Tải bản đầy đủ (.doc) (70 trang)

Đường lối đối ngoại của Đảng Cộng sản Việt Nam trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2017)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (508.96 KB, 70 trang )

1

ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
KHOA GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
Đề tài:
ĐƯỜNG LỐI ĐỐI NGOẠI CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
TRONG CƯƠNG LĨNH XÂY DỰNG ĐẤT NƯỚC
TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
(BỔ SUNG, PHÁT TRIỂN NĂM 2011)

Sinh viên thực hiện

: Lê Thái Bình

Giảng viên hướng dẫn : T. S Vương Thị Bích Thủy
Niên khóa

: 2009 -2013

Đà nẵng, tháng 05 năm 2013


2

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi, được
thực hiện dưới sự hướng dẫn của Tiến sĩ Vương Thị Bích Thủy.
Các thông tin, số liệu trong Khóa luận là trung thực, chính xác, đảm bảo


tính khách quan, khoa học.

Đà Nẵng, ngày 15 tháng 5 năm 2013
Tác giả

Lê Thái Bình


3

Lêi c¶m ¬n !
Lời đầu tiên cho phép em kính gửi tới cô Vương
Thị Bích Thủy lời cảm ơn sâu sắc nhất, trong suốt quá
trình làm khóa luận tốt nghiệp cô đã hết lòng quan tâm,
tận tình hướng dẫn, chỉ bảo cho em.
Em xin được gửi lời cảm ơn chân thành tới các
thầy cô giáo là giảng viên trong Khoa Giáo dục Chính
trị - Trường Đại học Sư phạm – Đại học Đà Nẵng,
cùng các thầy cô là giảng viên trường Đại học kinh tế Đại học Đà Nẵng đã ủng hộ, giúp đỡ em về tài liệu để
em có thể hoàn thành khóa luận tốt nghiệp của mình.
Mặc dù đã hết sức cố gắng nhưng do lần đầu làm
quen với công tác nghiên cứu khoa học nên chắc
chắn đề tài còn nhiều thiếu sót, rất mong được sự
góp ý, bổ sung của các thầy cô cùng các bạn sinh
viên để đề tài được hoàn chỉnh hơn.
Đà Nẵng, ngày 15 tháng 5 năm 2013
Sinh viên

Lê Thái Bình


\


4

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Thế kỷ XXI đang mở ra những cơ hội to lớn nhưng cũng chứa đựng rất
nhiều thách thức. Sau hơn 25 năm tiến hành công cuộc đổi mới đất nước, thế và
lực của nước ta đã lớn mạnh lên nhiều. Môi trường hoà bình, sự hợp tác, liên kết
quốc tế và những xu thế tích cực trên thế giới tiếp tục tạo điều kiện để Việt Nam
phát huy nội lực và lợi thế so sánh, tranh thủ ngoại lực. Tuy nhiên, chúng ta
cũng đang phải đối mặt với nhiều thách thức rất lớn. Nhằm phát huy những
thành tựu to lớn đã đạt được trong công cuộc đổi mới và vươn tới mục tiêu xây
dựng một nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn
minh, Đảng và Nhà nước Việt Nam kiên trì thực hiện đường lối đối ngoại độc
lập, tự chủ, rộng mở, đa dạng hoá, đa phương hoá quan hệ quốc tế, gắn với chủ
động tích cực hội nhập quốc tế.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI diễn ra trong bối cảnh toàn Đảng, toàn
dân và toàn quân ta đã đạt được những thành tựu quan trọng trong công cuộc đổi
mới đất nước: đời sống nhân dân được cải thiện; chính trị - xã hội ổn định; quốc
phòng, an ninh được tăng cường; độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh
thổ được giữ vững; hoạt động đối ngoại, hội nhập quốc tế được mở rộng; vị thế,
uy tín quốc tế của nước ta được nâng cao. Đại hội đã thông qua ba văn kiện quan
trọng là Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
(bổ sung, phát triển năm 2011); Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội 2011- 2020
và Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X. Các văn
kiện trên đã nêu lên những định hướng lớn, những nguyên tắc cơ bản mang tầm
chiến lược về đường lối, mục tiêu, nhiệm vụ trong thời kỳ đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và nhất là trong giai đoạn từ 2011 đến 2020.

Với nhiều nội dung mới về đối ngoại, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) sau đây gọi
tắt là Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011) đã kế thừa đường lối đối ngoại
đã được xác lập trong Cương lĩnh năm 1991, đồng thời bổ sung phát triển về


5

phương hướng, mục tiêu của đối ngoại phù hợp với xu hướng và tình hình cách
mạng mới. Thể hiện rõ nét tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh, vững mục tiêu độc
lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời
đại, phát huy thế mạnh của đất nước, làm nên sức mạnh tổng hợp của nền ngoại
giao toàn diện Việt Nam trong thời kỳ đổi mới. Dựa trên nền tảng lý luận của
chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, trên cơ sở dự báo, nắm bắt xu
thế vận động, phát triển của thế giới và căn cứ vào thực tiễn, tình hình của đất
nước, Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011) của Đảng đã kế thừa, bổ sung
hoàn thiện đường lối đối ngoại đổi mới phù hợp với tình hình đất nước hiện nay.
Đường lối đối đó đã tạo ra sự thay đổi cơ bản, toàn diện cho Việt Nam, tạo bước
đi vững chắc trong mở rộng quan hệ, nâng cao vị thế của nước ta trên trường
quốc tế.
Để góp phần nhận thức đúng đắn về đường lối, chính sách đối ngoại của
Đảng trong tình hình hiện nay, tôi chọn vấn đề “Đường lối đối ngoại của Đảng
Cộng sản Việt Nam trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ
lên Chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011)” làm đề tài khóa luận tốt
nghiệp của mình.
2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu
Đường lối, chính sách đối ngoại của Đảng, Nhà nước ta trong thời kỳ đổi
mới là vấn đề lớn, thu hút sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu trong và ngoài
nước. Đến nay đã có nhiều công trình, tác phẩm, bài viết nghiên cứu về đường
lối, chính sách đối ngoại của Đảng trong thời kỳ đổi mới dưới nhiều góc độ, với

nhiều nội dung khác nhau.
Các giáo trình do Học viện Quan hệ Quốc tế, Hà Nội xuất bản như:
“Tình hình quốc tế và chính sách đối ngoại của Việt Nam”, “Ngoại giao Việt
Nam hiện đại vì sự nghiệp đổi mới (1975-2002)” của tác giả Vũ Dương Huân
chủ biên, 2003.“Khuôn khổ quan hệ đối tác của Việt Nam” do Nguyễn Vũ Tùng
(Chủ biên) 2007,…đã trình bày những nội dung cơ bản về đường lối, chính sách
đối ngoại của Đảng và nhà nước ta.


