Tải bản đầy đủ (.doc) (66 trang)

Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa và vận dụng vào việc xây dựng lối sống văn hóa cho sinh viên trường đại học sư phạm Đà Nẵng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (369.07 KB, 66 trang )

ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
KHOA GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ
_*_

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
Đề tài:
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ VĂN HÓA VÀ VẬN DỤNG
VÀO VIỆC XÂY DỰNG LỐI SỐNG VĂN HÓA CHO SINH VIÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM ĐÀ NẴNG

Người hướng dẫn
: T.S Dương Anh Hoàng
Sinh viên thực hiện : Lê Thị Hồng Duyên
Lớp
: 09SGC

Đà Nẵng, tháng 5 năm 2013

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu,
kết quả nghiên cứu trong luận văn này là trung thực và chưa được bất kì ai công
bố trước đây. Nếu xảy ra bất kỳ trường hợp nào liên quan đến bản quyền, tôi xin
chịu hoàn toàn trách nhiệm.
Đà Nẵng, ngày 14 tháng 5 năm 2013
Sinh viên
Lê Thị Hồng Duyên


Lời cảm ơn
Để có được kết quả như ngày hôm nay là nhờ công lao dạy dỗ, chỉ bảo


của thầy cô trong khoa Giáo dục Chính trị - Trường ĐH Sư phạm và thầy cô
trong khoa Mác - Lênin - Trường ĐH Kinh tế. Vì vậy, em dành trang đầu tiên
của khóa luận này gửi tới thầy cô lời biết ơn sâu sắc.
Qua đây, em xin chân thành cảm ơn thầy T.S Dương Anh Hoàng, người
đã nhiệt tình chỉ bảo, giúp đỡ để em hoàn thành kháo luận này.
Bước đầu làm quen với việc nghiên cứu khoa học, mặc dù đã có nhiều cố
gắng, song khó có thể tránh được những hạn chế và thiếu sót. Vì vậy, em rất
mong được sự góp ý của thầy cô và các bạn.
Em xin chân thành cảm ơn!
Đà Nẵng, tháng 2 năm 2013
Sinh viên:
Lê Thị Hồng Duyên


MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN...............................................................................................1
1. MỞ ĐẦU..........................................................................................................1
NỘI DUNG..........................................................................................................5
Chương 1.............................................................................................................5
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ VĂN HÓA..................................................5
1.1 Một số quan niệm về văn hóa trong lịch sử...............................................5
1.1.1 Khái niệm...................................................................................................5
Văn hóa là khái niệm mang nội hàm rộng với rất nhiều cách hiểu khác
nhau, liên quan đến mọi mặt đời sống vật chất và tinh thần của con người. 5
2. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ.......................................................................56
4. TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................................60


DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU VÀ VIẾT TẮT


TS
GS

:
:

Tiến sĩ
Giáo sư

PGS
ĐHSP

:
:

Phó giáo sư
Đại học Sư phạm


1
1.

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Chủ tịch Hồ Chí Minh - lãnh tụ thiên tài, anh hùng giải phóng dân tộc,
nhà văn hoá kiệt xuất của dân tộc Việt Nam, người sáng lập ra Đảng Cộng sản
Việt Nam là người cầm lái vĩ đại đưa con thuyền cách mạng Việt Nam từ một
nước thuộc địa nửa phong kiến bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa tiến
lên chủ nghĩa xã hội. Người đã để lại cho dân tộc ta, Đảng ta một kho tàng di

sản tư tưởng quý báu, tài sản tinh thần vô giá của Đảng và của dân tộc ta. Từ
thực tiễn thắng lợi của cách mạng Việt Nam, cùng với chủ nghĩa Mác – Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng, là “kim chỉ nam cho mọi hành động
của Đảng”, là nền tảng tinh thần của xã hội, là động lực và nguồn sức mạnh to
lớn để nhân dân ta phát huy nội lực, khắc phục khó khăn, xây dựng đất nước
không ngừng phát triển.
Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu
sắc gồm nhiều lĩnh vực rộng lớn và phong phú, trong đó tư tưởng của Người về
văn hóa chiếm một vị trí đặc biệt quan trọng. Tư tưởng đó có sự kế thừa và
phát huy những giá trị truyền thống tốt đẹp của văn hóa dân tộc với tiếp thu tinh
hoa văn hóa nhân loại, thấm nhuần sâu sắc chủ nghĩa yêu nước nồng nhiệt kết
hợp với chủ nghĩa quốc tế trong sáng.
Bước vào thế kỷ XXI – thế kỷ mà các nhà nghiên cứu nhận định là “thế
kỷ của biển và đại dương”, loài người đang tiến ra biển. Là một quốc gia ven
biển, Việt Nam đang phấn đấu để trở thành một nước mạnh về biển. Trong công
cuộc chinh phục biển cả đầy khó khăn đó đòi hỏi sự quan tâm sâu sắc cũng như
tham gia rộng rãi của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta. Có thể thấy, góp phần
không nhỏ vào công cuộc ấy là tầng lớp thanh niên, trong đó có sinh viên trường
Đại học Sư phạm Đà Nẵng - những người giáo viên, cán bộ tương lai. Để tham
gia có hiệu quả vào công cuộc bảo vệ vững chắc chủ quyền biển đảo và xây
dựng Việt Nam trở thành một quốc gia vững mạnh về biển thì đoàn viên, sinh
viên trường ĐHSP Đà Nẵng cần xây dựng cho mình một lối sống văn hóa lành
mạnh theo tư tưởng Hồ Chí Minh.


2
Chúng ta đang sống trong một thời đại mà khoa học, kỹ thuật và công
nghệ đã đem đến những biến đổi cực kỳ lớn lao cho cuộc sống của con người,
trở thành động lực vô cùng quan trọng đối với sự phát triển của mỗi dân tộc, mỗi
quốc gia. Việt Nam cũng đang từng bước hội nhập vào thế giới trên tất cả các

lĩnh vực đang đứng trước nhiều cơ hội và thách thức khi được tiếp cận với nền
khoa học hiện đại. Tuy nhiên, cũng chính ở thời điểm này, nhiều vấn đề tiêu cực
và khủng hoảng về xã hội đã nảy sinh trong đời sống, thế hệ trẻ cũng phải đối
mặt với nhiều luồng tư tưởng mới với lối sống thực dụng đòi hỏi thế hệ trẻ phải
xây dựng cho mình một bản lĩnh chính trị vững vàng trong thời kỳ hội nhập,
phải nhìn nhận lại yêu cầu phát triển bền vững với vai trò, vị trí đặc biệt của văn
hóa.
Vì lẽ đó, tôi chọn đề tài: “Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa và vận dụng
vào việc xây dựng lối sống văn hóa cho sinh viên trường đại học sư phạm Đà
Nẵng” để nghiên cứu.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Chúng ta đang sống trong thập kỷ thế giới về văn hóa và phát triển do
UNESCO phát động. Vấn đề văn hóa trở thành trung tâm chú ý của giới nghiên
cứu trên thế giới. Ở nước ta mấy năm gần đây, đặc biệt là từ khi bước vào thời
kỳ đổi mới, vấn đề văn hóa cũng được tập trung đề cập, đặc biệt là văn hóa theo
tư tưởng Hồ Chí Minh. Tiêu biểu phải kể đến một số công trình quan trọng sau:
- Đồng chí Phạm Văn Đồng, Hồ Chí Minh – một con người, một dân tộc,
một thời đại, một sự nghiệp, Nxb Sự thật Hà Nội, 1990.
- GS Trần Ngọc Thêm. Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nxb Giáo dục, 1997.
- GS.TS Đỗ Huy, Tư tưởng văn hóa Hồ Chí Minh, Nxb Chính trị quốc gia
Hà Nội, 1997.
- GS. Song Thành, Hồ Chí Minh – nhà văn hóa kiệt xuất, Nxb Chính trị
quốc gia Hà Nội, 1999.
- GS.TS Đỗ Huy, Cơ sở triết học của văn hóa nghệ thuật Việt Nam, Nxb
Văn hóa thông tin Hà Nội, 2002.
- Đào Duy Anh, Việt Nam văn hóa sử cương, Nxb Văn hóa Thông tin,
2003.
- Nhiều tác giả, Góp phần tìm hiểu tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa ,
Nxb Chính trị quốc gia Hà Nội, 2004.



