Tải bản đầy đủ (.pdf) (72 trang)

Nghiên cứu tác động của giá dầu và giá lương thực thế giới lên nền kinh tế việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (849.21 KB, 72 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM
---------∞---------

HOÀNG THỊ ÁNH HỒNG

NGHIÊN CỨU TÁC ĐỘNG CỦA GIÁ DẦU VÀ
GIÁ LƢƠNG THỰC THẾ GIỚI LÊN NỀN KINH TẾ VIỆT NAM

Chuyên ngành: Tài chính – Ngân hàng
Mã số: 60340201

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. NGUYỄN KHẮC QUỐC BẢO

Tp.Hồ Chí Minh – Năm 2015


LỜI CAM ĐOAN
Tôi tên là Hoàng Thị Ánh Hồng, tác giả của luận văn thạc sĩ “Nghiên cứu tác
động của giá dầu và giá lƣơng thực thế giời lên nền kinh tế Việt Nam”.
Tôi xin cam đoan: Nội dung của luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi
dƣới sự hƣớng dẫn khoa học của TS. Nguyễn Khắc Quốc Bảo. Các số liệu, kết quả
nghiên cứu nêu trong luận văn là trung thực và có số liệu rõ ràng, đƣợc lấy từ phần
mềm kinh tế lƣợng, không sao chép từ nguồn khác. Tất cả tài liệu tham khảo đƣợc
trích dẫn đầy đủ và rõ ràng.
TP Hồ Chí Minh, tháng 09 năm 2015
Ngƣời cam đoan


Hoàng Thị Ánh Hồng


MỤC LỤC
TRANG PHỤ BÌA
LỜI CAM ĐOAN
MỤC LỤC
DANH MỤC HÌNH
DANH MỤC BẢNG
TÓM TẮT ...................................................................................................................1
CHƢƠNG 1: GIỚI THIỆU .........................................................................................2
1.1.

Lý do chọn đề tài:..............................................................................................2

1.2.

Mục tiêu nghiên cứu .........................................................................................5

1.3. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu ..........................................................................6
1.4. Phƣơng pháp nghiên cứu.....................................................................................6
1.5. Nội dung và cấu trúc của bài nghiên cứu .............................................................6
CHƢƠNG 2: TỔNG QUAN CÁC NGHIÊN CỨU TRƢỚC ĐÂY VỀ TÁC ĐỘNG
CỦA GIÁ DẦU VÀ GIÁ LƢƠNG THỰC ................................................................7
2.1 Kênh truyền dẫn tác động của các cú sốc giá dầu và giá lƣơng thực thế giới lên
nền kinh tế trong nƣớc ................................................................................................7
2.2.

Các nghiên cứu thực nghiệm về tác động của giá dầu và giá lƣơng thực đến


nền kinh tế .................................................................................................................11
CHƢƠNG 3: PHƢƠNG PHÁP VÀ MÔ HÌNH NGHIÊN CỨU .............................21
3.1.

Phƣơng pháp nghiên cứu ................................................................................21

3.2

Dữ liệu .............................................................................................................23

3.3

Các biến sử dụng .............................................................................................24

3.4.

Mô hình nghiên cứu ........................................................................................27

CHƢƠNG 4: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU .................................................................33
4.1 Thống kê mô tả....................................................................................................33
4.2.

Các kiểm định ban đầu ....................................................................................34

4.2.1. Kiểm định nghiệm đơn vị................................................................................34


4.2.2. Kiểm định độ trễ tối ƣu của mô hình ..............................................................36
4.2.3. Kiểm định tính ổn định của mô hình ..............................................................39
4.3 Tác động của cú sốc giá dầu thế giới và giá lƣơng thực thế giới lên nền kinh tế

Việt Nam. ..................................................................................................................40
4.3.1 Tác động của cú sốc giá dầu thế giới lên nền kinh tế Việt Nam. .....................40
4.3.1.1 Phân tích hàm phản ứng đẩy của cú sốc giá dầu thế giới. ............................40
4.3.1.2 Phân tích phân rã phƣơng sai của cú sốc giá dầu thế giới. ...........................45
4.3.2 Tác động của cú sốc giá lƣơng thực thế giới lên nền kinh tế của Việt Nam ...48
4.3.2.1 Phân tích hàm phản ứng đẩy của cú sốc giá lƣơng thực thế giới. .................48
4.3.2.2 Phân tích phân rã phƣơng sai của cú sốc giá lƣơng thực thế giới. ................51
4.4 Các hàm ý về mặt chính sách .............................................................................52
CHƢƠNG 5: KẾT LUẬN ........................................................................................57
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


