Tải bản đầy đủ (.docx) (81 trang)

Định hướng và các giải pháp nhằm tăng cường thu hút đầu tư trược tiếp nước ngoài vào các khu công nghiệp tỉnh kiên giang giai đoạn 2014 2020

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (361.2 KB, 81 trang )

1

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của tôi.Các số liệu, kết quả
nêu trong luận văn tốt nghiệp là trung thực xuất phát từ tình hình thực tế của đơn
vị thực tập.

Tác giả luận văn


2

MỤC LỤC


3

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
FDI : Đầu tư trực tiếp nước ngoài
KCN

:

Khu công nghiệp

KCX

:

Khu chế xuất


KCNC

:

Khu công Nghệ cao

KKT

:

Khu kinh tế

NĐT

:

Nhà đầu tư

NN

:

Nước ngoài

ĐTNN

:

đầu tư nước ngoài


UBND

:

Ủy ban nhân dân

TW

:

Trung ương

CNH – HĐH:

Công nghiệp hóa, hiện đại hóa


4

DANH MỤC CÁC BẢNG

DANH MỤC CÁC HÌNH


5

LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Vốn, công nghệ, kiến thức quản lý và marketing là những điều kiện hàng đầu
để thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở mọi địa

phương trong cả nước, trong đó nhất là đối với những địa phương đang dựa chủ
yếu vào sự phát triển của nông nghiệp.Kiên Giang là một tỉnh có nhiều lợi thế về
tự nhiên như: Kiên Giang là một tỉnh có cả đồng bằng, rừng, núi, biển và hải
đảo; điều kiện về tài nguyên, đất đai, khí hậu tạo cho Kiên Giang có nhiều lợi thế
về phát triển nông nghiệp, đánh bắt, nuôi trồng chế biến thủy hải sản, sản xuất
vật liệu xây dựng và đầu tư phát triển du lịch với nhiều loại hình du lịch phong
phú, đa dạng.Kiên Giang còn có nhiều lợi thế về địa hình Kiên Giang ở trong
vùng vịnh Thái Lan, gần các nước Đồng Nam Á (ASEAN) như: Campuchia,
Thái Lan, Malaysia, Singapore, Philipine; có địa hình đa dạng, bờ biển dài, có
nhiều sông núi và hải đảo, tạo điều kiện thuận lợi để mở rộng giao lưu kinh tế
với các nước trong khu vực, là cầu nối các tỉnh miền Tây Nam Bộ với bên ngoài.
Tuy nhiên tình hình thu hút FDI vào các khu công nghiệp của Kiên Giang chưa
thật sự xứng với những tiềm năng vốn có của Kiên Giang.phải chăng tỉnh chưa
biết cách thu hút FDI? Các nhà đầu tư nước ngoài còn hạn chế đầu tư vào Kiên
Giang do chiến lược đầu tư của họ hay vì những cản trở từ môi trường đầu tư của
tỉnh? Làm thế nào để khai thác được các lợi thế đã nêu nhằm thu hút được nhiều
FDI để bù đắp khoản thiếu hụt to lớn về vốn đầu tư phát triển của Tỉnh? Mặt
khác, gần đây lại xuất hiện một số quan điểm kỳ vọng vào vai trò của FDI như là
“giải pháp đột phá” để nâng vị thế của tỉnh, thoát khỏi tình trạng đói nghèo. Việc
tìm lời giải cho các vấn đề đã nêu là rất cấp bách đối với các nhà quản lý của
Kiên Giang.Bởi vậy, nếu đề tài trả lời được các vấn đề này sẽ không chỉ có ý


6

nghĩa về lý luận, mà quan trọng hơn, sẽ góp phần vào giải quyết được các vấn đề
cấp bách của địa phương hiện nay.


7


2. Mục tiêu nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về các vấn đề có
liên quan đến thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài ở phạm vi quốc gia cũng
như ở địa bàn cấp tỉnh, luận văn đề xuất những phương hướng, giải pháp tăng
cường thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào các khu công nghiệp tỉnh
Kiên Giang.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu chủ yếu của luận văn là FDI, những lý luận và thực
tiễn về việc thu hút FDI vào tỉnh Kiên Giang.Đề xuất phương hướng, giải pháp
tăng cường thu hút FDI vào địa bàn tỉnh.
Luận văn nghiên cứu tình hình thu hút FDI từ trước đến nay vào địa bàn tỉnh,
và đề ra các biện pháp tăng cường thu hút FDI.
4. Phương pháp nghiên cứu
Thu thập, phân tích các tài liệu, chính sách, số liệu có liên quan đến đề tài
làm cơ sở lý luận và thực tiễn nghiên cứu của đề tài. Tiếp theo là thu thập các số
liệu, báo cáo về FDI ở các khu công nghiệp tỉnh Kiên Giang để phân tích, đánh
giá hiện trạng của nguồn vốn này. Ngoài các phương pháp cơ bản thường được
sử dụng trong nghiên cứu kinh tế của chủ nghĩa Mác - Lênin (duy vật biện
chứng, duy vật lịch sử), luận văn sẽ sử dụng các phương pháp nghiên cứu chủ
yếu là: thống kê, tổng hợp, phân tích, so sánh, khảo sát thực tế. Đồng thời nghiên
cứu và học hỏi các công trình khoa học có liên quan.
5. Kết cấu luận văn
Ngoài lời mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung chính
của luận văn được chia thành 3 chương:
Chương 1: Lý luận chung về thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào các


