Tải bản đầy đủ (.doc) (72 trang)

Quan niệm về đại đoàn kết của Hồ Chí Minh và vận dụng tư tưởng đó trong giáo dục tinh thần đoàn kết cho sinh viên trường ĐH Sư phạm – ĐHĐN hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (345.17 KB, 72 trang )

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Đoàn kết là một truyền thống quý báu của dân tộc Việt Nam. Trải qua
hàng nghìn năm lịch sử dựng nước và giữ nước, người dân Việt Nam đã phải
chống lại rất nhiều kẻ thù xâm lược và đang đưa đất nước bước sang thời ky
mới. Để đạt được những thành tựu như vậy toàn dân tộc Việt Nam đã đồng
sức đồng lòng cùng nhau vượt qua khó khăn, đã đánh bại những kẻ thù mạnh
hơn mình gấp nhiều lần như: quân Nguyên Mông, thực dân Pháp, đế quốc
Mỹ,…
Từ truyền thống của dân tộc và thực tiễn cách mạng Việt Nam, Hồ Chi
Minh đã xây dựng thành tư tưởng của mình về đại đoàn kết dân tộc. Tư tưởng
đại đoàn kết toàn dân tộc của Chủ tịch Hồ Chi Minh là một tư tưởng cơ bản,
nhất quán và xuyên suốt, là chiến lược tập hợp lực lượng đấu tranh với kẻ thù
dân tộc và giai cấp trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của Người.
Người đã sử dụng khoảng 2.000 lần cụm từ "đoàn kết", "đại đoàn kết" trong
các văn bản viết. Người luôn luôn nhận thức đại đoàn kết toàn dân tộc là vấn
đề sống còn, quyết định sự thành công của cách mạng.
Sau khi giành được độc lập dân tộc, tại nhiều hội nghị, Chủ tịch Hồ Chi
Minh luôn luôn nhấn mạnh sức mạnh của đoàn kết: "Đoàn kết là sức mạnh,
đoàn kết là thắng lợi".
Chiến lược của Người là:
"Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết,
Thành công, thành công, đại thành công!"
Năm 1951, Hồ Chi Minh thay mặt Đảng tuyên bố trước toàn thể dân tộc
nhân buổi ra mắt Đảng Lao động Việt Nam: "Mục đich của Đảng Lao động
Việt Nam có thể gồm trong 8 chữ là: Đoàn kết toàn dân, phụng sự Tổ quốc".

1


Như vậy, đoàn kết toàn dân là một đường lối lãnh đạo của Đảng. Không dừng


lại ở việc xác định đại đoàn kết là mục tiêu, Chủ tịch Hồ Chi Minh còn khẳng
định nhiệm vụ của toàn Đảng là giữ gìn sự đoàn kết. Trong Di chúc, Người
dặn lại chúng ta "Đoàn kết là một truyền thống cực ky quý báu của Đảng và
của dân ta. Các đồng chi từ Trung ương đến các chi bộ cần phải giữ gìn sự
đoàn kết nhất tri của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình".
Dân tộc Việt Nam được hiểu là mỗi người dân Việt Nam đang sinh
sống, làm ăn ở Việt Nam và những người Việt sinh sống, làm ăn ở nước ngoài
có gốc gác là người Việt Nam, không phân biệt họ là dân tộc thiểu số hay đa
số, họ theo hoặc không theo tin ngưỡng, tôn giáo, không phân biệt họ giàu
hay nghèo, họ là nam hay nữ, già hay trẻ. Đại đoàn kết toàn dân tộc có nghĩa
là phải tập hợp được mọi người dân vào một mục tiêu chung. Sinh thời Chủ
tịch Hồ Chi Minh nêu rõ: "Ta đoàn kết để đấu tranh cho thống nhất và độc lập
của Tổ quốc; ta còn phải đoàn kết để xây dựng nước nhà. Ai có tài, có đức, có
sức, có lòng phụng sự Tổ quốc và phục vụ nhân dân thì ta đoàn kết với họ".
Chinh vì vậy, ngày nay khi thế giới và đất nước đang có những bước
chuyển mau lẹ cùng với xu thế hội nhập và toàn cầu hóa, tạo ra cho đất nước
chúng ta nhiều thuận lợi để phát triển nhưng bên cạnh đó cũng đặt ra cho đất
nước chúng ta không it những khó khăn và thách thức. Và để nắm bắt được
thuận lợi và vượt qua những khó khăn thách thức để phát triển đất nước, đưa
nước ta sánh vai với các cường quốc năm châu, thì chúng ta phải phát huy
truyền thống đoàn kết và giáo dục tinh thần đoàn kết cho mọi người dân đặc
biệt là giới trẻ và các bạn sinh viên, dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt
Nam. Bởi lực lượng sinh viên nói chung và sinh viên trường Đại học Sư phạm
– Đại học Đà Nẵng nói riêng là thế hệ trẻ, chủ nhân tương lai của đất nước.
Đặc biệt là sinh viên trường Đại học Sư phạm – Đại học Đà Nẵng là những ki
sư tâm hồn, trực tiếp làm công tác giáo dục, trồng người, là những tấm gương

2



sáng cho học sinh mình noi theo. Vì vậy mà người giáo viên tương lai không
chi giỏi về nghiệp vụ chuyên môn, mà còn phải là những người có đạo đức và
phải là những người đi đầu trong công tác xây dựng khối đoàn kết toàn dân.
Việc giáo dục tinh thần đoàn kết và đưa lực lượng sinh viên nói chung
và sinh viên trường Đại học Sư phạm nói riêng tham gia vào các tổ chức của
khối đại đoàn kết toàn dân là rất cần thiết. Cũng như vận động sinh viên thực
hiện chi thị 06-CT/TW ngày 07-11-2006 của Bộ Chinh trị về tổ chức Cuộc
vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chi Minh” là một nội
dung vô cùng thiết thực và có ý nghĩa sâu sắc, góp phần hình thành những
con người vừa hồng vừa chuyên phục vụ cho Tổ quốc và phụng sự nhân dân
thực hiện thắng lợi sự nghiệp đổi mới của đất nước.
Vì vậy, em chọn đề tài: “Quan niệm về đại đoàn kết của Hồ Chí
Minh và vận dụng tư tưởng đó trong giáo dục tinh thần đoàn kết cho sinh
viên trường ĐH Sư phạm – ĐHĐN hiện nay” làm đề tài khóa luận tốt
nghiệp của mình.
2. Tình hình nghiên cứu vấn đề
Hiện nay, việc nghiên cứu học tập và vận dung tư tưởng Hồ Chi Minh
nói chung và tư tưởng đại đoàn kết dân tộc trong giáo dục tinh thần đại đoàn
kết cho toàn Đảng, Nhà nước, các tổ chức chinh trị – xã hội, lực lượng sinh
viên,…nói riêng. Đã đạt được những kết quả và được vận dụng vào thực tế
một cách có hiệu quả.
Trong đó phải kể đến các công trình nghiên cứu quan trọng như:
“Chủ tịch Hồ Chí Minh với đại đoàn kết dân tộc và mặt trận dân tộc
thống nhất” của Vũ Trọng Kim. , ngày 11/6/2012.
Bài viết đã đề cập tới cống hiến lớn lao của Chủ tịch Hồ Chi Minh và Đảng ta
đối với dân tộc ta và các dân tộc bị áp bức trên thế giới là việc đề xướng thành
lập Mặt trận dân tộc thống nhất. Và lợi ich tối cao của dân tộc là độc lập,
thống nhất, chủ quyền quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ, là "dân giàu, nước

