Tải bản đầy đủ (.pdf) (150 trang)

Vấn đề ý thức cá nhân trong tiểu thuyết Việt Nam từ sau 1986

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.14 MB, 150 trang )

Header Page 1 of 258.
1

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
………………….

VÕ THỊ THU LOAN

VẤN ĐỀ Ý THỨC CÁ NHÂN TRONG
TIỂU THUYẾT VIỆT NAM TỪ SAU 1986

LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC

Thành phố Hồ Chí Minh 2013

Footer Page 1 of 258.


Header Page 2 of 258.
2

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
………………….

VÕ THỊ THU LOAN

VẤN ĐỀ Ý THỨC CÁ NHÂN TRONG
TIỂU THUYẾT VIỆT NAM TỪ SAU 1986
Chuyên ngành : Lý luận văn học


Mã số: 60 22 32

LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC

Người hướng dẫn:
PGS.TS. Nguyễn Thành Thi

Thành phố Hồ Chí Minh 2013

Footer Page 2 of 258.


Header Page 3 of 258.
3

LỜI CẢM ƠN

Trước hết, tôi xin gởi lời cảm ơn chân thành và sâu sắc đến PGS.TS
Nguyễn Thành Thi, người thầy đã hết lòng hướng dẫn và giúp đỡ tôi trong suốt
quá trình thực hiện luận văn này.
Tôi cũng xin chân thành cảm ơn tất cả quý thầy cô đã nhiệt tình giảng dạy
cho tôi trong suốt thời gian học Cao học, giúp cho tôi có thêm nhiều kiến thức
mới mẻ và bổ ích.
Tôi cũng xin cảm ơn các thầy cô của phòng Sau Đại học trường Đại học
Sư phạm thành phố Hồ Chí Minh đã tạo điều kiện thuận lợi cho tôi trong quá
trình học tập ở nơi đây.
Cuối cùng, tôi xin cảm ơn gia đình và bạn bè đã giúp đỡ và động viên để
tôi có thể vượt qua mọi khó khăn và hoàn thành luận văn này.
Học viên
Võ Thị Thu Loan


Footer Page 3 of 258.


Header Page 4 of 258.
4

MỤC LỤC
Trang
LỜI CẢM ƠN ....................................................................................................................... 3
MỤC LỤC ............................................................................................................................. 4
MỞ ĐẦU ............................................................................................................................... 6
1. Lý do chọn đề tài ............................................................................................................ 6
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề .............................................................................................. 7
3. Mục đích nghiên cứu .................................................................................................... 10
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ................................................................................. 10
5. Phương pháp nghiên cứu .............................................................................................. 11
6. Đóng góp của luận văn ................................................................................................. 12
7. Cấu trúc luận văn ......................................................................................................... 12
CHƯƠNG 1: VÀI NÉT VỀ VẤN ĐỀ Ý THỨC CÁ NHÂN TRONG VĂN HỌC VIỆT NAM
HIỆN ĐẠI ........................................................................................................................... 14
1.1. Khái niệm ý thức cá nhân .......................................................................................... 14
1.2. Thế mạnh của tiểu thuyết trong việc thể hiện ý thức cá nhân ..................................... 19
1.3. Vấn đề ý thức cá nhân trong văn học Việt Nam hiện đại ............................................ 23
1.3.1. Vai trò của ý thức cá nhân trong văn học Việt Nam ............................................ 23
1.3.2. Hành trình của ý thức cá nhân trong văn học Việt Nam ...................................... 32
1.4. Tiền đề cho sự trở lại ý thức cá nhân trong tiểu thuyết Việt Nam sau 1986 ................ 35
1.4.1. Bối cảnh xã hội ................................................................................................... 35
1.4.2. Sự ảnh hưởng của văn hóa phương Tây .............................................................. 40
CHƯƠNG 2: SỰ THỂ HIỆN Ý THỨC CÁ NHÂN QUA NỘI DUNG TIỂU THUYẾT VIỆT

NAM SAU 1986 .................................................................................................................. 46
2.1. Ý thức cá nhân về số phận con người ........................................................................ 46
2.2. Ý thức cá nhân về nhân cách con người ..................................................................... 59
2.2.1. Sự tha hóa nhân cách con người ......................................................................... 59
2.2.2. Sự hoàn thiện nhân cách con người .................................................................... 66
2.3. Ý thức cá nhân về đời sống tinh thần của con người .................................................. 70
2.3.1. Hướng về những khát vọng cá nhân .................................................................... 70
2.3.2. Lý giải và nhận thức đời sống tâm linh con người .............................................. 76
2.4. Ý thức cá nhân về việc nhìn lại cuộc chiến tranh đã qua ............................................ 82
2.5. Ý thức cá nhân về đời sống xã hội ............................................................................. 89
CHƯƠNG 3: SỰ THỂ HIỆN Ý THỨC CÁ NHÂN QUA NGHỆ THUẬT TRẦN THUẬT CỦA
TIỂU THUYẾT VIỆT NAM SAU 1986............................................................................ 100
3.1. Khái niệm trần thuật ............................................................................................... 100
3.2. Sự đổi mới hình tượng người trần thuật/ người kể chuyện ....................................... 101
3.2.1. Người trần thuật vô nhân xưng (trần thuật ở ngôi thứ ba)................................. 103
3.2.2. Người trần thuật với tư cách là một nhân vật (Trần thuật ở ngôi thứ nhất) ....... 104

Footer Page 4 of 258.


Header Page 5 of 258.
5

3.3. Sự đổi mới về điểm nhìn trần thuật .......................................................................... 109
3.4. Sự đổi mới về giọng điệu trần thuật ........................................................................ 118
3.4.1. Khái quát về giọng điệu trong tiểu thuyết Việt Nam từ sau 1986 ....................... 118
3.4.2. Các giọng điệu nổi bật trong tiểu thuyết Việt Nam từ sau 1986 ......................... 120
3.5. Sự đổi mới trong ngôn ngữ trần thuật ...................................................................... 132
3.5.1. Sự biến đổi kết cấu ngôn ngữ trần thuật ............................................................ 132
3.5.2. Đặc diểm ngôn ngữ trần thuật .......................................................................... 139

KẾT LUẬN ....................................................................................................................... 144
TÀI LIỆU THAM KHẢO.................................................................................................. 146

Footer Page 5 of 258.