3
- GS Nguyễn Đức Bình. Về công tác lý luận, tư tưởng và văn hóa, Nxb
Chính trị quốc gia Hà Nội, 2005.
Ngoài ra còn rất nhiều công trình, bài viết trên các tạp chí Triết học, tạp
chí Cộng sản, tạp chí Lý luận chính trị …
Nhìn chung ở gốc độ nào tác giả cũng đã ít nhiều đề cập đến tư tưởng văn
hóa của Hồ Chí Minh. Trên cơ sở kế thừa những công trình nghiên cứu, bài viết
của các tác giả, tôi mạnh dạn lựa chọn đề tài này, từ việc nghiên cứu những tư
tưởng cơ bản của Hồ Chí Minh về văn hóa để từ đó tìm ra các giải pháp xây
dựng lối sống văn hóa cho sinh viên trường Đại học Sư phạm Đà Nẵng.
3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của đề tài nhằm làm rõ những nội dung cơ bản tư
tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa. Trên cơ sở đó vận dụng, đề xuất các giải pháp
nhằm xây dựng lối sống văn hóa cho sinh viên trường Đại học Sư phạm Đà
Nẵng.
Để thực hiện được mục đích trên cần làm những nhiệm vụ sau:
- Tìm hiểu những quan điểm cơ bản về văn hóa của chủ nghĩa Mác-Lênin,
của Hồ Chí Minh.
- Phân tích và làm rõ những nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh
về văn hóa.
- Đề xuất các giải pháp nhằm xây dựng lối sống văn hóa cho sinh viên
trường Đại học Sư phạm Đà Nẵng.
Phạm vi nghiên cứu: Sinh viên hệ Đại học hệ chính quy trường Đại học
Sư phạm Đà Nẵng.
4. Phương pháp nghiên cứu
Các phương pháp được sử dụng nghiên cứu trong khóa luận là: chủ nghĩa
duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử. Ngoài ra còn sử dụng các phương
pháp: kết hợp lịch sử với logic, phân tích và tổng hợp, đối chiếu - so sánh, khảo
sát thực tế, thống kê và xử lý số liệu.

5. Nét mới của đề tài
Hệ thống hóa lại những quan điểm về văn hóa. Đồng thời nêu lên được sự
cần thiết phải xây dựng lối sống văn hóa cho sinh viên. Đặc biệt là làm rõ thực
trạng lối sống văn hóa của sinh viên và vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về văn


4
hóa vào xây dựng lối sống văn hóa cho sinh viên trường Đại học Sư phạm Đà
Nẵng.
6. Ý nghĩa của đề tài
Khóa luận góp phần làm rõ những nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí
Minh về văn hóa. Đồng thời, khóa luận này có thể dùng làm tài liệu tham khảo
trong học tập và nghiên cứu môn tư tưởng Hồ Chí Minh. Bên cạnh đó, có thể
làm cơ sở cho nhà trường trong công tác xây dựng lối sống văn hóa cho sinh
viên trường Đại học Sư phạm Đà Nẵng.
7. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, đề tài gồm có 2 chương
với 5 tiết.


5

NỘI DUNG
Chương 1
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ VĂN HÓA
1.1 Một số quan niệm về văn hóa trong lịch sử
1.1.1 Khái niệm

Văn hóa là khái niệm mang nội hàm rộng với rất nhiều cách
hiểu khác nhau, liên quan đến mọi mặt đời sống vật chất và tinh thần

của con người.
Cho đến nay, đã có hơn 400 khái niệm về văn hóa, điều đó cho thấy khái
niệm văn hóa được sử dụng ngày càng nhiều. Mỗi ngành, mỗi lĩnh vực, mỗi
trường phái, thậm chí cả mỗi nhà khoa học đều có khái niệm riêng của mình về
văn hóa.
S.Pufendort – nhà nghiên cứu pháp luật người Đức (1774), là người đầu
tiên đưa từ Culture vào trong khoa học. Ông cho rằng văn hóa là toàn bộ những
gì do con người sáng tạo ra và các sản phẩm nhân tạo này là khác với các sự vật
trong giới tự nhiên, tựa như con người được giáo dục khác với con người không
được giáo dục.
Đến G.G.Herder – nhà triết học khai sáng, nhà văn, nhà nghiên cứu văn
học Đức gọi văn hóa là quá trình hình thành con người, là sự nắm bắt và sử dụng
kinh nghiệm, truyền thống, cho nên cần phải gắn văn hóa với việc giáo dục tính
nhân văn và lối sống dân tộc [33,41].
Đến đầu thế kỷ XIX I.Kant cho rằng: “Khả năng con người đặt ra cho
chính mình những mục đích tự do, nên phụ thuộc vào tính tự nhiên của bên
ngoài và thể xác mình chính là mục đích cuối cùng của tự nhiên đồng thời đó
cũng chính là văn hóa” [34,44].
Năm 1871, E.B. Tylor đưa ra định nghĩa: “Văn hóa hay văn minh, theo
nghĩa rộng về tộc người học, nói chung gồm có tri thức, tín ngưỡng, nghệ thuật,
đạo đức, luật pháp, tập quán và một số năng lực và thói quen khác được con
người chiếm lĩnh với tư cách một thành viên của xã hội” [6,13]. Theo định nghĩa
này thì văn hóa và văn minh là một; nó bao gồm tất cả những lĩnh vực liên quan


6
đến đời sống con người, từ tri thức, tín ngưỡng đến nghệ thuật, đạo đức, pháp
luật…
UNESCO đưa ra khái niệm văn hóa được thừa nhận rộng rãi: “Văn hóa là
tổng thể sống động các hoạt động sáng tạo của con người đã diễn ra trong quá

khứ cũng như đang diễn ra trong hiện tại. Qua hàng thế kỷ các hoạt động sáng
tạo ấy đã cấu thành nên một hệ thống các giá trị, truyền thống thị hiếu thẩm mỹ
và lối sống mà dựa trên đó từng dân tộc khẳng định bản sắc riêng của mình”
[13,5].
Trong từ điển triết học đã đưa ra khái niệm: “Văn hóa là toàn bộ những
giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra trong quá trình thực tiễn xã
hội, lịch sử và tiêu biểu cho trình độ đạt được trong lịch sử phát triển xã hội”
[14,656].
Theo các nhà nghiên cứu dân tộc học: “Văn hóa là toàn thể những cấu
trúc trong xã hội, tôn giáo ... những biểu thị trí tuệ, nghệ thuật ... đặc định một
xã hội”[7,23].
Còn các nhà tâm lý học, xã hội học cho rằng: “Văn hóa như là thái độ
tổng quát của con người đối với vũ trụ tự nhiên và xã hội và như là vai trò của
con người trong vũ trụ ấy” [7,24].
Tóm lại, văn hóa là tổng thể sống động các hoạt động sáng tạo của các cá
nhân và cộng đồng trong quá khứ và hiện tại.Qua các thế hệ, hoạt động sáng tạo
ấy đã hình thành nên hệ thống các giá trị văn hóa truyền thống, xác định đặc tính
riêng của mỗi dân tộc.
1.1.2 Quan niệm văn hóa trong triết học của chủ nghĩa Mác - Lênin
Học thuyết Mác - Lênin về văn hoá được dựa trên những nguyên tắc cơ
bản của chủ nghĩa duy vật lịch sử về các hình thái kinh tế – xã hội như những
giai đoạn phát triển tuần tự của xã hội loài người, về mối quan hệ tương hỗ giữa
lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất.
1.1.2.1 Văn hóa the quan niệm của Mác – Ăngghen
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, không thể tách rời văn hóa với
cuộc sống con người, văn hóa bắt nguồn từ tồn tại xã hội, lao động sản xuất và
từ cuộc đấu tranh chống thiên nhiên của con người. Vì vậy, sự phát sinh, phát
triển của văn hóa được quy định bởi phát sinh, phát triển tồn tại xã hội của con