3



mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh". Rút ta bài học đó là khi nào Mặt
trận nắm vững và giương cao ngọn cờ đại đoàn kết dân tộc của Chủ tịch Hồ
Chi Minh, đoàn kết và phát huy được sức mạnh của toàn dân tộc thì khó khăn
mấy cách mạng cũng vượt qua.
“Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc” của PGS.NGND Lê
Mậu Hãn, , ngày 24/5/2006. Bài viết khẳng định
độc lập, tự do và tư tưởng cách mạng vĩ đại của Hồ Chi Minh là chìa khoá để
mở đường hội tụ thắng lợi của chiến lược: “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết.
Thành công, thành công, đại thành công''. Và để thực hiện chiến lược đại
đoàn kết dân tộc, trước hết phải có cương lĩnh đúng đắn phù hợp với thực tiễn
của đất nước qua các thời ky cách mạng khác nhau. Khối quần chúng đông
đảo chi trở thành sức mạnh vô địch khi được giác ngộ về mục tiêu chiến đấu
cao cả, được tổ chức lại thành một khối vững chắc trên cơ sở của Mặt trận dân
tộc thống nhất, được hình thành và phát triển ngày càng hoàn thiện trong tiến
trình cách mạng. Và sau khi cách mạng thành công, nhà nước của dân, do dân
tộc và vì dân tộc được thành lập, chiến lược đại đoàn kết quốc gia dân tộc
không chi được thực thi bằng cách tập hợp lực lượng quần chúng rộng rãi,
phong phú về nội dung và hình thức tổ chức mà còn phải liên hiệp quốc dân ở
trong Quốc hội, cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan hành chinh
cao nhất của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà (nay là Cộng hoà xã hội chủ
nghĩa Việt Nam).
“Đồng chí Võ Văn Kiệt với tư tưởng đại đoàn kết Hồ Chí Minh” của
PGS,TS Phạm Hồng Chương. Bài viết không đi sâu vào phẩm chất và những
đóng góp to lớn của đồng chi với cách mạng Việt Nam như đã được Đảng ta
khẳng định, mà chi xin được đề cập tới một nhân tố hàng đầu và căn bản nhất,
đã tạo nên phẩm chất Võ Văn Kiệt. Đó là việc đồng chi đã “thường xuyên
kiên trì học tập, nghiên cứu và thực hành thành công tư tưởng, đạo đức,


4


phong cách” nhất là tư tưởng đại đoàn kết của Chủ tịch Hồ Chi Minh và đồng
chi rất thành công trong hoạt động lý luận và thực tiễn phong phú của mình.
“Phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc trong sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc theo tư tưởng Hồ Chí Minh” của Thượng tá Ngô
Quốc Hải và Nguyễn Bình Minh, theo QPTD - Thứ sáu, 17/02/2012
(). Bài viết đã khẳng định trong tư tưởng của Chủ tịch Hồ
Chi Minh, đại đoàn kết dân tộc là vấn đề có ý nghĩa chiến lược, quyết định
thành công của cách mạng. Thấm nhuần sâu sắc tư tưởng của Người, trong
các giai đoạn cách mạng trước đây cũng như hiện nay, Đảng ta luôn coi trọng
và hết sức chăm lo tăng cường đại đoàn kết dân tộc.
“Giương cao ngọn cờ Đại đoàn kết Hồ Chí Minh vững bước vào thời
kỳ

phát

triển

mới”

của

GS.TS.

Phùng

Hữu


Phú,

theo

Bài viết của tác giả đã đề cập đến
những phương pháp và nguyên tắc mà Người đã vận dụng trong quá trình
lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Đó là: “Dĩ bất biến ứng vạn biến”; “Dân tộc
trên hết, Tổ quốc trên hết; tất cả do con người, vì con người”; “Trong bầu trời
không có gì quý bằng nhân dân”; “Quan san muôn dặm một nhà”; “Giữ gìn
sự đoàn kết nhất tri của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình”.
Nhìn chung các công trình nghiên cứu của các tác giả là phong phú,
mang tinh khái quát, nhiều tác giá đi sâu nghiên cứu khai thác từng khia cạnh
của vấn đề đại đoàn kết dân tộc. Đây là những thuận lợi để cho bản thân tôi
nghiên cứu vấn đề này. Tuy nhiên, vẫn còn những khia cạnh của việc nghiên
cứu và vận dụng tư tưởng đại đoàn kết của Hồ Chi Minh cần phải làm rõ hơn,
đặc biệt là với bản thân tôi là sinh viên khoa Giáo dục Chinh trị trường Đại
học Sư phạm – Đại học Đà Nẵng thì việc nhận thức tư tưởng đại đoàn kết của
Người một cách có hệ thống nhằm nhận thức và hiểu đúng hơn, sâu sắc hơn
về vấn đề này có ý nghĩa rất quan trọng.

5


3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích
Mục đich của đề tài tìm hiểu và nghiên cứu một cách có hệ thống tư
tưởng về đại đoàn kết dân tộc của Hồ Chi Minh và vận dụng để giáo dục tinh
thần đoàn kết cho sinh viên hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ của đề tài
Để đạt được mục đich trên thì nhiệm vụ của đề tài là:

Một là, tìm hiểu nguồn gốc hình thành tư tưởng đại đoàn kết dân tộc
của Hồ Chi Minh
Hai là, trình bày những nội dung cơ bản của Hồ Chi Minh về đại đoàn
kết dân tộc
Ba là, tìm hiểu nhận thức về đoàn kết của sinh viên trường Đại học Sư
phạm – Đại học Đà Nẵng hiện nay.
Bốn là, đề xuất một số giải pháp để giáo dục tinh thần đoàn kết cho
sinh viên trường Đại học Sư phạm – Đại học Đà Nẵng hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu vận dụng tư tưởng đại đoàn kết dân tộc của Hồ Chi Minh
vào giáo dục tinh thần đoàn kết cho sinh viên hiện nay.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu các phần ba và bốn là chủ yếu.
Địa bàn nghiên cứu là phạm vi trường Đại học Sư phạm – Đại học Đà
Nẵng.
Khách thể nghiên cứu: Là những sinh viên đang học tập,nghiên cứu và
sinh hoạt tại trường Đại học Sư phạm – Đại học Đà Nẵng.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Đề tài nghiên cứu dựa trên cở sở lý luận của Chủ nghĩa Mác – Lênin, tư
tưởng Hồ Chi Minh, đường lối, chủ trương, chinh sách, quan điểm của Đảng
cộng sản Việt Nam và Nhà nước XHCN Việt Nam.
Đồng thời với các tài liệu, các công trình nghiên cứu khoa học giáo dục
đại đoàn kết theo tư tưởng Hồ Chi Minh của các nhà lý luận chinh trị, các

6


giáo viên giảng dạy…, các luận văn, luận án, các bài báo, các báo cáo khoa

học… và một số tài liệu khác có liên quan đến đề tài.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng các phương pháp nghiên cứu là phương pháp đọc, sách
báo và các bài viết có liên quan. Sau đó tiến hành phân tich, tổng hợp, phân
loại, hệ thống hóa, khái quát hóa… Nhận xét, tóm tắt và trich dẫn phục vụ
trực tiếp cho việc xấy dựng và hoàn thành khóa luận tốt nghiệp của mình.
Đồng thời sử dụng phương pháp điều tra bằng việc xây dựng hệ thống
câu hỏi điều tra để khảo sát nhận thức của sinh viên trường Đại học Sư phạm
– Đại học Đà Nẵng về đoàn kết theo tư tưởng Hồ Chi Minh.
6. Ý nghĩa và những đóng góp mới của khóa luận
6.1. Đóng góp mới của đề tài
Đã có nhiều công trình nghiên cứu về tư tưởng đại đoàn kết của Hồ Chi
Minh với nội dung phong phú, sâu sắc, cách thức và hướng nghiên cứu khác
nhau. Song đến thời điểm hiện tại chưa có công trình nghiên cứu khoa học
nào đề cập đến việc vận dụng tư tưởng đại đoàn kết dân tộc của Hồ Chi Minh
vào việc giáo dục tinh thần đoàn kết cho sinh viên trường Đại học Sư phạm –
Đại học Đà Nẵng. Vì vậy, đề tài khóa luận của tôi có sự đóng góp là: Trên cơ
sở trình bày một cách có hệ thống tư tưởng đại đại đoàn kết dân tộc của Hồ
Chi Minh. Sau đó nghiên cứu nhận thức của sinh viên trường Đại học Sư
phạm – Đại học Đà Nẵng và mạnh dạn đề xuất một số giải pháp để góp phần
giáo dục tốt tinh thần đoàn kết cho sinh viên trường Đại học Sư phạm – Đại
học Đà Nẵng hiện nay.
6.2. Ý nghĩa của đề tài
Những kết quả nghiên cứu của đề tài góp phần vào việc nghiên cứu về
đại đoàn kết dân tộc của Hồ Chi Minh nói chung và làm sáng tỏ thêm sự vận
dụng vào sự nghiệp giáo dục của nước ta trong giai đoạn hiện nay.
Đề tài có thể đươc sử dụng để các bạn sinh viên tham khảo trong quá
trình học tập tư tưởng Hồ Chi Minh.
7. Cấu trúc của khóa luận


7


Đề tài được cấu trúc ngoài các phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham
khảo, thì kết quả nghiên cứu được thể hiện trong 2 chương 5 tiết.