6

Đã có nhiều sách tham khảo, chuyên khảo của các tác giả trong nước được
xuất bản trong thời gian vừa qua, như: "Đổi mới hoạt động kinh tế đối ngoại
Việt Nam", Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002 của tác giả Nguyễn Thanh
Uẩn; "Ngoại giao Việt Nam 1945 - 2000", Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002
của Bộ Ngoại giao; “Định hướng chiến lược đối ngoại Việt Nam đến 2020” do
Bộ trưởng Phạm Bình Minh (Chủ biên), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, năm
2010. Các tác phẩm nêu trên ít nhiều đã đề cập đến những nội dung khác nhau
trong quan điểm, chủ trương, chính sách đối ngoại của Đảng trong giai đoạn
hiện nay.
Trên các tạp chí cũng đã đăng tải nhiều bài viết, bài nói chuyện quan trọng
của các đồng chí lãnh đạo Đảng và Nhà nước ta về đường lối, chính sách đối
ngoại của Đảng, như: “Những chuyển biến trên thế giới và tư duy mới của
chúng ta”, của nhà ngoại giao mới và vận nước" của tác giả Trần Quang Cơ,
Tạp chí Quan hệ Quốc tế, 3-1992; "Trên đường triển khai chính sách đối ngoại
theo định hướng mới" của nguyên Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Nguyễn Mạnh
Cầm, Tạp chí Cộng sản, số 4-1993; "Nền ngoại giao đổi mới" của nguyên Thủ
tướng Võ Văn Kiệt trả lời phỏng vấn Tuần báo Quốc tế đầu xuân 1994; Nguyễn
Quốc Phẩm, Cương lĩnh năm 1991 và những vấn đề đặt ra về thời đại ngày nay,
Tạp chí quốc phòng toàn dân, số tháng 2, tr 9-11 , năm 2009; “Ngoại giao Việt

Nam tích cực, chủ động hội nhập quốc tế vì sự phát triển bền vững của đất
nước” của nguyên Phó Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Phạm
Gia Khiêm.Nguyễn Cơ Thạch, Tạp chí Quan hệ Quốc tế, tháng 1-1990; "Cục
diện thế giới
Tác giả Nguyễn Viết Thông với bài viết “Một số điểm mới trong Dự thảo
Cương lĩnh trình Đại hội XI của Đảng”, Tạp chí Tuyên giáo, số tháng 5/2010;
“Đối ngoại Việt Nam năm 2010: Phát triển năng động và chủ động, vững vàng
trên bước đường hội nhập” của nguyên Thứ trưởng thường trực Bộ Ngoại giao
Phạm Bình Minh, Tạp chí Thông tin đối ngoại tháng 12/2010; “Để góp phần
xứng đáng vào sự nghiệp phát triển mặt trận đối ngoại nhân dân” của Vũ Xuân


7

Hồng, Tạp chí Cộng sản số 843 tháng 1 năm 2013; …Bên cạnh đó, còn có một
số luận án, luận văn đã bảo vệ đề cập đến chủ đề này như Vũ Quang Vinh:
Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo hoạt động đối ngoại (1986 - 2000), Luận án
tiến sĩ lịch sử, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh năm 2001; Phạm Hồng
Thủy: Tìm hiểu đường lối đối ngoại của Đảng cộng sản Việt Nam trong thời kỳ
đổi mới, Luận văn tốt nghiệp Đại học chuyên ngành Sư phạm Giáo dục Chính
trị, Đại học Sư phạm - Đại học Đà Nẵng, 2010.
Nhìn chung, những công trình, bài viết nêu trên đã đề cập khá toàn diện
đến nhiều nội dung khác nhau trong đường lối đối ngoại của Đảng Cộng sản
Việt Nam trong thời kỳ đổi mới. Tuy nhiên, chưa có nhiều công trình nghiên
cứu một cách đầy đủ và có hệ thống về đường lối đối ngoại của Đảng trong
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (năm
1991), và nhất là còn ít công trình nghiên cứu những nội dung mới về đường lối
đối ngoại trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011). Vì vậy, chúng tôi nghĩ rằng, đây là
đề tài còn nhiều nội dung mới, cần phải được đầu tư nghiên cứu nhiều hơn.

3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu
* Mục đích: Qua việc làm sáng tỏ những nội dung mới về đối ngoại của
Đảng Cộng sản Việt Nam trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011), đề tài góp phần
nhận thức rõ hơn về đường lối, chính sách đối ngoại của Đảng trong giai đoạn
cách mạng mới, khẳng định sự nhạy cảm chính trị, tư duy mới, tầm nhìn xa của
Đảng và Nhà nước ta về đối ngoại trong bối cảnh quốc tế có nhiều biến động
phức tạp.
* Nhiệm vụ:
- Thứ nhất: Làm rõ những nội dung cơ bản về đường lối, chính sách đối
ngoại của Đảng Cộng sản Việt Nam trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong
thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội (1991).


8

- Thứ hai: Làm rõ sự kế thừa, bổ sung và phát triển đường lối đối ngoại của
Đảng trong Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011).
* Giới hạn của đề tài:
Đề tài chỉ nghiên cứu đường lối, chính sách đối ngoại của Đảng trong hai
văn kiện quan trọng là Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội (năm 1991), và Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011)
được cụ thể hóa trong các nghị quyết qua các kỳ Đại hội của Đảng.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Đề tài dựa trên cơ sở lý luận và phương pháp luận của chủ nghĩa Mác Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, nghiên cứu các Văn kiện, Nghị quyết của Đảng
Cộng sản Việt Nam về đối ngoại. Đồng thời đề tài tham khảo, kế thừa và tiếp
thu có chọn lọc kết quả nghiên cứu từ những tác phẩm, công trình, bài viết của
các tác giả khác nghiên cứu về vấn đề này.
- Đề tài sử dụng kết hợp nhiều phương pháp: phương pháp hệ thống hoá,
phương pháp kết hợp lịch sử-logic, phương pháp tổng hợp, phân tích, so sánh.

5. Đóng góp của đề tài
Đề tài nghiên cứu một cách có hệ thống, làm rõ những nội dung mới về
đường lối, chính sách đối ngoại của Đảng Cộng sản Việt Nam trong Cương lĩnh
(bổ sung, phát triển năm 2011).
6. Ý nghĩa của đề tài
Nghiên cứu đề tài có ý nghĩa đối với bản thân trong việc làm quen với
phương pháp nghiên cứu khoa học, góp phần nâng cao nhận thức về vai trò lãnh
đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trong sự nghiệp đổi mới đất nước.
Đề tài có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho sinh viên và các tác giả
khác quan tâm đến vấn đề này.
7. Kết cấu đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, nội dung của đề tài gồm có 2 chương, 5 tiết
và cuối cùng là danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục.