DANH MỤC HÌNH

Hình 1: Tác động truyền dẫn của giá dầu và giá lƣơng thực thế giới đến các biến
kinh tế vĩ mô trong nƣớc .............................................................................................9
Hình 2: Phản ứng của sản lƣợng, cung tiền, lãi suất, tỷ giá hối đoái thực, lạm phát
đối với cú sốc giá dầu ................................................................................................41
Hình 3: Hàm phản ứng đẩy của cung tiền và lạm phát trƣớc cú sốc giá dầu............43
Hình 4: Phản ứng của sản lƣợng, cung tiền, lãi suất, tỷ giá hối đoái thực, lạm phát
đối với cú sốc lƣơng thực thế giới.............................................................................48

DANH MỤC BẢNG

Bảng 1: Các biến trong mô hình cấu trúc tự hồi quy véc tơ (SVAR) .......................24
Bảng 2: Kiểm định Unit Root bằng phƣơng pháp ADF ..........................................36
Bảng 3: Kiểm định độ trễ tối ƣu của mô hình SVAR ...............................................37
Bảng 4: Kiểm định Portmanteau ...............................................................................38
Bảng 5: Kiểm định LM test .......................................................................................39

Bảng 6: Tính ổn định của các biến trong mô hình ....................................................40
Bảng 7: Kết quả phân rã phƣơng sai của cú sốc giá dầu ...........................................46
Bảng 8: Kết quả phân rã phƣơng sai của cú sốc giá lƣơng thực ...............................51


1

TÓM TẮT
Bài nghiên cứu này cung cấp bằng chứng về sự tác động của cú sốc giá dầu
và cú sốc giá lƣơng thực thế giới lên các yếu tố kinh tế vĩ mô ở Việt Nam bao gồm
lạm phát, sản lƣợng, cung tiền, lãi suất và tỷ giá hối đoái thực từ quí 1 năm 2001
đến quí 2 năm 2014 theo mô hình cấu trúc tự hồi quy véctơ (SVAR). Trong đó
hàm phản ứng đẩy và phân tích phân rã phƣơng sai đƣợc sử dụng để theo dõi ảnh
hƣởng của giá dầu và giá lƣơng thực thế giới lên nền kinh tế Việt Nam. Kết quả
của bài nghiên cứu cho thấy rằng lạm phát và cung tiền phản ánh mạnh trƣớc cú
sốc của giá dầu, lãi suất ít bị ảnh hƣởng hơn và tỷ giá hối đoái thực chỉ chịu tác
động không đáng kể. Khi có cú sốc lƣơng thực thế giới xảy ra thì kết quả này lại
cho mạnh hơn đối với ảnh hƣởng của cú sốc giá dầu, trong đó biến cung tiền và lãi
suất bị tác động mạnh nhất sau đó đến biến sản lƣợng, lãi suất và tỷ giá hối đoái.


2

CHƢƠNG 1: GIỚI THIỆU
1.1. Lý do chọn đề tài:
Sự thay đổi giá dầu và giá lƣơng thực thế giới trong thời gian gần đây đƣợc
xem nhƣ là một trong những nguyên nhân gây ra các biến động kinh tế vĩ mô, tạo
nên những áp lực đối với các nhà hoạch định chính sách kinh tế nhằm ổn định nền
kinh tế quốc gia. Có thể thấy rõ nhất là sự bùng nổ giá cả hàng hóa toàn cầu, đặc
biệt là giá dầu và giá lƣơng thực trong những năm 2007 đến 2008 đã đẩy chi phí

sản xuất tăng cao dẫn đến sản lƣợng tăng trƣởng của thế giới bị chậm lại, cùng với
khủng hoảng kinh tế thế giới và suy thoái kinh tế của Mỹ lúc đó đã và đang đặt ra
nhiều thách thức nghiêm trọng cho nền kinh tế thế giới. Nhiều nghiên cứu khoa
học đã cho rằng sự thay đổi giá hàng hóa thế giới đƣợc xem nhƣ là một sự bắt đầu
của chu kì kinh doanh, và một mối tƣơng quan ngƣợc chiều giữa giá hàng hóa thế
giới và các biến kinh tế vĩ mô ở những nƣớc nhập khẩu mặt hàng này thông qua
các kênh cung cầu.
Cú sốc giá dầu bắt đầu vào năm 1970 đã thu hút sự quan tâm của nhiều nhà
nghiên cứu, nó đƣợc coi là một trong nhiều lý do tạo nên suy thoái kinh tế toàn
cầu đặc biệt là đối với các nƣớc nhập khẩu dầu (Hamilton 1983, Hamilton 1996,
Hamilton 2003). Giá lƣơng thực tăng cao trong năm 1970 cũng đã tạo ra những
cuộc khủng hoảng lớn trên toàn thế giới dẫn đến nạn đói năm 1973. Tiếp đó từ
khoảng 18usd/ thùng trong những năm 1990, 40usd/ thùng năm 2004 đã tăng vọt
lên 70usd/thùng năm 2007 và còn tăng hơn 147usd/thùng năm 2008, sự gia tăng
nhanh chóng này gây ra tác động không tốt đối với ngƣời tiêu dùng và các nhà sản
xuất ở các nƣớc nhập khẩu thông qua tác động truyền dẫn từ các sản phẩm đƣợc
hình thành từ nguồn nguyên liệu này. Đối với ngƣời tiêu dùng thì chi phí hóa đơn
năng lƣợng gia tăng, đối với nhà sản xuất thì phải chịu thêm sự gia tăng trong chi
phí cho một đơn vị sản phẩm (Lescaroux và cộng sự 2008). Tƣơng tự ta thấy giá
lƣơng thực cũng tăng cao bắt đầu từ năm 2007, đến năm 2008 vƣợt 39% so cùng