PHẦN NỘI DUNG
Chương I: LÝ LUẬN VỀ ĐẠI ĐOÀN KẾT DÂN TỘC TRONG
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
1.1.

Nguồn gốc hình thành tư tưởng đại đoàn kết dân tộc của Hồ Chí

Minh
Sau khi Cách mạng tháng Tám thành công, Đại hội đại biểu các dân tộc
thiểu số lần đầu tiên tổ chức tại thủ đô Hà Nội ngày 2/12/1945, Chủ tịch Hồ
Chi Minh đã gửi thư chúc mừng Đại hội. Sức mạnh Đại đoàn kết, theo Chủ
tịch Hồ Chi Minh phải được biến thành sức mạnh vật chất, thành lực lượng
vật chất cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản kết thành một khối
vững chắc trong cuộc đấu tranh cách mạng. Vì thế, Người đã kiên trì, dày
công xây dựng, vun đắp khối đại đoàn kết dân tộc trên cơ sở các dân tộc phải
được bình đẳng như nhau, sống có tình, có nghĩa với nhau, thương yêu, đùm
bọc nhau và phải giúp đỡ nhau như anh em một nhà.
Trong nhiều bài viết, bài nói chuyện tại các hội nghị và nói về công tác
dân tộc, Người luôn luôn nhắc nhở, quán triệt và chi huấn về đoàn kết dân

8


tộc. Thư gửi Đại hội đại biểu các dân tộc thiểu số miền Nam tổ chức tại Plei

ku ngày 19 tháng 4 năm 1946, Người viết: “...Ngày nay nước Việt Nam là
nước chung của chúng ta. Trong Quốc hội có đủ đại biểu các dân tộc. Chinh
phủ thì có Nha Dân tộc thiểu số để săn sóc cho tất cả các đồng bào. Giang sơn
và Chinh phủ là giang sơn và Chinh phủ chung của chúng ta. Vậy nên tất cả
dân tộc chúng ta phải đoàn kết chặt chẽ để gìn giữ nước non, để ủng hộ Chinh
phủ ta. Chúng ta phải thương yêu nhau, phải kinh trọng nhau, phải giúp đỡ
nhau để mưu hạnh phúc chung của chúng ta và con cháu chúng ta”. Chủ tịch
Hồ Chi Minh khẳng định: Sông có thể cạn, núi có thể mòn, nhưng lòng đoàn
kết chúng ta không bao giờ giảm bớt. Chúng ta quyết góp chung lực lượng lại
để giữ vững quyền tự do, độc lập của chúng ta.
Tư tưởng, quan điểm về công tác dân tộc, chinh sách dân tộc và đoàn kết
dân tộc của Chủ tịch Hồ Chi Minh thể hiện giá trị nhân văn cao cả, là sức
mạnh vô địch cho mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX của Đảng cộng sản Việt
Nam đã khẳng định: “Tư tưởng Hồ Chi Minh là một hệ thống quan điểm toàn
diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, là kết quả
của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin vào điều kiện
cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của
dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa của nhân loại. Đó là tư tưởng về giải phóng
dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người; về độc lập dân tộc gắn liền
với chủ nghĩa xã hội, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; về sức
mạnh của nhân dân, của khối đại đoàn kết dân tộc…
Tư tưởng Hồ Chi Minh soi đường cho cuộc đấu tranh của nhân dân ta
giành thắng lợi, là tài sản tinh thần to lớn của Đảng và dân tộc ta”.
Nội dung tư tưởng của Người rất phong phú và đặc sắc, trong đó tiêu
biểu là tư tưởng về đại đoàn kết dân tộc. Nội dung tư tưởng này của Người

9



được hình thành trên nhiều cơ sở về mặt lý luận và thực tiễn rất phong phú, cụ
thể là:
1.1.1. Truyền thống yêu nước nhân ái, tinh thần cố kết cộng đồng của dân
tộc Việt Nam
Một trong những truyền thống nổi bật của dân tộc Việt Nam đó là truyền
thống yêu nước lòng nhân ái và tinh thần cố kết cộng đồng. Điều này đã được
minh chứng qua lịch sử hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc.
Đặc biệt trong truyền thuyết “Lạc Long Quân và Âu Cơ”sinh ra bọc trăm
trứng, nở ra trăm con, đã nói lên nguồn gốc và đặc điểm hình thành dân tộc
Việt Nam. Chúng ta tự hào rằng chúng ta là “Con Rồng cháu Tiên”. Truyền
thống ấy đã thấm sâu vào tình cảm, tâm hồn và tư tưởng của mỗi con người
Việt Nam.
Đất nước ta có nhiều dân tộc anh em sinh sống, có cả những thuận lợi và
khó khăn khắc nghiệt, phải liên tục chống lại thiên tai, địch họa. Đòi hỏi phải
đoàn kết để phát huy sức mạnh dân tộc, tinh thần và truyền thống cố kết cộng
đồng.
Truyền thống ấy đã được phản ánh trong kho tàng văn học dân gian, cụ
thể là:
“Nhiễu điều phủ lấy giá gương
Người trong một nước phải thương nhau cùng”
Hay là
“Bầu ơi thương lấy bi cùng
Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn”
Đã trở thành triết lý nhân sinh:
“Một cây làm chẳng nên non
Ba cây chụm lại nên hòn núi cao”

Truyền thống ấy còn được thể hiện qua tư tưởng của những người anh
hùng giải phóng dân tộc qua các thời ky lịch sử như: Hai Bà Trưng, Bà Triệu,
Lý Nam Đế, Mai Thúc Loan, Ngô Quyền, Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo,

Lê Lợi, Quang Trung,… Nó đã nâng lên thành phép đánh giặc, giữ nước “tập
hợp bốn phương manh lệ”, “trên dưới một lòng, cả nước chung sức”, “tướng

