khoa học của riêng tôi, các số liệu và kết quả nghiên cứu
của luận án là trung thực và có nguồn gốc rõ ràng.
TÁC GIẢ LUẬN ÁN
Nguyễn Trần Điện
Footer Page 3 of 258.
Header Page 4 of 258.
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU
1
Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN
ĐỀ TÀI VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA CẦN TIẾP TỤC NGHIÊN CỨU
1.1. Các công trình nghiên cứu trong nước có liên quan đến đề tài
1.2. Các công trình nghiên cứu của nước ngoài có liên quan đến đề tài
1.3. Những nhận xét đánh giá và những vấn đề đặt ra cần tiếp tục nghiên cứu
Chương 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ
BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG LÀNG NGHỀ Ở VIỆT NAM
2.1. Khái niệm làng nghề, pháp luật bảo vệ môi trường làng nghề và thực hiện
pháp luật bảo vệ môi trường làng nghề
2.2. Chủ thể, nội dung, hình thức thực hiện pháp luật về bảo vệ môi trường
làng nghề
2.3. Vai trò và điều kiện bảo đảm việc thực hiện pháp luật bảo vệ môi trường
làng nghề
2.4. Thực hiện pháp luật bảo vệ môi trường của một số nước trên thế giới và
kinh nghiệm có thể vận dụng ở các làng nghề Việt Nam
Chương 3: THỰC TRẠNG THỰC HIỆN PHÁP LUẬT BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG
LÀNG NGHỀ Ở CÁC TỈNH ĐỒNG BẰNG SÔNG HỒNG
3.1. Đặc điểm tự nhiên, kinh tế, xã hội, sự phát triển về làng nghề và tình hình
ô nhiễm về môi trường làng nghề ở các tỉnh đồng bằng sông Hồng
3.2. Những kết quả đạt được trong thực hiện pháp luật về bảo vệ môi trường
làng nghề ở các tỉnh đồng bằng sông Hồng và nguyên nhân
3.3. Những hạn chế trong thực hiện pháp luật về bảo vệ môi trường làng nghề
ở các tỉnh đồng bằng sông Hồng và nguyên nhân
Chương 4: DỰ BÁO, QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP ĐẢM BẢO THỰC HIỆN
PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG LÀNG NGHỀ Ở CÁC TỈNH
ĐỒNG BẰNG SÔNG HỒNG
4.1. Dự báo và quan điểm thực hiện pháp luật về bảo vệ môi trường làng nghề
ở các tỉnh đồng bằng sông Hồng
4.2. Một số giải pháp nhằm bảo đảm thực hiện pháp luật bảo vệ môi trường
làng nghề ở các tỉnh đồng bằng sông Hồng
KẾT LUẬN
DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC VÀ ĐỀ TÀI CỦA TÁC GIẢ ĐÃ
ĐƯỢC CÔNG BỐ
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
Footer Page 4 of 258.
6
6
14
17
20
20
26
39
45
54
54
63
90
118
118
123
154
156
157
171
Header Page 5 of 258.
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Footer Page 5 of 258.
BTNMT
Bộ Tài nguyên và Môi trường
BVMT
Bảo vệ môi trường
CBLTTP
Chế biến lương thực thực phẩm
CNH
Công nghiệp hóa
CTR
Chất thải rắn
DTLS
Di tích lịch sử
ĐBSH
Đồng bằng sông Hồng
ĐTM
Đánh giá tác động môi trường
HĐH
Hiện đại hóa
HĐND
Hội đồng nhân dân
HTX
Hợp tác xã
KHCN
Khoa học và Công nghệ
LNTT
Làng nghề truyền thống
MTLN
Môi trường làng nghề
ONKK
Ô nhiễm không khí
ONMT
Ô nhiễm môi trường
PTBV
Phát triển bền vững
QCKT
Quy chuẩn kỹ thuật
QPPL
Quy phạm pháp luật
SXLN
Sản xuất làng nghề
TCCP
Tiêu chuẩn cho phép
TCVN
Tiêu chuẩn Việt Nam
THPL
Thực hiện pháp luật
TTCN
Tiểu thủ công nghiệp
UBND
Ủy ban nhân dân
XHCN
Xã hội chủ nghĩa
Header Page 6 of 258.
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Sau khi Bộ Chính trị ban hành Chỉ thị số 36/CT-TW ngày 25/6/1998 về tăng
cường công tác bảo vệ môi trường (BVMT) trong thời kỳ công nghiệp hóa (CNH),
hiện đại hóa (HĐH) đất nước [6], Đảng ta đã nhận thức được vai trò, tầm quan trọng
của BVMT, đó là “Bảo vệ môi trường là một vấn đề sống còn của đất nước, của nhân
loại; là nhiệm vụ có tính xã hội sâu sắc”. Làng nghề là một trong những nét đặc thù của
nông thôn Việt Nam, nhất là ở các tỉnh đồng bằng sông Hồng (ĐBSH), bởi đây là vùng
đất có lịch sử tồn tại từ hàng trăm năm nay, tập trung nhiều nhất các làng nghề ở Việt
Nam và hoạt động hầu hết ở các ngành kinh tế chủ yếu. Trong những năm qua, hoạt
động làng nghề ở làng nghề ĐBSH đã có bước nhảy vọt lớn, sôi động chưa từng thấy.
Các làng nghề đã góp phần rất lớn trong việc giải quyết công ăn việc làm cho nhân dân
trong tỉnh, giảm tỷ lệ đói nghèo trong vùng, góp phần đáng kể trong việc nâng cao chất
lượng cuộc sống của người dân nông thôn. Gần đây, số hộ sản xuất và cơ sở ngành
nghề nông thôn đang ngày một tăng lên trong khi trang thiết bị, công nghệ cũ kỹ, lạc
hậu đã gây ra ô nhiễm môi trường (ONMT) làng nghề trầm trọng. Từ đó, Đảng ta đã đề
ra nhiều chủ trương, đường lối về những vấn đề liên quan đến quản lý việc thực hiện
pháp luật (THPL) về BVMT nói chung, THPL về BVMT làng nghề nói riêng, đáng
chú ý là Nghị quyết số 41-NQ/TƯ ngày 15/11/2004 của Bộ Chính trị về “Bảo vệ môi
trường trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” trong đó đã
xác định một trong các nhiệm vụ cụ thể là: “Khắc phục cơ bản nạn ONMT làng nghề,
các cơ sở công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp đi đôi với hình thành các cụm công nghiệp
bảo đảm các điều kiện về xử lý môi trường; chủ động có kế hoạch thu gom và xử lý
khối lượng rác thải ngày càng tăng lên”. Đây là cơ sở để các cơ quan nhà nước cụ thể
hóa bằng việc ban hành các văn bản quy phạm pháp luật (QPPL) và tổ chức THPL về
BVMT làng nghề, đồng thời cũng là cơ sở để Đảng bộ ở các tỉnh ĐBSH có sự chỉ đạo
cụ thể, sát và đúng với điều kiện địa phương mình.
Việc THPL về BVMT làng nghề có vai trò vô cùng quan trọng, cụ thể là: góp
phần đưa pháp luật vào đời sống thực tiễn và ngăn ngừa, hạn chế các vi phạm pháp luật
về môi trường làng nghề (MTLN); góp phần phổ biến giáo dục pháp luật, xây dựng
thói quen sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật; đảm bảo quyền con người
được sống trong môi trường lành mạnh; đảm bảo sự phát triển bền vững (PTBV). Việc
THPL về BVMT làng nghề vì vậy phải quán triệt theo đường lối, chủ trương của Đảng
và các nghị quyết của Đảng bộ ở các tỉnh ĐBSH, phải gắn với PTBV làng nghề và là
Footer Page 6 of 258.
Header Page 7 of 258.
2
trách nhiệm chung của chính quyền ở Trung ương; địa phương, cộng đồng sản xuất,
kinh doanh và của cộng đồng dân cư làng nghề ở các tỉnh ĐBSH.
Trong những năm qua, Đảng, Nhà nước ta đã triển khai thực hiện nhiều giải pháp
nhằm nâng cao công tác THPL về BVMT làng nghề, do đó đã và đang làm chuyển
biến đáng kể nhận thức của các cấp ủy đảng, chính quyền, mặt trận Tổ quốc, đoàn thể,
nhân dân và các cơ sở, hộ gia đình sản xuất làng nghề ở các tỉnh ĐBSH về vai trò, tầm
quan trọng của việc THPL về BVMT làng nghề, góp phần tích cực vào việc giảm thiểu
ONMT ở các làng nghề vùng ĐBSH.