7
người. Nó là một lĩnh vực hoạt động thực tiễn được hình thành trong tiến trình
phát triển lịch sử.
Văn hóa là một hiện tượng phức tạp và đa dạng. Nó bao gồm cả hoạt động
sáng tạo, cả những tính cách của bản thân con người như một chủ thể hoạt động
và cả bản thân nội dung những giá trị vật chất và tinh thần tạo ra trong quá trình
hoạt động. “Văn hóa là hoạt động tích cực của con người thực hiện trong các
lĩnh vực vật chất và tinh thần, nhằm nắm bắt và khai thác thế giới, quá trình này
sẽ sản xuất, bảo quản, trao đổi và tiêu thụ những giá trị vật chất và tinh thần
mang ý nghĩa xã hội; đồng thời nó là một tổng hợp chính những giá trị đã vật thể
hóa hoạt động sáng tạo của con người” [4,33]. Vì vậy, xét đến cùng văn hóa là
trình độ phát triển bản thân con người, là sự hoàn thiện hết sức mạnh vật chất và
tinh thần, là tính chất, nhu cầu và lợi ích của con người, cũng như mức độ toàn
diện mà con người chinh phục tự nhiên, trình độ làm chủ tự nhiên, làm chủ sức
mạnh tự nhiên bên ngoài cũng như làm chủ chính bản thân mình. Mác đã nói:
“Căn cứ vào mức độ tự nhiên được con người khai thác, cải tạo, thì chỉ có thể
xét được trình độ văn hóa chung của con người” [4, 27].
Trong “Bản thảo kinh tế triết học” năm 1844, Mác không dành riêng một
chương nào, một phần nào để nói về văn hóa. Song, những luận giải của Mác về
con người, về bản chất con người, về tồn tại, về hoạt động con người ... đã cho
thấy đây là tác phẩm đầu tiên Mác đưa ra quan niệm độc đáo về văn hóa. Đó là
quan niệm coi văn hóa là toàn bộ những thành quả, cả vật chất lẫn tinh thần,
được tạo ra nhờ hoạt động lao động sáng tạo của con người là “ thế giới thứ hai”
– tức thế giới tự nhiên đã được cải biến, đã được đối tượng hóa, nhân hóa, mang
ý nghĩa và nội dung con người; là “tác phẩm của con người”; là phương thức
đặc thù của con người – phương thức mà con người sáng tạo ra những sản phẩm
vật chất và tinh thần ngày một hoàn hảo hơn nhằm đáp ứng ngày một tốt hơn,
đời sống vật chất và tinh thần ngày một đa dạng, phong phú của chính họ và để
họ ngắm nhìn mình trong cái thế giới do chính họ tạo ra.
Mác cho rằng, với tư cách “tác phẩm” của con người, thực tại của con

người, văn hóa chính là phương thức hoạt động đặc thù của con người nhằm
biến đổi hiện thực khách quan cũ, tạo ra hiện thực khách quan mới theo các quy


8
luật của cái đẹp. Mác viết: “Cố nhiên con vật cũng sản xuất, nhưng con vật chỉ
sản xuất một cách phiến diện, trong khi con người sản xuất một cách toàn diện;
con vật sản xuất vì bị chi phối bởi nhu cầu thể xác trực tiếp, còn con người sản
xuất ngay cả khi không bị nhu cầu thể xác ràng buộc và chỉ khi không bị nhu
cầu đó ràng buộc thì con người mới sản xuất theo ý nghĩa chân chính của nó;
con vật chỉ sản xuất bản thân nó, còn con người thì tái sản xuất ra toàn bộ giới tự
nhiên; sản phẩm của con vật trực tiếp gắn với cơ thể thể xác nó, còn con người
thì đối diện một cách tự do với sản phẩm của mình. Con vật chỉ xây dựng theo
kích thích và nhu cầu của loài của nó, còn con người có thể sản xuất theo kích
thước của bất cứ loài nào và ở đâu cũng biết vận dụng bản chất cố hữu của mình
vào đối tượng; do đó con người cũng xây dựng theo các quy luật của cái đẹp”
[8,137].
Có thể nói trong quan niệm của Mác, văn hóa chính là khái niệm phản
ánh tính đặc thù của hoạt động con người và sự tồn tại của con người nói chung
trong thế giới. Văn hóa là khái niệm phản ánh việc con người tự ý thức về vai
trò độc lập của mình, về khả năng lao động sáng tạo của mình trong thế giới
hiện thực. Bằng hoạt động lao động sản xuất của mình, con người không chỉ cải
tạo tự nhiên, cải tạo xã hội, mà còn cải tạo chính bản thân mình. Trong qúa trình
đó con người ngày càng nhận thức một cách rõ ràng sức mạnh sản xuất xã hội
của lao động và họ cũng ngày càng ý thức đầy đủ hơn năng lực sáng tạo đích
thực của chính mình. Bằng cách đó với sự tồn tại của chính mình trong thế giới
hiện thực, con người đã xác định được ranh giới phân biệt phương thức hoạt
động sống của mình với phương thức hoạt động sinh tồn của loài vật đó là “văn
hóa”.
Văn hóa thể hiện sức mạnh xã hội của hoạt động lao động sản xuất của

con người. Còn hoạt động lao động sản xuất của con người với tư cách là năng
lực sáng tạo của con người – năng lực tạo ra toàn bộ sự phong phú của tồn tại
đích thực của con người, quan hệ của con người với thế giới tự nhiên xung
quanh, quan hệ của con người với con người trong cộng đồng xã hội lại trở
thành cội nguồn của văn hóa. Vì vậy, nội dung thực sự của văn hóa không chỉ
thể hiện ra ở hoạt động lao động sản xuất của con người, mà còn ở sự phát triển