10


sĩ một lòng phụ tử”, “khoan thư sức dân làm kế sâu rễ bền gốc”, “chở thuyền
là dân, lật thuyền cũng là dân”,…
Truyền thống đó của dân tộc lại được tiếp nối trong tư tưởng tập hợp
lực lượng toàn dân của các nhà yêu nước trong cuộc đấu tranh chống thực dân
Pháp xâm lược và các thế lực phong kiến tay sai vào cuối thế ki XIX – đầu
thế ki XX như: Đinh Công Tráng, Nguyễn Trung Trực, Nguyễn Thiện Thuật,
Phan Đình Phùng, Hoàng Hóa Thám, Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh,…
Hồ Chi Minh sinh ra và gắn bó mật thiết với mảnh đất “địa linh nhân
kiệt”, giàu truyền thống đấu tranh cách mạng Nghệ Tĩnh. Người cũng sớm đi
đến nhiều nơi khác của dân tộc. Qua quá trình tìm hiểu lịch sử dân tộc và quá
trình hoạt động tìm đường cứu nước, lãnh đạo cách mạng nước nhà thì Người
đã sớm tiếp thu truyền thống yêu nước - nhân nghĩa - đoàn kết quý báu đó. Và
Người đã khẳng định: “… Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là
truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng,
thì tinh thần ấy (yêu nước) lại sôi nổi, nó kết thành một làn sóng vô cùng
mạnh mẽ, to lớn (đoàn kết), nó lướt qua mọi sự hiểm nguy, khó khăn, nó nhấn
chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước”. Rõ ràng truyền thống yêu nước nhân nghĩa - đoàn kết là cơ sở quan trọng hình thành tư tưởng Hồ Chi Minh
về đại đoàn kết dân tộc.
1.1.2. Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về vai trò của quần chúng
nhân dân đối với sự phát triển của lịch sư
Chủ nghĩa Mác – Lênin đã trang bị cho Hồ Chi Minh về thế giới quan và
phương pháp luận duy vật, giúp cho Người nhận thức được con đường cách
mạng mà dân tộc ta đang cần đó là con đường cách mạng vô sản. Và chinh
giai cấp vô sản là giai cấp cách mạng nhất, có sư mệnh lịch sử là giải phóng

xã hội loài người. Đây là nhiệm vụ cách mạng lâu dài, đòi hỏi phả có sách
lược và chiến lược đúng đắn và phù hợp, cần phải có sức mạnh của sự đoàn
kết trước hết là sức mạnh đoàn kết của giai cấp vô sản.

11


Chủ nghĩa Mác – Lênin đã chi ra vai trò của quần chúng, chi ra vị tri
của liên minh công nông trong cách mạng xã hội chủ nghĩa và đi đến khẳng
định: Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng nhân dân là người sáng tạo ra
lịch sử, giai cấp vô sản muốn thực hiện vai trò lãnh đạo cách mạng thì phải
tập hợp liên minh công nông, đây là cơ sở để xây dựng lực lượng to lớn của
cách mạng. Khi nói về sự đoàn kết của giai cấp vô sản thì C.Mác và
Ph.Ăngghen cũng đã đề cập ngay tới vấn đề tập hợp lực lượng cách mạng
quốc tế.
Câu mở đầu của tuyên ngôn của Đảng Cộng sản là: Vô sản các nước,
đoàn kết lại! Vào những năm 40 của thế ki XIX, C.Mác và Ph.Ăngghen thay
mặt Liên đoàn những người cộng sản đã công bố bản Tuyên ngôn của Đảng
cộng sản.
Đầu thế ki XX, V.I. Lênin đã phát triển quan điểm của chủ nghĩ Mác và
Ph. Ăngghen về đoàn kết trong điều kiện lịch sử mới. Lênin đưa ra khẩu hiệu
“Vô sản tất cả các nước và các dân tộc bị áp bức đoàn kết lại”. Và cũng chinh
ông là người đề ra các nguyên tắc xây dựng đảng của giai cấp công nhân và
nhân dân lao động, trong đó có nguyên tắc về sự thống nhất, đoàn kết về
chinh trị, tư tưởng và tổ chức là nhân tố bảo đảm sụ sống còn của đảng, hạt
nhân của đoàn kết là đoàn kết toàn dân tộc.
Vào năm 20 của thế ki XX , động lực thúc đẩy Hồ Chi Minh lựa chọn
con đường giải phóng cho dân tộc là theo chủ nghĩa Mác – Lênin, vì Người
tìm thấy ở đây “hiện thân của tình anh em bốn bể”.
Hồ Chi Minh tiếp thu chủ nghĩa Mác - Lênin và vận dụng sáng tạo vào Việt

Nam. Người thực hiện xây dựng khối Liên minh giai cấp; thành lập Mặt trận;
đoàn kết quốc tế, coi cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế
giới. Người thực hiện tài tình cuộc chiến tranh nhân dân đánh thực dân Pháp
và đế quốc Mỹ. Người kêu gọi toàn dân kháng chiến, toàn quốc kháng chiến,
toàn dân kiến quốc. Người chủ trương không phân biệt già, trẻ, gái, trai, hễ là

12


người Việt Nam đều đứng lên chống thực dân giành quyền độc lập. Với
Người, đoàn kết là một chân lý rõ ràng và được mở rộng theo một trình tự
phát triển từ con người của cộng đồng tới giai cấp và vượt ra ngoài giai cấp;
vượt qua mọi khác biệt về tôn giáo, chinh kiến, xuyên suốt và bao trùm tất cả
mọi mối quan hệ; lấp lánh suốt thời gian và toả sáng mọi không gian.
Tư tưởng đại đoàn kết của Hồ Chi Minh là chiến lược đúng đắn sâu sắc
cho việc tìm bạn đồng minh cho giai cấp vô sản và góp phần làm nên thắng
lợi hoàn toàn cho cách mạng Việt Nam.
1.1.3. Thực tiễn phong trào đấu tranh cách mạng của dân tộc Việt Nam và
phong trào cách mạng thế giới
Xuất phát từ thực tiễn cách mạng Việt Nam, bị thực dân Pháp xâm lược
và chúng đã sử dụng chinh sách chia để trị để chia rẽ dân tộc Việt Nam.
Nhưng dân tộc Việt Nam quyết đem hết tinh thần và lực lượng, của cải để
chống giặc ngoại xâm, giành lại nền độc lập cho Tổ quốc. Người dân Việt
Nam quyết tâm đoàn kết lại cho dù có đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải
giải phóng được dân tộc. Đối lập vói chinh sách tàn bạo của thực dân Pháp
nhân dân ta đã đứng dậy đấu tranh chống lại kẻ thù xâm lược với nhiều hình
thức khác nhau. Tiêu biểu là các phong trào đấu tranh như: Khởi nghĩa Hương
Khê của Phan Đình Phùng, phong trào Đông Du của Phan Bội Châu, phong
trào Duy Tân của Phan Châu Trinh, khởi nghĩa Yên Thế của Hoàng Hoa
Thám,... Nhưng tất cả đều thất bại. Qua quá trình tìm hiểu và hoạt động lãnh

đạo cách mạng Việt Nam, Người đã thấy rõ sức mạnh tiềm ẩn to lớn của nhân
dân mình, đồng thời Người cũng thấy rõ mặt hạn chế của họ là chưa có sự
lãnh đạo tổ chức đúng đắn.
Sau khi cách mạng tháng mười Nga giành thắng lợi, Người đã hướng suy
nghĩ của mình về nước Nga có chuyện lạ đời, biến người nô lệ thành người tự
do. Từ đó người tin theo Lênin và Quốc tế cộng sản.

13


Đối với phong trào đấu tranh của các dân tộc phụ thuộc và thuộc địa, đó
là “Các dân tộc thuộc địa tiềm ẩn một sức mạnh vĩ đại, song cuộc đấu tranh
của họ chưa đi đến thắng lợi bởi vì các dân tộc bị áp bức chưa biết tập hợp lại,
chưa có sự liên kết chặt chẽ với giai cấp công nhân ở các nước tư bản, đế
quốc, chưa có tổ chức và chưa biết tổ chức…”. Người cũng đặc biệt chú ý đến
cách mạng của hai quốc gia Ấn Độ và Trung Quốc, phong trào cách mạng của
hai nước này có thể để lại cho Việt Nam nhiều bài học bổ ich về tập hợp lực
lượng yêu nước tiến bộ để tiến hành cách mạng.
Những kinh nghiệm quý báu rút ra từ thành công hay thất bại của các
phong trào dân tộc dân chủ, nhất là từ thắng lợi của cuộc cách mạng Tháng
Mười Nga năm 1917, đó là những cơ sở thực tiễn cho việc hình thành tư
tưởng Hồ Chi Minh về đại đoàn kết dân tộc.
1.2. Những quan niệm cơ bản về đại đoàn kết dân tộc của Hồ Chí
Minh
Tư tưởng đại đoàn kết của Chủ tịch Hồ Chi Minh được thể hiện một
cách cụ thể, sinh động và có sức thuyết phục cao. Xuất phát từ lợi ich của Tổ
quốc, của nhân dân, Người chủ trương đoàn kết chặt chẽ, đoàn kết lâu dài,
thật sự với mọi người yêu nước, tán thành độc lập, tự do, thống nhất, mưu cầu
hạnh phúc, ấm no, không phân biệt tầng lớp, đảng phái, tôn giáo, dân tộc,
không phân biệt trước đây họ đã theo phe phái nào. Trong bức thư gửi Đại hội