Bên cạnh những kết quả đã đạt được, việc THPL về BVMT làng nghề trên phạm
vi cả nước nói chung, ở các tỉnh ĐBSH nói riêng còn bộc lộ nhiều hạn chế, bất cập trên
nhiều phương diện: pháp luật - chính sách, cán bộ, thể chế và bộ máy, đầu tư,... do
nhiều nguyên nhân khác nhau. Việc tuân thủ các văn bản QPPL về BVMT trong hoạt
động sản xuất làng nghề chỉ dừng lại ở mức độ rất khiêm tốn. Kết quả là vẫn còn nhiều
bất cập trong việc quán triệt và triển khai các văn bản QPPL của các cán bộ làm công
tác môi trường các cấp từ Trung ương đến các tỉnh ĐBSH; các đơn vị, cá nhân thi hành
luật còn nhiều lúng túng, gây nên nhiều hiện tượng tiêu cực, làm ngơ trước pháp luật
của một số bộ phận người dân trong làng nghề cũng như cán bộ quản lý. Công tác
thanh tra, kiểm tra của các cơ quan quản lý Nhà nước ở Trung ương và các tỉnh ĐBSH
về môi trường cũng như thanh tra việc thi hành luật tại các làng nghề chưa được
thường xuyên và triệt để, tạo ra những khe hở trong việc thực hiện luật BVMT. Các cơ
sở trong làng nghề tại các tỉnh ĐBSH không thực hiện các hồ sơ, thủ tục về môi
trường; không phân loại, xử lý chất thải; trốn tránh nghĩa vụ, trách nhiệm với xã hội,
cộng đồng. Công tác xử lý vi phạm pháp luật các cơ sở trong làng nghề tại các tỉnh
ĐBSH cũng gần như bị “bỏ trống” trong khi các hành vi vi phạm lại rất phổ biến. Hình
thức xử lý chủ yếu là nhắc nhở, chưa xử lý hành chính cũng như áp dụng các hình thức
xử phạt bổ sung khác. Điều đó dẫn đến việc hầu hết các cơ sở sản xuất làng nghề đều
xem nhẹ công tác an toàn vệ sinh lao động và THPL về BVMT làng nghề.
Thực trạng trên đây đã và đang gây ra những khó khăn cho việc tiếp tục triển khai
thực hiện có hiệu quả THPL về BVMT làng nghề ở các tỉnh ĐBSH, tác động tiêu cực
tới sức khỏe của cộng đồng, tới tiến trình PTBV làng nghề mà Đảng và Nhà nước ta đã
chủ trương xây dựng. Trước thực trạng đó, từ nhiều năm nay đã có nhiều các công
trình nghiên cứu về làng nghề, về ONMT làng nghề, nhưng chưa có một công trình nào
phân tích và đánh giá một cách toàn diện, có hệ thống về thực trạng THPL về BVMT
làng nghề ở các tỉnh ĐBSH từ góc độ lý luận, chỉ ra những hạn chế, bất cập trong quá
Footer Page 7 of 258.
Header Page 8 of 258.
3
trình THPL về BVMT làng nghề ở các tỉnh ĐBSH, đồng thời đề xuất những giải pháp
cụ thể nhằm hoàn thiện pháp luật về BVMT làng nghề.
Từ những lý do trên cho thấy, việc củng cố, phát triển các vấn đề lý luận về
THPL về BVMT làng nghề ở các tỉnh ĐBSH, đánh giá thực trạng, nguyên nhân để từ
đó đề ra các giải pháp bảo đảm THPL về BVMT làng nghề vùng ĐBSH là một vấn đề
có tầm quan trọng và mang tính cấp thiết. Đó cũng là lý do tác giả chọn vấn đề “Thực
hiện pháp luật về bảo vệ môi trường làng nghề ở các tỉnh đồng bằng sông Hồng Việt
Nam” làm đề tài luận án Tiến sỹ luật học.
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
2.1. Mục đích nghiên cứu
Luận án phân tích làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về THPL về BVMT làng
nghề; phân tích đánh giá thực trạng THPL về BVMT làng nghề ở các tỉnh ĐBSH và
đưa ra dự báo, đề xuất các quan điểm, giải pháp nhằm bảo đảm việc THPL về BVMT
làng nghề ở các tỉnh ĐBSH trong giai đoạn hiện nay.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích trên, luận án có những nhiệm vụ sau:
Một là, xây dựng các khái niệm về làng nghề; pháp luật BVMT làng nghề và
THPL về BVMT làng nghề; xác định chủ thể, các nội dung và hình thức THPL về
BVMT làng nghề; luận giải vai trò của việc THPL về BVMT làng nghề và các điều
kiện bảo đảm việc THPL về BVMT làng nghề; nghiên cứu việc THPL về BVMT làng
nghề ở một số nước trên thế giới và những kinh nghiệm có thể vận dụng cho việc
THPL về BVMT làng nghề ở Việt Nam, trong đó có ĐBSH.
Hai là, phân tích, làm rõ tình hình ONMT làng nghề ở các tỉnh ĐBSH; phân tích,
đánh giá những kết quả đạt được và hạn chế, bất cập trong việc THPL về BVMT làng
nghề ở các tỉnh ĐBSH, rút ra các nguyên nhân khách quan và chủ quan của những kết
quả đạt được và hạn chế, bất cập.
Ba là, dự báo và xây dựng các quan điểm về THPL về BVMT ở các tỉnh ĐBSH;
Luận giải và đề xuất hai nhóm giải pháp, với nhiều giải pháp cụ thể có tính khả thi đảm
bảo THPL về BVMT làng nghề ở các tỉnh ĐBSH.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là những vấn đề lý luận về THPL về BVMT
làng nghề ở Việt Nam trong đó có các tỉnh ĐBSH (gồm 11 tỉnh vùng ĐBSH) và quá
trình THPL về BVMT làng nghề ở các tỉnh ĐBSH.
Footer Page 8 of 258.
Header Page 9 of 258.
4
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về không gian: luận án nghiên cứu, đánh giá thực trạng THPL về BVMT làng
nghề ở các cấp: tỉnh, thành phố, quận, huyện, xã, phường, thôn trên địa bàn 11 tỉnh
vùng ĐBSH bao gồm: Vĩnh Phúc, Hà Nội, Bắc Ninh, Hà Nam, Hưng Yên, Hải Dương,
Hải Phòng, Thái Bình, Nam Định, Ninh Bình, Quảng Ninh.
- Về thời gian: luận án nghiên cứu pháp luật và đánh giá thực trạng THPL về
BVMT làng nghề từ khi Luật Bảo vệ môi trường năm 2005 ra đời đến nay.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận án
4.1. Cơ sở lý luận
Luận án được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin về nhà
nước và pháp luật, tư tưởng Hồ Chí Minh; đường lối, quan điểm của Đảng ta về Nhà
nước và pháp luật nói chung và quan điểm BVMT làng nghề nói riêng. Bên cạnh đó,
luận án cũng kế thừa và tiếp thu quan điểm, kết quả nghiên cứu lý luận và thực tiễn về
BVMT và THPL về BVMT nói chung; BVMT làng nghề và THPL về BVMT làng
nghề nói riêng của các nhà nghiên cứu đi trước.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận án được thực hiện dựa trên cơ sở phép duy vật biện chứng, duy vật lịch sử
kết hợp các phương pháp nghiên cứu: phân tích - tổng hợp, lịch sử - cụ thể, logic, thống
kê - so sánh. Các phương pháp nghiên cứu nói trên được sử dụng cụ thể trong các
chương của luận án như sau:
Trong Chương 1, tác giả sử dụng phương pháp thống kê, so sánh, phân tích tài
liệu thứ cấp nhằm tham khảo, đánh giá và chọn lọc kế thừa các công trình nghiên cứu,
bài viết liên quan đến lĩnh vực đề cập; đồng thời xác định được những vấn đề cần được
tiếp tục nghiên cứu của luận án.
Trong Chương 2, tác giả chủ yếu sử dụng phương pháp phân tích - tổng hợp, lịch
sử - cụ thể, phương pháp logic và so sánh để nghiên cứu và làm sáng tỏ cơ sở lý luận
của luận án; nghiên cứu vấn đề THPL về BVMT làng nghề và kinh nghiệm một số
nước trên thế giới, từ đó chỉ ra những giá trị tham khảo cho các tỉnh ĐBSH.
Trong Chương 3, tác giả sử dụng phương pháp so sánh - thống kê, phân tích tổng hợp, lịch sử - cụ thể để phân tích hiện trạng ONMT làng nghề; đánh giá, phân tích
những kết quả, hạn chế và nguyên nhân của thực trạng THPL về BVMT làng nghề ở
các tỉnh ĐBSH.
Trong Chương 4, tác giả sử dụng phương pháp phân tích - tổng hợp, lịch sử - cụ
thể, logic, để phân tích và làm sáng tỏ các quan điểm và giải pháp nhằm đảm bảo
THPL về BVMT làng nghề ở các tỉnh ĐBSH.
Footer Page 9 of 258.
Header Page 10 of 258.
5
Có thể nói Luận án đã sử dụng nhiều phương pháp nghiên cứu và đã kết hợp, sử
dụng linh hoạt nhiều phương phương pháp trong các chương để giải quyết các vấn đề
trong Luận án một cách khách quan toàn diện.
5. Những đóng góp mới về khoa học của luận án
Dưới góc độ lý luận chung về Nhà nước và pháp luật, Luận án là công trình đầu
tiên nghiên cứu một cách tương đối có hệ thống THPL về BVMT làng nghề ở các tỉnh
ĐBSH Việt Nam. Luận án có những đóng góp về mặt khoa học đó là:
Thứ nhất, luận án đã xây dựng được khái niệm pháp luật BVMT làng nghề và
khái niệm THPL về BVMT làng nghề; phân tích làm rõ chủ thể, nội dung, hình thức,
vai trò, các điều kiện đảm bảo THPL về BVMT làng nghề; phân tích làm rõ việc THPL
về BVMT làng nghề một số nước trên thế giới và những kinh nghiệm có thể vận dụng.
Thứ hai, luận án đã chỉ rõ tình trạng ô nhiễm làng nghề ở các tỉnh ĐBSH; nghiên
cứu, phân tích, đánh giá một cách hệ thống thực trạng THPL về BVMT làng nghề ở
các tỉnh ĐBSH, nêu lên những kết quả đạt được, những hạn chế bất cập, nguyên nhân
của những kết quả đạt được cũng như của những hạn chế, bất cập đó.