9
của bản thân con người trong toàn bộ tính đa dạng, tính chỉnh thể của sự tồn tại
xã hội của nó, ở sự phát triển toàn diện và bồi dưỡng con người cả về thể xác lẫn
tâm hồn, cả việc giáo dục đạo đức lẫn việc nâng cao năng lực trí tuệ của con
người. Với nghĩa đó, văn hóa một khi được hiểu là phương thức hoạt động sống
của con người thì đó không phải chỉ là hoạt động lao động sản xuất nhằm tạo ra
những vật phẩm thiết yếu cho cuộc sống con người, mà còn là hoạt động của
con người trong lĩnh vực giáo dục và khai sáng - hoạt động tinh thần.
Mác cho rằng: “Văn hóa là một hình thái ý thức xã hội phản ánh thực
trạng xã hội và những quan hệ xã hội nhất định trong sự sản xuất xã hội về đời
sống của mình” [5,29].
Văn hóa được thể hiện trong bản chất của con người, trong mối quan hệ
giũa con người với con người. Chỉ có con người, xã hội loài người – với tư cách
là động lực có ý thức, sống và hoạt động trên cơ sở sự hiểu biết về bản thân và
về đối tượng được nó tác động tới; nó lựa chọn một cách có ý thức, tự hiểu, tự
chịu trách nhiệm về mục tiêu, thái độ và hành vi của mình trong quan hệ với bản
thân và với đối tượng. Vì vậy, bản chất con người còn hiện hình ở bình diện tinh
thần của đời sống. Do đó, văn hóa không chỉ là máy móc, nhà cửa, tác phẩm
nghệ thuật, tri thức, khoa học mà còn là những phẩm chất của bản thân con
người đạt tới trình độ phát triển tinh thần nhất định, có được kỹ năng, kỹ xảo, tri
thức tương ứng cần thiết cho hoạt động sáng tạo.
Qua sự trình bày trên chúng ta có thể thấy: Văn hóa tồn tại là nhờ sự tồn

tại của con người, nhờ những hoạt động của con người, trong đó có cả sản xuất
vật chất và tinh thần. Văn hóa là toàn bộ những thành quả được tạo ra nhờ hoạt
động sống của con người.
1.1.2.2 Văn hóa theo quan niệm của Lênin
Kế thừa và phát triển những luận điểm của Mác – Ăngghen trong giai
đoạn mới, Lênin coi văn hóa là một hình thái ý thức xã hội đặc thù, có khả năng
vừa tác động đến lý trí, vừa tác động trực tiếp đến tâm hồn tình cảm của con
người. Văn hóa là nguồn gốc của đời sống xã hội, gắn liền với quá trình lao
động và đấu tranh với con người. Ngay từ buổi đầu bình minh của lịch sử, văn
hóa đã hình thành từ lao động do nhu cầu phát triển của xã hội.


10
Lênin đã khẳng định: “Văn nghệ không có gì khác hơn là tấm gương của
đời sống xã hội và thiên nhiên. Đời sống là nguồn của mọi giá trị văn nghệ”
[5,6]. Song cũng như các hình thái ý thức xã hội khác, văn hóa không phải là
một tấm gương thụ động mà nó tác động mạnh trở lại đời sống xã hội. Bằng các
hình tượng nghệ thuật phản ánh chân lý cuộc sống, văn hóa tác động nâng cao
nhận thức, tư tưởng, tình cảm con người, hướng họ vào những hoạt động cao
đẹp.
Khi nói về văn hóa, Lênin đã nhấn mạnh đến yếu tố đạo đức, coi đạo đức
cộng sản là yếu tố hợp thành văn hóa tinh thần của giai cấp vô sản. Lênin cho
rằng: Văn hóa và đạo đức không phải là cái gì đó nảy sinh từ hư vô, chúng có
nguồn gốc khách quan và chủ quan xác định. Lênin nói: “Đạo đức của chúng ta
là từ những lợi ích cuộc đấu tranh giai cấp vô sản mà ra” [9,12]. Điều đó có
nghĩa là thực tiễn cách mạng của giai cấp công nhân đã sản sinh ra một nội dung
khách quan của đạo đức cộng sản được biểu hiện dưới hình thức chủ quan là ý
thức và hành vi đạo đức của những người tham gia vào hoạt động thực tiễn cách
mạng, được tạo nên bằng giáo dục và rèn luyện thường xuyên. Đạo đức cộng
sản sinh thành, vận hành, phát triển và hoàn thiện của cuộc cách mạng của giai

cấp vô sản. Mỗi thành công hay thất bại của cuộc cách mạng này đều đem lại sự
thăng trầm cho đạo đức cộng sản. Thắng lợi của cuộc cách mạng vô sản do giai
cấp công nhân thực hiện là tất yếu. Do vậy, đạo đức cộng sản cũng tất yếu hoàn
thiện, tồn tại một cách phổ biến trong đời sống đạo đức của loài người.
Đạo đức cộng sản là yếu tố hợp thành văn hóa tinh thần của giai cấp vô
sản mà văn hóa vô sản không phải do những nhà chuyên gia văn hóa vô sản
sáng tạo ra, mà phải là sự phát triển hợp quy luật của tổng số những kiến thức
mà loài người đã tích lũy được trong các xã hội trước: “Văn hóa vô sản không
phải bỗng nhiên mà có, nó phải do những người tự cho mình là chuyên gia về
văn hóa vô sản phát minh ra. Đó hoàn toàn là điều ngu ngốc. Văn hóa vô sản
phải là sự phát triển hợp quy luật của tổng số những kiến thức mà loài người đã
tích lũy được dưới ách thống trị của xã hội tư bản, xã hội của bọn địa chủ và xã
hội của bọn quan liêu” [2,177].


11
Do vậy, theo Lênin “sự phát triển hợp quy luật” của đạo đức cộng sản là ở
chỗ nó là quá trình kế thừa và phát triển toàn bộ các giá trị đạo đức của nhân
loại. Khi phát triển đạo đức của mình, giai cấp công nhân, như Lênin đã chỉ rõ,
chủ trương chắt lọc “chỉ lấy những thành phần dân chủ và xã hội chủ nghĩa của
mỗi nền văn hóa tư sản với chủ nghĩa dân tộc” [9,13], tức là chỉ tuyệt đối giữ lại
các giá trị bình đẳng, cộng đồng và nhân đạo làm nên đạo đức của riêng mình.
Lênin khẳng định: “Người ta chỉ có thể trở thành người cộng sản sau khi
đã làm giàu trí óc của mình bằng sự hiểu biết tất cả những kho tàng tri thức mà
nhân loại đã tạo ra” [36,178], chắt lọc trong đó những giá trị cao đẹp, những cái
cần thiết “để đạt được một nền giáo dục cộng sản chủ nghĩa chân chính”. Cái
cần thiết mà Lênin nói ở đây là các giá trị bình đẳng, cộng đồng và nhân đạo mà
những người lao động chân chính đã tạo ra. Và các giá trị đó là yếu tố hợp thành
cái mà Lênin gọi là cái văn hóa vô sản.
Như vậy, theo Lênin, văn hóa có cội nguồn từ lao động, nó là những giá

trị do con người làm ra. Đó không chỉ là các giá trị vật chất, các giá trị tinh thần,
mà còn là các giá trị phát triển chính bản thân con người.
1.1.3 Quan niệm văn hóa trong tư tưởng văn hóa dân tộc Việt Nam
Ở Việt Nam, từ “văn hóa” xuất hiện muộn, vào chừng đầu thế kỷ XX;
trước đó, từ “văn hiến” tương ứng với văn hóa, thấy dùng trong bài “Bình Ngô
đại cáo” do Nguyễn Trãi viết năm 1428. “Văn hiến” (văn là tốt đẹp, hiến là phép
nước) hoặc “văn hóa” (văn là tốt đẹp, hóa là biến cải) dù không ứng nhau hoàn
toàn, song đều chứa đựng sự đối lập, sự khắc phục cái nguyên thô của tự nhiên.
Văn hóa Việt Nam được hiểu và trình bày dưới các quan niệm khác nhau:
Quan niệm thứ nhất: đó là đồng nhất văn hóa Việt Nam với văn hóa
của người Việt, trình bày lịch sử văn hóa Việt Nam chỉ như là lịch sử văn minh
của người Việt.
Quan niệm thứ hai: Văn hóa Việt Nam là toàn bộ văn hóa các dân tộc Việt
Nam cư trú trên mảnh đất Việt Nam, chỉ có văn hóa từng tộc người, không có
văn hóa dân tộc.
Quan niệm thứ ba: Văn hóa Việt Nam là cộng đồng văn hóa dân tộc, đây
là nền văn hóa dân tộc thống nhất trên cơ sở đa dạng sắc thái văn hóa tộc người.
Quan niệm thứ ba này hiện nay đang là quan niệm chiếm số đông bởi các nhà