các dân tộc thiểu số miền Nam tổ chức tại Plâycu ngày 19-4-1946, lúc mà
toàn dân bước vào cuộc kháng chiến thần thánh chống thực dân Pháp với
muôn vàn khó khăn. Người viết: “Đồng bào Kinh hay Thổ, Mường hay Mán,
Gia Rai hay Êđê, Xêđăng hay Bana và các dân tộc thiểu số khác, đều là con
cháu Việt Nam, đều là anh em ruột thịt. Chúng ta sướng khổ cùng nhau, no
đói giúp nhau... Giang sơn và Chinh phủ là giang sơn và Chinh phủ chung của
chúng ta. Vậy nên tất cả dân tộc chúng ta phải đoàn kết chặt chẽ để giữ gìn
nước non ta, để ủng hộ Chinh phủ ta”... và Người khẳng định: Sông có thể
cạn, núi có thể mòn, nhưng lòng đoàn kết của chúng ta không bao giờ giảm
bớt.

14


Tư tưởng đại đoàn kết dân tộc của Hồ Chi Minh là một hệ thống những
luận điểm, nguyên tắc, phương pháp giáo dục, tập hợp và tổ chức cách mạng
và tiến bộ, nhằm phát huy cao nhất sức mạnh dân tộc và sức mạnh của thời
đại trong sự nghiệp đấu tranh vì độc lập dân tộc, dân chủ và xã hội chủ nghĩa.
1.2.1. Khái niệm về đại đoàn kết của Hồ Chí Minh
Đã có rất nhiều bài viết nói về đoàn kết và đại đoàn kết trong nội dung tư
tưởng Hồ Chi Minh, nhưng không có bài viết nào đưa ra định nghĩa toàn diện
về đoàn kết. Theo từ điển Tiếng Việt khái niệm phổ thông của đoàn kết là
“Kết thành một khối thống nhất cùng hoạt động vì một mục đich chung” và
đại đoàn kết là đoàn kết rộng rãi.
Trong toàn bộ di cảo của Hồ Chi Minh được công bố trong bộ Hồ Chi
Minh toàn tập, gồm 12 tập do nhà xuất bản Chinh trị Quốc gia xuất bản lần
thứ hai, Người đưa ra định nghĩa về đại đoàn kết ở bài nói chuyện tại Hội
nghị đại biểu mặt trận Liên – Việt toàn quốc ngày 10/01/1955, Người nói:
“Đại đoàn kết tức là trước hết phải đoàn kết đại đa số bộ phận công nhân,
nông dân và các tầng lớp nhân dân lao động khác. Đó là nền gốc của đại đoàn

kết, nó cũng như cái nền của nhà, cái gốc của cây. Nhưng đã có nền vững, gốc
tốt, còn phải đoàn kết các tầng lớp nhân dân khác” [24,438].
Định nghĩa trên của Hồ Chi Minh đã nêu khá đầy đủ và toàn diện về nội
dung của đại đoàn kết, Người đã xác định vi tri quan trọng của đại đoàn kết
giống như “cái nền của nhà, cái gốc của cây”, nghĩa là đoàn kết đa số nhân
dân mà cụ thể là phải đoàn kết công nông và các tầng lớp nhân dân lao động
khác. Người luôn nhận thức đại đoàn kết dân tộc là nhân tố quyết định của sự
thành công của cách mạng. Theo Người đoàn kết là “kết thành một khối thống
nhất của số đông người có chung mục đich li tưởng, biết đồng tâm hiệp lực
tạo nên sức mạnh tổng hợp to lớn đảm bảo thực hiện thành công mực đich đó.
Thực chất ấy được quy định bởi bốn yếu tố cơ bản của đoàn kết là: đông,
đich, kết và đồng”. Từ bốn yếu tố đó sẽ tạo ra sức mạnh to lớn cả về vật chất
lẫn tinh thần, bảo đảm thành công mọi mục đich của dân tộc. Với những ý
15


nghĩa này đoàn kết là nguyên nhân quyết định thắng lợi của sự nghiệp cách
mạng. Điều này đã được minh chứng trong lịch sử cách mạng của nước nhà,
khi triển khai trên thực tế thì đoàn kết và chủ nghĩa yêu nước của người Việt
Nam là “động lực vĩ đại và duy nhất” làm nên thành công của cuộc cách
mạng giải phóng dân tộc.
1.2.2. Đại đoàn kết dân tộc có ý nghĩa chiến lược quyết định thành công
của cách mạng
Theo tư tưởng Hồ Chi Minh đại đoàn kết dân tộc không xuất phát từ ý
muốn chủ quan của những người cách mạng, mà xuất phát từ lợi ich của quần
chúng nhân dân từ đòi hỏi tất yếu của sự nghiệp cách mạng. Người cho rằng
cuộc đấu tranh của nhân dân ta chống lại thực dân Pháp cuối thế ki XIX đầu
thế ki XX đều thất bại do rất nhiều nguyên nhân. Tuy nhiên có một nguyên
nhân sâu xa là cả nước ta không đoàn kết được thành một khối thống nhất.
Người cũng nhận thấy rằng, muốn đưa cách mạng đi đến thắng lợi cuối cùng

và xây dựng xã hội mới thì phải có lực lượng cách mạng đủ mạnh, mà muốn
có lực lượng đủ mạnh thì phải thực hiện đại đoàn kết, quy tụ mọi lực lượng
cách mạng thành một khối thống nhất và vững chắc. Do đó đoàn kết trở thành
vấn đề chiến lược lâu dài của cách mạng, là nhân tố then chốt cho thắng lợi
của cách mạng. Cần phải hiểu rằng, đoàn kết không phải là thủ đoạn chinh trị
nhất thời mà đó là tư tưởng nhất quán, xuyên suốt ở mọi giai đoạn của cách
mạng.
Qua qua trình tìm hiểu lich sử dân tộc cũng như thực tiễn các cuộc đấu
tranh cách mạng của các quốc gia trên thế giới và qua các bài báo bài viết của
các vị lãnh tụ cách mạng. Hồ Chi Minh đã đưa ra lết luận: muốn được giải
phóng, các dân tộc bị áp bức và nhân dân lao động phải tự mình đấu tranh
cách mạng, bằng cách mạng vô sản. Người đã vận dụng quan điểm của chủ
nghĩa Mác – Lênin về cách mạng cộng sản vào thực tiễn cách mạng Việt