Header Page 6 of 258.
6

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Văn học viết nước ta được bắt đầu vào khoảng thế kỷ X và đã có một bề
dày lịch sử hơn mười thế kỷ. Song vấn đề con người cá nhân thì chỉ thực sự
được các nhà văn quan tâm nhiều khi bước sang đầu thế kỷ XX, tức là khi văn
học Việt Nam chịu sự ảnh hưởng của văn học phương Tây và bước vào tiến
trình hiện đại hóa. Đây cũng là thời kỳ mà ý thức cá nhân bắt đầu xuất hiện
trong các sáng tác của các nhà văn, nhà thơ Việt Nam. Và từ đó đến nay, tuy văn
học Việt Nam đã trải qua nhiều giai đoạn và nhiều biến động song vấn đề ý thức
cá nhân vẫn luôn là vấn đề được nhắc đến trong văn học. Mặc dù trong giai đoạn
1945-1975, giai đoạn mà văn học Việt Nam phải ưu tiên cho mục tiêu chiến đấu,
vấn đề này vì những yếu tố lịch sử khách quan đã phải tạm chìm xuống thế
nhưng khi đất nước hòa bình trở lại, con người chuyển sang cuộc sống mới thì
vấn đề ý thức cá nhân lại trở thành vấn đề quan trọng đối với các nhà văn của
chúng ta.
Bên cạnh đó, Văn học Việt Nam trong thế kỷ XX cũng chứng kiến sự
phát triển mạnh mẽ của nhiều thể loại trong đó có tiểu thuyết. Thể loại tiểu
thuyết đã có những đóng góp to lớn cho nền văn học hiện đại của nước nhà.
Tiểu thuyết Việt Nam đặc biệt phát triển vào những năm ba mươi của thế kỷ
trước và không ngừng phát triển cho đến hôm nay. Riêng tiểu thuyết Việt Nam
từ sau thời kỳ đổi mới 1986 đã có sự chuyển biến mạnh mẽ về nội dung và hình

thức.
Tiểu thuyết là một thể loại lớn trong phương thức tự sự, có năng lực phản
ánh hiện thực một cách bao quát và sinh động, tái hiện những bức tranh về đời
sống thông qua những tính cách và hoàn cảnh điển hình rộng rãi. Đồng thời nhờ

Footer Page 6 of 258.


Header Page 7 of 258.
7

vào những đặc trưng về thể loại, tiểu thuyết cũng có điều kiện để thể hiện quan
niệm, tư tưởng của tác giả một cách rõ ràng và đầy đủ hơn những thể loại khác
trong văn học, trong đó có vấn đề ý thức cá nhân.
Đó là lý do chúng tôi lựa chọn đề tài này dù vấn đề ý thức cá nhân cũng
được thể hiện ở nhiều thể loại văn học như khác như thơ ca, truyện ngắn…
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Qua khảo sát, chúng tôi nhận thấy vấn đề ý thức cá nhân trong tiểu thuyết
Việt Nam từ sau 1986 được nghiên cứu qua các công trình, bài viết một cách
khái quát, tổng thể những đặc điểm chung của toàn bộ tiểu thuyết Việt Nam giai
đoạn này, trong đó vấn đề ý thức cá nhân của con người là một trong những nội
dung cụ thể được nghiên cứu. Bên cạnh đó là những bài viết, những công trình
khoa học nghiên cứu riêng về những tác giả lớn như Nguyễn Minh Châu, Lê
Lựu, Ma Văn Kháng... với ít nhiều nhắc đến vấn đề ý thức cá nhân. Ở đây,
trong khả năng của mình, chúng tôi xin được điểm qua một số công trình và bài
viết về văn xuôi Việt Nam sau 1986 của các nhà nghiên cứu phê bình, trong đó
có đề cập đến vấn đề ý thức cá nhân.
Nói về vấn đề ý thức cá nhân trong văn học Việt Nam thời kỳ này, Phan
Cự Đệ, trong cuốn Quá trình hiện đại hóa văn học Việt Nam 1900-1945, có
nhận xét: “Văn học sau 1975 quan tâm hơn số phận cá nhân, hạnh phúc cá

nhân, sự hoàn thiện nhân cách xã hội chủ nghĩa. Các nhà văn không chỉ miêu tả
con người công dân mà còn chú ý đến con người xã hội con người tự nhiên…
Bây giờ trong điều kiện hòa bình, dưới ánh sáng của công cuộc đổi mới tư duy,
văn học nói nhiều hơn đến số phận cá nhân, hạnh phúc cá nhân, đến con người
xã hội và con người tự nhiên, đến tình yêu và mọi biểu hiện đa dạng phức tạp
của cuộc sống bình thường hằng ngày” [12, tr.704]. Ông cũng lý giải cho
nguyên nhân việc trở lại của vấn đề ý thức cá nhân trong văn học là do “Trong

Footer Page 7 of 258.


Header Page 8 of 258.
8

xã hội Việt Nam trước đây cũng như trong ba mươi năm chiến tranh chống xâm
lược, chúng ta chưa có điều kiện giải quyết thật tốt mối quan hệ hài hòa giữa
cộng đồng và cá nhân” và ông cho rằng sự trở lại này cũng là “hợp với quy luật
phát triển hài hòa của văn học.” [12, tr.704].
Nguyễn Văn Long trong cuốn Văn học Việt Nam trong thời đại đổi
mới cũng đưa ra nhận xét về vấn đề này: Sang giai đoạn sau 1975, “Sự thức tỉnh
trở lại ý thức cá nhân đã mở ra cho văn học nhiều đề tài và chủ đề mới, làm đổi
thay quan niệm về con người. Văn học ngày càng đi tới một quan niệm toàn vẹn
và sâu sắc hơn về con người mà nền tảng triết học và hạt nhân cơ bản của quan
niệm ấy là tư tưởng nhân bản. Con người trong văn học hôm nay được nhìn ở
nhiều vị thế và trong tính đa chiều của mọi mối quan hệ: con người xã hội, con
người với lịch sử, con người của gia đình, gia tộc, con người với phong tục, với
thiên nhiên, với những người khác và với chính mình… Con người cũng được
văn học khám phá soi chiếu ở nhiều bình diện và nhiều tầng bậc: ý thức và vô
thức, đời sống tư tưởng tình cảm và đời sống tự nhiên bản năng, khát vọng cao
cả và dục vọng tầm thường, con người cụ thể cá biệt và con người trong tính

nhân loại phổ quát. Điều dễ nhận ra là trong phần lớn các tác phẩm văn học
thời kỳ này, con người không còn là nhất phiến, đơn trị mà luôn là con người đa
diện, đa trị, lưỡng phân, trong con người đan cài chen lẫn giao tranh bóng tối
và ánh sáng, rồng phượng lẫn rắn rết, thiên thần và quỷ sứ, cao cả và tầm
thường” [51, tr.5].
Trần Đình Sử trong bài viết mang tên Con người trong văn học Việt
Nam sau 1945 trong cuốn Một thời đại mới trong văn học, cũng đưa ra ý kiến
về vấn đề ý thức cá nhân trong thời kỳ này: Theo ông, văn học Việt Nam giai
đoạn này đã có “Sự tăng cường ý thức về nhân cách con người trong nhiều bình
diện khác nhau của nó cũng làm đổi thay tương quan với quá khứ. Trong các

Footer Page 8 of 258.