8


khu công nghiệp
Chương 2: Thực trạng thu hút FDI vào các khu công nghiệp tỉnh Kiên Giang
Chương 3: Định hướng và các giải pháp nhằm tăng cường thu hút đầu tư
trược tiếp nước ngoài vào các khu công nghiệp tỉnh Kiên Giang giai đoạn 20142020
Trong quá trình thực hiện đề tài, được sự giúp đỡ tận tình của vụ
quản lý các Khu kinh tế - Bộ Kế Hoạch & Đầu Tư, của cán bộ hướng dẫn :
Nguyễn Việt Hưng, đặc biệt là sự chỉ đạo tận tình của giáo viên hướng dẫn :
PSG.TS Nguyễn Thị Minh Tâm. Nhưng do hạn chế về thời gian và trình độ,
luận văn của em còn nhiều thiếu sót, em mong nhận được sự đóng góp nhiều hơn
nữa. Em xin chân thành cảm ơn vụ quản lý các Khu kinh tế - Bộ Kế Hoạch &
Đầu Tư, đặc biệt là PSG.TS Nguyễn Thị Minh Tâm đã giúp đỡ em hoàn thành
luận văn này.


9

CHƯƠNG 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ THU HÚT ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC
NGOÀI VÀO KHU CÔNG NGHIỆP
1.1. Tổng quan về đầu tư trực tiếp nước ngoài
1.1.1. Khái niệm và đặc điểm của đầu tư trực tiếp nước ngoài
1.1.1.1. Khái niệm
Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) ra đời vào cuối thế kỷ 19 và ngày càng
trở nên quan trọng trong các quan hệ kinh tế quốc tế.Trong các hoạt động đầu tư
quốc tế thì đầu tư trực tiếp nước ngoài là một kênh chủ yếu của nhà đầu tư tư
nhân.Đây là một loại hình di chuyển vốn quốc tế dài hạn trong đó chủ đầu tư vừa
là người bỏ vốn vừa là người trực tiếp điều hành và quản lý hoạt động sử dụng
vốn.
Tổ chức Thương mại Thế giới đã đưa ra định nghĩa như sau về FDI: “Đầu tư
trực tiếp nước ngoài (FDI) xảy ra khi một nhà đầu tư từ một nước (nước chủ đầu

tư) có một tài sản ở một nước khác (nước thu hút đầu tư) cùng với quyền quản lý
tài sản đó. Phương tiện quản lý là thứ để phân biệt FDI với các công cụ tài chính
khác.Trong phần lớn trường hợp, cả nhà đầu tư lẫn tài sản mà người đó quản lý ở
nước ngoài là các cơ sở kinh doanh.Trong những trường hợp đó, nhà đầu tư
thường hay được gọi là công ty mẹ và các tài sản được gọi là công ty con hay chi
nhánh công ty”.
Tại Việt Nam, theo Luật đầu tư 2005 thì: “ Đầu tư trực tiếp nước ngoài là
việc nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vốn bằng tiền và các tài sản hợp pháp khác
vào Việt Nam và tham gia quản lý hoạt động đầu tư.”


10

1.1.1.2. Đặc điểm
- Đây là hình thức đầu tư được thực hiện chủ yếu bằng nguồn vốn tư nhân,
chủ đầu tư tự quyết định đầu tư, tự chịu trách nhiệm về sản xuất kinh doanh, về
lỗ, lãi. Là hình thức mang tính khả thi và hiệu quả cao, không có những ràng
buộc về chính trị, không để lại gánh nặng nợ nần trực tiếp cho nền kinh tế.
- Chủ đầu tư nước ngoài điều hành toàn bộ mọi hoạt động đầu tư (doanh
nghiệp 100% vốn nước ngoài) hoặc tham gia điều hành (doanh nghiệp liên
doanh) tùy theo tỷ lệ vốn góp của mình. Đối với nhiều nước trong khu vực, chủ
đầu tư chỉ được thành lập doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài trong một số lĩnh
vực nhất định và chỉ được tham gia liên doanh với số vốn cổ phần của bên nước
ngoài nhỏ hơn hoặc bằng 49%; 51% còn lại do nước nhận đầu tư nắm giữ. Trong
khi đó Luật đầu tư nước ngoài của Việt Nam cho phép rộng rãi hơn đối với hình
thức 100% vốn nước ngoài và quy định phía nước ngoài phải góp tối thiểu 30%
vốn pháp định của dự án (đối với hình thức liên doanh).
- Thông qua đầu tư trực tiếp nước ngoài, nước nhận đầu tư có thể tiếp nhận
được công nghệ, kỹ thuật tiên tiến, học hỏi kinh nghiệm quản lý…là những mục
tiêu mà các hình thức đầu tư khác không giải quyết được.

- Nguồn vốn đầu tư này không chỉ bao gồm vốn đầu tư ban đầu của chủ đầu
tư dưới hình thức vốn pháp định và trong quá trình hoạt động, mà nó còn bao
gồm cả vốn vay của doanh nghiệp để triển khai hoặc mở rộng dự án cũng như
vốn đầu tư từ nguồn lợi nhuận thu được.
1.1.2. Các hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài
1.1.2.1. Phân theo hình thức đầu tư
- Hình thức hợp đồng hợp tác kinh doanh: Đây là một hình thức đầu tư trong
đó các bên tham gia hợp đồng ký kết thỏa thuận để tiến hành một hoặc nhiều