16


Nam, trong đó Người đặc biệt quan tâm đến vấn đề xây dựng lực lượng cách
mạng và phương pháp cách mạng.
Ở mỗi giai đoạn cách mạng khác nhau, thì phải điều chinh chinh sách và
chinh sách và phương pháp tập hợp lực lượng cho phù hợp, bởi có nhiều đối
tượng, giai cấp tầng lớp khác nhau. Nhưng đại đoàn kết dân tộc luôn được
Người nhận thức là vấn đề sống còn của cách mạng “sử ta đã dạy rằng khi
nào dân ta đoàn kết thì nước ta được độc lập, khi nào dân ta chia rẽ thì bị
nước ngoài đô hộ”. Lịch sử cách mạng Việt Nam cũng đã chứng tỏ: Với lòng
yêu nước nồng nàn qua cuộc đấu tranh chống giặc ngoại xâm lâu dài và gian
khổ, dân tộc ta đã sớm có ý thức đoàn kết vì mọi người đều mang trong mình
dòng máu Lạc Hồng và đều thấm thia “Đoàn kết thì sống chia rẽ thì chết”.
Để xây dựng được khối đoàn kết thống nhất vững mạnh nhằm mang lại
thắng lợi cho cách mạng thì phải thực hiện tốt phương châm của đoàn kết dân

tộc đó là:
“Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết
Thành công, thành công, đại thành công”
Đây là một khẩu hiệu, nhưng chứa đựng phương châm thể hiện hai nội
dung: một là, đoàn kết càng chặt chẽ và rộng rãi bao nhiêu thì thành công
càng to lớn và vững chắc bấy nhiêu; hai là, phải xây dựng một khối đoàn kết
gồm nhiều tầng lớp, mặt trận gắn chặt chẽ với nhau.
Đại đoàn kết dân tộc là vấn đề chiến lược lâu dài quyết định thành bại
của cách mạng và là một tư tưởng lớn xuyên suốt hệ thống tư tưởng Hồ Chi
Minh.
1.2.3. Đại đoàn kết dân tộc là mục tiêu và là nhiệm vụ hàng đầu của cách
mạng
Đoàn kết là nhân tố tạo nên sức mạnh, nhờ đoàn kết mà đan tộc ta đã
đánh thắng nhiều thế lực ngoại xâm hung mạnh như: 3 lần đánh thắng quân
Nguyên, quân Minh, quân Thanh,… của phong kiến Phương Bắc; đánh thắng
hai tên đế quốc Pháp và Mĩ,…gìn giữ và xây dựng đất nước. Trên số đầu tiên

17


của tờ báo “Thanh niên” ra ngày 21/06/1925 với bút danh A.Z.A.C, Người đã
viết: “Để dẫn dắt nhân dân làm sự nghiệp vĩ đại cần phải có một sức lãnh đạo,
sức lãnh đạo đó không phải có vài người thôi, mà phát sinh ra từ sự hiệp lực
của hàng ngàn người, hàng vạn người. Muốn cho hàng ngàn, hàng vạn người
ấy đoàn kết chặt chẽ với nhau thì họ phải cùng một ý chi, cùng một nguyện
vọng thì khi ấy mới có đoàn kết, bằng không thì dù có hô hào đoàn kết mấy đi
nữa cũng không thể nào đoàn kết được. Sự nghiệp cách mạng lớn lắm.Những
người cách mạng phải đoàn kết với nhau để thực hiện sự nghiệp đó”.
Theo tư tưởng Hồ Chi Minh, đại đoàn kết dân tộc cần phải được quán
triệt trong mọi đường lối, chủ trương, chinh sách và tới mọi hoạt động thực

tiễn của đảng và của sự nghiệp cách mạng. Nghĩa là khi đề ra đường lối,
chinh sách phải góp phần củng cố và tăng cường khối đại đoàn kết dân tộc.
Người viết: “Mục đich của Đảng Lao động Việt Nam có thể gồm trong 8 chữ
là: Đoàn kết toàn dân, phụng sự Tổ quốc”. Để thực hiện mục tiêu này, Người
thường xuyên nhắc nhở cán bộ, đảng viên phải thấm nhuần quan điểm quần
chúng, phải gần gũi quần chúng, lắng nghe quần chúng, vận động, tổ chức và
giáo dục quần chúng, coi sức mạnh của cách mạng là ở nơi quần chúng, phải
thấm nhuần lời dạy “dễ trăm lần không dân cũng chịu, khó vạn lần dân liệu
cũng xong”. Trong khi nói chuyện với cán bộ tuyên huấn miền núi về cách
mạng xã hội chủ nghĩa, Người chi rõ: “Trước cách mạng tháng Tám và trong
kháng chiến, thì nhiệm vụ tuyên huấn là làm cho các đồng bào các dân tộc
thiểu số hiểu được mấy việc: Một là, đoàn kết. Hai là, cách mạng hay kháng
chiến là để đòi độc lập, chi đơn giản thế thôi. Bây giờ mục đich của tuyên
truyền tuyên huấn là: Một là, đoàn kết. Hai là, xây dựng chủ nghĩa xã hội. Ba
là, đấu tranh thống nhất nước nhà”.
Đại đoàn kết dân tộc không chi là mục tiêu là nhiệm vụ hàng đầu của
cách mạng của toàn đảng, toàn dân, đồng thời cũng là nhiệm vụ hàng đầu của
mọi giai đoạn cách mạng. Bởi vì, muốn hoàn thành nhiệm vụ cách mạng nếu

18


chi có đường lối đúng là chưa đủ mà phải trên cơ sở của đường lối đúng thì
Đảng phải cụ thể hóa thành những mục tiêu, nhiệm vụ và phương pháp cách
mạng phù hợp từng giai đoạn lịch sử để lôi kéo, tập hợp quần chúng, tạo thực
lực cho cách mạng. Vì vậy, Hồ Chi Minh luôn luôn đặt vấn đề đoàn kết dân
tộc lên hàng đầu, coi đó là nhiệm vụ số một trong nhiệm vụ cách mạng.
Người còn chi ra rằng, đại đoàn kết dân tộc không phải chi là mục tiêu
của Đảng, còn là nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng. Bởi vì cách mạng là sự
nghiệp của quần chúng, phải do quần chúng, vì quần chúng. Đảng cộng sản

và những người cách mạng có sứ mệnh thức tinh, tập hợp, hướng dẫn quần
chúng, tổ chức quần chúng trong khối đại đoàn kết, phải ra sức tuyên truyền
giáo dục tinh thần yêu nước và đoàn kết cộng đồng cho các tầng lớp nhân dân
ở mọi nơi, mọi lúc, mọi điều kiện, hoàn cảnh. Nhằm tạo thành sức mạnh tổng
hợp trong cuộc đấu tranh vì độc lập của dân tộc, tự do cho nhân dân và hạnh
phúc cho con người.
Hồ Chi Minh không những đề cập đến tinh thần đoàn kết, đại đoàn kết
của dân tộc,mà Người còn vạch rõ phải đoàn kết trong mọi lực lượng, mọi tổ
chức: đoàn kết dân tộc, đoàn kết trong nội bộ Đảng, nội bộ cán bộ nhà nước,
đoàn kết quốc tế,…hình thành một hệ thống, một tổng thể sức mạnh to lớn
của cách mạng.
Tư tưởng đại đoàn kết của Hồ Chi Minh là một bộ phận hữu cơ cấu
thành đường lối chiến lược của Đảng ta trong suốt tiến trình cách mạng Việt
Nam. Tư tưởng ấy đã và đang phát huy tác dụng to lớn trong thời ky đổi mới
của đất nước.
1.2.4. Đại đoàn kết dân tộc là đại đoàn kết toàn dân
- Khái niệm “Dân” và “Nhân dân” trong tư tưởng Hồ Chi Minh có nội
hàm rất rộng rãi. Người dùng khái niệm này để chi “mọi con dân nước Việt”
“mỗi một người con Rồng cháu Tiên” không phân biệt dân tộc đa số hay thiểu
số, có tin ngưỡng hay không tin ngưỡng, tôn giáo, không phân biệt già – trẻ,
gái – trai, giai cấp, giàu nghèo, quý tiện. Chi trừ những kẻ can tâm làm tay sai