9

NỘI DUNG
CHƯƠNG I: NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN VỀ ĐƯỜNG LỐI, CHÍNH
SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM TRONG
CƯƠNG LĨNH XÂY DỰNG ĐẤT NƯỚC TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ
LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI (1991)
Cương lĩnh năm xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội được thông qua tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII (năm 1991) ra đời
trong bối cảnh cuộc khủng hoảng toàn diện trong hệ thống xã hội chủ nghĩa dẫn
đến sự sụp đổ của Liên Xô và nhiều nước XHCN ở Đông Âu. Ở trong nước sau
5 năm thực hiện đường lối đổi mới, tình hình kinh tế - xã hội có những chuyển
biến tích cực, song chúng ta chưa thoát ra khỏi khủng hoảng. Bối cảnh trên đặt
ra cho Cương lĩnh nhiệm vụ hết sức nặng nề, phải xác định đúng đắn con đường
phát triển để đưa đất nước thoát ra khỏi khủng hoảng, và giữ vững sự ổn định

chính trị, xã hội.
1.1. Hoàn cảnh ra đời của Cương lĩnh năm 1991
1.1.1. Hoàn cảnh quốc tế
Cương lĩnh năm 1991 đã nhận định, nước ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội
diễn ra trong hoàn cảnh quốc tế có những biến đổi to lớn và sâu sắc, đó là:
Cuộc cách mạng khoa hộc công nghệ (đặc biệt là công nghệ thông tin)
tiếp tục phát triển mạnh mẽ, tác động sâu sắc đến mọi mặt đời sống của các
quốc gia dân tộc [19, 24]. Cuộc cách mạng khoa học – công nghệ hiện đại tác
động sâu sắc đến tất cả các nước đang phát triển trên thế giới, tạo ra nhiều cơ hội
thuận lợi đồng thời cũng đặt ra nhiều thách thức cho các nước, trong đó có Việt
Nam. Nếu chúng ta tận dụng tốt những cơ hội thì sẽ rút ngắn khoảng cách về
kinh tế, nâng cao trình độ khoa học – công nghệ so với các nước phát triển,
nhanh chóng hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới.
Các nước xã hội chủ nghĩa trên thế giới lâm vào cuộc khủng hoảng sâu
sắc. Trong quá trình hình thành và phát triển, Liên Xô và các nước xã hội chủ
nghĩa khác đã đạt được những thành tựu to lớn về nhiều mặt, đã từng là chổ dựa


10

cho phong trào hòa bình và cách mạng của thế giới, đẩy lùi nguy cơ chiến tranh
hạt nhân, góp phần quan trọng vào cuộc đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc,
dân chủ và tiến bộ xã hội. Nhưng do duy trì quá lâu những khuyết tật của mô
hình củ của chủ nghĩa xã hội, chậm trễ trong cách mạng khoa học và công nghệ,
nhiều nước xã hội chủ nghĩa đã lâm vào khủng hoảng trầm trọng, thậm chí ở
một số nước Đảng cộng sản mất vai trò lãnh đạo, chế độ xã hội đã thay đổi. Các
thế lực thù địch và chủ nghĩa đế quốc luôn phản kích quyết liệt nhằm xoá bỏ các
nước xã hội chủ nghĩa.
Chủ nghĩa tư bản còn có tiềm năng phát triển kinh tế, song bản chất áp
bức, bóc lột và bất công vẫn không thay đổi. Mâu thuẫn cơ bản của chủ nghĩa tư

bản ngày càng sâu sắc. Mâu thuẫn giữa các tầng lớp nhân dân với giai cấp tư
sản, giữa các tập đoàn tư bản độc quyền, các trung tâm tư bản, giữa các nước tư
bản phát triển với các nước đang phát triển ngày càng tăng. “Chủ nghĩa xã hội
hiện đứng trước nhiều khó khăn, thử thách. Lịch sử thế giới đang trải qua những
bước quanh co; song, loài người cuối cùng nhất định sẽ tiến tới chủ nghĩa xã hội
vì đó là quy luật tiến hoá của lịch sử” [19, 25]. Đây cũng là tính tât yếu cuả chủ
nghĩa xã hội trên phạm vi toàn cầu.
Về xu thế quốc tế hóa và toàn cầu hóa: “Nền sản xuất vật chất và đời
sống xã hội đang trong quá trình quốc tế hóa sâu sắc, ảnh hưởng lớn đến nhịp độ
phát triển của lịch sử và cuộc sống các dân tộc. Những xu thế đó vừa tạo thời cơ
phát triển nhanh cho các nước, vừa đặt ra những thách thức gay gắt, nhất là
những nước lạc hậu về phát triển kinh tế” [19, 24]. Những tác động của toàn cầu
hóa với Việt Nam, Đảng ta đã nhận thức ngày càng đầy đủ hơn về xu thế khách
quan của toàn cầu hoá, khu vực hoá với những cơ hội, thách thức của nó và sự
cần thiết phải tham gia vào quá trình này.
Trong xu thế toàn cầu hóa ngày càng lan rộng các nước độc lập dân tộc
và các nước đang phát triển tiếp tục tiến hành cuộc đấu tranh rất khó khăn và
phức tạp, chống nghèo nàn và lạc hậu, chống chủ nghĩa thực dân mới dưới mọi


11

hình thức, chống sự can thiệp và xâm lược của chủ nghĩa đế quốc nhằm bảo vệ
chủ quyền và độc lập dân tộc.
Về các vấn đề toàn cầu: Nhân dân các nước trên thế giới đang đứng trước
những vấn đề toàn cầu cấp bách có liên quan đến vận mệnh của cả loài người.
Đó là giữ gìn hòa bình, đẩy lùi nguy cơ chiến tranh, bảo vệ môi trường, hạn chế
sự bùng nổ về dân số, phòng ngừa và đẩy lùi những dịch bệnh hiểm nghèo. Việc
giải quyết những vẫn đề đó đòi hỏi sự hợp tác quốc tế và về tinh thần trách
nhiệm cao của tất cả dân tộc [19, 26].

Khu vực Châu Á – Thái Bình Dương: Từ thập kỷ 90, tình hình khu vực có
những chuyển biến mới: Trước hết, trong khu vực vẫn tồn tại những bất ổn, như
vấn đề hạt nhân, vấn đề tranh chấp lãnh hải thuộc vùng biển Đông và việc các
nước tăng cường chạy đua vũ trang, nhưng Châu Á – Thái Bình Dương vẫn
được đánh giá là khu vực ổn định; hai là, Châu Á – Thái Bình Dương có tiềm
lực lớn và năng động về phát triển kinh tế.
Nhìn chung những chuyển biến của tình hình khu vực và quốc tế đã đòi
hỏi tất cả các nước phải mở rộng quan hệ trên tất cả các mặt, trong đó trước hết
là mở rộng quan hệ đối ngoại, hội nhập kinh tế được coi là cốt lõi quan trọng
nhất. Tình hình đó đòi hỏi Đảng ta phải có tư duy đối ngoại sắc bén, linh hoạt,
đổi mới đường lối, chính sách đối ngoại theo hướng mở rộng quan hệ với tất cả
các nước, tạo điều kiện quốc tế thuận lợi để sớm đưa nước ta ra khỏi tình thế bị
bao vây, cấm vận.
1.1.2. Tình hình trong nước
Cương lĩnh năm 1991 ra đời khi đất nước bước vào đổi mới được năm
năm, bên cạnh những kết quả bước đầu việc thực hiện đường lối đổi mới, đất
nước ta đứng trước rất nhiều những khó khăn, thách thức.
Sự bao vây, chống phá của các thế lực thù địch đối với Việt Nam từ nửa
cuối thập kỷ 1970 thế kỷ XX tạo nên tình trạng căng thẳng, mất ổn định trong
khu vực và gây khó khăn, cản trở cho sự phát triển của cách mạng Việt Nam, là
một trong những nguyên nhân làm cho đất nước ta lâm vào tình trạng khủng