3

kỳ ở vào điểm cùng kỳ (Jongwapick và cộng sự 2009), cũng đã gây ra một cuộc
khủng hoảng lớn lƣơng thực lớn trên toàn cầu và tác động xấu đến nền kinh tế. Có
thể nói giá dầu gia tăng cũng kéo theo sự gia tăng trong giá lƣơng thực, và tác
động của sự gia tăng hai mặt hàng này tác động không tốt đến nền kinh tế.
Dầu là nguồn nhiên liệu chủ yếu cho các hoạt động kinh tế và do đó tăng
giá dầu tác động trực tiếp trên nhiều hoạt động kinh tế và tác động gián tiếp đến

ngƣời tiêu dùng. Giá dầu tăng, chi phí đầu vào tăng và năng suất sản xuất giảm, từ
đó tạo ra ảnh hƣởng xấu đến tiền lƣơng thực tế và việc làm, giá cả và lạm phát cơ
bản, lợi nhuận, đầu tƣ cũng nhƣ giá trị thị trƣờng của công ty ( Lescaroux và cộng
sự 2008). Bên cạnh đó giá lƣơng thực cũng tăng cao kể từ năm 2007 đã tác động
lớn đến đến giá tiêu dùng trong nƣớc bởi vì lƣơng thực chiếm phần lớn trong rổ
hàng hóa tiêu dùng ở các nƣớc đang phát triển ( Jongwanich và cộng sự 2011).
Phần lớn các nghiên cứu trƣớc đây về tác động của cú sốc của giá cả các
loại hàng hóa thế giới, trong đó chủ yếu là giá dầu lên hoạt động kinh tế đều đƣợc
thực hiện ở các nƣớc phát triển, còn những nghiên cứu liên quan đến sự tác động
này lên nền kinh tế ở các nƣớc đang phát triển thì rất ít. Điều này một phần là do
vẫn bị hạn chế về mặt số liệu và sự phụ thuộc vào dầu mỏ và lƣơng thực không
nhiều của các nƣớc đang phát triển. Chính vì vậy, việc nghiên cứu tác động của cú
sốc giá dầu và giá lƣơng thực thế giới đến các chỉ số kinh tế Việt Nam có ý nghĩa
cực kỳ quan trọng.
Việt Nam đang đƣợc xem là nƣớc đang phát triển với lƣợng xuất khẩu dầu
thô với 16 đến 18 triệu tấn mỗi năm, chiếm 20% trong tổng xuất khẩu, đóng góp
18-20% trong GDP và 25-30% trong nguồn thu của chính phủ. Tuy nhiên trƣớc
năm 2009 Việt Nam phải nhập khẩu hoàn toàn dầu mỏ đã qua tinh chế để tiêu
dùng trong nƣớc, đến tháng 2/2008 đã sản xuất đƣợc sản phẩm dầu tinh khiết đầu
tiên nhƣng chỉ đáp ứng đƣợc 1/3 nhu cầu trong nƣớc. Do đó giá cả trong nƣớc vẫn
chịu nhiều ảnh hƣởng từ sự biến động giá cả trên thị trƣờng thế giới, đặc biệt là


4

giá dầu càng trở nên quan trọng trƣớc định hƣớng trở thành một nƣớc công nghiệp
vào năm 2020 của Việt Nam.
Việt Nam hiện tại đang có ƣu thế về xuất khẩu lƣơng thực, trong đó chủ
yếu là gạo, hiện tại Việt Nam đang ở vị trí dẫn đầu thế giới về xuất khẩu gạo.
Năng lực sản xuất và xuất khẩu gạo của Việt Nam vừa đƣợc ADB xếp vào vị trí