11

hoạt động sản xuất kinh doanh ở nước nhận đầu tư, trên cơ sở quy định rõ đối
tượng, nội dung kinh doanh, nghĩa vụ trách nhiệm và phân chia kết quả kinh
doanh cho các bên tham gia. Hợp đồng hợp tác kinh doanh do đại diện có thẩm
quyền của các bên hợp doanh ký. Thời hạn hiệu lực của hợp đồng do các bên
thỏa thuận và được cơ quan có thẩm quyền của nước nhận đầu tư chuẩn y.
- Doanh nghiệp liên doanh: Do các bên nước ngoài và nước chủ nhà cùng
góp vốn, cùng kinh doanh, cùng hưởng lợi và chia sẻ rủi ro theo tỷ lệ vốn góp.
Doanh nghiệp liên doanh được thành lập theo hình thức công ty TNHH, có tư
cách pháp nhân theo luật pháp nước nhận đầu tư. Mỗi bên liên doanh chịu trách
nhiệm đối với bên kia, với doanh nghiệp liên doanh trong phạm vi phần vốn của
mình trong vốn pháp định. Tỷ lệ góp vốn của bên nước ngoài do các bên liên
doanh thỏa thuận. Theo luật đầu tư nước ngoài của Việt Nam, vốn góp của bên
nước ngoài không thấp hơn 30% vốn pháp định của doanh nghiệp liên doanh và
trong quá trình hoạt động không được giảm vốn pháp định.
- Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài: Là doanh nghiệp thuộc sở hữu của
nhà đầu tư nước ngoài (tổ chức hoặc cá nhân người nước ngoài) do nhà đầu tư
nước ngoài thành lập tại nước chủ nhà, tự quản lý và tự chịu trách nhiệm về kết
quả hoạt động sản xuất kinh doanh. Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài được

thành lập theo hình thức công ty TNHH có tư cách pháp nhân theo luật pháp
nước chủ nhà.
- Các hình thức khác: Đầu tư vào các khu chế xuất, khu phát triển kinh tế,
thực hiện những hợp đồng xây dựng – vận hành – chuyển giao (B.O.T). Những
dự án B.O.T thường được chính phủ các nước đang phát triển tạo mọi điều kiện
thuận lợi để thực hiện việc nâng cấp cơ sở hạ tầng kinh tế.


12

1.1.2.2. Phân theo bản chất đầu tư
- Đầu tư phương tiện hoạt động: Là hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài
trong đó công ty mẹ đầu tư mua sắm và thiết lập các phương tiện kinh doanh mới
ở nước nhận đầu tư. Hình thức này làm tăng khối lượng đầu tư vào.
- Mua lại và sát nhập: Là hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài trong đó hai
hay nhiều doanh nghiệp có vốn FDI đang hoạt động sát nhập vào nhau hoặc một
doanh nghiệp này (có thể đang hoạt động của nước nhận đầu tư hay ở nước
ngoài) mua lại một doanh nghiệp có vốn FDI ở nước nhận đầu tư. Hình thức này
không nhất thiết dẫn tới tăng khối lượng đầu tư vào.
1.1.2.3. Phân theo tính chất dòng vốn
- Vốn chứng khoán: Nhà đầu tư nước ngoài có thể mua cổ phần do một công
ty trong nước phát hành ở một mức đủ lớn để có quyền tham gia vào các quyết
định quản lý của công ty.
- Vốn tái đầu tư: Doanh nghiệp có vốn FDI có thể dung lợi nhuận thu được
từ hoạt động kinh doanh trong quá khứ để đầu tư thêm.
- Vốn vay nội bộ hay giao dịch nợ nội bộ: Giữa các chi nhánh hay công ty
con trong cùng một công ty đa quốc gia có thể cho nhau vay để đầu tư hay mua
cổ phiếu, trái phiếu doanh nghiệp của nhau.
1.1.2.4. Phân theo động cơ của nhà đầu tư
- Vốn tìm kiếm tài nguyên: Đây là các dòng vốn nhằm khai thác nguồn tài

nguyên thiên nhiên rẻ và dồi dào ở nước tiếp nhận, khai thác nguồn lao động có
thể kém về kỹ năng nhưng giá thuê thấp hoặc khai thác nguồn lao động có kỹ
năng tốt. Nguồn vốn loại này còn nhằm mục đích khai thác các tài sản sẵn có
thương hiệu ở nước tiếp nhận (như các điểm du lịch nổi tiếng).Nó cũng còn
nhằm khai thác các tài sản trí tuệ của nước tiếp nhận. Ngoài ra, hình thức vốn


13

này còn nhằm tranh giành các nguồn tài nguyên chiến lược để khỏi lọt vào tay
đối thủ cạnh tranh.
- Vốn tìm kiếm hiệu quả: Đây là nguồn vốn nhằm tận dụng giá thành đầu vào
kinh doanh thấp ở nước nhận đầu tư như giá nguyên vật liệu rẻ, giá nhân công rẻ,
giá các yếu tố sản xuất như điện nước, chi phí thông tin liên lạc, giao thông vận
tải, mặt bằng sản xuất kinh doanh rẻ, thuế suất ưu đãi…
- Vốn tìm kiếm thị trường: Đây là hình thức đầu tư nhằm mở rộng thì trường
hoặc giữ thị trường khỏi bị đối thủ cạnh tranh giành mất. Ngoài ra, hình thức đầu
tư này còn nhằm tận dụng các hiệp định hợp tác kinh tế giữa nước tiếp nhận với
các nước khu vực khác, lấy nước tiếp nhận làm bàn đạp để thâm nhập thị trường
khu vực toàn cầu.
1.1.3. Vai trò của đầu tư trực tiếp nước ngoài
1.1.3.1. Đối với nước đầu tư
Bằng cách đầu tư ra nước ngoài, các nước đầu tư tận dụng được lợi thế về chi
phí sản xuất thấp của nước nhận đầu tư ( do giá nhân công rẻ, chi phí khai thác
nguyên vật liệu tại chỗ thấp) để hạ giá thành sản phẩm, giảm chi phí vận chuyển
đối với việc sản xuất hàng thay thế nhập khẩu của nước nhận đầu tư, nhờ đó mà
nâng cao hiệu quả của vốn đầu tư.
Đầu tư trực tiếp ra nước ngoài còn cho phép các công ty này kéo dài chu
kỳ sống của các sản phẩm mới được tạo ra trong nước.
Đầu tư trực tiếp ra nước ngoài còn giúp các công ty đi đầu tư tạo dựng