Header Page 9 of 258.
9

thập kỷ trước con người trong văn học ta chủ yếu được thể hiện trong quan hệ
với quá khứ dân tộc… Nay mở rộng thêm quá khứ văn hóa, quá khứ đời tư… Ba
mươi năm trước con người trong văn học chủ yếu là đối tượng được ngợi ca
hoặc phê phán. Giờ đây ngoài tính chất đó, con người còn là đối tượng để
nghiên cứu phân tích nhiều mặt… Văn học ta có truyền thống miêu tả con người
với những phẩm chất chủ quan năng động của nó với những kết quả sản sinh từ
các phẩm chất đó. Nhà văn mở rộng cái nhìn sang tính khách quan của nhận
thức, ý định… suy nghĩ về các hiện tượng nghịch lý của tồn tại con người” [71,
tr.86].
Công trình nghiên cứu Quan niệm nghệ thuật về con người trong văn
xuôi Việt Nam sau cách mạng tháng Tám” của hai tác giả Nguyễn Thị Bình
và Nguyễn Hải Hà là một công trình nghiên cứu khá đầy đủ về vấn đề con
người cá nhân trong văn xuôi Việt Nam sau 1975 cũng đề cập đến vấn đề ý thức

cá nhân được biểu hiện qua nhiều phương diện: “Khảo sát trong sáng tác văn
xuôi thời kỳ sau 1975, thấy phương diện đời sống tâm linh con người được khám
phá ở một chiều sâu mà ngay văn xuôi trước cách mạng tháng Tám cũng chưa
đạt được. Nó làm phong phú cho quan niệm về con người và đưa lại những biến
đổi quan trọng về mặt thủ pháp biểu hiện… Sự bộc lộ đời sống tâm linh với toàn
bộ cảm giác về cái hữu hạn của kiếp người về niềm tin vào những thế lực siêu
hình, về cả khát khao tìm kiếm sự hòa đồng tuyệt đối của mỗi cá nhân… Nhu
cầu tình dục vốn gắn bó khăng khít với sự thức tỉnh của ý thức cá nhân, với khao
khát tự do yêu đương mà văn thơ lãng mạn trước cách mạng đã từng đề cập
đến” [19, tr.293], “các tác giả Dương Thu Hương, Ma Văn Kháng, Phạm Thị
Hoài, Nguyễn Khắc Trường , Dương Hướng, Bảo Ninh đều khẳng định nhu cầu
tình dục là nhu cầu chính đáng và tự nhiên của con người” [19, tr.295], “ Khám
phá nhu cầu tình dục vừa như một thôi thúc bản năng, vừa có khả năng kìm nén

Footer Page 9 of 258.


Header Page 10 of 258.
10

lại vừa khơi gợi những ước ao hạnh phúc, nhiều tác giả đã giúp bạn đọc có
được cái nhìn độ lượng nhân ái hơn đối với con người… Nói chung, trên tổng
thể và nét chủ đạo, phương diện tự nhiên (bao gồm cả tiềm thức, vô thức, bản
năng, tâm linh, tình dục…) là một sự khám phá tích cực nhiều mới mẻ sâu sắc
của văn xuôi đương đại, bù đắp sự phiến diện và ít nhiều cứng nhắc trong quan
niệm về con người của văn xuôi giai đoạn trước, góp phần xác lập một quan
niệm mới phong phú, chân thật và đạt tới tính phổ quát, mang tầm triết học”
[19, tr.298].
Nhìn chung, các tác giả trên đều cho rằng văn học Việt Nam sau 1986 đã
có sự tiếp nối về vấn đề ý thức cá nhân trong văn học 1930-1945. Mặt khác các

tác giả trên cũng chỉ ra đặc trưng riêng của thời kỳ này: Đó là vấn đề ý thức cá
nhân được thể hiện qua việc khám phá con người ở nhiều bình diện khác nhau.
3. Mục đích nghiên cứu
- Vấn đề ý thức cá nhân không chỉ thuộc về tư tưởng của nhà văn mà nó còn chi
phối đến cả nội dung lẫn hình thức của thể loại tiểu thuyết. Nói cách khác, vấn
đề ý thức cá nhân trong tiểu thuyết đã có một tầm ảnh hưởng nhất định đến sự
đổi mới của tiểu thuyết Việt Nam nói riêng và văn học Việt Nam nói chung.
- Mặt khác, tìm hiểu vấn đề này, chúng tôi cũng phần nào thấy được con đường
phát triển tư tưởng của nhà văn Việt Nam trong tiến trình hiện đại hóa nền văn
học nước nhà cũng như những tác động của các hệ tư tưởng triết học và văn học
phương Tây đến các nhà văn của chúng ta.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Với đề tài Vấn đề ý thức cá nhân trong tiểu thuyết Việt Nam sau 1986,
chúng tôi xin chỉ tập trung tìm hiểu nghiên cứu vào thể loại tiểu thuyết. Tuy

Footer Page 10 of 258.


Header Page 11 of 258.
11

nhiên, do số lượng tiểu thuyết Việt Nam ở giai đoan này là khá lớn nên chúng
tôi chỉ tập trung vào một số tiểu thuyết nổi bật của giai đoạn trên.
5. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu, tìm hiểu về đề tài, người viết sẽ sử dụng
những phương pháp chủ yếu như:
 Phương pháp khảo sát văn bản giúp người viết tiếp cận trực tiếp và chính
xác tác phẩm, đồng thời giúp chúng tôi bám sát vào từng chi tiết trong tác
phẩm để làm dẫn chứng cho các luận điểm trong luận văn.
 Phương pháp so sánh đối chiếu (đồng đại và lịch đại) để người viết có thể

tìm ra những diểm tương đồng và dị biệt khi thể hiện vấn đề ý thức cá
nhân giữa tiểu thuyết Việt Nam giai đoạn 1930-1945 và tiểu thuyết Việt
Nam sau 1986 và giữa các nhà văn cùng thời với nhau.
 Phương pháp loại hình để thấy rõ những đặc trưng của tiểu thuyết so với
các thể loại khác trong văn học, từ đó tìm ra những ưu thế của thể loại này
trong việc thể hiện vấn đề ý thức cá nhân.
 Phương pháp hệ thống: đặt vấn đề ý thức cá nhân trong toàn bộ nền văn
học Việt Nam hiện đại để có một cái nhìn tổng thể và toàn diện hơn, đồng
thời thấy được từng bước phát triển cũng như vị trí quan trọng của nó.
 Phương pháp nghiên cứu liên ngành: vấn đề ý thức cá nhân là một vấn đề
được nghiên cứu trong cả văn học, triết học và tâm lý học. Vì vậy,
phương pháp này giúp chúng tôi tìm hiểu kỹ càng hơn về khái niệm ý
thức cá nhân.