Top 5 nhà xuất khẩu hàng đầu thế giới gồm Ấn Độ, Thái Lan, Việt Nam, Pakistan
và Mỹ do 5 quốc gia này chiếm 87% thƣơng mại gạo toàn cầu. Trong khi đó, theo
Hiệp hội Lƣơng thực Việt Nam (VFA), đến cuối tháng 10/2012, Việt Nam đã
vƣơn lên vị trí thứ nhất về xuất khẩu gạo và ngành gạo đang nỗ lực để trong năm
nay Việt Nam sẽ thay thế Thái Lan trở thành nƣớc xuất khẩu gạo lớn nhất thế giới.
Tính đến cuối tháng 10/2012, Việt Nam xuất khẩu đƣợc 5,949 triệu tấn gạo, thứ
nhì là Ấn Độ 5,814 triệu tấn gạo, kế đến mới là Thái Lan 5,360 triệu tấn. Chính vì
vậy, sự biến động của giá cả lƣơng thực thế giới chắc chắn sẽ có ảnh hƣởng đến
nền kinh tế Việt Nam.
Ngày nay, trong bối cảnh hội nhập sâu rộng nền kinh tế toàn cầu cũng nhƣ
việc Việt Nam gia nhập nhiều tổ chức kinh tế thế giới nhƣ Quỹ tiền tệ Quốc tế
(IMF), Ngân hàng thế giới (World Bank), Tổ chức thƣơng mại thế giới (WTO),
diễn đàn hợp tác Á Âu (ASEM), hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN),
diễn đàn hợp tác kinh tế Á Châu – Thái Bình Dƣơng (APEC),… hay Hiệp định tự
do thƣơng mại song phƣơng và đa phƣơng mà Việt Nam đã ký với tƣ cách quốc
gia hay tƣ cách thành viên nhƣ Việt Nam – Asean, Việt Nam – Nhật Bản, Asean –
Trung Quốc,… Điều này đã đặt Việt Nam vào sân chơi chung của thế giới, chịu
ảnh hƣởng của nhiều tác động đến từ nội tại nền kinh tế cũng nhƣ đến từ bên
ngoài quốc gia. Dẫn chứng cụ thể đó là, ngay sau khi Việt Nam chính thức đặt
chân vào sân chơi bình đẳng WTO đầu năm 2007 thì cuối năm đó, kinh tế toàn
cầu đã biến động phức tạp, giá dầu tăng mạnh kỷ lục có lúc tới 147 USD/thùng,
giá lƣơng thực leo thang. Cuối năm 2008, suy thoái kinh tế của Mỹ bùng nổ kéo
theo cả nền kinh tế toàn cầu rơi vào khủng hoảng trầm trọng, hàng loạt ngân hàng


5

và tập đoàn phá sản. Điều này đã tác động thông qua sự hội nhập của Việt Nam
theo hai chiều trái ngƣợc nhau. Việt Nam, một quốc gia chƣa tự sản xuất đƣợc
nhiều nguyên vật liệu và máy móc thiết bị, vốn dĩ phụ thuộc tới 80% vào bên

ngoài nên khi hội nhập kinh tế sâu rộng, việc giá dầu thô, lƣơng thực và nguyên
vật liệu leo thang đã ngay lập tức tác động xấu tới nền kinh tế. Kinh tế các nƣớc
bạn hàng chính của Việt Nam bƣớc vào suy thoái cũng ảnh hƣởng tiêu cực tới
xuất khẩu và thu hút FDI của Việt Nam. Hậu quả là sức ép lạm phát tăng cao và
tăng trƣởng kinh tế thấp đi. Nhƣng ngƣợc lại, Việt Nam vẫn đƣợc hƣởng lợi từ sự
leo thang của giá cả thế giới, của dầu thô và lƣơng thực khi đây cũng chính là hai
mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam. Kim ngạch xuất khẩu tăng mạnh nhờ
tăng giá và việc mở rộng đƣợc thị trƣờng đã tác động tích cực tới tăng trƣởng.
Nhờ đó, GDP 2008 của Việt Nam giữ đƣợc mức 6,3%.
Xuất phát từ bối cảnh nêu trên, tác giả đã tiến hành thực hiện bài nghiên
cứu “Nghiên cứu tác động của giá dầu và giá lƣơng thực thế giới lên nền kinh
tế Việt Nam”, góp phần giải thích sự biến động của các chỉ số kinh tế Việt Nam
trƣớc những biến động của giá cả hàng hóa thế giới.
1.2.

Mục tiêu nghiên cứu

Bài nghiên cứu đƣợc thực hiện nhằm mục đích kiểm tra xem liệu các cú
sốc giá dầu và giá lƣơng thực trên thế giới có tác động đến nền kinh tế Việt Nam
thông qua các biến số kinh tế vĩ mô hay không ?
Các câu hỏi nghiên cứu đƣợc đƣa ra gồm:
-

Cú sốc giá dầu và giá lƣơng thực trên thế giới có thực sự tác động đến

nền kinh tế Việt Nam hay không?
-

Nếu có thì chiều hƣớng và mức độ tác động của các cú sốc này đến


các chỉ số kinh tế Việt Nam nhƣ thế nào?