được thì trường cung cấp nguyên liệu dồi dào ổn định với giá rẻ.
đầu tư ra nước ngoài để khai thác lợi thế so sánh của nước nhận đầu tư, các
chủ đầu tư trực tiếp sản xuất được sản phẩm với giá thành hạ thấp hơn so với sản
xuất trong nước.


14

Xét cho cùng thì mục tiêu chủ yếu của các chủ đầu tư ra nước ngoài là
làm cho đồng vốn được sử dụng với hiệu quả kinh tế, chính trị, xã hội cao nhất.
Cũng chính vì thế, ngay cả ở các nước đi đầu tư tình trạng thất nghiệp tăng mạnh
nhưng họ vẫn tìm kiếm lao động ở nước ngoài, vẫn đem vốn đi đầu tư trong khi
lại thu hút vốn đầu tư của nước ngoài.
1.1.3.2. Đối với nước tiếp nhận đầu tư
Các nước đang phát triển đều thiếu vốn cho công cuộc xây dựng đất nước
và phát triển kinh tế. Việt tiếp nhận đầu tư nước ngoài đem lại những lợi ích to
lớn cho nước nhận đầu tư
Đầu tư nước ngoài giải quyết tình trạng thiếu vốn cho phát triển kinh tế xã
hội do tích lũy nội bộ thấp. Điều này đã hạn chế quy mô đầu tư và đổi mới kỹ
thuật trong điều kiện nền khoa học kỹ thuật thế giới đang phát triển mạnh. FDI là
nguồn bổ sung quang trọng, khắc phục tình trạng thiếu vốn kéo dài, giúp cho các
nước thoát khỏi cảnh nghèo đói và góp phần đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp
hóa, hiện đại hóa ở các nước đang phát triển.
Cùng với việc cung cấp vốn thông qua hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước
ngoài, các công ty đã chuyển giao công nghệ từ nước mình hoặc các nước khác
sang nước nhận đầu tư. Chính nhờ sự chuyển giao này mà các nước chủ nhà tiếp
nhận được kỹ thuật tiên tiến (trong đó có những công nghệ không thể mua được
bằng quan hệ thương mại đơn thuần), kinh nghiệm quản lý, năng lực marketing,
đội ngũ lao động được đào tạo, rèn luyện về nhiều mặt (trình độ kỹ thuật,
phương pháp làm việc, kỷ luật lao động …).

Tiếp nhận đầu tư trực tiếp nước ngoài làm cho các hoạt động đầu tư trong
nước phát triển, tính năng động và khả năng cạnh tranh của sản xuất trong nước
càng được tăng cường, các tiềm năng cho phát triển kinh tế xã hội của đất nước


15

có điều kiện để khai thác và được khai thác. Điều đó có tác động mạnh mẽ đến
việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu ngành, cơ cấu công nghệ, cơ cấu sản
phẩm và lao động, cơ cấu lãnh thổ được thay đổi theo chiều hướng ngày càng
đáp ứng tốt hơn các nhu cầu phát triển kinh tế xã hội của đất nước, phù hợp với
xu thế chung của thời đại, của các nước trong khu vực đứng trên thị trường quốc
tế.
Việc tiếp nhận đầu tư trực tiếp nước ngoài, nước chủ nhà không phải lo trả
nợ.Thông qua hợp tác với chủ đầu tư nước ngoài, nước chủ nhà có điều kiện mở
cửa thị trường hàng hóa ra nước ngoài.Các công ty nước ngoài còn giúp các
doanh nghiệp trong nước tiếp cận được thị trường thế giới thông qua liên doanh
và mạng lưới thị trường rộng lớn của họ, đi kèm với nó là những hoạt động
marketing được mở rộng không ngừng.
Một vai trò quan trọng nữa của FDI là góp phần tăng thu ngân sách nước
chủ nhà. Các nguồn thu này có được từ các khoản cho thuê đất đai, nước, điện,
từ các loại thuế doanh thu lợi tức, thuế XNK … mà bên nước ngoài phải trả cho
nước nhận đầu tư.
Ngày nay FDI trở thành một tất yếu khách quan trong điều kiện quốc tế
hóa nền sản xuất, lưu thông và được tăng cường mạnh mẽ. Tuy nhiên, đầu tư
trực tiếp nước ngoài không phải lúc nào cũng phát huy tác động tích cực đối với
đời sống kinh tế xã hội của nước nhận đầu tư. Thực tế cho thấy thu hút đầu tư
nước ngoài ở các nước trên thế giới đã cho thấy những hạn chế sau:
- Việc quản lý vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài của nước chủ nhà có nhiều
khó khăn do các chủ đầu tư có nhiều kinh nghiệm né tránh sự quản lý của nước

chủ nhà. Còn nước chủ nhà chưa có kinh nghiệm, còn có nhiều sơ hở trong quản
lý hoạt động các cơ sở có vốn FDI.