Thứ ba, luận án nêu lên được các quan điểm và đề xuất giải pháp có tính khả thi
về bảo đảm THPL về BVMT làng nghề ở các tỉnh ĐBSH, nhằm bảo vệ môi trường
trong các làng nghề ở các tỉnh ĐBSH Việt Nam hiện nay.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
Về mặt lý luận, kết quả và đóng góp mới của luận án góp phần làm sáng tỏ và
phong phú thêm những vấn đề lý luận THPL về BVMT làng nghề trên cả nước nói
chung và vùng ĐBSH nói riêng.
Về mặt thực tiễn, luận án là tài liệu có giá trị tham khảo cho cơ quan quản lý Nhà
nước có thẩm quyền nhằm nâng cao chất lượng công tác THPL về BVMT làng nghề
nói chung, đặc biệt phục vụ cho các cơ quan quản lý nhà nước ở các tỉnh ĐBSH trong
công tác THPL về BVMT làng nghề của tỉnh trong thời gian tới. Luận án cũng là tài
liệu bổ ích trong nghiên cứu và giảng dạy của các cơ sở đào tạo luật và cho những ai
quan tâm đến vấn đề này.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài lời mở đầu, kết luận, danh mục công trình khoa học và đề tài của tác giả
đã được công bố, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung của luận án được
kết cấu thành 4 chương, 12 tiết.
Footer Page 10 of 258.
Header Page 11 of 258.
6
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA CẦN TIẾP TỤC NGHIÊN CỨU
1.1. CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU TRONG NƯỚC CÓ LIÊN QUAN ĐẾN
ĐỀ TÀI
1.1.1. Các công trình nghiên cứu về môi trường làng nghề
Hiện nay có nhiều đề tài nghiên cứu khoa học các cấp, các luận án, luận văn hay
các bài viết được công bố trên các trang báo, báo điện tử, các tạp chí hay các phương
tiện thông tin đại chúng,... về vấn đề làng nghề và ONMT do các hoạt động của làng
nghề gây ra. Có thể nhận thấy các công trình nghiên cứu về lĩnh vực này rất phong phú
và đa dạng, liên quan đến đề tài luận án tiêu biểu có các công trình:
* Về đề tài nghiên cứu:
Điển hình trong các nghiên cứu về ONMT làng nghề là “Nghiên cứu cơ sở khoa
học và thực tiễn nhằm xây dựng các chính sách và giải pháp cải thiện môi trường các
làng nghề nông thôn Việt Nam" của Đặng Kim Chi [38]. Đề tài đã tập trung nghiên cứu
định hướng các chính sách nhằm PTBV làng nghề phù hợp với hoàn cảnh Việt Nam và
đề xuất các nhóm giải pháp cải thiện môi trường ở các làng nghề Việt Nam như: giải
pháp công nghệ xử lý môi trường cho các làng nghề chế biến nông sản thực phẩm, làng
nghề tái chế kim loại; các giải pháp sản xuất sạch hơn cho làng nghề tái chế kim loại đem
lại hiệu quả to lớn về mặt sinh thái, môi trường và xã hội. Đề tài nghiên cứu cũng đã thiết
kế xây dựng phần mềm cơ sở dữ liệu và website MTLN, băng hình, áp phích,... giúp cho
công tác quản lý môi trường ở làng nghề hiệu quả hơn, góp phần cung cấp thông tin,
tuyên truyền giáo dục nâng cao nhận thức của cộng đồng về BVMT làng nghề.
“Những giải pháp nhằm phát triển làng nghề ở một số tỉnh đồng bằng sông
Hồng” của Nguyễn Trí Dĩnh [69], đã chỉ ra rằng môi trường ở các làng nghề vùng
ĐBSH ngày càng bị ô nhiễm nặng nề do các hộ sản xuất nghề thiếu ý thức BVMT và
hạn chế về điều kiện vốn, kỹ thuật, thiếu quy hoạch tổng thể và hầu như không đầu tư
xử lý chất thải, vi phạm nghiêm trọng Luật BVMT; từ đó đề xuất các giải pháp BVMT
làng nghề như: cần xây dựng và hoàn thiện chính sách ngăn ngừa ONMT đồng bộ; quy
hoạch và xây dựng khu, cụm công nghiệp làng nghề đạt tiêu chuẩn môi trường; kiện
toàn các cơ quan quản lý môi trường ở tỉnh và huyện đủ mạnh để thực thi các nhiệm vụ
BVMT nói chung và MTLN nói riêng; tăng cường công tác giáo dục, đào tạo, nâng cao
nhận thức của người dân nói chung và ở làng nghề nói riêng về môi trường; chú trọng
đầu tư cho công tác BVMT làng nghề một cách thỏa đáng.
“Khôi phục và phát triển làng nghề ở vùng đồng bằng sông Hồng nước ta hiện
nay” của Đỗ Thị Thạch [106], đã chỉ ra rằng môi trường đất, nước, không khí ở các làng
Footer Page 11 of 258.
Header Page 12 of 258.
7
nghề vùng ĐBSH đang bị ô nhiễm trầm trọng, ảnh hưởng nặng nề đến sức khỏe của
người dân nơi đây. Nguyên nhân là do: sự phát triển mạnh mẽ của làng nghề chưa đồng
bộ với các biện pháp xử lý, BVMT; các làng nghề chưa có thói quen quan tâm đến môi
trường khi sản xuất, ít đầu tư chi phí cho BVMT. Tác giả đã đưa ra một số giải pháp phát
triển làng nghề vùng ĐBSH, trong đó có ‘Phát huy tốt vai trò của cấp chính quyền, đoàn
thể cấp xã trong việc xử lý phạt những người gây ô nhiễm trong các làng nghề; dành
thêm kinh phí hoạt động môi trường cho cấp xã để họ có điều kiện theo dõi sát sao hơn,
có trách nhiệm hơn đối với môi trường địa phương và trong các làng nghề’.
“Nghiên cứu phát triển làng nghề tỉnh Quảng Ngãi” của Hồ Kỳ Minh [91], đã
chỉ ra rằng nguồn nước, không khí tại 10 làng nghề tỉnh Quảng Ngãi được khảo sát
đang bị ô nhiễm và mức độ ô nhiễm ngày càng gia tăng. Tác giả đã đưa ra một số giải
pháp khắc phục và cải thiện tình trạng ONMT tại các làng nghề nơi đây như: tăng
cường công tác tuyên truyền Luật BVMT và các văn bản chỉ đạo của các cơ quan ban
ngành nhằm nâng cao nhận thức trách nhiệm cộng đồng về công tác BVMT, tuân thủ
việc lập báo cáo đánh giá tác động môi trường (ĐTM) hoặc cam kết BVMT tùy theo
quy mô sản xuất; tuân thủ quy trình xử lý khí thải, nước thải và thu gom rác thải, chất
rắn trong làng nghề; đưa các quy định cụ thể về môi trường vào hương ước, chỉ tiêu
xây dựng Làng văn hoá để mọi người thực hiện. Đối với cơ quan quản lý MTLN: thực
hiện quy hoạch và xây dựng các cụm công nghiệp làng nghề; giám sát chất lượng môi
trường, đồng thời tăng cường công tác kiểm tra việc thực hiện Luật BVMT, các quy
định về môi trường; có chính sách hỗ trợ kinh phí cho các hoạt động di dời và các dự
án cải tạo, xử lý ONMT ở các làng nghề,…
* Về sách:
“Làng nghề Việt Nam và môi trường” của Đặng Kim Chi [37] là công trình
nghiên cứu tổng quát nhất về vấn đề làng nghề và thực trạng ONMT các làng nghề
hiện nay. Tác giả nêu rõ từ lịch sử phát triển, phân loại, các đặc điểm cơ bản làng nghề,
hiện trạng kinh tế, xã hội của các làng nghề Việt Nam hiện nay. Cùng với đó là hiện
trạng môi trường các làng nghề (có phân loại cụ thể 5 nhóm ngành nghề chính). Qua đó
cũng nêu rõ các tồn tại ảnh hưởng tới phát triển kinh tế và BVMT của làng nghề, nêu
dự báo phát triển và mức độ ô nhiễm đến năm 2010, một số định hướng xây dựng
chính sách đảm bảo phát triển làng nghề bền vững và đề xuất các giải pháp cải thiện
môi trường cho từng loại hình làng nghề của Việt Nam.
* Về luận văn, luận án:
“Phát triển bền vững làng nghề truyền thống vùng kinh tế trọng điểm Bắc bộ"
của Bạch Thị Lan Anh [2] đã chỉ ra thách thức từ vấn đề ONMT do sự phát triển tự
phát, thiếu quy hoạch của các làng nghề, trên cơ sở phân tích, đưa ra một số giải pháp
Footer Page 12 of 258.
Header Page 13 of 258.