Footer Page 11 of 258.


Header Page 12 of 258.
12

6. Đóng góp của luận văn
Vấn đề ý thức cá nhân trong tiểu thuyết Việt Nam từ sau 1986 hiện nay
vẫn chưa được nghiên cứu một cách có hệ thống. Chính vì thế, chúng tôi hy
vọng đề tài có thể góp một phần nhỏ trong việc nghiên cứu về vấn đề này.
7. Cấu trúc luận văn
Nội dung chính của luận văn gồm có ba chương:
CHƯƠNG 1: VÀI NÉT KHÁI QUÁT VỀ VẤN ĐỀ Ý THỨC CÁ NHÂN TRONG
VĂN HỌC VIỆT NAM HIỆN ĐẠI

Trong chương này chúng tôi xin trình bày:

- Khái niệm ý thức cá nhân
- Thế mạnh của tiểu thuyết trong việc thể hiện ý thức cá nhân
- Vấn đề ý thức cá nhân trong văn học Việt Nam hiện đại
- Tiền đề cho sự trở lại ý thức cá nhân trong tiểu thuyết Việt Nam sau 1986
CHƯƠNG 2: SỰ THỂ HIỆN Ý THỨC CÁ NHÂN QUA NỘI DUNG TIỂU
THUYẾT VIỆT NAM SAU 1986

Trong chương này chúng tôi xin trình bày:
- Ý thức cá nhân về số phận con người
- Ý thức cá nhân về nhân cách con người
- Ý thức cá nhân về đời sống tinh thần của con người
- Ý thức cá nhân về việc nhìn lại cuộc chiến tranh đã qua
- Ý thức cá nhân về đời sống xã hội
CHƯƠNG 3: SỰ THỂ HIỆN Ý THỨC CÁ NHÂN QUA NGHỆ THUẬT TRẦN THUẬT
TRONG TIỂU THUYẾT VIỆT NAM SAU 1986

Trong chương này chúng tôi xin trình bày:
- Khái niệm trần thuật
- Sự đổi mới hình tượng người trần thuật/ người kể chuyện

Footer Page 12 of 258.


Header Page 13 of 258.
13

- Sự đổi mới về điểm nhìn trần thuật
- Sự đổi mới về giọng điệu trần thuật
- Sự đổi mới trong ngôn ngữ trần thuật


Footer Page 13 of 258.


Header Page 14 of 258.
14

CHƯƠNG 1: VÀI NÉT VỀ VẤN ĐỀ Ý THỨC CÁ NHÂN
TRONG VĂN HỌC VIỆT NAM HIỆN ĐẠI
1.1. Khái niệm ý thức cá nhân
Trong tâm lý học, từ ý thức được dùng theo nghĩa rộng hoặc nghĩa hẹp.
Theo nghĩa rộng, khái niệm ý thức đồng nghĩa với tinh thần, tư tưởng. Còn theo
nghĩa hẹp, khái niệm ý thức được dùng để chỉ một cấp độ đặc biệt trong tâm lý
của con người.
Ý thức là hình thức phản ánh tâm lý cao nhất, chỉ riêng con người mới có,
là khả năng con người hiểu được các tri thức mà con người đã tiếp thu được từ
trước. Nói một cách khác, ý thức là tri thức của tri thức, phản ánh của phản ánh.
Ý thức thể hiện năng lực nhận thức cao nhất của con người về thế giới.
Như vậy, ý thức là toàn bộ những quan niệm, quan điểm của con người về
thế giới và mối quan hệ của con người trong thế giới. Ý thức là hình ảnh chủ
quan của thế giới khách quan. Ý thức là sự phản ánh có tính năng động, sáng tạo
thế giới vật chất vào bộ não người thông qua hoạt động thực tiễn. Nguồn gốc
của ý thức và đối tượng phản ánh của ý thức thuộc về thế giới khách quan, bị thế
giới khách quan quy định. Ý thức bao gồm tri thức, tình cảm và ý chí.
Ý thức giúp con người nhận thức cái bản chất, dự kiến trước kế hoạch
hành vi, kết quả của nó, làm cho hành vi mang tính chủ định. Ý thức không chỉ
nhận thức sâu sắc về thế giới mà còn bao hàm thái độ đối với nó. Ý thức thể hiện
năng lực điều khiển, điều chỉnh hành vi của con người. Nói đến ý thức, chúng ta
không thể không đề cập đến khả năng tự ý thức: đó là khả năng tự nhận thức về
mình, tự xác định thái độ đối với bản thân, tự điều khiển, tự hoàn thiện mình.
Một nét độc đáo nữa của ý thức là tác động ý thức phản hồi trên chính

mình. Đây là một đặc tính riêng biệt của con người, khác với mọi loài động vật

Footer Page 14 of 258.


Header Page 15 of 258.
15

và sinh vật trong trời đất chỉ có đơn thuần một ý thức đối ngoại. Với đặc tính ý
thức phục hồi này, con người có thể tự quan sát trên chính mình, biết mình làm
gì và biết mình là gì, biết mình sống và biết mình chết, biết mình hôm nay như
thế và biết mình ngày mai có thể khác xa, vượt lên hơn ngày hôm nay. Như thế,
ý thức làm cho con người đích thực là người, như khi ta nói đó là một con người
có ý thức, nghĩa là ý thức về hiện hữu và đang sống hiện hữu của mình, trong
liên đới với vạn vật thiên nhiên, lịch sử xã hội.
Theo tác giả Lưu Hồng Khanh, ý thức có mối liên hệ chặt chẽ với cái Tôi
bởi “ý thức là một trạng thái tỉnh thức với chức năng quan sát, ghi nhận cảm
nhận, nhận định, phẩm định, phân định đối với các sự vật bên ngoài Tôi và đối
với các suy tư, cảm xúc và hình ảnh bên trong Tôi. Ý thức như thế có thể gọi là
một quan năng nhân định với bốn chức năng: cảm nhận, suy tư, đánh giá và
trực kiến. Thể hiện các chức năng nói trên, ý thức phải liên hệ với cái Tôi như
chủ thể, như động lực, như đầu não, như trung tâm. Bởi tất cả mọi đối tượng chỉ
được ý thức một khi chúng được liên hệ với cái Tôi” [44, tr.24]. Cũng theo tác
giả này, vì cái Tôi là chủ thể và là trung tâm của ý thức nên cái Tôi có khả năng
quyết định trên các nội dung của ý thức: nội dung nào có thể được giữ lại trong
ý thức, nội dung nào sẽ bị xua đẩy xuống vô thức, cũng như nội dung nào sẽ
được tưởng nhớ gọi từ vô thức lên lại ý thức. Chính nhờ cái Tôi mà con người
của ta được hình thành, được tiếp nối hiện hữu và được đồng nhất trong căn tính
bản sắc của mình.
Cũng chính nhờ cái Tôi mà ta có thể đặt liên lạc giữa ý thức và vô thức:

cái Tôi sẽ đón nhận những tín hiệu của vô thức được diễn tả qua cảm hứng, sáng
kiến, trực kiến, các hình ảnh trong chiêm mộng (mộng đêm và mộng ngày), cái
Tôi sẽ tìm hiểu những tín hiệu của vô thức nói trên, diễn tả chúng thành ngôn
ngữ cho ý thức, để rồi với ý thức thể hiện các tín thư của các tín hiệu đó trong

Footer Page 15 of 258.