16

- Lợi dụng sự yếu kém, thiếu kinh nghiệm quản lý và trong luật pháp của
nước chủ nhà, tình trạng gian lận, trốn thuế, khai thác tài nguyên bừa bãi, nạn ô
nhiễm môi trường cùng với những lợi ích khác của nước chủ nhà bị vi phạm.
1.2. Những vấn đề chung về thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài
1.2.1.Khái niệm thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài và bản chất của việc
thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài
Thu hút FDI là hoạt động nhằm thu hút nguồn vốn đầu tư từ bên ngoài vào
một quốc gia. Hoạt động FDI được thực hiện thông qua các dự án FDI mà người
ra quyết định đầu tư chính là các nhà đầu tư nước ngoài. Như vậy bản chất của
hoạt động thu hút FDI là hoạt động thu hút các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư
vốn và trực tiếp quản lý điều hành hoạt động sản xuất kinh doanh tại quốc gia
nước sở tại.
1.2.2. Đặc điểm của thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài
Đầu tư trực tiếp nước ngoài bao gồm 5 đặc điểm cơ bản sau:
Thứ nhất, đây là một hoạt động có định hướng dựa trên chiến lược phát
triển và mục tiêu thu hút FDI. Dựa trên cơ chế chính sách và pháp luật để thực
hiện thu hút FDI.
Thứ hai, hoạt động này được thực hiện dưới nhiều hình thức đa dạng và
phong phú và được thực hiện bởi nhiều cấp, ngành của nước sở tại.
Thứ ba, “cùng có lợi” được coi là nguyên tắc cơ bản để giải quyết các
quan hệ giữa các bên trong quá trình thu hút FDI.
Thứ tư, có sự gặp gỡ, cọ xát giữa các nền văn hóa khác nhau trong quá
trình thực hiện hoạt động.Có sự tham gia của nhiều bên với nhiều ngôn ngữ và
quốc tịch khác nhau.



17

Thứ năm, hoàn thiện, xây dựng môi trường đầu tư và xúc tiến đầu tư là hai
nội dung quan trọng nhất của hoạt động thu hút FDI.
1.2.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến thu hút FDI
Có nhiều nhân tố đồng thời tác động đến hoạt động thu hút FDI. Để phân
loại các nhân tố này có nhiều cách phân loại như: phân loại theo các chủ thể gây
ra nhân tố thì có nhân tố khách quan và nhân tố chủ quan, theo phạm vi lãnh thổ
quốc gia thì có nhân tố bên trong và nhân tố bên ngoài… Trong đề tài này, em
xin trình bày các nhân tố ảnh hưởng đến thu hút FDI theo chủ thể gây ra các
nhân tố. Theo đó, các nhân tố này sẽ gồm 2 nhóm nhân tố chính là:


Nhóm nhân tố khách quan bao gồm: các nhân tố liên quan đến môi trường quốc



tế.
Nhóm nhân tố chủ quan bao gồm: các nhân tố liên quan đến nước tiếp nhận đầu
tư.
1.2.3.1.Các nhân tố liên quan đến môi trường quốc tế
* Môi trường kinh tế thế giới
Khả năng thu hút FDI của một quốc gia chịu ảnh hưởng sâu sắc bởi môi
trường kinh tế thế giới. Tất cả các cuộc khủng hoảng kinh tế, khủng hoảng tài
chính tiền tệ, khủng hoảng chính trị, xã hội, dịch bệnh…đều có những tác động
trên nhiều phương diện và theo nhiều cơ chế khác nhau tới thu hút FDI của một
quốc gia. Nó có thể khuyến khích hoặc hạn chế luồng vốn FDI vào quốc gia
nước tiếp nhận. Tác động có thể gián tiếp thông qua sự tác động tới FDI khu vực

hoặc thông qua sự tác động tới các lĩnh vực có liên quan khác của nền kinh tế
như lĩnh vực thương mại, lĩnh vực tài chính-ngân hàng…Khủng hoảng cũng có
tác động rất khác nhau tới môi trường đầu tư, tác động tới đầ vào và đầu ra của
mỗi dự án FDI. Tuy nhiên, nền kinh tế thế giới hoặc khu vực tiếp tục tăng trưởng


18

cao làm cho các hoạt động giao dịch trong khu vực và thế giới sôi động, thì kim
ngạch đầu tư sẽ đạt mức tăng trưởng cao¸tạo cơ hội tốt cho các nước thu hút
FDI.
* Hướng chuyển dịch của dòng FDI quốc tế.
Một quốc gia có nằm trong hướng chuyển dịch của dòng vốn FDI quốc tế
không là nhân tố bên ngoài đầu tiên có ý nghĩa quyết định khả năng thu hút FDI
của một quốc gia. Hướng chuyển dịch của FDI thế giới nói chung quyết định
mức độ tăng giảm sự phát triển của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài của các
nước trên thế giới.
Hiện nay, cơ cấu kinh tế trên thế giới đang dịch chuyển nghiêng về xu thế
phát triển mạnh kinh tế dịch vụ, lĩnh vực FDI cũng thay đổi theo từ lĩnh vực
truyền thống (trong đầu thế kỷ XX) sang lĩnh vực dịch vụ và các ngành có hàm
lượng công nghệ cao (từ những năm 80 đến nay). Trong đó, hoạt động đầu tư
vào các ngành dịch vụ có xu hướng tăng nhanh hơn so với đầu tư vào các ngành
công nghiệp chế tạo. Trước sự thay đổi này của dòng FDI trên thế giới buộc các
nước tiếp nhận đầu tư phải tính đến cơ cấu ngành thích hợp khi thu hút dòng vốn
này.
1.2.3.2.Các nhân tố liên quan đến nước tiếp nhận đầu tư
Đây là các nhân tố cơ bản quyết định đến khả năng thu hút FDI của một
quốc gia. Những nhân tố này được coi như là những nhân tố bên trong tác động
trực tiếp tới sự di chuyển của dòng FDI vào một quốc gia.
* Chiến lược thu hút vốn phục vụ phát triển kinh tế.