8
khắc phục trong đó có giải pháp quy hoạch gắn với BVMT và đầu tư xây dựng cơ sở
hạ tầng trong các LNTT: tập trung phát triển hệ thống xử lý chất thải, hệ thống thoát
nước, có kế hoạch di dời các ngành nghề sản xuất gây ô nhiễm ra khỏi cộng đồng dân
cư; nhà nước đặt hàng các trung tâm khoa học nghiên cứu chuyển giao công nghệ thích
hợp và cải tiến công nghệ sản xuất phù hợp từng loại hình sản xuất, đổi mới trang thiết
bị,.. để hạn chế ONMT; tăng cường tuyên truyền cho người dân trong khu vực làng
nghề về Luật BVMT và các phương pháp giảm thiểu ONMT; xây dựng hương ước
trong việc đảm bảo môi trường xanh, sạch, đẹp nhằm giảm ONMT và PTBV…
“Nghiên cứu đề xuất giải pháp quản lý sử dụng đất tại các làng nghề tỉnh Bắc
Ninh theo quan điểm phát triển bền vững" của Nguyễn Thị Ngọc Lanh [88], đã tiến
hành đánh giá tác động của hoạt động sản xuất làng nghề trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh
đến môi trường và kết quả cho thấy các hoạt động sản xuất làng nghề ở đây đã gây ra
ONMT đất, nước, không khí, môi trường sinh thái- cảnh quan. Tác giả đã đề xuất một
số giải pháp quản lý, sử dụng đất đai tại các làng nghề tỉnh Bắc Ninh theo quan điểm
PTBV, trong đó có nhóm giải pháp về BVMT làng nghề: quy hoạch lại không gian
làng nghề; bố trí, sắp xếp lại đất đai trong làng nghề, bố trí đất để xây dựng hệ thống xử
lý nước thải, chất thải, xử lý, chôn lấp rác thải; quan tâm đến môi trường lao động, cải
tiến công nghệ sản xuất, tuyên truyền phổ biến pháp luật về môi trường và chính sách
kèm theo; quản lý môi trường thông qua hương ước làng xã.
“Nghiên cứu phát triển làng nghề gắn với chương trình xây dựng nông thôn mới
ở tỉnh Bắc Ninh" của Lê Xuân Tâm [104], đã tiến hành đánh giá thực trạng phát triển
làng nghề trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh, trong đó hiện trạng ONMT nước, đất, CTR ở các
làng nghề có xu hướng ngày càng gia tăng mức độ trầm trọng mặc dù các ban ngành
địa phương đã triển khai một số biện pháp BVMT. Một số nguyên nhân được chỉ ra
trong đó có việc chức năng, nhiệm vụ BVMT còn chồng chéo và không rõ ràng giữa
các bộ, ngành, địa phương; máy móc thiết bị cũ kĩ, chắp vá, tỷ lệ tự chế rất cao, công
nghệ sản xuất lạc hậu; sản xuất mang tính cá thể là phổ biến, chủ yếu là sản xuất nhỏ lẻ,
manh mún; trình độ học vấn, năng lực quản lý của người chủ sản xuất hạn chế, chủ yếu
dựa vào kinh nghiệm; thiếu mặt bằng sản xuất và vốn đầu tư còn hạn hẹp,…Cuối cùng,
tác giả đề xuất một số giải pháp phát triển làng nghề Bắc Ninh gắn với chương trình
xây dựng nông thôn mới đến năm 2020 của tỉnh.
“Làng nghề truyền thống phục vụ du lịch ở tỉnh Thừa Thiên Huế" của Nguyễn Lê
Thu Hiền [76], đã nêu lên thực trạng môi trường sinh thái ở một số LNTT phục vụ du
lịch ngày càng xuống cấp, ô nhiễm trầm trọng, ảnh hưởng đến sức khỏe của con người
và đến quá trình phát triển du lịch nơi đây. Trong số các giải pháp cơ bản mà tác giả đề
xuất nhằm phát triển LNTT phục vụ du lịch ở tỉnh Thừa Thiên Huế, bao gồm cả nhóm
Footer Page 13 of 258.
Header Page 14 of 258.
9
giải pháp ‘phát triển LNTT phục vụ du lịch bền vững gắn với BVMT’, cụ thể: xây
dựng quy hoạch không gian LNTT hợp lý; trang bị các thiết bị thu gom phế thải, thay
thế các công nghệ cũ, lạc hậu, xây dựng mương thu gom nước thải kiên cố; trồng cây
xanh; giáo dục ý thức vệ sinh môi trường cho toàn bộ nhân viên,…
“Đánh giá thiệt hại kinh tế do chất thải phát sinh từ hoạt động sản xuất tại làng
nghề chế biến nông sản vùng đồng bằng sông Hồng" của Trần Văn Thể [110], đã phân
tích các đặc điểm sản xuất ở làng nghề chế biến nông sản làm phát sinh chất thải, từ đó
lựa chọn các phương pháp phù hợp để đánh giá thiệt hại kinh tế do chất thải phát sinh
tại các làng nghề này. Trên cơ sở rà soát những vướng mắc, bất cập về công tác quản lý
kết hợp với hiện trạng về ONMT và thiệt hại kinh tế, luận án đã đề xuất một số giải
pháp có tính khả thi, thực tiễn để quản lý làng nghề theo hướng giảm thiểu thiệt hại
kinh tế hướng tới PTBV và BVMT làng nghề.
“Phát triển bền vững làng nghề ở Bắc Ninh” của Nguyễn Thị Mai Hương [83],
đã đánh giá thực trạng của PTBV làng nghề trong những năm gần đây ở Bắc Ninh và
đề xuất phương hướng, giải pháp cơ bản nhằm thúc đẩy PTBV làng nghề, trong đó có
nhóm giải pháp để cải thiện môi trường như: có các biện pháp hữu hiệu để giảm thiểu
ONMT; có kế hoạch, lộ trình để từng bước tiến tới thực hiện triệt để việc tách khu sản
xuất ra khỏi khu dân cư, quy hoạch các LNTT và xây dựng hợp lý khu công nghiệp
làng nghề mới và có kế hoạch quản lý tốt môi trường; triển khai áp dụng các tiến bộ kỹ
thuật trong sản xuất để nâng cao chất lượng sản phẩm, giảm lượng chất thải; tăng
cường tuyên truyền, giáo dục nâng cao ý thức và trách nhiệm BVMT cho các chủ sản
xuất, người lao động và nhân dân, kết hợp với thanh tra xử phạt thích đáng đối với
những trường hợp vi phạm các quy định về MTLN.
* Về các bài báo, tạp chí:
“Môi trường làng nghề với việc phát triển du lịch bền vững” của Lê Hải [74] đã
đề một số giải pháp giảm thiểu ONMT làng nghề có tính khả thi và có hiệu quả trong
điều kiện của Việt Nam hiện nay đó là giải pháp có sự tham gia của cộng đồng và phát
triển làng nghề gắn với phát triển du lịch.
“Phát triển làng nghề và vấn đề bảo vệ môi trường trước hết là nước sạch” của
Ngô Thái Hà [73] đã chỉ rõ vai trò ích lợi của sự phát triển làng nghề; vấn đề kiểm soát
và xử lý rác thải môi trường hiện nay ở các làng nghề; chỉ ra các nguyên nhân gây ô
nhiễm trong làng nghề và đề xuất các giải pháp cải thiện tình hình ONMT ở các làng
nghề như: tập trung các làng nghề theo hướng chuyên môn hóa để xử lý ô nhiễm; đề
cao vai trò giám sát của chính quyền cơ sở và Nhà nước và giải pháp quy hoạch cụm
công nghiệp làng nghề.
Footer Page 14 of 258.
Header Page 15 of 258.
10
“Làng nghề và bảo vệ môi trường làng nghề theo hướng phát triển bền vững”
của Chu Thái Thành [108] đã chỉ ra những thách thức trong sự phát triển làng nghề
hiện nay đó là hiện trạng ONMT gây ra bởi các hoạt động sản xuất làng nghề. Để giải
quyết hậu quả ô nhiễm, tác giả đề xuất giải pháp: chú trọng chính sách PTBV làng
nghề; quy hoạch không gian làng nghề; tăng cường quản lý môi trường tại các làng
nghề; phát hiện và xử lý làng nghề gây ô nhiễm; tổ chức thí điểm triển khai áp dụng
sản xuất sạch tại các làng nghề.
“Hiện trạng và các giải pháp bảo vệ môi trường làng nghề trên địa bàn tỉnh
Thanh Hóa” của Tạ Hoàng Tùng Bắc [5] đã chỉ ra rằng hầu hết các làng nghề trên địa
bàn tỉnh Thanh Hóa đều chưa có biện pháp thu gom, xử lý khí thải tập trung, chưa
được đầu tư xây dựng hệ thống xử lý nước thải tập trung, nước thải chưa được thu gom
xử lý hoặc chưa qua xử lý thải trực tiếp ra môi trường; chất thải rắn phát sinh từ quá
trình sản xuất chưa được xử lý hoặc xử lý không triệt để,… đã và đang nảy sinh nhiều
vấn đề ONMT nông thôn, tác động xấu đến môi trường đất, nước, không khí và sức
khỏe của người dân trong các làng nghề. Tác giả đã đề xuất một số giải pháp giảm
thiểu ONMT làng nghề đối với cơ quan quản lý nhà nước và các cơ sở sản xuất trong
làng nghề.
1.1.2. Các công trình nghiên cứu về thực hiện pháp luật bảo vệ môi trường
làng nghề
Thứ nhất là, nhóm các công trình nghiên cứu về THPL nói chung: là một trong
những nội dung quan trọng của khoa học Lý luận và Lịch sử Nhà nước và pháp luật.