12
nghiên cứu, các nhà quản lý trong lĩnh vực văn hóa Việt Nam, vì vậy nội dung
về văn hóa Việt Nam sẽ được trình bày theo quan niệm thứ ba, văn hóa Việt
Nam theo hướng văn hóa dân tộc.
Ở Việt Nam, các nhà khoa học cũng có những quan niệm khác nhau về
văn hóa. Đào Duy Anh là người đầu tiên đưa ra ý niệm về văn hóa: “Người ta
thường cho rằng văn hóa chỉ là những học thuật tư tưởng của loài người, nhân
thế mà xem văn hóa vốn có tính chất cao thượng đặc biệt. Thực ra không phải là
như vậy. Học thuật tư tưởng cố nhiên là ở trong phạm vi của văn hóa, nhưng
phàm sự sinh hoạt về kinh tế, về chính trị, về xã hội cùng hết thảy các phong tục

tập quán tầm thường lại là không phải ở trong phạm vi văn hóa hay sao? Hai
tiếng văn hóa chẳng qua là chỉ chung tất cả các phương diện sinh hoạt của loài
người cho nên ta có thể nói rằng: Văn hóa tức là sinh hoạt” [15,4].
Trường Chinh cho rằng: “Văn hóa là một vấn đề rất lớn, bao gồm cả văn
học nghệ thuật, khoa học, triết học, phong tục, tôn giáo… Có người cho văn hóa
với văn minh là một. Nhưng trong lịch sử có nhiều dân tộc chưa có văn minh
song đã có văn hóa. Văn hóa súc tích, phát triển tới mức nào đó mới thành văn
minh” [16].
Tóm lại, theo quan niệm của dân tộc Việt Nam văn hóa là toàn bộ giá trị
vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra trong lịch sử.
1.2 Nguồn gốc hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa
1.2.1 Những nhân tố ảnh hưởng tới việc hình thành tư tưởng Hồ Chí
Minh về văn hóa
1.2.1.1 Giá trị văn hóa truyền thống dân tộc
Dân tộc Việt Nam trong hàng ngàn năm lịch sử dựng nước và giữ nước đã
tạo lập cho mình một nền văn hóa riêng, phong phú và bền vững với những
truyền thống tốt đẹp và cao quý. Đó là nền tảng cơ bản đầu tiên hình thành nên
tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa.
Trước hết, đó là chủ nghĩa yêu nước và ý chí kiên cường trong đấu tranh
dựng nước và giữ nước. Chủ nghĩa yêu nước là chuẩn mực cao nhất trong bảng
giá trị văn hóa – tinh thần Việt Nam. Mọi học thuyết đạo đức, tôn giáo từ nước
ngoài du nhập vào Việt Nam đều được tiếp nhận khúc xạ qua lăng kính của tư
tưởng yêu nước đó.


13
Thứ hai, là tinh thần nhân nghĩa, truyền thống đoàn kết, tương thân, tương
ái. Đó là “nền văn hóa nhân văn, trọng tình, trọng nghĩa, khoan dung và hòa
nhập, lấy tình cảm làm nguyên tắc ứng xử” [25,156]. Truyền thống này cũng
hình thành cùng với sự hình thành dân tộc, từ hoàn cảnh và nhu cầu đấu tranh

quyết liệt với thiên nhiên và với giặc ngoại xâm. Bước sang thế kỷ XX, mặc dù
xã hội Việt Nam đã có sự biến đổi sâu sắc về cơ cấu giai cấp – xã hội, nhưng
truyền thống này vẫn bền vững. Hồ Chí Minh đã kế thừa, phát huy sức mạnh
của truyền thống nhân nghĩa, đoàn kết, tương thân tương ái thể hiện tập trung
trong bốn chữ “đồng” (đồng tình, đồng sức, đồng lòng, đồng minh).
Thứ ba, dân tộc Việt Nam là một dân tộc có truyền thống lạc quan, yêu
đời. Tinh thần lạc quan đó có cơ sở từ niềm tin vào sức mạnh của bản thân mình,
tin vào sự tất thắng của chân lý, chính nghĩa. Hồ Chí Minh là hiện thân của
truyền thống lạc quan đó.
Thứ tư, dân tộc Việt Nam là dân tộc cần cù, dũng cảm, thông minh, sáng
tạo, ham học hỏi và mở rộng cửa đón nhận tinh hoa văn hóa của nhân loại.
Người Việt Nam từ xưa đã rất xa lạ với đầu óc hẹp hòi, thói bài ngoại cực đoan.
Trên cơ sở giữ vững bản sắc của dân tộc, nhân dân ta đã biết chọn lọc, tiếp thu,
cải biến những cái hay, cái tốt, cái đẹp của người thành những giá trị riêng của
mình. Hồ Chí Minh là hình ảnh sinh động và trọn vẹn của truyền thống đó.
Hồ Chí Minh đã sớm khai thác và tiếp thu những giá trị truyền thống của
dân tộc một cách chọn lọc. Người kế thừa một cách tinh túy, sáng tạo chứ không
phải là sự sao chép, rập khuôn một cách máy móc.
Tóm lại, Hồ Chí Minh kế thừa từ truyền thống văn hóa dân tộc tinh thần
khoan dung, lối sống giản dị, … Sự kế thừa và phát huy của Hồ Chí Minh càng
làm cho nền văn hóa Việt Nam ngày thêm phong phú đa dạng và trở thành bộ
phận không thể thiếu của văn hóa nhân loại.
1.2.1.2 Tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại
Hồ Chí Minh xuất thân trong gia đình khoa bảng, từ nhỏ Người đã được
hấp thụ một nền Quốc học và Hán học khá vững vàng. Khi ra nước ngoài,
Người có thể viết văn Anh, văn Pháp sắc sảo như một nhà báo phương Tây thực
thụ, nhưng khi có nhu cầu “tự bạch” thì Người làm thơ bằng chữ Hán. Chính