6

1.3 Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu
Bài nghiên cứu tập trung phân tích tác động của cú sốc giá dầu và giá
lƣơng thực trên thế giới đến các chỉ số kinh tế Việt Nam, cụ thể là sản lƣợng đầu
ra đƣợc thể hiện bởi tổng sản phẩm quốc nội, cung tiền, chỉ số giá tiêu dùng, lãi
suất, tỷ giá hối đoái thực hiệu lực trong giai đoạn từ năm 2001 đến năm 2014.
1.4 Phƣơng pháp nghiên cứu
Dựa trên các lý thuyết cơ bản và các nghiên cứu thực nghiệm trƣớc đây về
tác động của các cú sốc giá dầu và giá lƣơng thực đến nền kinh tế trong nƣớc, tác
giả sử dụng ý tƣởng bài nghiên cứu của Muhammad và cộng sự (2011) với
phƣơng pháp nghiên cứu định lƣợng theo mô hình tự hồi quy véc tơ cấu trúc
(Structural Vector Autoregression Structural VAR), viết tắt là SVAR để phân tích
sự truyền dẫn của các cú sốc giá dầu và giá lƣơng thực lênn nền kinh tế Việt Nam.
Phần mềm sử dụng trong bài nghiên cứu là phần mềm Eviews 6.0.
1.5 Nội dung và cấu trúc của bài nghiên cứu
Các phần của bài nghiên cứu đƣợc trình bày nhƣ sau:
Chƣơng 1: Giới thiệu bài nghiên cứu
Chƣơng 2: Tổng quan các bài nghiên cứu trƣớc đây về tác động của giá dầu
và giá lƣơng thực thế giới lên nền kinh tế
Chƣơng 3: Phƣơng pháp và mô hình nghiên cứu.
Chƣơng 4: Kết quả nghiên cứu.
Chƣơng 5: Kết luận.


7


CHƢƠNG 2: TỔNG QUAN CÁC NGHIÊN CỨU TRƢỚC
ĐÂY VỀ TÁC ĐỘNG CỦA GIÁ DẦU VÀ GIÁ
LƢƠNG THỰC THẾ GIỚI LÊN NỀN KINH TẾ
2.1 Kênh truyền dẫn tác động của các cú sốc giá dầu và giá lƣơng thực
thế giới lên nền kinh tế trong nƣớc
Cú sốc bên ngoài tác động đến nền kinh tế vĩ mô trong nƣớc qua nhiều
kênh truyền dẫn khác nhau và theo các mức độ khác nhau. Theo nghiên cứu của
Muhammad Arshad Khan và cộng sự (2011), có sáu kênh truyền dẫn tác động của
cú sốc giá dầu đến các biến số kinh tế vĩ mô trong nƣớc bao gồm: hiệu ứng từ phía
cung, hiệu ứng chuyển giao tài sản, hiệu ứng lạm phát, hiệu ứng điều chỉnh ngành
và hiệu ứng tâm lý (Hình 1), đối với cú sốc giá lƣơng thực thì thông qua kênh xuất
khẩu ròng.
Kênh thứ nhất: hiệu ứng từ phía cung. Giá dầu tăng dẫn đến việc giảm sử
dụng của các yếu tố đầu vào cơ bản cho quá trình sản xuất làm giảm các sản lƣợng
tiềm năng (Lardic và Mignon 2008), đồng thời làm tăng chi phí biên sản xuất,
giảm tăng trƣởng sản lƣợng và năng suất sản xuất (Lescaroux và Mignon 2008,
Tang cộng sự 2010), kéo theo là việc ảnh hƣởng không tốt đến việc làm và thu
nhập thực tế của ngƣời lao động (Kumar 2009, Chuku và cộng sự 2010). Thông
qua hình 1 ta có thể thấy hiệu ứng từ phía cung khi giá dầu tăng làm giảm sản
lƣợng sản xuất trong ngắn hạn do việc suy giảm các năng lực sản xuất dẫn đến
thất nghiệp gia tăng và thu nhập thực tế bị giảm theo.
Kênh thứ hai: hiệu ứng chuyển giao tài sản. Kênh truyền dẫn này giả định
rằng việc gia tăng giá dầu làm thay đổi sức mua từ các nƣớc nhập khẩu dầu sang
các nƣớc xuất khẩu dầu. Sự gia tăng liên tục của giá dầu làm gia tăng đáng kể thu
nhập và cải thiện cán cân thanh toán của các nƣớc xuất khẩu dầu, còn đối với
nƣớc nhập khẩu thì tổng cầu tiêu dùng của mặt hàng này bị giảm xuống (Galesi và