12

hoảng về kinh tế - xã hội nghiêm trọng. Vì vậy, Đảng chỉ rõ vấn đề giải toả tình
trạng đối đầu, thù địch, phá thế bị bao vây, cấm vận là việc cần thiết phải thực
hiện, để từ đó tiến tới bình thường hoá quan hệ với các nước. Trên cơ sở đó,
chúng ta mới có thể mở rộng quan hệ hợp tác với các nước, tạo môi trường quốc
tế thuận lợi để tập trung xây dựng kinh tế. Hơn bao giờ hết, Việt Nam đứng

trước nhu cầu bức bách là phải thoát ra khỏi tình thế bị bao vây, cấm vận để
tranh thủ mọi điều kiện quốc tế thuận lợi đưa đất nước phát triển đi lên. Đây
thực sự là nhu cầu cần thiết và cấp bách đối với nước ta.
Mặc khác, do hậu quả nặng nề của chiến tranh và các khuyết điểm chủ
quan, nền kinh tế Việt Nam lâm vào khủng hoảng nghiêm trọng. Cùng một lúc
thực hiện những yêu cầu cơ bản, cấp bách là ổn định và cải thiện đời sống, tích
lũy để xây dựng chủ nghĩa xã hội và củng cố quốc phòng – an ninh. Nguy cơ tụt
hậu xa hơn vể kinh tế so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới là một
trong những thách thức lớn đối với cách mạng Việt Nam. Để thu hẹp khoảng
cách phát triển giữa nước ta với các quốc gia khác, ngoài việc phát huy tối đa
nội lực thì việc tranh thủ các nguồn lực bên ngoài, trong đó việc mở rộng và
tăng cường hợp tác kinh tế với các nước và tham gia vào cơ chế hợp tác đa
phương có ý nghĩa đặc biệt quan trọng.
Những đặc điểm, xu thế quốc tế và yêu cầu, nhiệm vụ của cách mạng Việt
Nam nêu trên là cơ sở để Đảng Cộng sản Việt Nam xác định quan điểm và
hoạch định chủ trương, chính sách đối ngoại xây dựng đất nước trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội .
1.2. Nội dung cơ bản về đường lối chính sách đối ngoại
1.2.1. Mục tiêu, nhiệm vụ và những chủ trương định hướng lớn về đối ngoại
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
năm 1991 đã xác định mục tiêu của công tác đối ngoại là: "Giữ vững hòa bình,
mở rộng quan hệ hữu nghị và hợp tác, tạo điều kiện quốc tế thuận lợi cho công
cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc đồng thời góp phần tích cực


13

vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc,
dân chủ và tiến bộ xã hội" [8, 88 - 89].
Để thực hiện những mục tiêu trên qua các kỳ Đại hội Đảng và hội nghị

Trung ương sau đó: Đại hội VII (1991), Hội nghị Trung ương 3 (khóaVII) và
Đại hội VIII (1996) của Đảng Cộng sản Việt Nam đã đề ra đường lối đối ngoại
độc lập tự chủ, chính sách đối ngoại rộng mở, đa dạng hóa, đa phương hóa quan
hệ quốc tế với phương châm "Việt Nam muốn là bạn của tất cả các nước trong
cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển"
Trước những thay đổi nhanh chóng của tình hình thế giới, Đảng nhấn
mạnh yêu cầu công tác đối ngoại là cần nhạy bén nhận thức, kịp thời đánh giá và
dự báo đúng những diễn biến phức tạp và thay đổi sâu sắc trong quan hệ quốc tế
để có đường lối, chính sách, chủ trương đối ngoại phù hợp. Trong điều kiện mới
càng phải coi trọng vận dụng bài học kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh
thời đại, kết hợp yếu tố truyền thống với yếu tố hiện đại để phục vụ sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
Từ nhận thức trên Cương lĩnh năm 1991 khẳng định chủ trương “Hợp tác,
bình đẳng và cùng có lợi với tất cả các nước, không phân biệt chế độ chính trị,
xã hội khác nhau, trên cơ sở nguyên tắc cùng tồn tại hoà bình”, với phương
châm “Việt Nam muốn là bạn với tất cả các nước trong cộng đồng thế giới,
phấn đấu vì hoà bình, độc lập, và phát triển”. Quan điểm đối ngoại được đề ra
trong Cương lĩnh năm 1991, là một điều chỉnh phù hợp với bối cảnh quốc tế mới
và yêu cầu mở rộng quan hệ quốc tế của Việt Nam.
Những định hướng lớn về đối ngoại
* Hợp tác bình đẳng và cùng có lợi với tất cả các nước trên cơ sở những
nguyên tắc cùng tồn tại hòa bình.
Theo đó, Cương lĩnh 1991 đã đổi mới chính sách đối ngoại với các đối tác
cụ thể. Với Lào và Campuchia, thực hiện đổi mới phương thức hợp tác, chú
trọng hiệu quả trên tinh thần bình đẳng. Với Trung Quốc, Đảng chủ trương thúc
đẩy bình thường hoá quan hệ, từng bước mở rộng hợp tác Việt – Trung. Trong


14


quan hệ với khu vực, Đảng chủ trương phát triển quan hệ hữu nghị với các nước
Đông Nam Á và châu Á - Thái Bình Dương, phấn đấu vì một Đông Nam Á hoà
bình, hữu nghị và hợp tác. Đối với Hoa Kỳ, Đảng và Nhà nước ta nhấn mạnh
yêu cầu: “Thúc đẩy quá trình bình thường hoá quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ” [8,
90]. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
được Đại hội lần thứ VII của Đảng thông qua, đã xác định quan hệ hữu nghị và
hợp tác với nhân dân tất cả các nước trên thế giới là một trong những đặc trưng
cơ bản của xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng.
* Không ngừng củng cố và phát triển quan hệ hữu nghị, hợp tác truyền
thống với các nước xã hội chủ nghĩa, các nước anh em trên bán đảo Đông
Dương.
+ Đối với Lào và Campuchia, Cương lĩnh năm 1991 về cơ bản nhất quán
với chủ trương của Đại hội VI là không ngừng củng cố, phát triển quan hệ đoàn
kết hữu nghị, đặc biệt giữa ba nước Đông Dương. Nhưng không nhấn mạnh tiếp
tục làm tròn nghĩa vụ quốc tế đối với Campuchia và Lào mà đặt ra yêu cầu “Đổi
mới phương thức hợp tác, chú trọng hiệu quả theo phương thức bình đẳng, tôn
trọng độc lập, chủ quyền và lợi ích chính đáng của nhau. Phấn đấu góp phần
sớm đạt được một giải pháp chính trị toàn bộ về vấn đề Campuchia phù hợp với
Hiến chương Liên hiệp quốc” [8, 89].
+ Vớí Trung Quốc, hai bên đã nối lại đàm phán, mở ra cơ hội cho sự cải
thiện quan hệ hai nước, vì vậy từ định hướng lớn về đối ngoại trong Cương lĩnh
năm 1991, Đại hội VII đã thúc đẩy quá trình bình thường hoá quan hệ với Trung
Quốc, từng bước mở rộng hợp tác Việt – Trung, giải quyết những vấn đề tồn tại
giữa hai nước thông qua thương lượng hoà bình.
* Đảng Cộng sản Việt Nam trước sau như một ủng hộ các đảng cộng sản
và công nhân, các phong trào cách mạng trong cuộc đấu tranh vì những mục
tiêu chung của thời đại.
Trong sự nghiệp đấu tranh cách mạng của mình, Đảng Cộng sản Việt
Nam luôn thể hiện tinh thần chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân, đồng