14

điều đó tạo điều kiện cho Người tiếp thu được tinh hoa văn hóa nhân loại và làm
nên nét đặc sắc ở Hồ Chí Minh, một con người biểu tượng cho sự kết hợp hài
hòa văn hóa Đông – Tây.
a)Tư tưởng văn hóa phương Đông:
Nho giáo: Nho giáo có những yếu tố duy tâm, lạc hậu, nhưng Nho giáo
cũng có nhiều yếu tố tích cực, nên có ảnh hưởng khá lâu dài trong lịch sử. Đó là
triết lý hành động, tư tưởng nhập thế, hành đạo, giúp đời; lý tưởng về một xã hội
bình trị; triết lý nhân sinh: tu thân dưỡng tính góp phần đề cao văn hóa, lễ giáo,
đề cao tinh thần hiếu học.
Hồ Chí Minh đã khai thác Nho giáo, lựa chọn những yếu tố tích cực, phù
hợp để phục vụ cho nhiệm vụ cách mạng. Người nói: “Khẩu hiệu học không biết
chán, dạy không biết mỏi treo trong phòng họp chính là của Khổng Tử. Khổng
Tử là phong kiến và tuy trong học thuyết của Khổng Tử có nhiều điều không
đúng, song những điều hay trong đó thì chúng ta nên học” [20,46].
Phật giáo: Phật giáo là một trong những tôn giáo du nhập vào Việt Nam
khá sớm. Những mặt tích cực của Phật giáo đã để lại những dấu ấn sâu sắc trong
tư duy, hành động, cách ứng xử của con người Việt Nam.
Phật giáo có tư tưởng vị tha, từ bi, bác ái, cứu khổ, cứu nạn, thương người
như thể thương thân; xây dựng nếp sống có đạo đức, trong sạch, giản dị, chăm lo
làm điều thiện; đề cao tinh thần bình đẳng, tinh thần dân chủ chất phác chống lại
mọi phân biệt đẳng cấp. Phật giáo Thiền tông coi trọng lao động, chống lười
biếng.
Phật giáo vào Việt Nam, gặp chủ nghĩa yêu nước, ý chí độc lập, tự chủ đã
hình thành nên Thiền phái trúc lâm Việt Nam, chủ trương không xa đời mà sống
gắn bó với nhân dân, với đất nước, tham gia vào cộng đồng, vào cuộc đấu tranh
của nhân dân chống kẻ thù dân tộc.
Phật giáo Việt Nam đã đi vào đời sống tinh thần dân tộc và nhân dân lao
động, để lại dấu ấn sâu sắc trong tư tưởng Hồ Chí Minh.
Hồ Chí Minh cũng nghiên cứu và thấu hiểu tư tưởng của các nhà tư tưởng
phương Đông như Lão tử, Mặc tử, Quản tử... Khi đã trở thành người mácxít, Hồ

Chí Minh vẫn tìm hiểu thêm về chủ nghĩa Tam dân của Tôn Trung Sơn. Hồ Chí
Minh đã biết khai thác những yếu tố tích cực của tư tưởng và văn hóa phương
Đông để phục vụ cho sự nghiệp cách mạng của Người.


15
b)Tư tưởng và văn hóa phương Tây:
Ngay từ khi còn học ở Trường tiểu học Đông Ba rồi vào Trường Quốc
học Huế, Hồ Chí Minh đã làm quen với văn hóa Pháp. Đặc biệt, Người rất ham
mê môn lịch sử, và say sưa tìm hiểu cuộc Đại cách mạng Pháp 1789.
Khi xuất dương, Người đã từng sang Mỹ, đến sống ở New York, làm thuê
ở Béclin và thường đến thăm khu Haclem của người da đen. Người thường suy
nghĩ về tự do, độc lập, quyền sống của con người... được ghi trong Tuyên ngôn
độc lập 1776 của nước Mỹ.
Đến Pháp, Hồ Chí Minh được tiếp xúc trực tiếp với tác phẩm của các nhà
tư tưởng khai sáng như: Tinh thần pháp luật của Môngtétxkiơ, Khế ước xã hội
của Rútxô... Tư tưởng dân chủ của các nhà khai sáng đã có ảnh hưởng lớn tới tư
tưởng của Người.
Hồ Chí Minh hình thành phong cách dân chủ của mình từ trong cuộc sống
thực tiễn. Người học được cách làm việc dân chủ trong cách sinh hoạt khoa học
ở Câu lạc bộ Phôbua, trong sinh hoạt chính trị của Đảng xã hội Pháp.
Tóm lại, nhờ sự thông minh, óc quan sát, ham học hỏi và được rèn luyện
trong phong trào công nhân Pháp, trên hành trình cứu nước Hồ Chí Minh đã biết
làm giàu trí tuệ của mình bằng vốn trí tuệ của thời đại, của văn hóa Đông, Tây,
từ tầm cao của tri thức nhân loại mà suy nghĩ và lựa chọn, kế thừa và đổi mới,
vận dụng và phát triển. Người dẫn lời của Lênin: “Chỉ có những người cách
mạng chân chính mới thu hái được những hiểu biết quý báu của các đời trước để
lại” [20,46]. “Hồ Chí Minh đã tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại như việc Mác
đã tiếp thu hạt nhân biện chứng trong triết học Hêghen [25,212].
1.2.1.3 Tiếp thu tư tưởng văn hóa của chủ nghĩa Mác – Lênin

Tác động của mối quan hệ biện chứng giữa cá nhân với dân tộc và thời
đại đã đưa Hồ Chí Minh đến với Chủ nghĩa Mác – Lênin, từ người yêu nước trở
thành người cộng sản. Nhờ có thế giới quan và phương pháp luận của chủ nghĩa
Mác – Lênin, Hồ Chí Minh đã hấp thụ và chuyển hóa được những nhân tố tích
cực và tiến bộ của truyền thống dân tộc cũng như của tư tưởng – văn hóa nhân
loại để tạo nên hệ thống tư tưởng của mình. Vì vậy, tư tưởng Hồ Chí Minh thuộc
hệ tư tưởng Mác – Lênin, những phạm trù cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh
nằm trong những phạm trù cơ bản của lý luận Mác – Lênin.


16
Sở dĩ, Hồ Chí Minh đã lựa chọn các nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác
- Lênin, vận dụng sáng tạo và phát triển trên một loạt luận điểm cơ bản hình
thành nên tư tưởng Hồ Chí Minh có nguyên nhân sâu xa là:
Khi đi tìm đường cứu nước, ở tuổi hai mươi, Hồ Chí Minh đã có một vốn
học vấn chắc chắn, một năng lực trí tuệ sắc sảo. Nhờ vậy Người quan sát, phân
tích, tổng kết một cách độc lập tự chủ và sáng tạo; không rơi vào sao chép, giáo
điều, rập khuôn; tiếp thu và vận dụng chủ nghĩa Mác – Lênin một cách sáng tạo,
phù hợp với hoàn cảnh và điều kiện cụ thể của Việt Nam.
Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Mác – Lênin là để tìm đường cứu nước,
giải phóng dân tộc, tức là từ nhu cầu thực tiễn của cách mạng Việt Nam. Chính
Người đã viết: “Lúc đầu, chính là chủ nghĩa yêu nước, chứ chưa phải chủ nghĩa
cộng sản đã đưa tôi tin theo Lênin, tin theo Quốc tế III” [15,28]. Nhờ Lênin,
người đã tìm thấy “Con đường giải phóng chúng ta” và từ Lênin, Người đã trở
lại nghiên cứu Mác sâu sắc hơn.
Hồ Chí Minh đã tiếp thu lý luận Mác – Lênin theo phương pháp nhận
thức mácxít, cốt nắm lấy cái tinh thần, cái bản chất chứ không tự trói buộc trong
cái vỏ ngôn từ. Người vận dụng lập trường, quan điểm và phương pháp của chủ
nghĩa Mác – Lênin để tự tìm ra những chủ trương, giải pháp, đối sách phù hợp
với từng hoàn cảnh cụ thể, từng thời kỳ cụ thể của cách mạng Việt Nam chứ

không đi tìm những kết luận có sẵn trong sách vở kinh điển.
1.2.1.4 Phẩm chất cá nhân của Hồ Chí Minh
Trước hết, đó là tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo, cộng với đầu óc phê
phán tinh tường, sáng suốt trong nghiên cứu, tìm hiểu. Đó là sự khổ công học
tập nhằm chiếm lĩnh vốn tri thức phong phú của thời đại, vốn kinh nghiệm đấu
tranh của phong trào giải phóng dân tộc, phong trào công nhân quốc tế.
Đó là ý chí của một nhà yêu nước, một chiến sĩ cộng sản nhiệt thành cách
mạng, một trái tim yêu nước, thương dân, thương yêu những người cùng khổ
sẵn sàng chịu đựng những hy sinh cao nhất vì độc lập của Tổ quốc, vì tự do,
hạnh phúc của đồng bào.
Chính những phẩm chất cá nhân cao đẹp đó đã quyết định việc Hồ Chí
Minh tiếp nhận, chọn lọc, chuyển hóa phát triển những tinh hoa của dân tộc và
thời đại thành tư tưởng đặc sắc của mình.