Nội dung này được các nhà Luật học, các nhà lý luận đề cập, nghiên cứu, bàn luận
phân tích trên nhiều diễn đàn, song chủ yếu nhất là trong các cuốn giáo trình, sách giáo
khoa, sách chuyên khảo của các cơ sở chuyên ngành luật ở nước ta. Có thể kể một vài
công trình tiêu biểu như:
* Về sách:
“Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về thực hiện pháp luật”, của Nguyễn Văn
Mạnh [90] đã nêu lên những điểm hạn chế trong lý luận về THPL mà các giáo trình
hiện đang sử dụng trong các trường học, trên cơ sở đó đã chỉ ra những bất cập, hạn chế
trong việc THPL và nêu lên những điểm cần bổ sung, những định hướng đổi mới, hoàn
thiện hoạt động THPL. Bên cạnh đó, các tác giả cũng nêu lên thực trạng THPL trong
một số lĩnh vực của Quốc hội với việc quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước;
THPL của HĐND trong việc thực hiện chức năng giám sát, ban hành Nghị quyết và
việc UBND các tổ chức thực hiện các Nghị quyết HĐND đã ban hành.
“Thực hiện và áp dụng pháp luật ở Việt Nam”, của Nguyễn Minh Đoan [71], gồm
05 chương bàn sâu về THPL. Chương 1 được tác giả dành nghiên cứu về khái niệm,
Footer Page 15 of 258.
Header Page 16 of 258.
11
mục đích, ý nghĩa và các hình thức THPL như: Tuân thủ pháp luật, thi hành pháp luật,
sử dụng pháp luật và áp dụng pháp luật. Chương 2 đi sâu nghiên cứu về áp dụng pháp
luật, những trường hợp cần áp dụng pháp luật, đặc điểm và các nguyên tắc cơ bản của
áp dụng pháp luật, quyết định áp dụng pháp luật. Chương 3 nghiên cứu về quy trình
thực hiện và áp dụng pháp luật. Chương 4 được dành để phân tích một số yếu tố và
điều kiện cơ bản bảo đảm THPL. Chương 5 nghiên cứu về các tiêu chí đánh giá hiệu
quả THPL, thực trạng THPL ở Việt Nam và một số giải pháp nâng cao hiệu quả THPL
ở Việt Nam.
“Giáo trình Lý luận nhà nước và pháp luật” của Trường Đại học Luật Hà Nội.
Nội dung giáo trình đã dành chương X “Thực hiện pháp luật, áp dụng pháp luật và giải
thích pháp luật” [117, tr.181-208] để nghiên cứu về THPL và áp dụng pháp luật. Giáo
trình đã nêu lên THPL là hành vi thực tế hợp pháp, có mục đích của các chủ thể nhằm
hiện thực hoá các quy định của pháp luật, làm cho chúng đi vào cuộc sống. Giáo trình
cũng đã nêu lên 04 hình thức THPL đó là, tuân thủ pháp luật, thi hành (chấp hành)
pháp luật, sử dụng pháp luật và áp dụng pháp luật. Trong đó áp dụng pháp luật là một
hình thức của THPL song nó có đặc điểm riêng so với các hình thức khác nên các tác
giả dành nhiều trang sách để viết về vấn đề này [117, tr.184-204].
Thứ hai là, Nhóm các công trình nghiên cứu về THPL về BVMT: xuất phát từ
thực tiễn, đã có một số công trình nghiên cứu về vấn đề môi trường dưới góc độ quản
lý kinh tế môi trường và pháp luật về môi trường như:
* Về đề tài nghiên cứu:
“Xây dựng thí điểm mô hình quản lý môi trường cộng đồng” của Cục môi trường
- Bộ Khoa học công nghệ và Môi trường [67] trên 07 điểm thuộc ba miền. Kết quả
nghiên cứu đến nhiều khía cạnh liên quan đến môi trường như hiện trạng sản xuất, hiện
trạng môi trường, nguyên nhân gây ô nhiễm, ảnh hưởng của các chất ô nhiễm đến đời
sống cộng đồng, việc BVMT tại các làng nghề. Tuy nhiên, nghiên cứu triển khai trên
quy mô rộng trong thời gian ngắn nên tính định lượng, định tính thấp, thiên về nghiên
cứu kĩ thuật môi trường.
“Nghiên cứu hoàn thiện cơ chế giải quyết tranh chấp môi trường” của Cục Môi
trường đã chỉ ra những mâu thuẫn tồn tại trong môi trường và hướng giải quyết các
tranh chấp môi trường [66].
“Crafting sustainability: managing water pollution in Vietnam’s craft villages”
(Phát triển bền vững nghề: quản lý ô nhiễm nguồn nước ở các làng nghề Việt Nam)
của Sango Mahanty và cộng sự [153], đề cập đến sự phát triển nhanh chóng của 2.790
làng nghề nông thôn Việt Nam kể từ năm 1980, khi Việt Nam thông qua chính sách
“đổi mới", đã đe dọa tới môi trường và sức khỏe con người. Bản chất quy mô nhỏ và
Footer Page 16 of 258.
Header Page 17 of 258.
12
phân tán của sản xuất thủ công đã thách thức Nhà nước trong việc kiểm soát ONMT và
mức độ ô nhiễm ở các làng nghề vẫn gia tăng một cách đáng báo động. Các dự án
PTBV có thể là phương pháp tiếp cận tốt hơn để giải quyết các vấn đề ONMT nan giải.
Ngoài ra, công trình này đã tổng hợp những kết quả nghiên cứu và đưa ra các khuyến
nghị cho việc xây dựng chính sách tương lai về kiểm soát ô nhiễm ở các làng nghề.
* Về luận án, luận văn:
“Xậy dựng và hoàn thiện cơ chế giải quyết tranh chấp trong lĩnh vực bảo vệ môi
trường tại Việt Nam” của Vũ Thu Hạnh [75] đã trình bày những vấn đề lý luận về tranh
chấp môi trường và phân tích một cách toàn diện về cơ chế giải quyết tranh chấp môi
trường ở Việt Nam, những đòi hỏi riêng của việc giải quyết tranh chấp môi trường, từ
đó tìm kiếm cách thức giải quyết hợp lý những xung đột lợi ích trong lĩnh vực này.
“Pháp luật kiểm soát ONMT do các hoạt động của làng nghề gây ra ở Việt Nam
hiện nay” của Lê Kim Nguyệt [93] đã đi sâu nghiên cứu về kiểm soát ONMT làng
nghề, một khía cạnh trong THPL về BVMT làng nghề. Luận án đã nêu lên những nội
dung cơ bản của pháp luật kiểm soát ONMT do các hoạt động của làng nghề gây ra ở
Việt Nam; các nhân tố tác động đến pháp luật kiểm soát ONMT ở Việt Nam trong giai
đoạn hiện nay; phân tích những điểm đã đạt được cũng như những hạn chế, vướng mắc
của thực trạng pháp luật kiểm soát ONMT do các hoạt động của làng nghề gây ra ở
Việt Nam, chỉ ra nguyên nhân của những ưu khuyết điểm đó; phân tích và đưa ra
những bình luận về một số quan điểm hoàn thiện pháp luật kiểm soát ONMT do các
hoạt động của làng nghề gây ra ở Việt Nam. Cuối cùng tác giả phân tích những quan
điểm đề xuất và những giải pháp hoàn thiện pháp luật kiểm soát ONMT do các hoạt
động của làng nghề gây ra ở Việt Nam.
“Quản lý nhà nước bằng pháp luật về môi trường” của Nguyễn Duy Hà [72], đã
làm sáng tỏ vấn đề Quản lý nhà nước bằng pháp luật về môi trường, một lĩnh vực còn
mới so với các lĩnh vực khác; xây dựng và làm rõ khái niệm, đặc điểm, vai trò quản lý
nhà nước bằng pháp luật về môi trường; nêu những kết quả đạt được; những mặt hạn
chế; chỉ ra nguyên nhân đồng thời đề xuất các giải pháp quản lý nhà nước bằng pháp
luật về môi trường ở địa phương Bình Thuận trong thời gian tới.
“Thực hiện pháp luật môi trường ở tỉnh Nam Định” của Nguyễn Thị Thu Hường
[84], bước đầu đã làm sáng tỏ những vấn đề lý luận của THPL môi trường, những yếu
tố tác động đến THPL môi trường góp phần ngăn ngừa hạn chế các vi phạm pháp luật
môi trường ở tỉnh Nam Định; đánh giá thực trạng, việc THPL môi trường và đưa ra
một số giải pháp ở tỉnh Nam Định.
“Thực hiện pháp luật về bảo vệ môi trường ở các khu công nghiệp tỉnh Hải
Dương” của Phạm Thị Thanh Xuân [144], đã phân tích, đưa ra khái niệm về pháp luật
Footer Page 17 of 258.
Header Page 18 of 258.
13
và THPL về BVMT ở các khu công nghiệp. Đánh giá thực trạng, nâng cao nhận thức
và trách nhiệm THPL về BVMT ở các khu công nghiệp tỉnh Hải Dương và đưa ra một
số giải pháp.
“Pháp luật về quản lý chất thải rắn thông thường tại Việt Nam” của Lưu Việt
Hùng [82], đã làm sáng tỏ các khái niệm cơ bản về CTR thông thường; nghiên cứu nhu
cầu điều chỉnh pháp luật, các yếu tố tác động đến hoạt động quản lý chất thải; phân tích,
đánh giá thực tiễn THPL để tìm ra những sai sót, vướng mắc, những vấn đề phát sinh,
các vi phạm pháp luật để từ đó phân tích nguyên nhân của tình trạng này; đề xuất
phương hướng và các giải pháp hoàn thiện, cơ chế THPL về quản lý CTR thông thường.