Header Page 16 of 258.
16

cuộc sống. Như thế cái Tôi là một cơ quan môi giới giữa ý thức và vô thức.
Trung tâm và chủ thể của ý thức là cái Tôi nhưng cái Tôi vẫn có liên hệ với vô
thức, bằng cách tiếp nhận vô thức và ý thức hóa vô thức. Ý thức không những là
khởi điểm mà còn là cơ quan kiểm nghiệm các nội dung từ vô thức đưa đến và
sau cùng là đích điểm bởi ý thức hóa được các nội dung từ lâu chìm lặn trong vô
thức.
Từ ý thức chúng ta nói đến ý thức cá nhân. Ý thức cá nhân là nhận thức
của một cá nhân về thế giới và chính bản thân mình trong tư cách chủ thể nhận
thức. Nói đến ý thức cá nhân là nói đến toàn bộ sự tồn tại của con người trong
những mối quan hệ cụ thể. Nó gắn với những nhu cầu vật chất, tinh thần, tình
cảm, thẩm mỹ của mọi đối tượng. Ý thức cá nhân là một trong những yếu tố
giúp con người tự nhìn nhận mình, là khát vọng lớn lao đi tìm bản thân và luôn
tiềm ẩn trong mỗi con người.
Từ trước đến nay, khái niệm ý thức cá nhân đã từng được nhiều nhà
nghiên cứu như: Platon, Aristotle, Descartes, Epiquya đưa ra. Các nhà triết học
duy tâm nhìn nhận vấn đề ý thức cá nhân dưới hai phương diện: phương diện
thứ nhất là cái tôi với tư cách là khách thể của sự nhận thức; phương diện thứ
hai là cái tôi với tư cách là chủ thể của tư duy, chủ thể của nhận thức thế giới. Ở
cả hai phương diện trên, chúng ta nhận thấy những nhà triết học duy tâm đều

gắn liền vấn đề ý thức cá nhân với phương diện cái tôi cá nhân, xem cái tôi cá
nhân là một chủ thể của tư duy và nhận thức. Chủ nghĩa duy tâm coi ý thức cá
nhân như là một thực thể độc lập có sẵn trong cá nhân, biểu hiện xu hướng về
bản thân mình, tự khẳng định cái tôi riêng biệt tách rời cái ta chung của xã hội.
Còn các nhà duy vật biện chứng lại có cách nhìn khác về cái tôi cá nhân.
Theo họ, con người vừa là sản phẩm của tự nhiên, là kết quả của sự tiến hoá sinh
vật của loài mà thành, đồng thời nó lại là sản phẩm của lịch sử-xã hội. Mác đã

Footer Page 16 of 258.


Header Page 17 of 258.
17

khẳng định, con người không bao giờ tách ra khỏi cộng đồng xã hội, nó vừa
mang bản chất riêng nhưng đồng thời lại nằm trong mối quan hệ qua lại với xã
hội. Ở mỗi thời kỳ lịch sử khác nhau thì sẽ tồn tại những kiểu ý thức riêng của
mỗi con người khác nhau để phù hợp với điều kiện hoàn cảnh xã hội của mỗi
thời đại. Triết học Mác xít khẳng định, khi mỗi thành viên ở trong mỗi tập thể
bắt đầu có ý thức tách ra khỏi một chỉnh thể nào đó, có nghĩa là đã bắt đầu ý
thức về bản thân mình, về quyền và nghĩa vụ của bản thân mình. Tự ý thức là ý
thức hướng về nhận thức bản thân mình thông qua quan hệ với thế giới bên
ngoài. Khi phản ánh thế giới khách quan, con người tự phân biệt mình, đối lập
mình với thế giới, đó là sự nhận thức mình như là một thực thể vận động, có
cảm giác, tư duy, có các hành vi đạo đức và vị trí xã hội. Mặt khác, sự giao tiếp
xã hội và hoạt động thực tiễn xã hội đòi hỏi con người nhận rõ bản thân mình và
tự điều chỉnh mình theo các quy tắc tiêu chuẩn mà xã hội đề ra. Ngoài ra văn
hoá cũng đóng vai trò là cái gương soi giúp cho con người tự ý thức bản thân.
Như vậy, theo quan điểm của các nhà triết học thì vấn đề ý thức là vấn đề
chủ quan luôn tồn tại trong bộ óc của mỗi con người. Vấn đề ý thức cá nhân

hiểu theo quan điểm của các nhà triết học chính là tính có chủ ý của bản thân
mỗi người. Tuỳ thuộc vào điều kiện hoàn cảnh và sự nhận thức của bản thân mỗi
người mà ý thức cá nhân sẽ có những bộc lộ khác nhau.
Các nhà tâm lý học như R.Linton, X.L.Rubinstein, P.Galperin, Arnold…
cũng đã đưa ra nhiều quan niệm về ý thức cá nhân. Họ cho rằng, vấn đề ý thức
con người là vô cùng phong phú và phức tạp, liên quan đến nhiều khoa học khác
nhau. Theo các tác giả này, tính tích cực tâm lý của con người biểu hiện qua các
cấp độ khác nhau: con người với tư cách là cá nhân, con người với tư cách là
chủ thể, con người với tư cách là nhân cách... Dù quan niệm có khác nhau,
nhưng điểm gặp gỡ trong quan niệm của các nhà khoa học này là ở chỗ họ

Footer Page 17 of 258.


Header Page 18 of 258.
18

khẳng định ý thức con người có quan hệ mật thiết với thế giới và ý thức cá nhân
không phải đơn thuần là những kiến thức thu nhận được từ bên ngoài mà còn là
sự vận động bên trong để tự ý thức về mình như là một cá nhân có bản ngã
riêng.
Ý thức cá nhân hình thành trong hoạt động và thể hiện trong sản phẩm
hoạt động của cá nhân và chính hoạt động tạo ra sản phẩm mà cá nhân hình
thành, phát triển tâm lý ý thức. Bên cạnh đó, ý thức của cá nhân còn được hình
thành trong mối quan hệ giao tiếp giữa cá nhân với người khác, với xã hội. Sự
phát triển của một cá thể phụ thuộc vào sự phát triển của nhiều cá thể khác mà
nó đã giao tiếp trực tiếp hoặc gián tiếp. Bên cạnh đó, ý thức cá nhân hình thành
bằng con đường tiếp thu nền văn hóa xã hội, ý thức xã hội. Ngoài ra, ý thức cá
nhân hình thành bằng con đường tự nhận thức, tự đánh giá, tự phân tích hành vi
của mình, người ta gọi đó là ý thức bản ngã.