17
Như vậy, tư tưởng Hồ Chí Minh là sự tổng hòa của những điều kiện
khách quan và chủ quan, của truyền thống văn hóa dân tộc và tinh hoa văn hóa
nhân loại, thực tiễn dân tộc và thời đại. Tư tưởng Hồ Chí Minh đã trở thành tư
tưởng Việt Nam hiện đại.
1.2.2 Nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa
Chủ tịch Hồ Chí Minh là người con của dân tộc Việt Nam, những cống
hiến lớn lao của Người về văn hóa đã được cả thế giới biết đến và để lại những
dấu ấn không thể phai mờ trong quá trình phát triển của nhân loại cũng như của
dân tộc. Hồ Chí Minh, “Người đã đem lại ánh sáng, ánh sáng văn hóa, ánh sáng
cách mạng cho nhân dân ta và góp phần đem lại ánh sáng cho nhân dân nhiều
nước khác, để xua tan bóng tối của chủ nghĩa thực dân, đế quốc, của dốt nát, đói
nghèo, bệnh tật đè nặng lên cuộc sống của các dân tộc bị áp bức” [27,43].
1.2.2.1 Quan điểm của Hồ Chí Minh về vị trí, vai trò của văn hóa
Mang trong mình truyền thống văn hoá phương Đông lại được tiếp thu

những tinh hoa của các nền văn minh trên thế giới, Hồ Chí Minh đã đúc kết
quan điểm của mình về văn hoá trong nhận định: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục
đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết,
đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho
sinh hoạt hàng ngày về ăn, mặc, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những
sáng tạo và phát minh đó tức là văn hoá. Văn hoá là sự tổng hợp của mọi
phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra.
Nhằm thích ứng với những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn”
[17,431].
Quan điểm trên của Hồ Chủ tịch đã khái quát được nội dung rộng nhất
của phạm trù văn hoá. Nó không chỉ bao hàm hoạt động tinh thần của con người
mà còn cả những hoạt động vật chất mà trong đó chứa đựng, phản ánh tác động
của tư duy đến kết quả của hoạt động. Đồng thời chỉ ra nguồn gốc động lực sâu
xa của văn hoá đó là nhu cầu sinh tồn của con người với tư cách là chủ thể hoạt
động của đời sống xã hội – một hoạt động khác hẳn với hoạt động sinh tồn bầy
đàn của các loài động vật. Theo ý nghĩa này, chất văn hoá được hàm chứa trong


18
mọi lĩnh vực hoạt động kể cả hoạt động tinh thần và hoạt động vật chất cùng với
các giá trị vật chất và tinh thần mà con người tạo ra trong hoạt động của mình.
Từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, “văn hóa được Hồ Chí minh xác
định là đời sống tinh thần của xã hội, là thuộc về kiến trúc thượng tầng. Văn hóa
có mối quan hệ mật thiết với kinh tế, chính trị và xã hội” [1,185].
Văn hóa có vai trò rất to lớn đối với sự phát triển của xã hội. Văn hóa
không đứng ngoài sự phát triển của xã hội mà là yếu tố nội sinh của sự phát
triển, là động lực phát triển xã hội. Tổng bí thư Lê Khả Phiêu đã khẳng định:
“nhờ nền tảng và sức mạnh văn hóa ấy dù có nhiều thời kỳ bị đô hộ, dân tộc ta
vẫn giữ vững và phát huy bản sắc của mình, chẳng những không bị đồng hóa mà
còn quật cường đứng dậy giành lại độc lập cho dân tộc, lấy sức ta mà giải phóng

cho ta” [28,6].
Như vậy, văn hóa cách mạng ảnh hưởng đến mọi mặt của đời sống xã hội,
có quan hệ quyết định đến sự thành bại của sự nghiệp cách mạng.
1.2.2.2 Quan điểm của Hồ Chí Minh về tính chất của văn hóa mới
Hồ Chí Minh rất quan tâm tới việc xây dựng nền văn hóa mới, coi đó là
một trong những nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng. Ngay sau khi nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hoà ra đời, Hồ Chí Minh đã bắt tay ngay vào việc xây dựng
một nền văn hoá mới. Tại phiên họp đầu tiên của Chính phủ Lâm thời do Người
chủ trì (3–9–1945), đã nêu rõ 6 nhiệm vụ cấp bách, trong đó có nhiệm vụ xây
dựng nền văn hoá mới. Nhiều vấn đề về văn hoá đã được đặt ra và giải quyết
trong những ngày đầu của chính quyền cách mạng, như giải quyết nạn dốt, giáo
dục nhân dân tinh thần cần, kiệm, liêm, chính; cấm hút thuốc phiện, lương giáo
đoàn kết và tự do tín ngưỡng… Như vậy nền văn hoá mới ra đời đã gắn liền với
nước Việt Nam mới. Nền văn hóa Việt Nam trong thời kì kháng chiến chống
thực dân Pháp là nền văn hóa kháng chiến, kiến quốc, nền văn hoá dân chủ mới.
Khi miền Bắc bước vào thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội, nền văn hóa được
xây dựng là nền văn hóa xã hội chủ nghĩa.
Mặc dù có nhiều cách diễn đạt khác nhau, song nền văn hoá mới mà
chúng ta xây dựng theo Hồ Chí Minh luôn bao hàm ba tính chất: dân tộc, khoa
học và đại chúng.


19
Tính chất dân tộc của nền văn hóa: là cái “cốt”, cái tinh tuý bên trong rất
đặc trưng của nền văn hoá dân tộc. Nó là “căn cước” của một dân tộc, để phân
biệt không nhầm lẫn với văn hoá của dân tộc khác. Người cho rằng, để được như
vậy, phải “trau dồi cho văn hóa, văn nghệ có tinh thần thuần túy Việt Nam”,
phải “lột tả cho hết tinh thần dân tộc”. Đó là chủ nghĩa yêu nước, khát vọng độc
lập, tự lực tự cường, đoàn kết; nhân nghĩa… của dân tộc. Người cho rằng, “nếu
dân tộc hóa mà phát triển đến cực điểm thì tức là đến chỗ thế giới hóa nó, vì lúc