8


cộng sự 2009) đây đƣợc coi là hiệu ứng chuyển giao tài sản. Đối với các nƣớc
nhập khẩu, khi có cú sốc giá dầu dẫn đến giá cả hàng hóa trong nƣớc gia tăng từ
đó làm cho nhu cầu tiêu dùng hàng hóa và dịch vụ giảm xuống thông qua các hiệu
ứng: hiệu ứng thu nhập tùy dụng, hiệu ứng không chắc chắn, hiệu ứng tiết kiệm
phòng ngừa và hiệu ứng chi phí vận hành (Kilian 2010, Chuku và cộng sự 2010).
Điều này nói lên rằng thƣơng mại của các nƣớc nhập khẩu dầu sẽ giảm khi có cú
sốc xảy ra (Dohner 1981).
Kênh thứ ba: hiệu ứng lạm phát. Giá dầu tăng tạo áp lực gây ra lạm phát
lên nền kinh tế (Hooker 2002, Tang và cộng sự 2010). Điều này đƣợc giải thích
bởi những sản phẩm quan trọng trong việc tính toán chỉ số giá tiêu dung đều sử
dụng nguyên liệu từ dầu. Giá dầu ảnh hƣởng đến lạm phát theo hai cơ chế, thứ
nhất giá dầu ảnh hƣởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến lạm phát. Ảnh hƣởng trực tiếp
khi giá dầu tăng thì các nhóm hàng hóa nhất định trong thành phần tính toán chỉ số
giá tiêu dùng tăng lên nhƣ nhóm xăng dầu, nhiên liệu. Ảnh hƣởng gián tiếp khi
hàng hóa trung gian tăng làm cho chi phí sản xuất tăng lên và tăng giá bán thành
phẩm tạo ra lạm phát từ chi phí đẩy. Thứ hai, giá dầu ảnh hƣởng đến lạm phát qua
kênh cung cầu, sự tăng giá dầu làm cho tổng cung và tổng cầu suy giảm khi thị
trƣờng cân bằng, nhƣng khi có sự tăng giá dầu dẫn đến chi phí sản xuất tăng làm
lợi nhuận doanh nghiệp giảm sản xuất giảm theo. Đầu tiên, giá dầu tăng cao gây ra
sự gia tăng đột ngột của lạm phát, tuy nhiên mức độ ảnh hƣởng truyền dẫn phụ
thuộc vào phản ứng trong nƣớc đối với cú sốc này (Galesi và Lombardi 2009,
Barsky và Kilian 2004). Sau đó, cú sốc giá dầu tạo ra cú sốc trong chi phí sản
xuất, sản lƣợng đầu ra giảm tạo áp lực làm tăng giá cả hàng hóa (Ibid 2010). Các
nghiên cứu trƣớc đây cho kết quả khi có cú sốc giá dầu thì lạm phát tăng và sản
lƣợng giảm (Chuku và cộng sự 2010, Barsky và cộng sự 2004).


9

Hình 1: Tác động truyền dẫn của giá dầu và giá lƣơng thực thế giới đến các biến

kinh tế vĩ mô trong nƣớc

Cú sốc ngoại sinh

Giá dầu ↑

Sản lƣợng ↓
(ngắn hạn)
(Nguồn lực ↓)
Lạm phát ↑

PPI ↑

Lợi nhuận


Giá lƣơng thực ↑

Thất nghiệp ↑
Thu nhập ↓

Đầu tƣ ↓

Sản lƣợng ↓
(dài hạn)
(Nguồn lực ↓)
Md ↓

CPI ↑


Chính sách tiền tệ:
Kiểm soát lạm phát

Chi phí đời
sống ↑

Số dƣ tiền↓

Lãi suất ↑

Đầu tƣ ↓

Md ↓
Lãi suất ↑

Sản lƣợng ↓ (dài hạn)
(Nguồn lực ↓)

Tỷ giá hối đoái ↓

Xuất khẩu
ròng ↓

Nguồn: tổng hợp của tác giả Tang và cộng sự (2010), Alom (2011)
Kênh thứ tƣ: hiệu ứng số dư tiền. Sự gia tăng giá dầu sẽ kéo theo gia tăng
nhu cầu về tiền, nếu chính phủ không thể đáp ứng đủ cầu tiền trong thực tế sẽ dẫn
đến sự gia tăng của lãi suất làm cho tăng trƣởng kinh tế sẽ bị chậm lại (Brown và
Yucel 2002, Kumar 2005). Chính sách tiền tệ đóng vai trò quan trọng, giúp chính
phủ có thể đối phó lại với cú sốc giá dầu, chẳng hạn sử dụng chính sách thắt chặt