19


cho giặc, đi ngược lại quyền lợi của dân tộc. Như vậy, dân và nhân dân trong
tư tưởng Hồ Chi Minh được hiểu với tư cách mỗi con người Việt Nam cụ thể,
vừa là một tập hợp đông đảo quần chúng nhân dân, với những mối lien hệ cả
quá khứ và hiện tại, họ là chủ thể của khối đại đoàn kết dân tộc và đại đoàn
kết dân tộc thực chất là đại đoàn kết toàn dân. Nói đến đại đoàn kết dân tộc

cũng có nghĩa phải tập hợp được mọi người vào trong một khối thống nhất
của cuộc đấu tranh chung. Theo ý nghĩa đó, nội hàm khái niệm đại đoàn kết
trong tư tưởng Hồ Chi Minh rất phong phú, nó bao gồm nhiều tầng nấc, nhiều
cấp độ, các quan hệ liên kết qua lại giữa các thành viên, các bộ phận, các lực
lượng xã hội của dân tộc từ nhở tới lớn, từ thấp đến cao, từ trong ra ngoài, từ
trên xuống dưới. Người đã nhiều lần nêu rõ “Ta đoàn kết để đấu tranh cho
thống nhất và độc lập Tổ quốc, ta còn phải đoàn kết để xây dựng nước nhà. Ai
có tài, có đức, có lòng phụng sự Tổ quốc và phục vụ nhân dân thì ta đoàn kết
với họ” [22,438]. Ta ở đây vừa là mọi người dân của Tổ quốc Việt Nam, vừa
là Đảng, với ý thức và tinh thần đoàn kết rộng rãi, Người đã dùng khái niệm
đại đoàn kết dân tộc để định hướng cho việc xây dựng khối đại đoàn kết dân
tộc trong suốt tiến trình của cách mạng Việt Nam ở mọi gai đoạn cách mạng.
Đại đoàn kết dân tộc thực chất là thực hiện khối đại đoàn kết toàn dân ,
là tập hợp mọi người dân vào một mặt trận đấu tranh chung để cùng nhau
chống đế quốc thực dân, để chống áp bức, bóc lột, bất công.
Khối đại đoàn kết toàn dân bao gồm nhiều tầng, mặt trận và nhiều quan
hệ cấp độ liên kết. Vì vậy, trong quá trình xây dựng khối đại đoàn kết toàn
dân phải đứng vững trên lập trường quan điểm giai cấp công nhân, giải quyết
hài hòa mối quan hệ giữa giai cấp và dân tộc, toàn thể và bộ phận, theo
nguyên tắc lợi ich của giai cấp, của từng bộ phận phải phục tùng lợi ich của
dân tộc, lợi ich của toàn thể. Không được bỏ sót một lực lượng nào, miễn là
lực lượng đó có lòng trung thành và sẵn sàng phục vụ Tổ quốc, không là việt
gian, không phản bội lại quyền lợi của dân chúng.

20


Để thực hiện đại đoàn kết toàn dân thì phải kế thừa truyền thống yêu
nước – nhân nghĩa – đoàn kết của dân tộc. Truyền thống đó có cội nguồn sức
mạnh vô địch để cả dân tộc chiến đấu và chiến thắng mọi thiên tai địch họa,

làm cho đất nước được trường tồn, bản sắc văn hóa của dân tộc được giữ
vững. Đồng thời phải có tấm long khoan dung độ lượng với con người, Người
chi rõ, trong mỗi cá nhân cũng như mỗi cộng đồng đều có những ưu điểm,
khuyết điểm, mặt tốt, mặt xấu…Người lấy hình tượng nắm ngón tay có ngón
ngắn ngón dài, nhưng cả năm ngón ấy đều thuộc về một bàn tay, để nói lên
của sựu cần thiết phải thực hiện đoàn kết rộng rãi. Bác đã nói: “Tôi khuyên
đồng bào đoàn kết chặt chẽ và rộng rãi. Năm ngón tay có ngón ngắn ngón dài.
Nhưng ngắn dài đều họp nhau lại nơi bàn tay. Trong mấy triệu người cũng có
người thế này thế khác nhưng thế này thế khác đều là dòng dõi của Tổ tiên ta.
Vậy nên ta phải khoan hồng đại độ. Ta phải nhận rằng đã là con Lạc cháu
Hồng thì ai cũng có it hay nhiều tinh thần nhân ái mà cảm hóa họ. Có thế mới
thành đại đoàn kết có đại đoàn kết thì tương lai chắc chắn sẽ vẻ vang”. Cho
nên, vì lợi ich của cách mạng và dân tộc thì cần phải có lòng khoan dung độ
lượng, trân trọng cái phần thiện dù nhỏ nhất ở mỗi người… Thậm chi là với
những người trước đây chống ta, nhưng nay không chống nữa đã nhận ra lỗi
lầm và muốn sữa đổi, khối đại đoàn kết dân tộc vẫn rộng mở, mà không định
kiến và khoét sâu cách biệt để có thể tập hợp, quy tụ rộng rãi mọi lực lượng.
Cần phải lưu ý rằng, lòng khoan dung độ lượng ở Hồ Chi Minh không
phải là một sách lược nhất thời, ở một giai đoạn chinh trị nhất định mà là sự
tiếp nối và phát triển truyền thống nhân ái, bao dung của cả dân tộc, từ chinh
mục tiêu của cách mạng mà Người suốt đời theo đuổi. Người tuyên bố: “Bất
ky ai mà thật thà tán thành hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ thì dù
những người đó trước đây chống chúng ta, bây giờ chúng ta cũng thật thà
đoàn kết với họ” phù hợp với truyền thống và lời dạy của cha ông “đánh kẻ

21


chạy đi chứ không nên đánh người chạy lại”. Để thực hiện đoàn kết thì chúng
ta nên xóa bỏ hết mọi thành kiến, cần phải thật thà giúp đỡ nhau cùng tiến bộ.

Một điều rất quan trọng khi chúng ta thực hành đoàn kết rộng rãi đó là
cần phải có niềm tin vào nhân dân. Với chủ tịch Hồ Chi Minh, yêu dân, tin
dân, dựa vào dân, sống và đấu tranh vì hạnh phúc của nhân dân là một nguyên
tắc tối cao. Nguyên tắc này vừa là sự tiếp nối truyền thống của dân tộc “nước
lấy dân làm gốc”, “chở thuyền và lật thuyền cũng là dân”, đồng thời là sự
quán triệt sâu sắc nguyên lý mácxit “cách mạng là sự nghiệp của quần chúng
nhân”. Theo Người, Dân là chỗ dựa vững chắc của Đảng, là nguồn gốc sức
mạnh vô tận và vô địch của khối đại đoàn kết, quyết định thắng lợi của cách
mạng, là nền, là gốc và chủ thể của Mặt trận nhân dân. Trong hai cuộc kháng
chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mĩ cùng các thế lực thù địch suốt mấy
chục năm trời, Đảng ta đã thực hiện cuộc chiến tranh nhân dân, dựa vào dân,
phát huy mọi nguồn sức mạnh của nhân dân về nhân lực và vật lực lẫn tri lực.
Kết quả cuối cùng mà nhân dân ta đã thu được đó là Tổ quốc thống nhất,, non
sông thu về một mối, độc lập dân tộc được giữ vững và quan trọng hơn hết đó
là sức mạnh đại đoàn kết toàn dân được nâng lên tầm cao mới.
Sỡ dĩ Người khẳng định được quan niệm đại đoàn kết dân tộc một cách
rộng rãi như vậy là vì xuất phát từ thực tiễn cách mạng của đất nước và đặc
biệt hơn là Người có lòng tin ở nhân dân, tin rằng trong mỗi người “Ai cũng
có it nhiều tấm lòng yêu nước” tiềm ẩn bên trong. Tấm lòng yêu nước ấy có
khi bị bụi bẩn che mờ, chi cần làm thức tinh lương tri con người thì lòng yêu
nước ấy lại bộc lộ. Vì vậy, mẫu số chung để quy tụ mọi người vào khối đại
đoàn kết dân tộc chinh là nền độc lập và thống nhất của Tổ quốc là cuộc sống
tự do và hạnh phúc của nhân cần phải xây dựng từ hôm nay và cho đến mãi
về sau.
Tư tưởng đại đoàn kết của Người nhằm thúc đẩy lực lượng cho cách
mạng nước ta là lý luận rộng lớn, Bác đã nói: “Chúng ta phải đoàn kết chặt