bấy giờ văn hóa thế giới sẽ phải chú ý đến văn hóa của mình và văn hóa của
mình sẽ chiếm được địa vị ngang với các nền văn hoá thế giới” [38]. Tính dân
tộc của nền văn hoá không phải “nhất thành bất biến”, không chỉ thể hiện ở chỗ
biết giữ gìn, kế thừa, phát huy những truyền thống tốt đẹp của dân tộc, mà còn
phải phát triển những truyền thống tốt đẹp ấy cho phù hợp với điều kiện lịch sử
mới của đất nước.
Tính chất khoa học của nền văn hóa, thể hiện ở tính hiện đại, tiên tiến,
thuận với trào lưu tiến hoá của thời đại, đó là hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ
và tiến bộ xã hội. Tính khoa học của văn hóa đòi hỏi phải đấu tranh chống cái
sai trái, phản khoa học, phản tiến bộ, chống lại chủ nghĩa duy tâm thần bí, mê
tín… đồng thời truyền bá tư tưởng Mácxit, biết kế thừa truyền thống dân tộc và
tiếp thu văn hoá nhân loại.
Tính chất đại chúng của nền văn hóa, được thể hiện ở chỗ nền văn hoá ấy
phục vụ nhân dân, phù hợp với nguyện vọng nhân dân; là nền văn hoá do nhân
dân xây dựng nên. Hồ Chí Minh nói: “văn hoá phục vụ ai? Cố nhiên, chúng ta
phải nói là phục vụ công binh, tức là phục vụ đại đa số nhân dân”; “Quần chúng
là những người sáng tạo, công nông là những người sáng tạo. Nhưng quần
chúng không chỉ sáng tạo ra những của cải vật chất cho xã hội. Quần chúng còn
là người sáng tác nữa” [22, 249-250].
1.2.2.3 Quan điểm của Hồ Chí Minh về chức năng của văn hóa
Chức năng của văn hoá mới rất phong phú, đa dạng, Hồ Chí Minh đã chỉ
rõ ba chức năng chủ yếu của văn hóa:
Một là, bồi dưỡng tư tưởng đúng đắn và tình cảm cao đẹp. Tư tưởng và
tình cảm là hai vấn đề chủ yếu nhất của đời sống tinh thần của con người. Tư


20
tưởng có thể đúng đắn hoặc sai lầm, tình cảm có thể thấp hèn hoặc cao đẹp.
Chức năng cao quý nhất của văn hóa là phải bồi dưỡng, nêu cao tư tưởng đúng
đắn và tình cảm cao đẹp cho nhân dân, đồng thời loại bỏ những sai lầm, thấp

hèn có thể có trong tư tưởng, tình cảm của mỗi người. Tư tưởng và tình cảm rất
phong phú, văn hóa phải đặc biệt quan tâm tới bồi dưỡng tư tưởng và tình cảm
lớn chi phối đời sống tinh thần của mỗi con người và cả dân tộc cụ thể:
Bồi dưỡng lý tưởng cách mạng cao cả độc lập dân tộc gắn liền với chủ
nghĩa xã hội. Lý tưởng là điểm hội tụ của những tư tưởng lớn của một Đảng,
một dân tộc. “Nền văn hóa mới của Việt Nam phải lấy hạnh phúc của nhân dân,
của dân tộc làm cơ sở; phải học lấy những điều tốt đẹp của văn hóa nước ngoài
tạo ra nền văn hóa Việt Nam, sao cho văn hóa mới phải sửa đổi được tham
nhũng, lười biếng, phù hoa, xa xỉ, phải làm cho ai cũng có lý tưởng tự chủ, độc
lập” [31,342]. Một khi lý tưởng này phai nhạt thì không thể nói đến thắng lợi
của sự nghiệp cách mạng. Chính vì vậy, Hồ Chí Minh đã chỉ ra chức năng hàng
đầu của văn hoá là phải làm thế nào cho ai cũng có tinh thần vì nước quên mình,
vì lợi chung mà quên lợi ích riêng.
Bồi dưỡng tình cảm lớn là lòng yêu nước, thương dân, thương yêu con
người, yêu tính trung thực, chân thành thuỷ chung, ghét những thói hư tật xấu,
… Tình cảm đó thể hiện trong nhiều mối quan hệ với gia đình, với quê hương,
với bạn bè, anh em, đồng chí… thông qua các mối quan hệ tốt đẹp. Tư tưởng và
tình cảm có mối quan hệ gắn bó với nhau, làm cho con người ngày càng hoàn
thiện. Văn hoá phải góp phần xây đắp niềm tin cho con người, tin vào bản thân,
tin vào lý tưởng, tin vào nhân dân và tin vào tiền đồ của cách mạng.
Hai là, mở rộng hiểu biết, nâng cao dân trí:
Nói đến văn hoá phải nói đến dân trí. Đó là trình độ hiểu biết, là vốn kiến
thức của người dân. Nâng cao dân trí phải dần dần từng bước một, từ thấp đến
cao, phải bắt đầu từ chỗ biết đọc, biết viết, đến hiểu biết các lĩnh vực khác của
đời sống xã hội như: kinh tế. chính trị, lịch sử,… từng bước nâng cao trình độ
học vấn, chuyên môn nghiệp vụ, khoa học – kĩ thuật, thực tiễn Việt Nam và thế
giới… Vấn đề nâng cao dân trí thực sự chỉ có thể thực hiện sau khi chính trị đã
được giải phóng, toàn bộ chính quyền đã về tay nhân dân.



21
Tùy từng giai đoạn cách mạng mà mục tiêu nâng cao dân trí của văn hoá
có những điểm chung và riêng, nhưng xuyên suốt là vì mục tiêu độc lập dân tộc
và chủ nghĩa xã hội, vì “phải biến một nước dốt nát, cực khổ thành một nước có
văn hóa cao và đời sống tươi vui hạnh phúc” [21,494]. Nâng cao dân trí là để
nhân dân có thể tham gia sáng tạo và hưởng thụ văn hoá, góp phần cùng Đảng
“biến một nước dốt nát cực khổ thành một nước có văn hoá cao và đời sống tươi
vui hạnh phúc”. Đó cũng là mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng
dân chủ và văn minh” mà Đảng ta đã vạch ra trong công cuộc đổi mới.
Ba là, bồi dưỡng những phẩm chất, phong cách và lối sống tốt đẹp, lành
mạnh, hướng con người tới cái chân, thiện, mỹ để hoàn thiện bản thân.
Phẩm chất và phong cách được hình thành từ đạo đức, lối sống, từ thói
quen của cá nhân và phong tục tập quán của cả cộng đồng. Phẩm chất và phong
cách có mối quan hệ gắn bó với nhau. Mỗi người thường có nhiều phẩm chất,
trong đó có phẩm chất chung và riêng, tuỳ theo nghề nghiệp, vị trí công tác. Các
phẩm chất thường được thể hiện qua phong cách, tức là lối sinh hoạt, làm việc,
lối ứng xử trong đời sống… Căn cứ vào yêu cầu của nhiệm vụ cách mạng, Hồ
Chí Minh đã đề ra những phẩm chất và phong cách cần thiết để mỗi người tự tu
dưỡng. Đối với cán bộ, đảng viên, Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến phẩm
chất đạo đức – chính trị. Bởi vì, nếu không có những phẩm chất này thì họ
không thể hoàn thành được những nhiệm vụ cách mạng, không thể biến lý tưởng
thành hiện thực.
Những phẩm chất và phong cách tốt đẹp làm nên giá trị của con người.
Văn hoá giúp con người hình thành những phẩm chất, phong cách và lối sống tốt
đẹp, lành mạnh thông qua phân biệt cái đẹp, lành mạnh với cái xấu xa, hư hỏng,
cái tiến bộ với cái lạc hậu, bảo thủ. Từ đó giúp con người phấn đấu làm cho cái
tốt đẹp, lành mạnh ngày càng tăng, càng nhiều, cái lạc hậu, bảo thủ ngày càng
giảm, vươn tới cái chân, thiện, mĩ để hoàn thiện bản thân. Với ý nghĩa đó, Hồ
Chí Minh đã chỉ rõ: “Phải làm thế nào cho văn hoá thấm sâu vào tâm lí quốc
dân, nghĩa là làm cho văn hoá phải sửa đổi được những tham nhũng, lười biếng,

phù hoa, xa xỉ, văn hoá phải soi đường cho quốc dân đi” [29,64].


×