Đây có thể coi là nhân tố có ý nghĩa quyết định đến các hoạt động triển
khai và kết quả thu hút FDI của quốc gia đó.


19

Một số điểm mà chiến lược này tập trung vào đó là: việc có mở cửa thu
hút vốn bên ngoài hay không; trọng tâm thu hút nguồn vốn trong nước hay ngoài
nước; thu hút nguồn vốn nước ngoài tập trung chủ yếu vào nguồn nào định
hướng các lĩnh vực thu hút vốn; các tiêu chuẩn để xác định phương hướng lựa
chọn dự án đầu tư nước ngoài…VD: trong thời kỳ đầu mới thu hút FDI của Thái
Lan, mục tiêu được ưu tiên hàng đầu trong việc thu hút vốn FDI là vốn. Sau một
thời gian thu hút được một lượng lớn vốn FDI, Thái Lan đã chuyển mục tiêu ưu
tiên hàng đầu là công nghệ, tiếp sau đó mới đến vốn. Việc xác định các mục tiêu
này là khác nhau ở từng thời kỳ phát triển kinh tế ở mỗi quốc gia.
* Mức độ hội nhập kinh tế quốc tế của quốc gia tiếp nhận đầu tư.
Những mối quan hệ kinh tế quốc tế của một quốc gia chính là hệ quả của
chiến lược huy động vốn của quốc gia đó, nhưng nó cũng đem lại những cơ hội
để tìm kiếm đối tác đầu tư. Kết quả của việc mở cửa tham gia các tổ chức kinh tế
khu vực hoặc quốc tế đối với một số quốc gia đó là: thu hút đầu tư nước ngoài đã
gia tăng, chất lượng đầu tư được cải thiện đáng kể, hoạt động ngoại thương phát
triển nhanh chóng, tạo thêm nhiều nguồn lực để phát triển kinh tế đất nước.
* Sự ổn định về chính trị, kinh tế và xã hội
Sự ổn định và chính trị, kinh tế và xã hội là điều kiện tiên quyết nhằm
giảm thiểu những rủi roc ho nguồn vốn FDI về kinh tế và chính trị khi vượt khỏi
sự kiểm soát của chủ đầu tư nước ngoài. Sự bất ổn về kinh tế và chính trị không
những làm cho dòng vốn này bị chững lại, giảm đi, mà còn làm cho nó từ trong
nước chảy ngược ra nước ngoài để tìm đến những nơi an toàn và hấp dẫn hơn.
Đây đều là những nhân tố nhạy cảm tác động tiêu cực đến tâm lý và hành động
thực tế của các chủ đầu tư nước ngoài.

* Các nhân tố thuộc môi trường đầu tư quốc gia.


20

Trong các nhân tố của môi trường đầu tư quốc gia nói trên, các nhân tố chính
ảnh hưởng trực tiếp đến việc thu hút FDI đó là:


Nhân tố về mặt pháp lý:
Đây là một trong những nhân tố quan trọng của môi trường đầu tư, nó bao
gồm các văn bản pháp luật, văn bản quản lý hoạt động đầu tư (VD như: hướng
dẫn đầu tư, thẩm định dự án, cấp giấy chứng nhận đầu tư và quản lý các hoạt
động đầu tư,…) nhằm tạo nên hành lang pháp lý đồng bộ và thuận lợi nhất cho
hoạt động FDI.



Nhân tố về cơ sở kết cấu hạ tầng
Một trong những công cụ quan trọng nhất để thu hút FDI chính là cơ sở hạ
tầng. Trừ các nhà đầu tư nước ngoài chuyên kinh doanh trong lĩnh vực hạ tầng
thì sự phát triển của cơ sở hạ tầng kỹ thuật của một quốc gia tiếp nhận FDI luôn
là điều kiện vật chất hàng đầu để các chủ đầu tư có thể nhanh chóng thông qua
các quyết định để tiến hành triển khai trên thực tế các dự án đầu tư. Hệ thống cơ
sở hạ tầng phát triển phải bao gồm: hệ thống giao thông vận tải phát triển với các
cầu, cảng, đường xá, kho bãi và các phương tiện vận tải đủ sức bao phủ quốc gia
và đủ tầm hoạt động quốc tế; hệ thống bưu điện thông tin liên lạc viễn thông với
các phương tiện nghe-nhìn hiện đại, có thể nối mạng thống nhất toàn quốc và
toàn cầu; hệ thống điện nước dồi dào và phân bổ tiện lợi cho các hoạt động sản
xuất kinh doanh cũng như đời sống và một hệ thống mạng lưới cung cấp các loại

dịch vụ khác phát triển rộng khắp, đa dạng và có chất lượng cao (y tế, giáo dục,
giải trí, các dịch vụ hải quan, tài chính, ngân hàng, thương mại, quảng cáo, kỹ
thuật v.v..).