10

tiền tệ thông qua việc gia tăng lãi suất để đối phó với áp lực lạm phát do giá dầu
tăng cao, điều này làm cho nhà sản xuất thấy lợi nhuận giảm từ đó giảm đầu tƣ
đầu kéo theo là tác động sản lƣợng trong dài hạn cũng sẽ bị giảm theo (Tang và
cộng sự 2010, Chuku và cộng sự 2010). Brenankeet và cộng sự (1997) đã chứng
minh đƣợc rằng chính sách thắt chặt tiền tệ và cú sốc giá dầu đã tạo ra hiệu ứng
làm suy yếu nền kinh tế thực.
Kênh thứ năm: hiệu ứng điều chỉnh ngành. Làm rõ tác động bất cân xứng
của cú sốc giá dầu đến các lĩnh vực khác nhau của nền kinh tế. Khi giá dầu tăng
cao, các hoạt động kinh tế tăng trƣởng chậm hơn bởi các chi phí điều chỉnh, ngƣợc
lại khi giá dầu giảm xuống, các hoạt động kinh tế đƣợc kích thích phần nào đƣợc
bù đắp bởi các chi phí điều chỉnh (Brown và Yucel 2002, Chuku và cộng sự
2010). Brown và Yucel (2002) đã lập luận rằng chi phí điều chỉnh bắt nguồn từ sự
không chắc chắn về môi trƣờng đầu tƣ, sự bất cân xứng trong giá thành các sản
phẩm từ dầu và cách ứng xử của những nhà làm chính sách tiền tệ ( Lardic và
Mignon 2008, Lescarroux và Mignon 2008)
Kênh thứ sáu: hiệu ứng tâm lý. Kênh này thể hiện qua việc không chắc
chắn giá dầu sẽ tăng trong bao lâu dẫn đến nhu cầu đầu tƣ và tiêu dùng giảm gây
tác động không tốt đến nền kinh tế.Sự không chắc chắn làm cho các doanh nghiệp
và ngƣời tiêu dùng không có sự thay đổi kịp thời về đầu tƣ và tiêu dùng khi xảy ra
cú sốc giá dầu (Ferderer 1996, Galesi và Lombardi 2009).Sự không chắc chắn về
giá dầu trong tƣơng lai gây ra sự biến động lên và xuống của các sản phẩm liên
quan đến dầu mỏ và khi giá dầu trong tƣơng lai ngày càng trở nên không chắc
chắn giá trị của các quyết định trì hoãn đầu tƣ hay tiêu dùng ngày càng tăng, và
việc khuyến khích đầu tƣ hay tiêu dùng sẽ giảm do đó làm giảm kỳ vọng về tổng
sản lƣợng trong dài hạn (Chuku và cộng sự 2010).
Giá lƣơng thực tăng thể hiện thông qua kênh xuất khẩu ròng, khi giá lƣơng
thực tăng đối với các nƣớc nhập khẩu thì hóa đơn của các hàng hóa nhập khẩu



11

tăng dẫn đến xuất khẩu ròng giảm, đối với các nƣớc xuất khẩu thì nhu cầu về xuất
khẩu hàng hóa lƣơng thực trên thế giới giảm cũng làm giảm xuất khẩu ròng điều
này ảnh hƣởng đến một phần của thu nhập quốc gia (Alom 2011). Khi giá lƣơng
thực thế giới gia tăng các quốc gia nhập khẩu đòi hỏi một lƣợng nhu cầu về tiền tệ
quốc tế gây ra áp lực đối với việc điều chỉnh tỷ giá hối đoái trong nƣớc.
Tóm lại, việc định lƣợng ảnh hƣởng của sự thay đổi giá dầu và giá lƣơng
thực tác động lên nền kinh tế không phải dễ dàng thực hiện, tác động truyền dẫn
của những biến động trong giá cả hàng hóa thế giới này đến giá cả hàng hóa trong
nƣớc có thể đƣợc phân tích theo ba chiều hƣớng. Thứ nhất, tác động trực tiếp là
việc gây ra sự tăng giá đối với các sản phẩm năng lƣợng. Thứ hai, tác động gián
tiếp thể hiện thông qua việc truyền dẫn tăng chí phí sản xuất làm ảnh hƣởng đến
hàng hóa và dịch vụ đƣợc tiêu dùng. Thứ ba, sự gia tăng của chi phí sinh hoạt đòi
hỏi yêu cầu tăng lƣơng của công nhân để duy trì thu nhập thực tế của họ (Galesi
và Lombardi 2009). Ảnh hƣởng của hai kênh đầu tiên hầu nhƣ xảy ra trong ngắn
và trung hạn, ảnh hƣởng của kênh thứ ba thƣờng xảy ra trong dài hạn sự kéo dài
của nó có thể gây ra lạm phát giục tốc (Galesi và Lombardi 2009).
2.2.