Một điều cần lưu ý là ý thức cá nhân không trùng khớp với ý thức xã hội.
Ý thức xã hội là mặt tinh thần của đời sống xã hội bao gồm những quan điểm, tư
tưởng cùng những tình cảm, tâm trạng, truyền thống… nảy sinh từ tồn tại xã hội
và phản ánh tồn tại xã hội trong những giai đoạn phát triển nhất định. Ở đây, ta
cần phân biệt sự khác nhau giữa ý thức cá nhân với ý thức xã hội. Nếu ý thức xã
hội bắt nguồn từ tồn tại xã hội thì ý thức cá nhân bắt nguồn từ tồn tại xã hội của
cá nhân. Ý thức cá nhân, nhất là của những cá nhân ưu tú, tuy mất đi cùng với
từng cá nhân, nhưng lại gia nhập kho tàng văn hoá chung của nhân loại. Ý thức
cá nhân luôn phản ánh tồn tại xã hội với mức độ khác nhau. Do đó, nó không thể
không mang tính xã hội. Thế nhưng xã hội không phải đơn giản là tổng số
những cá nhân. Cũng giống như xã hội, ý thức xã hội cũng không phải là tổng số
những ý thức cá nhân. Hơn nữa ý thức cá nhân là thế giới tinh thần của những
con người riêng biệt, cụ thể. Nó bao gồm ý thức về tính cách, động cơ, cảm xúc;

Footer Page 18 of 258.


Header Page 19 of 258.
19

điểm mạnh, điểm yếu, tiềm năng, trình độ khả năng; hoàn cảnh và các mối quan
hệ của cá nhân. Ý thức cá nhân giúp con người xác định được: Mình là ai? Mình
có vị trí và giá trị như thế nào trong nhóm xã hội. Ý thức cá nhân chính là lăng
kính, “đầu lọc” mà qua đó chúng ta nhìn thế giới xung quanh trong nhiều mối
quan hệ tương tác khác nhau. Vì thế ý thức cá nhân không phải bao giờ cũng thể
hiện quan điểm, tư tưởng, tình cảm phổ biến của một cộng đồng, một tập đoàn
xã hội, một thời đại xã hội nhất định. Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là ý
thức cá nhân không thể hiện ý thức xã hội, vì ý thức xã hội không nằm ở bên
ngoài các cá nhân. Nói một cách khác, ý thức xã hội và ý thức cá nhân không
tồn tại hoàn toàn tách rời mà chúng tồn tại trong mối liên hệ hữu cơ, biện chứng,

chúng có khả năng thâm nhập vào nhau và làm phong phú cho nhau. Để có được
bản chất người và có ý thức của con người, cá nhân phải tiếp thu được những
sản phẩm và giá trị tinh thần được xã hội tạo ra. Song vì các cá nhân đều có
những đặc điểm riêng của mình về xuất thân, sinh hoạt, giao tiếp, kinh nghiệm,
học vấn, năng lực, nên có thể tiếp thu quan điểm này, phản ứng lại quan niệm kia,
đã ảnh hưởng trở lại đối với ý thức xã hội một cách khác nhau.
Như vậy, vấn đề ý thức cá nhân theo cách hiểu tâm lý-xã hội là con người
có tri thức, có tự giác, biết nhìn nhận bản thân và thế giới xung quanh, biết tự
mình vươn lên trong mọi lĩnh vực, biết thể hiện tài năng, bản lĩnh của mình
trong xã hội, biết đối lập mình với những hạn chế, những lạc hậu trong đời sống
xã hội. Ý thức theo cách hiểu này là sự đối lập với cái vô thức, cái bản năng của
con người.
1.2. Thế mạnh của tiểu thuyết trong việc thể hiện ý thức cá nhân
Xét trên nhiều bình diện, thực tiễn đời sống văn học Việt Nam nửa đầu
thế kỷ là một bước trung chuyển bộn bề, phức tạp nhưng tất yếu để ngày càng
hoà nhập vào quỹ đạo hiện đại hoá, phù hợp với xu thế và sự phát triển của nền

Footer Page 19 of 258.


Header Page 20 of 258.
20

văn học mới. Trong sự chuyển biến chung của đời sống văn học, sự hình thành
và hiện diện thế “chân vạc” của kịch nói, thơ mới và tiểu thuyết hiện đại đã tạo
ra sự tương tác, xâm nhập giữa các thể loại và đem đến cho mọi thể loại những
thành tựu đáng kể. Bên cạnh thơ và kịch, tiểu thuyết đã bộc lộ những dấu hiệu
đổi mới cả về nội dung lẫn hình thức, có ý nghĩa cơ bản đối với văn học Việt
Nam thế kỷ XX.
So với các thể loại khác trong văn học, tiểu thuyết là một thể loại ra đời

khá muộn nhưng lại phát triển rất mạnh mẽ và đạt được nhiều thành tựu to lớn.
Trong văn học hiện đại, có thể nói tiểu thuyết là một trong nhũng thể loại được
sáng tác nhiều nhất và thu hút được đông đảo người đọc. Có thể thấy, ý thức về
số phận cá nhân được phát triển trong xã hội tư sản so với những chế độ xã hội
trước kia cũng là một yếu tố ít nhiều thúc đẩy sự phát triển của tiểu thuyết.
Trong văn học Việt Nam hiện đại, ý thức cá nhân là vấn đề được các nhà tiểu
thuyết chúng ta đề cập đến khá nhiều. Và ngược lại chỉ ở thể loại này, người ta
mới thấy vấn đề ý thức cá nhân được thể hiện một cách toàn diện nhất và đầy đủ
nhất. Có được điều này chính là do những đặc trưng của thể loại tiểu thuyết.
Trước hết, tiểu thuyết là một thể loại lớn trong phương thức tự sự, có năng
lực phản ánh hiện thực một cách bao quát và sinh động, tái hiện những bức tranh
về đời sống thông qua những tính cách và hoàn cảnh điển hình rộng rãi. Là một
hình thức tự sự có cốt truyện lớn, tiểu thuyết có những khả năng và đặc trưng
riêng trong việc nhận thức và phản ánh hiện thực. Hiện thực trong tiểu thuyết là
một hiện thực nhiều màu vẻ, sinh động như bản thân cuộc sống. Khả năng phản
ánh hiện thực của tiểu thuyết không bị hạn chế về không gian cũng như về thời
gian. Tính chất linh hoạt của hình thức kể chuyện với một cốt truyện lớn đã tạo
ra cho tiểu thuyết những thuận lợi trong việc tái hiện những bức tranh sinh hoạt
xã hội rộng rãi, những tính cách có sức khái quát lớn.