15

thời, xác định mình là một thành viên có trách nhiệm với phong trào cộng sản
quốc tế, luôn sẵn sàng hợp tác, phối hợp với tất cả các đảng cộng sản, các phong
trào tiến bộ xã hội trên thế giới, cùng đấu tranh vì mục tiêu chung của thời đại.
Tuy ở mỗi thời kỳ, mỗi giai đoạn, hình thức và đặc điểm của trách nhiệm đó thể
hiện ở những mức độ khác nhau, song, sự đoàn kết, hợp tác đó luôn đươc duy trì
trên tinh thần đồng chí anh em, thủy chung. Cương lĩnh năm 1991 xác định: bên
cạnh việc tiếp tục ủng hộ và tăng cường đoàn kết, hợp tác với các đảng cộng sản
và công nhân ở các nước bạn bè truyền thống, các lực lượng đấu tranh cho hòa
bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội, Đảng ta đã chủ động, tích cực
mở rộng hoạt động đối ngoại, “sẵn sàng thiết lập và mở rộng quan hệ với các
đảng xã hội - dân chủ, các phong trào dân chủ và tiến bộ trên thế giới” [12, 7].
Đảng Cộng sản Việt Nam luôn nêu cao tinh thần đoàn kết quốc tế với các nước
đang phát triển ở châu Á, châu Phi, Mỹ La-tinh; với Phong trào không liên kết;
với các lực lượng cách mạng, độc lập dân tộc và tiến bộ trên thế giới.
* Tham gia tích cực các tổ chức quốc tế và phong trào không liên kết vì
mục tiêu hòa bình, độc lập dân tộc và phát triển.
Phong trào Không liên kết ra đời trong cao trào giải phóng dân tộc làm
sụp đổ chủ nghĩa thực dân cũ và trong bối cảnh chiến tranh lạnh có nguy cơ dẫn
đến chiến tranh thế giới mới. Chính sách không liên kết là biểu thị ý chí của các
nước độc lập non trẻ Á, Phi, Mỹ la tinh đoàn kết đấu tranh, bảo vệ và củng cố
độc lập chính trị, từng bước giành độc lập kinh tế, bảo vệ hoà bình thế giới để
tồn tại và phát triển. Việt Nam luôn coi trọng việc tham gia phong trào không
liên kết, coi đó là chủ trương nhất quán trong chính sách đối ngoại rộng mở, đa
phương hoá và đa dạng hoá, bổ sung cho quan hệ song phương, khu vực và quốc
tế của mình. Việt Nam đang có nhiều thuận lợi để đóng góp tích cực hơn vào sự
nghiệp phát triển chung của các nước không liên kết trên thế giới.
* Phát triển quan hệ với các nước Đông - Nam Á, tích cực góp phần xây

dựng khu vực này thành khu vực hòa bình và hợp tác.


16

Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) là một diễn đàn hợp tác về
chính trị kinh tế, văn hóa và an ninh của các quốc gia trong khu vực Đông Nam
Á. Việt Nam là một nước đang phát triển, trước những biến đổi của thế giới và
tình hình khu vực, để đưa đất nước ta phát triển về mọi mặt thì việc gia nhập
ASEAN là một tất yếu. Trong quan hệ với các nước Đông Nam Á, Cương lĩnh
năm 1991 của Đảng ta chỉ rõ: “Chúng ta mong muốn sẵn sàng cùng các nước
trong khu vực thương lượng để giải quyết các vấn đề ở Đông Nam Á, thiết lập
mối quan hệ cùng tồn tại hòa bình, xây dựng Đông Nam Á thành khu vực hòa
bình, ổn định và hợp tác” [7, 108]. Đây là chủ trương hết sức đúng đắn của
Đảng về chính sách đối ngoại trong giai đoạn mới. Nó trở thành tư tưởng chủ
đạo, sợi chỉ đỏ xuyên suốt quá trình đổi mới và hội nhập kinh tế của Việt Nam,
đồng thời cũng là một dấu mốc quan trọng trong tiến trình từng bước gia nhập
ASEAN của Việt Nam.
Qua việc giải quyết vấn đề Campuchia và nêu cao vấn đề hợp tác khu
vực, sự đoàn kết trong tổ chức ASEAN ngày càng được củng cố và tăng cường.
Bên cạnh đó những cố gắng của Việt Nam và các nước trong khu vực đã tìm
một giải pháp hòa bình cho vấn đề Campuchia, xây dựng Đông Nam Á thành
một khu vực hòa bình ổn định, cho thấy Việt Nam và các nước ASEAN ngày
càng ý thức được vai trò của mình trong việc giải quyết các vấn đề trong khu
vực. Những diễn biến mới trong tình hình quốc tế và khu vực cũng đã tạo thêm
điều kiện thuận lợi để thúc đẩy xu hướng tích cực trong quan hệ Việt Nam –
ASEAN. Quan hệ đó bắt đầu có những chuyển biến tích cực với việc Hiệp định
Pari về Campuchia được ký kết tháng 10 năm 1991; Với việc ký kết hiệp định
này đánh dấu chấm dứt “thời kỳ Campuchia”, trong quan hệ giữa Việt Nam –
ASEAN, mở ra một thời kỳ mới – thời kỳ của hợp tác thân thiện, hòa bình và

phát triển trong khu vực.


17

1.2.2. Sự cụ thể hóa, bổ sung và phát triển đường lối đối ngoại của Đảng
cộng sản Việt Nam trong Cương lĩnh năm 1991 qua các kỳ Đại hội Đảng từ
1991 đến 2006
Cương lĩnh năm 1991 đã đặt nền móng cho việc hình thành đường lối đối
ngoại độc lập, tự chủ, rộng mở, đa dạng hoá, đa phương hoá quan hệ quốc tế.
Đường lối này được hình thành qua các kỳ Đại hội Đảng từ Đại hội VII (1991)
đến Đại hội X (2006) và qua các hội nghị Trung ương, Đảng ta đã cụ thể hóa
đường lối đối ngoại trong Cương lĩnh năm 1991 thành các chủ trương, chính
sách, phương châm đối ngoại phù hợp với tình hình đất nước và các giai đoạn
phát triển của cách mạng.
* Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII (6-1991) khẳng định Việt Nam
muốn là bạn với tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hoà
bình, độc lập và phát triển. Đến hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khoá
VII (1-1994). Xuất phát từ tình hình thế giới, chiến lược của các nước lớn và các
xu thế chủ yếu trong quan hệ quốc tế, Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm
kỳ khoá VII (1-1994) chủ trương triển khai mạnh mẽ và đồng bộ đường lối đối
ngoại độc lập, tự chủ, rộng mở, đa dạng hoá và đa phương hoá quan hệ quốc tế,
mở rộng quan hệ hợp tác nhiều mặt với tất cả các nước, trên cơ sở tư tưởng chỉ
đạo là giữ vững nguyên tắc độc lập, thống nhất và chủ nghĩa xã hội, đồng thời
phải rất sáng tạo, năng động linh hoạt phù hợp với vị trí, điều kiện và hoàn cảnh
cụ thể ở nước ta cũng như diễn biến của tình hình thế giới và khu vực.
Như vậy, qua 5 năm thực hiện Cương lĩnh năm 1991 đường lối đối ngoại
đổi mới của Đảng ta về cơ bản đã hình thành. Đường lối đó đã thể hiện những
bước đi rất sâu sắc, nhạy bén, linh hoạt phù hợp với hoàn cảnh, tình hình mới.
Đường lối đối ngoại rộng mở được đề ra từ Đại hội Đảng lần thứ VI, sau đó

được các Nghị quyết Trung ương từ khoá VI đến Đại hội VII phát triển đã hình
thành đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, rộng mở, đa dạng hoá, đa phương
hoá quan hệ quốc tế.