Nhân tố về nguồn nhân lực


21

Nguồn nhân lực kỹ thuật cao là điều kiện quan trọng hàng đầu để một nước
nghèo vượt qua được những hạn chế về tài nguyên thiên nhiên và trở nên hấp
dẫn các nhà đầu tư nước ngoài. Nếu thiếu các nhân lực kỹ thuật lành nghề, các
nhà lãnh đạo, quản lý cao cấp, và sự lạc hậu về trình độ khoa học – công nghệ thì
quốc gia đó sẽ khó long đáp ứng được các yêu cầu của nhà đầu tư để triển khai
các dự án của họ, làm chậm và thu hẹp lại dòng vốn nước ngoài chảy vào trong
nước.


Nhân tố kinh tế
Mức độ phát triển kinh tế bao gồm tỷ lệ tăng trưởng kinh tế, GDP/đầu người
có ảnh hưởng lớn tới quyết định của nhà đầu tư.
Quy mô và tính chất thị trường tiềm năng.Yếu tố này quy định quy mô và
tính chất của hoạt động sản xuất và hướng luồng đầu tư vào các sản phẩm và lĩnh
vực mà thị trường có nhu cầu. Vì vậy nhà đầu tư nước ngoài thường hướng đến
các thị trường lớn để đầu tư.
Hệ thống doanh nghiệp trong nước. Nếu nhân tố này phát triển, đủ sức hấp
thụ công nghệ chuyển giao, và là đối tác ngày càng bình đẳng với các nhà đầu tư
nước ngoài, là điều kiện cần thiết để nước tiếp nhận đầu tư có thể thu hút được

nhiều và hiệu quả hơn dòng vốn nước ngoài. Hệ thống các doanh nghiệp đó phải
bao gồm cả những doanh nghiệp sản xuất lẫn dịch vụ ở tất cả các lĩnh vực, ngành
nghề và thành thạo các nghiệp vụ kinh doanh quốc tế, đủ sức giữ được thị phần
thích đáng tại thị trường trong nước và ngày càng có sức cạnh tranh quốc tế.



Nhân tố thuộc về vị trí địa lý và tự nhiên.
Các nhân tố này bao gồm: yếu tố sẵn có của nguồn tài nguyên thiên nhiên,
nguyên vật liệu phục vụ cho sản xuất, vị trí thuận lợi cho hoạt động vận chuyển,
giao thương, điều kiện về khí hậu thời tiết… Những nhân tố này có ảnh hưởng


22

thuận lợi hoặc khó khăn trong quá trình tiến hành hoạt động sản xuất.Vì vậy, nó
cũng có ảnh hưởng đến việc ra quyết định đầu tư của nhà đầu tư.
1.3.Thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào các khu công nghiệp
1.3.1.Khái niệm, đặc điểm và vai trò của khu công nghiệp
1.3.1.1.Khái niệm khu công nghiệp
Theo luật Đầu tư 2005 định nghĩa:
“Khu công nghiệp là khu chuyên sản xuất hàng công nghiệp và thực hiện
các dịch vụ cho sản xuất công nghiệp, có ranh giới địa lý xác định, được thành
lập theo quy định của Chính phủ”
Theo quy chế KCN, KCX ban hành kèm theo Nghị định 36/CP ngày
24/4/1997 của Chính phủ, khái niệm KCN, KCX được hiểu như sau:
“Khu công nghiệp là khu tập trung các doanh nghiệp KCN chuyên sản
xuất hàng công nghiệp và thực hiện các dịch vụ cho sản xuất công nghiệp, có
ranh giới địa lý xác định, không có dân cư sinh sống; do Chính phủ hoặc Thủ
tướng Chính phủ quyết định thành lập, trong khu công nghiệp có thể có doanh

nghiệp chế xuất”.
Như vậy có thể hiểu Khu công nghiệp là một quần thể liên đoàn các xí
nghiệp công nghiệp xây dựng trên một vùng có điều kiện thuận lợi về các yếu tố
tự nhiên, về kết cấu hạ tầng xã hội…để thu hút vốn đầu tư (đặc biệt là vốn FDI)
và hoạt động theo một kết cấu hợp lý các doanh nghiệp công nghiệp và các
doanh nghiệp dịch vụ nhằm đạt kết quả cao trong sản xuất công nghiệp và các
doanh nghiệp dịch vụ nhằm đạt kết quả cao trong sản xuất công nghiệp và kinh
doanh.


23

1.3.1.2.Đặc điểm của khu công nghiệp
Thứ nhất, về bản chất các KCN là khu tập trung các doanh nghiệp công
nghiệp và các doanh nghiệp cung cấp các dịch vụ công nghiệp.
Thứ hai, KCN được chính phủ hoặc thủ tướng chính phủ ra quyết định
thành lập do vậy việc tạo môi trường đầu tư được cụ thể hóa trong các chính
sách pháp luật, như những chính sách ưu đãi về thuế, hải quan, giá thuê đất, áp
dụng những thủ tục hành chính đơn giản… nhằm tạo môi trường pháp lý và kinh
doanh thuận lợi cho các nhà đầu tư để thu hút vốn đầu tư và công nghệ kỹ thuật
mới của nướ ngoài.
Thứ ba, KCN thực chất là hình thức tổ chức sản xuất công nghiệp trên lãnh
thổ, có hàng rào ngăn cách với phần lãnh thổ còn lại của vùng và nó được xây
dựng cơ sở hạ tầng và những tiện ích công cộng (điện, nước, giao thông, bưu
điện…) hiện đại, thuận lợi với mục đích hấp dẫn các nhà đầu tư. Kinh nghiệm
của thế giới cho thấy, diện tích hợp lý với một KCN khoảng từ 10ha đến 300ha.
Thông thường việc phát triển cơ sở hạ tầng do một công ty xây dựng và kinh
doanh cơ sở hạ tầng đảm nhiệm. Các công ty này có thể là doanh nghiệp liên
doanh, 100% vốn đầu tư nước ngoài hoặc doanh nghiệp trong nước.Các công ty
phát triển cơ sở hạ tầng khi xây dựng xong kết cấu hạ tầng được phép cho các