Footer Page 20 of 258.


Header Page 21 of 258.
21

Xét về mặt lịch sử, tiểu thuyết là loại hình của thời hiện đại, đối tượng của
tiểu thuyết là con người của hiện tại. Tiểu thuyết miêu tả cuộc sống như một
thực tại cùng thời đang sinh thành. Tiểu thuyết hấp thu vào bản thân nó mọi yếu
tố ngổn ngang bề bộn của cuộc đời, bao gồm cái cao cả lẫn cái tầm thường,

nghiêm túc và buổn cười, bi và hài, cái lớn lẫn cái nhỏ. Tiểu thuyết còn có chất
văn xuôi, và chính chất này đã mở ra một vùng tiếp xúc tối đa với thời hiện tại
đang sinh thành làm cho tiểu thuyết không bị giới hạn nào trong nội dung phản
ánh. Tiểu thuyết là thể loại tự sự năng động và giàu khả năng phản ánh đời sống
nhiều mặt bậc nhất trong các thể loại văn học.
Tiểu thuyết cũng là hình thức tự sự phát triển phong phú nhất: nhân vật có
thể nhiều nhất, cốt truyện phức tạp nhất, ngôn từ đa dạng nhất, bối cảnh rõ nét
nhất, đáp ứng nhu cầu ý thức về cuộc sống con người trong tất cả mọi chiều
kích. Bốn yếu tố cơ bản mà tác phẩm tự sự nào cũng có như nhân vật, cốt
truyện, hoàn cảnh, lời văn, đến tiểu thuyết được phát triển phong phú nhất.
Nhất Linh trong tác phẩm Viết và đọc tiểu thuyết cho rằng “Viết tiểu
thuyết là tả cuộc đời mà trong đó hầu hết là tả con người”, mà con người trong
tiểu thuyết, không gì khác đó chính là nhân vật tiểu thuyết. Nhân vật là linh hồn,
là yếu tố không thể thiếu trong tiểu thuyết. Theo Trần Thanh Hiệp, trong tiểu
thuyết vấn đề quan trọng “phải là vấn đề nhân vật. Người ta sẽ tìm thấy bộ mặt
con người trong các nhân vật của tiểu thuyết. Nói một cách khác, nhân vật vừa
là cá thể, vừa là linh hồn”, nó là chiếc cầu nối giữa “cuộc đời thực” với “cuộc
đời có vẻ thực” trong tiểu thuyết. Còn Nguyễn văn Trung cho rằng việc xây
dựng nhân vật tiểu thuyết bao giờ cũng tùy thuộc vào quan niệm về con người
của nhà văn. Bởi lẽ qua nhân vật, nhà văn muốn gửi gắm những ý tưởng của
mình về đời người và người đời. Văn học bao giờ cũng là hiện thân những ngẫm

Footer Page 21 of 258.


Header Page 22 of 258.
22

ngợi của nhà văn về cuộc đời. Nhân vật tiểu thuyết luôn có mối liên hệ với cuộc
đời. Nó là hình bóng của con người, có tác động đến lối sống của con người.

Ở thể loại tiểu thuyết, nhân vật đóng vai trò không nhỏ trong việc thể hiện
tư duy nghệ thuật của nhà văn và chủ đề tư tưởng của tác phẩm. Trong tiểu
thuyết, nhân vật là một ý thức, là sự tự nhận thức và tự bộc lộ mình trên hành
trình ý thức: tìm kiếm và khám phá ý nghĩa cuộc đời và của chính mình. Cái
nhìn của nhà văn là cái nhìn cởi mở, dân chủ hơn đối với nhân vật. Người kể
chuyện để ngòi bút phiêu lưu với thế giới bên trong đầy biến động và phức tạp
của nhân vật. Nhân vật tự nhận thức và tự hình thành qua những biến động ấy.
Nhờ vậy, tiểu thuyết đã tạo nên hứng thú khám phá và đồng sáng tạo đối với
người đọc.
Nhân vật trong tiểu thuyết cũng mang những đặc trưng khác với nhân vật
trong sử thi, nhân vật kịch, nhân vật truyện trung đại ở chỗ nhân vật tiểu thuyết
là con người nếm trải trong khi các nhân vật kia thường là nhân vật hành động.
Nhân vật tiểu thuyết tuy cũng có hành động nhưng với tư cách là đặc trưng thể
loại, nhân vật ấy xuất hiện như là con người nếm trải cảm nhận, tư duy, chịu khổ
đau dằn vặt của đời. Nó miêu tả nhân vật như một con người đang trưởng thành,
biến đổi và do đời dạy bảo. Một nét đặc trưng nữa của tiểu thuyết đó là thường
miêu tả thế giới bên trong, phân tích tâm lý nhân vật. Nhân vật tiểu thuyết được
miêu tả nhiều mặt, tinh tế chi tiết như con người sống. Từ tính cách, cá tính đến
số phận, từ hành động đến tâm lý, từ các loại quan hệ đến ngôn ngữ đều được
các nhà tiểu thuyết quan tâm khám phá. Các thuộc tính của nhân vật được miêu
tả trong quá trình trong tổng hòa mọi bình diện, từ ý thức đến vô thức, từ tư
tưởng đến bản năng, từ mặt xã hội đến mặt sinh vật… Sự miêu tả nhân vật ở đây
đạt được tính lập thể toàn vẹn. Tiểu thuyết không chỉ viết về một số người mà
còn viết về cả gia tộc, cả thế hệ thậm chí nhiều thế hệ. Qua thế giới nhân vật, từ

Footer Page 22 of 258.