18

* Đại hội VIII (6-1996) chủ trương xây dựng nền kinh tế mở và đẩy
nhanh quá trình hội nhập kinh tế khu vực và thế giới
Sau 10 năm đổi mới, tình hình chính trị - xã hội nước ta dần đi vào ổn
định, đất nước đã ra khỏi tình thế bị bao vây, cấm vận, quan hệ quốc tế từng
bước được mở rộng, vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế được cải thiện, khả
năng giữ vững độc lập tự chủ và hội nhập được tăng cường. Tuy nhiên chúng ta
còn phải đối phó với nhiều khó khăn, thách thức. Nguy cơ tụt hậu xa hơn về
kinh tế so với nhiều nước trong khu vực vẫn là thách thức to lớn và gay gắt do
điểm xuất phát của ta thấp, lại phải đi lên trong môi trường cạnh tranh quyết liệt.
Trong khi khẳng định một lần nữa tinh thần “Việt Nam muốn là bạn của
tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hoà bình hợp tác và phát
triển”, Đảng ta chỉ ra một vấn đề có tính chiến lược trong đường lối đối ngoại là:
“Ra sức tăng cường quan hệ với các nước láng giềng và các nước ASEAN,
không ngừng củng cố quan hệ với các nước bạn bè truyền thống”. Đảng ta đã
lựa chọn đúng các ưu tiên trong triển khai đường lối đối ngoại theo trật tự: Các
nước láng giềng, các nước trong khu vực và các nước bạn bè truyền thống, các
nước lớn, các trung tâm kinh tế...trong đó quan hệ đối với các nước láng giềng
và các nước trong khu vực giữ vị trí quan trọng và được đặt lên hàng đầu.
Trên cơ sở đường lối, đối ngoại của Đại hội VII, Đại hội VIII chủ trương:
“Mở rộng quan hệ với các đảng cầm quyền và các Đảng khác”. Quán triệt yêu
cầu mở rộng quan hệ đối ngoại nhân dân, quan hệ với các tổ chức phi chính phủ,
tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ rộng rãi của nhân dân các nước, góp phần thúc
đẩy xu thế hoà bình, hợp tác, phát triển. Lần đầu tiên, trên lĩnh vực kinh tế đối

ngoại, Đảng ta đưa ra chủ trương “thử nghiệm để tiến tới thực hiện đầu tư ra
nước ngoài”. Đại hội nhấn mạnh vấn đề điều chỉnh cơ cấu thị trường để vừa hội
nhập khu vực và toàn cầu; chủ động tham gia cộng đồng thương mại thế giới,
các diễn đàn, các tổ chức trên thế giới [7, 475]; tiếp tục đổi mới cơ chế kinh tế
đối ngoại, đẩy nhanh quá trình hội nhập với kinh tế khu vực và thế giới.


19

* Đại hội lần thứ IX của Đảng (4-2001) chủ trương chủ động hội nhập
kinh tế quốc tế và khu vực.
Trên cơ sở phân tích tình hình thế giới trong thế kỷ XX, dự báo về những
biến đổi của các xu thế mới trong quan hệ quốc tế trong thế kỷ XXI; đánh giá về
thành tựu cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX và đặc biệt là thành tựu, kinh
nghiệm của thời kỳ đổi mới, Đại hội IX (2001) của Đảng khẳng định lại nhiệm
vụ đối ngoại đã đưa ra trong Cương lĩnh năm 1991, đồng thời chỉ rõ việc triển
khai thực hiện nhiệm vụ đó trong giai đoạn mới là: “Tiếp tục giữ vững môi
trường hoà bình và tạo các điều kiện quốc tế thuận lợi để đẩy mạnh phát triển
kinh tế - xã hội, công nghiệp hoá – hiện đại hóa đất nước, xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc, bảo đảm độc lập và chủ quyền quốc gia, đồng thời góp phần tích cực
vào cuộc đấu tranh của nhân dân thế giới vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ
và tiến bộ xã hội” [7, 119 - 120]. Đại hội IX xác định rõ hơn các nguyên tắc
trong quá trình mở rộng quan hệ nhiều mặt, song phương và đa phương với cộng
đồng quốc tế, đó là nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh
thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, không dùng vũ lực hay đe
dọa dùng vũ lực, giải quyết các bất đồng và tranh chấp bằng thương lượng hoà
bình; làm thất bại mọi âm mưu và hành động của các thế lực thù địch.
Sau 10 năm từ khi Cương lĩnh (1991) ra đời, đất nước đã ổn định và phát
triển về mọi mặt, thế và lực của cả nước đã lớn mạnh hơn trước rất nhiều. Vì
vậy Đại hội IX (2001) chủ trương: “Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy

của các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát
triển” [7, 119].
Điểm mới về quan điểm đối ngoại trong Đại hội IX là việc nhấn mạnh
vấn đề chủ yếu, trước hết là hội nhập kinh tế với khu vực và quốc tế; chủ trương
xây dựng quan hệ đối tác trong đường lối đối ngoại của mình. Trong khi khẳng
định toàn cầu hoá là xu thế khách quan, Đại hội IX đồng thời chỉ rõ xu thế này
đang bị chi phối bởi các nước phát triển, gây nên sự bất bình đẳng và nguy cơ
đối với các nước đang phát triển, chính vì vậy, Đảng yêu cầu quán triệt cụ thể


20

hơn quan điểm độc lập, tự chủ. Đại hội đã chỉ rõ: “Xây dựng nền kinh tế độc lập
tự chủ phải đi đôi với chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, mở rộng và nâng cao
hiệu quả kinh tế đối ngoại, kết hợp nội lực với ngoại lực thành nguồn lực tổng
hợp để phát triển đất nước” [7, 25 - 26]. Xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ
theo định hướng XHCN trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế là một chủ
trương đúng đắn và sáng tạo của Đảng ta, là bước cụ thể hóa, bổ sung và phát
triển quan điểm đối ngoại của Đảng, là sự thực hiện nhiệm vụ đối ngoại đã được
đề ra trong Cương lĩnh năm 1991 trong tình hình mới.
* Đại hội X (4-2006) chủ trương thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại
độc lập, tự chủ, mở rộng đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ quốc tế, phấn
đấu vì hoà bình, hợp tác và phát triển.
Trong 20 năm đổi mới đất nước ta đã mở rộng được đáng kể quan hệ hợp
tác quốc tế về “chiều rộng”; đến Đại hội X Đảng ta nhấn mạnh yêu cầu “đưa các
quan hệ quốc tế đã được thiết lập vào chiều sâu, ổn định, bền vững”. Đồng thời
vì mục tiêu phát triển toàn diện đất nước, nhất là tăng cường sức mạnh kinh tế,
xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ trong bối cảnh toàn cầu hóa, các hoạt động
đối ngoại phải hướng mạnh vào các nhiệm vụ kinh tế - xã hội thiết thực như mở
rộng thị trường, có thêm đối tác, tranh thủ tối đa vốn, công nghệ, kinh nghiệm