* Về các bài báo, tạp chí:
“Environmental Management for Traditional Craft Villages in Viet Nam” (Quản
lý môi trường ở các làng nghề thủ công truyền thống Việt Nam) của Viện nghiên cứu
môi trường Hàn Quốc và Ngân hàng thế giới [149] cho biết: 1450 làng nghề thủ công ở
Việt Nam đã gây ra ONMT nghiêm trọng và lãng phí tài nguyên. Các làng nghề này
thường thải trực tiếp các khí thải vào không khí, các chất chưa qua xử lý ra sông hồ với
lượng chất ô nhiễm khổng lồ và mức độ ONMT ở vùng nông thôn không giảm mà
ngày càng trở nên trầm trọng. Mặc dù nhà nước và chính quyền địa phương cũng đã
quan tâm đến vấn đề này, tuy nhiên vẫn còn những khó khăn về khả năng quản lý hành
chính, con người cũng như nguồn lực tài chính. Bài viết này cũng nhìn thẳng vào
những thách thức về môi trường mà các LNTT Việt Nam đang phải đương đầu và đề ra
những kiến nghị, cũng như gợi ý cho việc xây dựng pháp luật về quản lý môi trường ở
vùng nông thôn Việt Nam dựa trên kinh nghiệm của Hàn Quốc.
“Rà soát thực hiện luật môi trường tại các làng nghề” của Phương Thanh [107]
báo cáo tình hình thực hiện chính sách, pháp luật về môi trường tại các khu kinh tế, khu
công nghiệp và làng nghề của Ủy ban Thường vụ Quốc hội từ cuối năm 2010 đến đầu
năm 2011, chất thải từ các làng nghề đa phần không nhiều nhưng việc thải bỏ không
đúng có thể dẫn đến mất mỹ quan, văn hóa và gây ONMT nghiêm trọng. Bài viết cũng
đưa ra những kiến nghị với Bộ TNMT về “Việc thực hiện chính sách, pháp luật về môi
trường tại các khu kinh tế, làng nghề”
“Ô nhiễm môi trường làng nghề: Cần có chế tài đủ mạnh” của Linh Lan [87] cho
rằng để các làng nghề PTBV và giảm thiểu ONMT, các Bộ, ngành chức năng cần sớm
hoàn thiện các văn bản hướng dẫn các địa phương gắn phát triển làng nghề với giữ gìn
môi trường; vận động các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất đầu tư công nghệ hiện đại, kết
hợp xây dựng hệ thống xử lý nước thải, chất thải. Bên cạnh đó, các địa phương cần
tuyên truyền nâng cao nhận thức cho người dân làng nghề để BVMT và đặc biệt phải
có chế tài xử phạt đủ mạnh để ngăn chặn các hành vị gây tổn hại MTLN.
Footer Page 18 of 258.
Header Page 19 of 258.
14
“Thực trạng thực thi pháp luật bảo vệ môi trường tại các làng nghề ở Việt Nam”
của Lê Kim Nguyệt [92] đã nêu lên hiện trạng ONMT tại các làng nghề ở Việt Nam,
nguyên nhân và đề xuất một số giải pháp khắc phục như: hoàn thiện hệ thống văn bản
QPPL BVMT đối với các làng nghề; nhà nước cần tiến hành quy hoạch, tổ chức, phân
bố lại sản xuất tại các làng nghề cho phù hợp với tính chất đặc thù của từng loại hình
làng nghề; kết hợp sản xuất hàng hóa của các làng nghề với việc truyền bá văn hóa,
phát triển du lịch; tăng cường đầu tư, hỗ trợ về tài chính để các làng nghề sản xuất đổi
mới trang thiết bị phục vụ sản xuất, thay thế dần công cụ thủ công lạc hậu; tăng cường
công tác phổ biến, giáo dục, tuyên truyền vận động đến tận hộ sản xuất cá thể và tổ
chức sản xuất nhằm nâng cao ý thức BVMT của người dân.
1.2. CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CỦA NƯỚC NGOÀI CÓ LIÊN QUAN
ĐẾN ĐỀ TÀI
1.2.1. Các công trình nghiên cứu của nước ngoài về ô nhiễm môi trường
làng nghề
Năm 1964, Hội đồng Quốc tế về nghề thủ công thế giới (World crafts council
International) được thành lập, hoạt động phi lợi nhuận vì lợi ích chung của các quốc
gia có nghề thủ công truyền thống [89]. Trên thế giới, từ những năm đầu của thế kỷ XX
đã có một số công trình nghiên cứu có liên quan đến ONMT làng nghề như:
* Về sách:
“The costs of soil erosion on Java” (Chi phí do tác động của xói mòn đất ở Java)
của William và Arens [152] đã chỉ ra rằng ONMT do hoạt động sản xuất tiểu thủ công
nghiệp và làng nghề ở nông thôn đã gây thiệt hại khoảng 411,2 triệu đô la Mỹ/năm,
tương đương 4% GDP ngành nông nghiệp của Java, In-đô-nê-xi-a (315 triệu đô la Mỹ
đối với vùng sản xuất nông nghiệp bị ảnh hưởng trực tiếp và 96,2 triệu đô la Mỹ đối
với các vùng sản xuất nông nghiệp lân cận) và khuyến cáo cần có giải pháp chia sẻ lợi
ích giữa hộ làm nghề và hộ bị ảnh hưởng bởi chất thải phát sinh từ làng nghề và các
khu vực phụ cận làng nghề.
“Conservation or conversion of mangrove in Fiji: an ecological economic
analysis” (Bảo tồn hay chuyển đổi rừng ngập mặn ở Fiji: phân tích kinh tế sinh thái)
của Lal [150] đã chỉ ra rằng ONMT do các hoạt động sản xuất ngành nghề nông thôn
gây thiệt hại kinh tế nuôi trồng thủy sản tại chỗ là 9 đô la Mỹ/ha nhưng lại gây thiệt hại
150 đô la Mỹ/ha cho hoạt động thủy sản ở các vùng phụ cận ở đảo Fiji.
* Về tạp chí, báo cáo tham luận:
“An assessment of paper mill wastewater impacts and treatment options in
Vientiane Capital City, Lao" (Đánh giá tác động của nước thải nhà máy giấy và các
giải pháp xử lý ở thủ đô Viêng Chăn, Lào) của Kaisorn và Phousavanh [148] đã chỉ ra
Footer Page 19 of 258.
Header Page 20 of 258.
15
rằng chi phí phòng ngừa rủi ro do ONMT ở các làng nghề chế biến bột giấy tại Viêng
Chăn, Lào là từ 60 đến 90 USD/kilogam độc chất ô nhiễm BOD.
“Marginal Opportunity Cost Pricing for Wastewater Disposal: A case study of
Wuxi, China" (Chi phí cơ hội ngoài lề để xử lý nước thải: nghiên cứu trường hợp của
Vô Tích, Trung Quốc) của Fan [147] tại hội nghị các báo cáo khoa học của tổ chức
EEPSEA đã ước tính tổng lượng nước tiêu tốn cho hoạt động sản xuất làng nghề và
tiểu thủ công nghiệp là khoảng 59,04 ngàn km3 nước/ngày và thải ra môi trường
khoảng 34,09 km3 nước thải/ngày, gây thiệt hại kinh tế cho Trung Quốc khoảng 27,7
triệu đô la/ngày, tương đương 8,8 tỷ đô la/năm.
1.2.2. Các công trình nghiên cứu của nước ngoài về thực hiện pháp luật bảo
vệ môi trường
Thứ nhất là, Nhóm các công trình nghiên cứu về THPL nói chung: Pháp luật
được ban hành, có hiệu lực pháp lý nhưng có được đảm bảo thi hành trong thực tiễn
đời sống xã hội hay không lại là vấn đề mà tất cả các nước phải quan tâm. Chính vì
vậy, có nhiều công trình nghiên cứu về THPL dưới nhiều góc độ khác nhau, được đưa
vào giáo trình giảng dạy về nhà nước và pháp luật tại các trường đại học, sách giáo
khoa, sách chuyên khảo của các chuyên ngành luật. Đáng chú ý có các công trình sau:
* Về sách:
“Lý luận về nhà nước và pháp luật” (tiếng Nga) của Bộ Đại học và Trung học
chuyên nghiệp Liên Xô [165] đã dành chương XIII - Áp dụng QPPL xã hội chủ nghĩa
(trang 558-568) - để đề cập, phân tích nội dung các hình thức THPL. Theo đó, các hình
thức THPL thực chất là những hành vi pháp luật được các chủ thể thực hiện, bao gồm
các hình thức: tuân thủ pháp luật, chấp hành pháp luật, sử dụng pháp luật và áp dụng
pháp luật. Áp dụng pháp luật là hình thức THPL đặc biệt. Ngoài ra, cuốn sách còn đưa
ra những yêu cầu đối với văn bản áp dụng pháp luật, trong văn bản phải chỉ rõ: cơ quan
ban hành, ngày, tháng, năm ban hành, đối tượng thực hiện, quyết định giải quyết vấn
đề gì, căn cứ thực tế và căn cứ pháp lý để ra quyết định, người ký văn bản, các giai
đoạn của quá trình áp dụng pháp luật…
“Cơ sở xã hội học pháp luật” của Kulcsar Kalman [86], đã đề cập những khía
cạnh xã hội của việc thi hành pháp luật để nghiên cứu về vấn đề tuân theo pháp luật,
chính trị và sự áp dụng pháp luật, chuẩn mực pháp luật, quyết định áp dụng pháp luật,
vai trò của các nhân tố chủ quan trong quyết định áp dụng pháp luật, ra quyết định và
tính hiệu lực của pháp luật.