22



chẽ các tầng lớp nhân dân, động viên lực lượng của nhân dân, để phấn đấu
hoàn thành sự nghiệp công nghiệp hóa nước nhà. Phải đoàn kết tốt các đảng
phái, các đoàn thể các nhân sĩ trong Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, thực hiện
hợp tác lâu dài, giúp đỡ lẫn nhau, cùng nhau tiến bộ. Phải đoàn kết các dân
tộc anh em, cùng nhau xây dựng Tổ quốc, phải đoàn kết chặt chẽ giữa đồng
bào lương và đồng bào các tôn giáo cùng nhau xây dựng đời sống hòa thuận
ấm no, xây dựng Tổ quốc”[25, 605 - 606].
Hồ Chi Minh nhận thức rõ là dù giáo hay lương, đại bộ phận người Việt
Nam là người lao động yêu nước. Tháng 5/1948, trong lời kêu gọi đồng bào
Cao Đài – Hòa Hảo, Người viết: Trừ một bọn rất it đại diện Việt gian, đồng
bào ta ai cũng có lòng yêu nước. Trong Báo cáo chinh trị tại Hội nghị lần thứ
3 của Ban chấp hành TW Đảng khóa II, Người khẳng định: phần lớn, đồng
bào tôn giáo nhất là các tầng lớp lao động đều yêu nước kháng chiến, như
Công giáo từ nhiều nơi như Cao Đài kháng chiến. Vì vậy, là người Việt nam
ắt hẳn ai cũng vậy, đều muốn nước nhà được độc lập, đồng bào được tự do
hạnh phúc.
Tư tưởng Hồ Chi Minh về đại đoàn kết trước hết là ở chỗ Người thấy rõ
sức mạnh to lớn của ý nghĩa quyết định của sự đoàn kết đối với thắng lợi của
cách mạng. Ngay từ khi đất nước còn bị chủ nghĩa đế quốc thực dân thống trị,
Người tin rằng “việc gì khó cho mấy, quyết tâm làm thì làm chắc được it
người làm không nổi, nhiều người đồng tâm hiệp lực mà làm thì phải nổi”
[18, 241]. Đấu tranh giành độc lập dân tộc là nhiệm vụ khó khăn, nhiều gian
khổ và hi sinh là một sự nghiệp to lớn, Người cho rằng “sự nghiệp làm nên
bởi chữ đồng”, nghĩa là đồng chi, đồng sức, đồng lòng.
Vì vậy, mà chúng ta phải biết đoàn kết nhau lại để tạo nên sức mạnh nền
tảng của khối đại đoàn kết là liên minh công nông – nền tảng đó càng được
củng cố vững chắc bao nhiêu thì khối đại đoàn kết dân tộc càng có thể mở
rộng ra bấy nhiêu mà không thế lực nào có thể làm suy yếu nó được.

23



1.2.5. Đại đoàn kết dân tộc phải biến thành sức mạnh vật chất có tổ chức
là Mặt trận dân tộc thống nhất dưới sự lãnh đạo của Đảng
Theo Hồ Chi Minh, đại đoàn kết dân tộc không thể chi dừng lại ở tư
tưởng quan điểm, ở tư tưởng, những lời kêu gọi, mà cần phải biến thành một
chiến lược cách mạng, trở thành khẩu hiệu hành động của toàn Đảng, toàn
dân tộc và trở thành lực lượng vật chất có tổ chức đó là mặt trận dân tộc thống
nhất là một hình thức tổ chức khối đoàn kết toàn dân. Cả dân tộc chi trở thành
lực lượng to lớn, có sức mạnh vô địch trong đấu tranh bảo vệ và xây dựng Tổ
quốc khi được giác ngộ về mục đich chiến đấu, được tập hợp, tổ chức lại
thành một khối vững chắc và hoạt động theo đường lối chinh trị đúng đắn.
Nếu không được như vậy, thì dù quần chúng nhân dân có đông tới mấy, dù có
tập hợp thành hàng triệu, hàng trăm triệu con người thì cũng chi là một số
đông không có sức mạnh. Luận điểm này đã được minh chứng trong thực tiễn
cách mạng của đất nước đó là, bước sang những năm đàu của thế ki XX mặc
dù đã có rất nhiều phong trào đấu tranh của nhân dân, của những sĩ phu tiến
bộ của một số tri thức tư sản yêu nước nhằm giành lại độc lập cho dân tộc,
song nhưng cố gắng của họ đều có chung kết cục đó là thất bại. Mặc dù cùng
chung mục đich là giành lại độc lập cho dân tộc, nhưng với ý thức hệ tư sản
và không có sự đoàn kết ủng hộ rộng rãi của quần chúng nên họ đã nhanh
chóng bị thực dân Pháp đàn áp như: tổ chức Việt Nam Quốc dân Đảng
(3/1930).
Ngay sau khi tìm thấy con đường để giải phóng dân tộc theo quỹ đạo của
cuộc cách mạng vô sản. Và Người đã khẳng định dứt khoát “Cách mạng là
việc chung của cả dân chúng chứ không phải là việc của một hay hai người”.
Người cũng nói ngay rằng, con đường cách mạng của dân tộc ta là rất khó
khăn, nhưng biết cách làm, biết đồng tâm hiệp lực mà làm thì chắc chắn là
được và như thế thì không khó. Hồ Chi Minh cũng rất chú ý đến việc đưa
quần chúng nhân dân vào những tổ chức yêu nước phù hợp với từng giai cấp,


24


tầng lớp, từng ngành nghề, từng lứa tuổi, từng tôn giáo…và phù hợp với từng
giai đoạn của cách mạng. Đó có thể là các hội ái hữu hay tương trợ, công hội
hay nông hội, đoàn thanh niên hay hội phụ nữ, đội thiếu niên nhi đồng hay hội
phụ lão, hội Phật giáo cứu quốc, Công giáo yêu nước hay những nghiệp
đoàn…Nhưng trong đó, tổ chức bao trùm nhất là Mặt trận dân tộc thống nhất.
Mật trận dân tộc thống nhất là nơi tập hợp quy tụ tất cả mọi tổ chức cá
nhân yêu nước, mọi người dân nước Việt, không phải chi ở trong nước mà cả
những người dân Việt đang sinh sống, học tập, làm việc và định cư ở nước
ngoài. Dù ở bất cứ phương trời nào, nếu có tấm lòng vẫn hướng về quê hương
đất nước, về Tổ quốc Việt Nam đều được coi là thành viên của mặt trận. Sức
mạnh của toàn dân chi được phát huy khi quần chúng nhân dân được quy tụ
trong những tổ chức yêu nước và cách mạng. Vì vậy, Đảng coi trọng xây
dựng các hình thức tổ chức của Mặt trận, các tổ chức quần chúng phù hợp với
mục đich, nhiệm vụ chinh trị của từng đối tượng và từng thời ky lịch sử.
Sau khi Đảng được thành lập (3/2/1930), thì Thường vụ TW Đảng đã ra
chi thị thành lập Hội phản đế đồng minh (18/11/1930). Sau đó vào từng giai
đoạn cách mạng thì Mặt trận dân chủ được thành lập trong phong trào đấu
tranh đòi dân sinh, dân chủ những năm (1936 - 1939). Để nêu cao ngọn cờ
giải phóng dân tộc, Đảng chủ trương thành lập Mặt trận thống nhất phản đế
Đông Dương (1939 - 1941). Dưới sựu lãnh đạo của Đảng, các tổ chức của
mặt trận nói trên đều đã hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình ở mỗi giai đoạn
cách mạng khác nhau. Nhưng tất cả đều có chung một mục đich đó là đánh
đuổi đế quốc, giành độc lập dân tộc. Và trải qua quá trình hoạt động, khi mà
hoàn cảnh đất nước và thế giới có những thay đổi khác cùng với sự phát triển
lớn mạnh của phòng trào cách mạng thì đòi hỏi phải có mặt trận thống nhất
toàn dân tộc ra đời, để tập hợp được tất cả mọi lực lượng, mọi thành phần dân

tộc, mọi đảng phái, huy động tối đa sức mạnh của dân tộc. Sáng kiến này đã

25


×