quản lý từ bên ngoài. Do đó Đại hội X đã nêu cao yêu cầu “đẩy mạnh hoạt động
kinh tế đối ngoại” gắn liền với “Chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế
theo lộ trình, phù hợp với chiến lược phát triển đất nước từ nay đến năm 2010 và
tầm nhìn đến năm 2020” [1, 40].
Điểm mới là Đại hội X đã nêu cao nhiệm vụ “chủ động và tích cực hội
nhập kinh tế quốc tế”, “hội nhập sâu hơn và đầy đủ hơn với các thể chế kinh tế
toàn cầu, khu vực và song phương” vì nước ta đang đứng trên ngưỡng cửa của
sự hội nhập hoàn toàn và đầy đủ vào nền kinh tế thế giới với việc nỗ lực hoàn tất
các thủ tục để sớm gia nhập vào Tổ chức Thương mại thế giới (WTO). Phát
triển tư tưởng được nêu ra trong ba đại hội trước, Đại hội X một lần nữa nhấn
mạnh “Việt Nam là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc


21

tế” đồng thời bổ sung, nhấn mạnh thêm mong muốn của Việt Nam là “tham gia
tích cực vào tiến trình hợp tác quốc tế và khu vực” với hàm ý nâng cao tính chủ
động, tích cực của mình trong các tổ chức quốc tế và khu vực.
Cương lĩnh năm 1991 đã trở thành vũ khí lý tưởng, lý luận định hướng về
tư tưởng và lý luận cho toàn Đảng, toàn dân tiếp tục xây dựng đất nước đi lên
con đường xã hội chủ nghĩa trong điều kiện thế giới đầy khó khăn và phức tạp.
Trong 20 năm thực hiện Cương lĩnh, tình hình thế giới và khu vực diễn biến hết
sức nhanh chóng, biến động phức tạp; tình hình trong nước cũng xuất hiện rất
nhiều vấn đề mới. Trong quá trình lãnh đạo đất nước, Đảng đã từng bước nhận
thức đúng đắn và giải quyết có hiệu quả các vấn đề đó trên cơ sở quan điểm,
đường lối đã được xác định trong Cương lĩnh 1991 và được cụ thể hóa trong các
Nghị quyết, các kỳ Đại hội Đảng. Sau 25 năm đổi mới và 20 năm thực hiện mục
tiêu nhiệm vụ đối ngoại, đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý
nghĩa lịch sử.
1.3. Kết quả thực hiện đường lối đối ngoại trong Cương lĩnh năm 1991

1.3.1. Thành tựu và ý nghĩa
Thành tựu
Kể từ khi thực hiện Cương lĩnh năm 1991 với đường lối đối ngoại độc
lập, tự chủ, chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ
quốc tế gắn liền với chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, cho đến hôm nay, Đảng,
nhà nước và nhân dân ta đã đạt được nhiều thành tựu to lớn trên tất cả mọi mặt:
Kinh tế, chính trị, văn hoá,… Trong lĩnh vực ngoại giao đã thực hiện thành công
đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển của giai đoạn
đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
Thứ nhất, thành tựu có tính chất bao trùm là nước ta đã phá được thế bị
bao vây, cấm vận, phát triển mạnh mẽ ngoại giao đa phương mở rộng quan hệ
với các nước trong khu vực và trên thế giới; nâng cao vị thế của Việt Nam ở khu
vực và trên thế giới.


22

Sự bao vây, cấm vận của Mỹ đối với Việt Nam kể từ sau năm 1975 và
việc nhiều thế lực trong khu vực tập hợp lực lượng bao vây, chống phá cách
mạng nước ta từ cuối thập kỷ 70 của thế kỷ XX, đã kéo theo việc các tổ chức
như Ngân hàng thế giới(WB), Quỹ tiền tệ quốc tế(IMF) và Chính phủ một số
nước không cho Việt Nam vay vốn. Tình hình trên đã đẩy Việt Nam vào tình thế
rất khó khăn, đất nước bị bao vây kinh tế, cấm vận thương mại cô lập với thế
giới bên ngoài về chính trị và ngoại giao, không có điều kiện mở rộng quan hệ
quốc tế. Với quyết tâm đổi mới toàn diện đất nước, với đường lối đối ngoại độc
lập, tự chủ, rộng mở, đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ quốc tế sớm được xác
định trong Cương lĩnh năm 1991, với tinh thần “Việt Nam muốn là bạn của tất
cả các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát
triển” [8, 88], Việt Nam đã phá được thế bị bao vây cấm vận của các thế lực thù
địch, mở rộng quan hệ với các nước trong khu vực và trên thế giới. Hoạt động

đối ngoại đã tập trung tìm kiếm giải pháp hòa bình cho vấn đề Campuchia và
bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc. Việt Nam đã chủ động trong đối thoại
hòa bình với các nước trong khu vực đồng thời triển khai các hoạt động ngoại
giao song phương cấp cao với các nước ASEAN. Cùng với việc giải quyết hòa
bình vấn đề Campuchia, bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc, chúng ta đã
nối lại quan hệ với các tổ chức tài chính quốc tế, ký Hiệp định khung với với
Liên minh châu Âu. Ngày 3-2-1994, Mỹ xoá cấm vận cho Việt Nam, và sau đó
Việt Nam bình thường hóa quan hệ ngoại giao với Mỹ ngày 11-7-1995.
Triển khai mạnh mẽ và thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập,
tự chủ, rộng mở, đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ quốc tế, gắn liền với chủ
động hội nhập kinh tế quốc tế, cho đến nay, Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại
giao với 180 quốc gia thuộc tất cả các châu lục, bao gồm tất cả các nước và
trung tâm chính trị lớn của thế giới. Việt Nam cũng là thành viên của 63 tổ chức
quốc tế và có quan hệ với hơn 500 tổ chức phi chính phủ.
Từ ngày 11 tháng 1 năm 2007, Việt Nam chính thức trở thành thành viên
thứ 150 của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO). Đây là một bước ngoặt lớn


23

trong tiến trình hội nhập của Việt Nam vào nền kinh tế khu vực và thế giới.
Ngày 16 tháng 10 năm 2007, Việt Nam chính thức được bầu làm thành viên
không thường trực Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc nhiệm kỳ 2008-2009. Để
hoàn thành tốt trọng trách này, Việt Nam đã luôn quán triệt tôn chỉ, mục đích,
các nguyên tắc của Hiến chương Liên hợp quốc, luật pháp quốc tế, đồng thời
tích cực tham vấn, hợp tác chặt chẽ với các ủy viên khác trong Hội đồng Bảo an
để đưa ra những quyết sách kịp thời và phù hợp, vì lợi ích chính đáng của tất cả
các nước thành viên Liên Hợp Quốc. Từ ngày 1/1/2010, Việt Nam đã chính thức
đảm nhiệm nhiệm vụ Chủ tịch luân phiên ASEAN 2010. Trong một năm giữ
trọng trách này, Việt Nam phải thực hiện nhiều nhiệm vụ lớn và đã hoàn thành