“Lý luận nhà nước và pháp luật” (tiếng Nga) [166] đã dành chuyên đề 20 (trang
453-477) để bàn về THPL. Theo quan niệm của tác giả, THPL là việc hiện thực hóa
những yêu cầu, quy định của pháp luật bằng những hành động thực tế của các chủ thể
Footer Page 20 of 258.
Header Page 21 of 258.
16
pháp luật (cơ quan, tổ chức, cá nhân). THPL luôn gắn với hành vi pháp luật của con
người. THPL được phân loại theo nhiều căn cứ khác nhau: theo thành phần chủ thể thì
THPL được chia thành THPL của cá nhân và THPL của tập thể. Theo tính chất tác
động của các chủ thể, mức độ tích cực và định hướng của chủ thể thực hiện thì THPL
được chia thành bốn hình thức thực hiện, bao gồm: tuân thủ pháp luật, chấp hành pháp
luật, sử dụng pháp luật và áp dụng pháp luật.
Như vậy, trong các công trình nghiên cứu cơ bản nói trên, các tác giả chỉ đề cập
đến những vấn đề lý thuyết cơ bản về THPL và các hình thức THPL. Tuy được trình
bày, diễn đạt theo cách khác nhau, nhưng những triết lý cơ bản về THPL là tuân thủ
pháp luật, chấp hành pháp luật, sử dụng pháp luật và áp dụng pháp luật…
Thứ hai là, nhóm các công trình nghiên cứu về THPL về BVMT: Vấn đề THPL
về BVMT nói chung, BVMT làng nghề nói riêng ít được đề cập một cách trực tiếp.
Tuy nhiên, trong lĩnh vực kiểm soát ONMT và kiểm soát ONMT do các hoạt động của
làng nghề gây ra thì lại được nghiên cứu tương đối nhiều và khá cụ thể. Liên quan đến
vấn đề này có một số công trình tiêu biểu:
“Environment Pollution Control in Janpan-Development and Characteristics”
(Kiểm soát ô nhiễm môi trường ở Nhật Bản - đặc trưng và phát triển) của Tsumor
Ushiyama [167], đã chỉ ra vai trò của chính quyền tự quản địa phương và hoạt động
phong trào của người dân địa phương trong việc hình thành và thực hiện Luật kiểm
soát ONMT ở Nhật Bản. Pháp luật BVMT áp dụng cho các quận của Tokyo có quy
định: người dân được tham gia vào công tác quản lý hành chính, bảo vệ quyền được
sống trong môi trường trong lành của mình; các nhà lãnh đạo phải có nhiệm vụ điều
tra, giám sát nguồn gốc, nguyên nhân, tình trạng ONMT và các vấn đề khác, phải công
khai cho người dân các quận, huyện biết về tình trạng ô nhiễm như đã điều tra. Bên
cạnh đó, một hội đồng giám sát ONMT (có sự tham gia của người dân) được thành lập
để điều tra và cân nhắc các biện pháp giám sát các nguồn gây ONMT (được thực hiện
bởi nhà quản lý và các cơ quan hành chính). Có thể thấy công trình nghiên cứu này rất
có giá trị tham khảo khi xây dựng và hoàn thiện pháp luật kiểm soát ONMT do các
hoạt động của làng nghề gây ra ở các tỉnh ĐBSH.
“The experience of Singapore in the control of pollution" (Kinh nghiệm của
Singapore trong việc kiểm soát ô nhiễm) của Loh Ah Tuan [151] đã đề cập tới kinh
nghiệm kiểm soát ONMT biển ở Sigapore. Bài viết đã chỉ ra rằng hơn ba phần tư tổng
lượng ô nhiễm mà các đại dương và vùng biển trong khu vực Đông Á phải hứng chịu
là đến từ các nguồn trên đất liền. Các nguồn chính gây ô nhiễm bao gồm chất thải sinh
hoạt từ các thành phố, chất thải công nghiệp và nông nghiệp. Ngoài ra, tàu xả chất thải
ra biển từ một quốc gia này sẽ nhanh chóng tìm đường vào vùng biển và những bãi
Footer Page 21 of 258.
Header Page 22 of 258.
17
biển của các nước láng giềng. Do đó mỗi quốc gia đều đóng một vai trò quan trọng
trong việc kiểm soát chất thải gây ô nhiễm vào vùng biển ven bờ.
“Судебная защита права на благоприятную окружающую среду: проблемы
теории и практики” của С.А.Балашенко, Е.В. Лаевская [146] đã chỉ ra rằng để
thực hiện tốt pháp luật BVMT không chỉ có vai trò của các cơ quan quản lý nhà nước
về môi trường mà vai trò của từng cá nhân trong cộng đồng cũng rất quan trọng.
1.3. NHỮNG NHẬN XÉT ĐÁNH GIÁ VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA CẦN TIẾP
TỤC NGHIÊN CỨU
1.3.1. Những nhận xét đánh giá về các công trình nghiên cứu
Sau khi tham khảo một số công trình nghiên cứu có liên quan đặc biệt đến đề tài
luận án trong và ngoài nước tác giả có thể rút ra một số nhận xét như sau:
Thứ nhất, nhóm nghiên cứu về THPL: đa số các nghiên cứu chỉ tập trung nghiên
cứu các vấn đề lý thuyết cơ bản về THPL và các hình thức THPL, những khía cạnh xã
hội của việc thi hành pháp luật.
Thứ hai, nhóm nghiên cứu về làng nghề đa số đều tập trung vào khía cạnh kinh
tế; văn hóa; xã hội; CNH, HĐH nông thôn; môi trường và sức khỏe.
Thứ ba, nhóm nghiên cứu về THPL về BVMT chỉ tập trung vào THPL về BVMT
ở các khu công nghiệp của một tỉnh, THPL môi trường ở tỉnh hoặc chỉ tập trung vào 1
khía cạnh của việc THPL về BVMT như pháp luật về quản lý CTR thông thường tại
Việt Nam, pháp luật về kiểm soát ONMT, đặc biệt là kiểm soát ONMT do các hoạt
động của làng nghề gây ra ở Việt Nam và chủ yếu là đưa ra các giải pháp về công
nghệ, về khoa học kỹ thuật trong kiểm soát ONMT.
Thứ tư, nhóm nghiên cứu ở các tỉnh ĐBSH chủ yếu tập trung vào nghiên cứu và
làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn về PTBV làng nghề ở Việt Nam, đánh giá thực trạng
của PTBV làng nghề trong những năm gần đây ở các tỉnh ĐBSH.
Như vậy, cho đến thời điểm này chưa có công trình nghiên cứu ở cấp độ tiến sỹ
nào đi sâu phân tích và đánh giá một cách toàn diện, có hệ thống về thực trạng THPL
về BVMT làng nghề ở các tỉnh ĐBSH từ góc độ luật học; chuyên ngành lý luận và lịch
sử nhà nước và pháp luật, chỉ ra những hạn chế, bất cập, vướng mắc trong quá trình
THPL về BVMT làng nghề ở các tỉnh ĐBSH, đồng thời đề xuất những giải pháp cụ thể
nhằm hoàn thiện pháp luật về BVMT làng nghề.
Tuy nhiên, qua tổng quan các công trình nghiên cứu liên quan đặc biệt đến đề tài,
luận án có thể kế thừa được một số nội dung nghiên cứu sau:
Thứ nhất là kế thừa các kết quả nghiên cứu về tình hình phát triển kinh tế, văn
hóa, xã hội của các làng nghề vùng ĐBSH bởi các yếu tố này sẽ ảnh hưởng đến việc
THPL về BVMT ở các làng nghề, do đó giúp tác giả luận án lý giải nguyên nhân của
Footer Page 22 of 258.
Header Page 23 of 258.
18
những kết quả đạt được cũng như những bất cập trong việc THPL về BVMT làng nghề
của các tỉnh ĐBSH.
Thứ hai là kế thừa các kết quả nghiên cứu về giải pháp BVMT làng nghề và phát
triển bền vững làng nghề, bởi các kết quả nghiên cứu này sẽ giúp tác giả luận án tham
khảo và đề xuất các giải pháp phù hợp để đảm bảo việc THPL về BVMT làng nghề ở
các tỉnh ĐBSH.
Thứ ba là kế thừa các công trình nghiên cứu về THPL và BVMT ở các khu công
nghiệp, kinh tế và các công trình nghiên cứu về kiểm soát ONMT ở các làng nghề bởi
đây sẽ là những thông tin tham khảo quý giá giúp tác giả luận án xây dựng cơ sở lý
luận và quan điểm về THPL và BVMT làng nghề ở các tỉnh ĐBSH.