doanh nghiệp khác thuê lại.
Cuối cùng, KCN chịu sự quản lý trực tiếp của Ban quản lý các KCN cấp tỉnh
nằm tại các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương. Đây là cơ quan trực tiếp thực
hiện chức năng quản lý Nhà nước đối với sự hoạt động sản xuất kinh doanh
trong các KCN, ngoài rat ham gia vào quản lý các KCN tập trung còn có nhiều
Bộ như Bộ Kế Hoạch và Đầu Tư, Bộ Thương Mại, Bộ Xây Dựng…


24

1.3.1.3.Vai trò của khu công nghiệp
Thứ nhất, KCN phát triển thúc đẩy các vùng kinh tế mới của mỗi quốc gia,
tạo lập và thúc đảy các mối liên kết tích cực, trực tiếp và gián tiếp giữa các cơ
sở kinh doanh trong và ngoài KCN để tọa ra những xung lực mới cho nền kinh
tế. Chính sự liên kết này đã tạo cho KCN một khả năng tận dụng các nguồn lực
trong nước, những nguồn lực được dử dụng kém hiệu quả ở nơi khác. KCN sẽ là
đầu tầu kéo theo sự phát triển của vùng lân cận và các vùng khác của mỗi quốc
gia. Như vậy, KCN có tác động lan tỏa đối với các vùng lân cận và cả nền kinh
tế chứ không chỉ ở năng suất lao động, hay thu nhập của người lao động tăng cao
hơn.
Thứ hai, KCN thúc đẩy các ngành dịch vụ phát triển, thúc đẩy CNH-HĐH
nông nghiệp nông thôn, đẩy nhanh tốc độ đô thị hóa, góp phần hiện đại hóa hệ
thống kết cấu hạ tầng trong và ngoài KCN.
Thứ ba, KCN góp phần giải quyết việc làm thông qua việc sử dụng một lực
lượng lướn lao động tại chỗ, tại thêm nhiều việc làm mới, tạo thu nhập cho người
lao động và thúc đẩy chuyển đổi cơ cấu lao động, đào tạo kỹ năng, tay nghề cho
người lao động, tạo cầu cho sự phát triển nhiều ngành nghề dịch vụ.
Thứ tư, với việc ứng dụng công nghệ cao, mô hình sản suất, quản lý khoa
học trong KCN sẽ giúp nâng cao trình độ công nghệ, hiện đại hóa cách thức quản
lý sản xuất.

Vấn đề ô nhiễm môi trường do các nhà máy sản xuất gây ra đang là một vấn
đề nhức nhối. Việc xây dựng các KCN tập trung sẽ tạo điều kiện thuận lợi trong
việc kiểm soát, xử lý chất thải bảo vệ môi trường, giảm được chi phí cho việc xử
lý chất thải.Đồng thời, các KCN tập trung còn là địa điểm tốt để di dời các cơ sở


25

sản xuất gây ô nhiễm môi trường từ các đô thị, các thành phố lớn, phục vụ mục
tiêu phát triển công nghiệp bền vững.
1.3.2. Đặc điểm của hoạt động thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào
khu công nghiệp
Bên cạnh những đặc trưng chung giống như đặc điểm của hoạt động thu
hút đầu tư trực tiếp nước ngoài, hoạt động thu hút FDI vào KCN cũng mang
những đặc trưng riêng do đặc điểm của KCN tạo ra. Các đặc trưng đó là:
-Đầu tư vào KCN là đầu tư tập trung khác với đầu tưu ngoài KCN là đầu tư
phân tán. Do đó, để thu hút được FDI vào KCN thì ta cần phải tạo ra môi trường
đầu tư trong KCN có tính cạnh tranh cao hơn so với môi trường đầu tư ngoài
KCN. Nước sở tại phải có nhiều chính sách và biện pháp ưu đãi hơn đối với việc
đầu tư vào KCN.
-KCN là nơi tập trung nguồn lực để phát triển công nghiệp, đóng góp vào
việc phát triển cơ cấu vùng và ngành công nghiệp nên mục tiêu thu hút FDI vào
KCN phải tập trung thu hút về vốn và công nghệ. Phát huy được tác động dẫn
dắt và lan tỏa của KCN đối với các vùng và khu vực xung quanh.
1.3.3.Nội dung của việc thu hút đầu trực tiếp nước ngoài vào khu công
nghiệp
Để đưa ra quyết định đầu tư vào các KCN ở nước ngoài, bất kỳ nhà đầu tư
nào cũng quan tâm đến những ưu đãi, lợi ích mà họ được hưởng trong quá trình
đầu tư, các vấn đề liên quan đến việc thành lập, triển khai và vận hành dự án.
Trong quá trình thành lập dự án, nhà đầu tư nước ngoài sẽ quan tâm tới thủ tục,

hồ sơ xin cấp giấy chứng nhận đầu tư, thời gian trung bình để được cấp giấy
chứng nhận đầu tư, sự hỗ trợ của Chính phủ, chính quyền địa phương cũng như
các tổ chức môi giới…Trong việc triển khai dự án, nhà đầu tư sẽ quan tâm tới


×