tốt vai trò của mình.
Mở rộng quan hệ với các nước lớn, các tổ chức quốc tế trên thế giới.
Sau khi “Chiến tranh lạnh” kết thúc, các nước lớn như Mỹ, Nhật Bản,
Trung Quốc, Liên bang Nga, Ấn Độ và các nước lớn thuộc Liên minh châu Âu
(EU) đều xúc tiến điều chỉnh chính sách đối với khu vực châu Á - Thái Bình
Dương do bị chi phối bởi những lợi ích chiến lược mang ý nghĩa sống còn.
Trước những chuyển biến nhanh chóng trong so sánh lực lượng ở châu Á Thái
Bình Dương, Việt Nam tích cực đổi mới đường lối, chính sách đối ngoại theo
hướng đa phương hóa, đa dạng hoá quan hệ quốc tế.
Quan hệ với Nhật Bản:
Năm 1992, Nhật Bản quyết định mở lại viện trợ cho Việt Nam. Quan hệ
giữa Việt Nam-Nhật Bản phát triển nhanh chóng trên nhiều lĩnh vực và đã bước
sang giai đoạn mới về chất và đi vào chiều sâu. Nhật Bản ủng hộ đường lối đổi
mới, mở cửa của Việt Nam; hỗ trợ Việt Nam hội nhập vào khu vực và thế giới
(vào APEC, WTO, ASEM, ARF), coi trọng quan hệ với Việt Nam, lấy lợi ích và
mục tiêu lâu dài làm trọng. Trong những năm gần đây quan hệ hai nước đã đạt
được nhiều thành tựu. Nhiều hiệp định đã được ký kết giữa hai nước như: Hiệp
định hợp tác khoa học và công nghệ (8/2006). Hiệp định Đối tác kinh tế song
phương Việt - Nhật VJEPA (25/12/2008).


24

Quan hệ hợp tác về giáo dục và đào tạo giữa hai nước đã phát triển dưới
nhiều hình thức. Những năm gần đây, Nhật Bản là một trong những nước viện
trợ không hoàn lại lớn nhất cho ngành giáo dục và đào tạo của Việt Nam
Quan hệ với Hoa Kỳ:
Mỹ và Việt Nam chính thức bình thường hóa quan hệ vào ngày 11 tháng 7
năm 1995. Từ đó đến nay hai nước đã thường xuyên mở rộng trao đổi chính trị,
đối thoại về nhân quyền và an ninh khu vực, ký Hiệp định Thương mại song

phương vào tháng 7 năm 2000 (có hiệu lực từ tháng 12 năm 2001). Tháng
11/2007, Hoa Kỳ chấp thuận trao Quy chế Quan hệ Thương mại Bình thường
Vĩnh viễn (PNTR) cho Việt Nam [14, 10].
Quan hệ giữa Mỹ và Việt Nam trong những năm qua đã phát triển mạnh mẽ
trong các lĩnh vực quân sự, giáo dục, y tế,... Quan hệ trong lĩnh vực kinh tế,
thương mại và đầu tư tiếp tục đạt độ chín và tăng trưởng mạnh mẽ. Đầu tư của
Mỹ vào Việt Nam trong năm 2009 đã tăng nhanh chóng, đưa Mỹ trở thành một
trong những nhà đầu tư hàng đầu ở Việt Nam. Quan hệ hợp tác giữa Mỹ và Việt
Nam trong lĩnh vực giáo dục đã có bước phát triển mới. Hợp tác y tế là một
trong những lĩnh vực quan trọng. Hiện nay Hoa Kỳ là một trong 10 thị trường
lớn của Việt Nam.
Quan hệ giữa Việt Nam với Liên bang Nga và Liên minh châu Âu:
Quan hệ hợp tác nhiều mặt, cùng có lợi giữa Việt Nam và Liên bang Nga
tiếp tục được coi trọng. Việc ký Hiệp ước về những nguyên tắc cơ bản của quan
hệ hữu nghị giữa Việt Nam và Liên bang Nga ngày 16-6-1994, đã mở ra một
giai đoạn phát triển mới trong quan hệ hai nước. Quan hệ Việt - Nga trong thế
kỷ XXI đã tiếp tục được nâng lên một mức độ mới về chất. Nga coi Việt Nam là
đối tác chiến lược ở Đông Nam Á. Việt Nam và Liên bang Nga đã ký hơn 30
văn kiện cấp nhà nước và chính phủ, trong đó có việc ký Tuyên bố chung về
quan hệ đối tác chiến lược nhân dịp Tổng thống Nga Vlađimia Putin thăm Việt
Nam (năm 2001). Những năm gần đây, mối quan hệ giữa hai nước không ngừng


25

phát triển và mở rộng theo chiều sâu, trong tất cả các lĩnh vực văn hóa, khoa học
- kỹ thuật, năng lượng, kinh tế chính trị và quân sự.
Việt Nam luôn dành vị trí rất quan trọng cho mối quan hệ hợp tác với Liên
minh châu Âu (EU). Với việc bình thường hoá quan hệ với Hoa Kỳ, lần đầu
tiên, Việt Nam có quan hệ với tất cả các nước trên thế giới. Cũng từ đây, nước ta

khai thông được quan hệ với EU, để đến ngày 20-10-1990, hai bên chính thức
thiết lập quan hệ ngoại giao. Hai bên thường xuyên tiến hành các cuộc tiếp xúc,
đối thoại ở các cấp. Hiệp định khung dài hạn về Hợp tác Việt Nam - EU được ký
vào 7/1995, tạo bước ngoặt trong tiến trình phát triển quan hệ hợp tác kinh tế,
thương mại giữa hai bên. EU là đối tác thương mại quan trọng hàng đầu của
Việt Nam. Năm 2008 thương mại hai chiều Việt Nam - EU đạt hơn 21,08 tỷ
USD, trong đó xuất khẩu đạt hơn 12,4 tỷ USD; nhập khẩu gần 8,68 tỷ USD.
Năm 2009, do chịu tác động của khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn
cầu, nên kim ngạch thương mại hai chiều chỉ đạt 14,8 tỷ USD [38].
Quan hệ với các nước khác trên thế giới:
Từ cuối những năm 1980, Việt Nam đã đẩy mạnh quan hệ với các nước ở
khắp nơi trên thế giới như ở Mỹ La tinh, châu Phi,... những nước có tiềm năng
to lớn để phát triển quan hệ hợp tác về mọi mặt. Mở rộng hợp tác trên nhiều lĩnh
vực với Cu-ba, Chilê,... là những đối tác quan trọng hàng đầu của ta ở khu vực
Mỹ La-tinh. Đáng chú ý, Việt Nam đã tạo được bước đột phá trong quan hệ với
một số đối tác quan trọng tại Trung Đông như các tiểu vương quốc Ả-Rập thống
nhất (UAE), Ca-ta, Cô-oét (3-2009), đạt được nhiều thoả thuận hợp tác, đặc biệt
trong các lĩnh vực tài chính, thương mại, đầu tư.
Thứ hai, góp phần giữ vững độc lập, chủ quyền quốc gia toàn vẹn lãnh
thổ; từng bước giải quyết hòa bình các vấn đề biên giới, lãnh thổ, biển, đảo với
các nước liên quan; giữ vũng môi trường hòa bình, ổn định, tranh thủ các
nguồn lực bên ngoài cho sự nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước.
* Củng cố, phát triển quan hệ hợp tác, ổn định lâu dài với các nước láng
giềng và các nước trong khu vực


×