1.3.2. Những vấn đề đặt ra cần tiếp tục nghiên cứu
Với những nhận định trên, người thực hiện luận án quyết định lựa chọn vấn đề
nghiên cứu “Thực hiện pháp luật về bảo vệ môi trường làng nghề ở các tỉnh đồng
bằng sông hồng Việt Nam” nhằm giải quyết khoảng trống nêu trên, nghĩa là đi sâu
phân tích và làm rõ một cách toàn diện, có hệ thống về thực trạng THPL về BVMT
làng nghề ở các tỉnh ĐBSH và đề xuất những giải pháp cụ thể nhằm hoàn thiện pháp
luật về BVMT làng nghề, cụ thể như sau:
Một là, nghiên cứu cơ sở lý luận của việc THPL về BVMT làng nghề ở Việt
Nam: trong đó khái quát hóa, xây dựng khái niệm THPL về BVMT làng nghề, từ đó
tập trung phân tích, làm sáng tỏ về mặt lý luận các chủ thể, năm nội dung và bốn hình
thức THPL về BVMT làng nghề; phân tích vai trò của việc THPL về BVMT làng nghề
và các yếu tố ảnh hưởng đến việc THPL về BVMT làng nghề. Đây là những cơ sở lý
luận quan trọng cho việc đánh giá tình hình THPL về BVMT làng nghề ở các tỉnh
ĐBSH và đề xuất giải pháp. Các cơ sở lý luận này chưa được các nhóm nghiên cứu
trước đây đề cập đến, đi sâu phân tích, đánh giá và khái quát hóa.
Bên cạnh đó, luận án cũng phân tích tình hình THPL về BVMT của một số nước
trên thế giới, trên cơ sở đó rút ra những kinh nghiệm có thể áp dụng cho các tỉnh ĐBSH.
Hai là, đánh giá thực trạng THPL về BVMT làng nghề ở các tỉnh ĐBSH. Phần
này tập trung đánh giá thực trạng ONMT làng nghề và tình hình THPL về BVMT làng
nghề ở các tỉnh ĐBSH, phân tích những kết quả đạt được và hạn chế, bất cập trong việc
THPL về BVMT làng nghề trên năm phương diện nội dung (bảo vệ nguồn nước, đất
đai và tài nguyên đất, môi trường không khí, quản lý chất thải và bảo vệ cảnh quan
thiên nhiên, di tích lịch sử) và bốn hình thức THPL (tuân thủ pháp luật, thi hành pháp
luật, sử dụng pháp luật và áp dụng pháp luật). Trong đó, việc phân tích, đánh giá hiện
trạng THPL về BVMT làng nghề ở các tỉnh ĐBSH là hoàn toàn mới, chưa có nhóm
nghiên cứu nào trước đây thực hiện hoặc hệ thống hóa.
Footer Page 23 of 258.
Header Page 24 of 258.
19
Đồng thời luận án sẽ đi sâu phân tích nguyên nhân của những thành tựu, bất cập
này. Đây sẽ là những cơ sở để tác giả đề xuất các nhóm giải pháp khắc phục hiện trạng
THPL về BVMT làng nghề ở các tỉnh ĐBSH hiện nay.
Ba là, xác định các quan điểm và đề xuất các giải pháp cụ thể có tính khả thi để
đảm bảo THPL về BVMT làng nghề ở các tỉnh ĐBSH Việt Nam, tập trung giải quyết
các vấn đề sau:
Đề xuất, phân tích, luận chứng các quan điểm có tính chất nguyên tắc phương
pháp luận chỉ đạo quá trình THPL về BVMT làng nghề ở các tỉnh ĐBSH.
Đề xuất các giải pháp cụ thể để đảm bảo THPL về BVMT làng nghề ở các tỉnh
ĐBSH. Những giải pháp này phải bám sát các quan điểm chỉ đạo, có tính khả thi, có
giá trị tham khảo cho các địa phương trong THPL về BVMT làng nghề; góp phần giảm
thiểu và giải quyết tình trạng ONMT ở các làng nghề vùng ĐBSH hiện nay.
Kết luận chương 1
Tổng quan tình hình nghiên cứu ở nước ngoài cho thấy, ngoài một số sách
chuyên khảo hay giáo trình bàn về vấn đề THPL nói chung hầu như không có cuốn
sách, bài viết nào đề cập đến vấn đề pháp luật MTLN. Ngay ở các nước Châu Á, là các
nước có phong tục, tập quán, đặc thù dân tộc khá tương đồng với nước ta, cũng chưa
thấy có công trình nào nghiên cứu về thực thi pháp luật MTLN. Nguyên nhân có thể do
loại hình sản xuất làng nghề ở các nước trên thế giới chiếm tỷ lệ rất nhỏ trong nền kinh
tế quốc gia nên các nhà nước đương đại trên thế giới đã không xây dựng, ban hành các
đạo luật riêng cho việc THPL môi trường của hoạt động sản xuất làng nghề.
Tổng quan tình hình nghiên cứu trong nước cho thấy từng vấn đề riêng rẽ như
THPL nói chung, nghiên cứu về ONMT làng nghề, về đặc điểm MTLN,... đều đã được
các nhà nghiên cứu, các tác giả đề cập, phân tích, bàn luận khá đầy đủ. Song trên một
tổng thể ‘THPL về bảo vệ môi trường làng nghề ở các tỉnh đồng bằng sông Hồng Việt
Nam’ ở quy mô một công trình nghiên cứu chuyên sâu, toàn diện và hệ thống thì các
công trình của các tác giả, các nhà nghiên cứu trước đây vẫn chưa đáp ứng được. Do
đó, đây vẫn còn là một vấn đề mới, đang rất được quan tâm từ cả phía nhà quản lý và
phía những người hoạt động trong lĩnh vực làng nghề ở Việt Nam.
Từ đó có thể khẳng định rằng cho đến nay vẫn chưa có một công trình nào nghiên
cứu một cách toàn diện có hệ thống về mặt lý luận cũng như khảo sát thực tiễn vấn đề
thực thi pháp luật MTLN. Đó cũng là lý do tác giả chọn vấn đề "Thực hiện pháp luật
về bảo vệ môi trường làng nghề ở các tỉnh đồng bằng sông Hồng Việt Nam" làm đề tài
luận án tiến sĩ luật học với mong muốn giải quyết được vấn đề nêu trên.
Footer Page 24 of 258.
Header Page 25 of 258.
20
Chương 2
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC THỰC HIỆN PHÁP LUẬT
VỀ BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG LÀNG NGHỀ Ở VIỆT NAM
2.1. KHÁI NIỆM LÀNG NGHỀ, PHÁP LUẬT BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG LÀNG
NGHỀ VÀ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG LÀNG NGHỀ
2.1.1. Khái niệm làng nghề
Ở nước ta, làng nghề đã được hình thành từ rất lâu, là một nét đặc trưng của
người Việt ở các vùng nông thôn. Theo lịch sử phát triển, trước đây chỉ có các làng
nghề truyền thống (LNTT), được hình thành từ lâu đời, thường tập trung gần các con
sông, thuận lợi cho vận chuyển nguyên vật liệu, giao thương buôn bán sản phẩm, trải
qua thời gian vẫn duy trì, phát triển và được lưu truyền từ đời này sang đời khác theo
tinh thần ‘bí truyền’, sản phẩm được tạo ra bởi các bí quyết sản xuất và đòi hỏi kỹ
năng, kỹ xảo cao. Nổi bật là các LNTT như: gốm sứ Bát Tràng, lụa Vạn Phúc, đúc
đồng Ngũ Xã (Hà Nội), chạm bạc Đồng Xâm (Thái Bình),... Tuy nhiên, những năm
gần đây đã xuất hiện thêm các làng nghề mới, chủ yếu do sự du nhập trong quá trình
hội nhập giữa các vùng và cả nước. Làng nghề mới đang có xu hướng phát triển mạnh
ở nhiều địa phương vùng ĐBSH, đặc trưng bởi sự phát triển kinh doanh dịch vụ và xây
dựng, kinh doanh đa ngành nghề.
Theo loại hình sản xuất, loại hình sản phẩm, có thể chia các làng nghề ở nước ta
thành 8 loại hình: chế biến lương thực, thực phẩm; ươm tơ, dệt vải, nhuộm, thuộc da; sản
xuất vật liệu xây dựng; gia công cơ khí; chăn nuôi, giết mổ gia súc; thủ công mỹ nghệ;
tái chế chất thải phế liệu (giấy, nhựa, kim loại,...) và các loại hình khác [59]. Mỗi loại
hình làng nghề có những nét đặc thù riêng nhưng đều có chung các đặc điểm sau:
Một là, phân bố không đồng đều trong cả nước, tập trung nhiều ở miền Bắc
(chiếm gần 70%) đặc biệt là vùng ĐBSH, trong đó một số tỉnh thành có số lượng các
làng nghề rất lớn như Hà Nội, Bắc Ninh, Hải Dương, Hưng Yên.
Hai là, trình độ công nghệ ở hầu hết các cơ sở sản xuất nghề còn lạc hậu, mức độ
cơ khí hóa thấp, nhất là ở khu vực các hộ tư nhân, sử dụng các công cụ đã cũ kĩ, không
đảm bảo yêu cầu kỹ thuật, an toàn và vệ sinh môi trường. Gần đây, một số làng nghề
đã áp dụng công nghệ mới, thay thế máy móc cũ bằng máy móc mới, hiện đại nhờ đó
mà năng suất và chất lượng sản phẩm cũng được nâng cao rõ rệt, điển hình như làng
gốm Bát Tràng, làng gỗ mỹ nghệ Đồng Kỵ Bắc Ninh,... [38].
Ba là, mặt bằng cho sản xuất ở các làng nghề hiện còn rất eo hẹp, thường sử dụng
luôn nhà ở làm nơi sản xuất. Các cơ sở sản xuất lớn thì thường chỉ có lán che lợp fibrô
xi măng, rơm rạ, lá mía, căng bạt,... mang tính chất tạm bợ, chỉ có số rất ít các nhà
xưởng là kiên cố. Các bãi tập kết nguyên liệu, kể cả các bãi, kho chứa hàng gần khu
Footer Page 25 of 258.