Header Page 23 of 258.
23


đây người đọc sẽ tìm thấy những vấn đề ý thức cá nhân mà tác giả muốn gửi
gắm, muốn sẻ chia.
Không phải ngẫu nhiên mà những giai đoạn tiểu thuyết nở rộ nhất cũng là
những giai đoạn mà vấn đề ý thức cá nhân được quan tâm nhất. Thế kỷ XIX với
sự phát triển của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa, với sự
tan rã của chế độ phong kiến và hệ tư tưởng cũ của nó thì đó cũng là lúc cái tôi
cá nhân phát triển mạnh mẽ. Nhà văn cũng mạnh dạn hơn trong việc thể hiện
những quan điểm tư tưởng của mình về các vấn đề xã hội, các quyền lợi tự do
của con người. Tiểu thuyết Việt Nam đặc biệt phát triển vào những năm ba mươi
của thế kỷ XX, một phần là do ý thức cá nhân trong thời kỳ này phát triển mạnh
mẽ. Và để thể hiện vấn đề ý thức cá nhân, các tác giả thường lồng quan điểm
của mình vào quan điểm nhân vật. Đặc biệt, ở dạng tiểu thuyết luận đề, nhà văn
thường thể hiện những tư tưởng quan niệm của bản thân. Tính tư tưởng trong
tiểu thuyết hiện luôn được nhà văn coi trọng, căn bản của tiểu thuyết là chuyện
thế sự, là chuyện con người và cuộc đời. Tiểu thuyết là phương tiện để nhà văn
chuyển tải luận đề một cách đầy đủ nhất.
Ý thức cá nhân gắn với nhận thức của nhân vật hoặc liên quan đến tâm tư
tình cảm của nhân vật được biểu hiện qua hình thức độc thoại nội tâm, dòng ý
thức, hoặc được khai thác theo cách nhìn của người kể chuyện, có lúc theo cách
nhìn của nhân vật hoặc xen lẫn cả người kể chuyện và nhân vật, để cho nhân vật
tự nói lên những suy nghĩ của mình.
1.3. Vấn đề ý thức cá nhân trong văn học Việt Nam hiện đại
1.3.1. Vai trò của ý thức cá nhân trong văn học Việt Nam
Vào những năm đầu thế kỉ XX, cùng với sự tác động của nhiều yếu tố như
kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, quan điểm văn học, tư duy nghệ thuật, sự phát

Footer Page 23 of 258.



Header Page 24 of 258.
24

triển của thể loại ngôn ngữ, văn tự... thì ý thức cá nhân cũng là một yếu tố đóng
một vai trò quan trọng trong quá trình hiện đại hóa của văn học Việt Nam. Sự
hình thành và sự phát triển của ý thức cá nhân đánh dấu trình độ phát triển của
văn học.
Ở các nước tư bản phương Tây, do tính chất đặc thù của xã hội tư bản nên
vấn đề ý thức cá nhân sớm xuất hiện và phát triển mạnh mẽ. Từ đầu thế kỷXIX,
sự giải phóng cá nhân tăng lên và cụ thể khiến các nhà tư tưởng vượt khỏi cái
phạm trù cá nhân tự nó quá chung chung để quan tâm đến con người cá nhân
đặc thù đang hình thành và bắt đầu sống một cách mơ hồ cuộc phiêu lưu của
quyền tự do cho mình được thừa nhận. Con người tư sản thành thị thoát ly khỏi
chủ nghĩa gia trưởng truyền thống và kiếm sống ngoài sự bảo trợ của gia đình,
họ sống cho chính mình và trước hết theo ý mình (các nhân vật trong tiểu thuyết
Banzac, Stendhal). Quá trình cá nhân hóa tiến nhanh và người ta bắt đầu nói đến
cá nhân luận. Những người tự do muốn được tôn trọng các quyền tự nhiên của
con người, thời đại tự do cá nhân trị vì đối với họ là điều duy nhất có thể đem
tiến bộ và hạnh phúc cho con người. Họ chống lại những quan niệm bóp nghẹt
quyền tự do cá nhân và quyền xã hội dân sự, họ ca ngợi hạnh phúc riêng tư. Các
nhà văn của chủ nghĩa lãng mạn đã cấp cho nó sự sống dưới hình thức một mỹ
học về tính độc đáo của một cái tôi khao khát được giải phóng khỏi mọi ràng
buộc xã hội.
Trong khi đó ở Việt Nam, vấn đề ý thức cá nhân lại xuất hiện khá muộn.
Nó chỉ thực sự trỗi dậy khi có sự gặp gỡ và giao lưu với văn hóa phương Tây, cụ
thể là với nền văn hóa, văn học Pháp đầu thế kỉ XX. Tuy xuất hiện muộn nhưng
sự phát triển của nó lại diễn ra nhanh chóng và mạnh mẽ, đặc biệt là trong văn
học. Nhìn một cách tổng thể thì vấn đề ý thức cá nhân và quan niệm nghệ thuật
về con người trong văn học, một vấn đề quan trọng bậc nhất trong bản chất của


Footer Page 24 of 258.


Header Page 25 of 258.
25

văn học, ít nhiều có liên quan với nhau. Dễ thấy rằng một khi ý thức cá nhân
phát triển thì quan niệm về con người trong văn học cũng sẽ thay đổi theo hướng
tích cực và tiến bộ.
Nói đến ý thức cá nhân là nói đến toàn bộ sự tồn tại của con người trong
những mối quan hệ cụ thể. Nó gắn với những nhu cầu vật chất, tinh thần, tình
cảm, thẩm mỹ của con người. Tuy nhiên, trong thời kỳ trung đại, với những thể
chế văn hóa mang nặng tính khuôn khổ và nhiều ràng buộc, con người cá nhân
không được quyền tồn tại với những nhu cầu của chính nó, càng không có điều
kiện thể hiện ý thức cá nhân của mình. Con người trong thời đại ấy chỉ là công
cụ cho những giá trị trừu tượng. Còn trong văn học lúc bấy giờ, quan niệm văn
dĩ tải đạo trở thành một thứ tôn chỉ trong sáng tác của hầu hết các nhà văn, nhà
thơ Việt Nam. Các nhân vật xuất hiện trong tác phẩm văn học thường là những
con người-tập thể, những con người mang đầy những lý tưởng to lớn của thời
đại. Đặc điểm này làm nên tính chất phi ngã của văn chương đương thời.
Nhìn lại văn học Việt Nam từ thế kỉ X đến hết thế kỉ XIX, chúng ta khó
có thể tìm thấy những dấu hiệu của ý thức cá nhân. Điều này ít nhiều đã làm hạn
chế tính dân chủ cũng như giá trị nhân đạo trong văn học. Chỉ có những nghệ sĩ
lớn với một cá tính mạnh mẽ mới thật sự vượt lên trên những giới hạn của thời
đại để làm nên những sự khác biệt so với phần còn lại. Chính điều này đã tạo ra
những phút nổi loạn của con người cá nhân trong văn học mà sự thể hiện rõ rệt
nhất là trong thơ văn của Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Nguyễn Công Trứ, Hồ Xuân
Hương… Và những phút nổi loạn ấy là dấu hiệu ban đầu của sự phát triển ý thức
cá nhân trong văn học Việt Nam sau này. Tuy nhiên, lúc bấy giờ, đó chỉ là
những hiện tượng đơn lẻ chứ chưa phải là phổ biến tạo thành diện mạo chung

của cả nền văn học. Ý thức cá nhân hiếm khi được cất tiếng nói một cách trực
tiếp và hẳn là chưa thể thoát khỏi cơ chế xã hội truyền thống.

Footer Page 25 of 258.


×