Các nghiên cứu thực nghiệm về tác động của giá dầu và giá

lƣơng thực đến nền kinh tế
Một trong những nghiên cứu đầu tiên về cú sốc giá dầu lên các biến kinh tế
vĩ mô là của Hamilton (1983), tác giả đã sử dụng phƣơng pháp tự hồi qui véc tơ
VAR của Sim (1980) để phân tích tác động cú sốc giá dầu lên nền kinh tế Mỹ
trong giai đoạn từ năm 1948 đến năm 1980, kết quả cho thấy sự thay đổi trong giá
dầu thế giới là nguyên nhân tác động lên GNP thực tế và GNP danh nghĩa, tỷ lệ

thất nhiệp, giá cả trong nƣớc, giá cả hàng hóa, lãi suất thông thƣờng và lãi suất trái
phiếu. Kết quả này đƣợc các nhà nghiên cứu khác cho rằng chỉ là một sự trùng
hợp ngẫu nhiên. Tuy nhiên, tác giả đã mở rộng thêm nghiên cứu về vấn đề cú sốc
giá dầu vào năm 1996 và năm 2003. Kết quả cho thấy không phải tất cả những


12

thay đổi về cú sốc giá dầu đều có ảnh hƣởng nhƣ nhau đến nền kinh tế. Sự sụt
giảm giá dầu không có khả năng thúc đẩy nền kinh tế phát triển giống nhƣ cách
mà việc giá dầu tăng làm sụt giảm sự phát triển kinh tế. Hamilton (1996) đã đề
xuất một sự thay đổi trong giá dầu thô so với giá dầu thông thƣờng. Đặc biệt, một
cú sốc giá dầu bằng với chênh lệch giữa giá dầu hiện tại và giá dầu cao nhất trong
bốn hoặc mƣời hai quý trƣớc đó. Sự thay thế phƣơng pháp đo lƣờng cú sốc giá
dầu này cho thấy một mối quan hệ ngƣợc chiều và ổn định đối với sự tăng trƣởng
của tổng sản lƣợng trong tƣơng lai.
Phát triển thêm các nghiên cứu của Hamilton, các bài nghiên cứu sau này
đã cung cấp thêm nhiều bằng chứng thực nghiệm về mối quan hệ giữa cú sốc giá
dầu và phát triển kinh tế. Burbidge và Harrison(1984) đã tiến hành nghiên cứu ảnh
hƣởng của việc tăng giá dầu đến nền kinh tế của năm nƣớc Mỹ, Nhật, Đức, Anh,
Canada bằng phƣơng pháp VAR, trong giai đoạn từ tháng 1 năm 1961 đến tháng 6
năm 1982. Với các biến giá dầu thế giới, sản lƣợng công nghiệp, lãi suất cho vay
ngắn hạn, khối tiền M, thu nhập trung bình trong sản xuất, và chỉ số giá tiêu dùng.
Kết quả chứng minh rằng giá dầu có ảnh hƣởng xấu đến kinh tế vĩ mô biến trong
năm quốc gia OECD, tuy nhiên cú sốc giá dầu giai đoạn năm 1973-1974 là khác
so với giai đoạn 1979-1980, ảnh hƣởng của giá dầu trong năm 1973-1974 lên các
biến kinh tế vĩ mô là khá mạnh.
Hooker (1996) bằng cách sử dụng thử nghiệm đa biến quan hệ nhân quả
Granger, không có mối quan hệ tuyến tính hoặc không đối xứng giữa giá dầu và
các biến kinh tế vĩ mô. Khi đề cập đến giá dầu nhƣ là một biến nội sinh Hooker

chỉ ra rằng giá dầu không có quan hệ nhân quả Granger đối với nhiều chỉ số kinh
tế vĩ mô của Mỹ sau năm 1973 mặc dù có những bằng chứng đƣợc tìm thấy trƣớc
năm 1973. Tuy nhiên, trong một nghiên cứu khác của của tác giả Carruth và cộng
sự (1998) cho thấy giá dầu là nguyên nhân gây ra thất nghiệp ở Mỹ. Phù hợp với
Hooker (1996), Segal (2007) lập luận, cú sốc giá dầu không còn là một cú sốc, với
lý do chính sách tiền tệ là một trong những tuyến đƣờng quan trọng của truyền


13

dẫn giá dầu. Tác giả cho rằng khi có cú sốc giá dầu sẽ có sự phản ứng của chính
sách tiền tệ để điều hành lãi suất và kiểm soát lạm phát nhƣng kết quả của nó là
làm chậm tăng trƣởng kinh tế nên sự tác động của giá dầu lên nền kinh tế là không
còn đáng kế nữa
Lee và Ni (2002) trong “Sự tác động của giá dầu lên các ngành công
nghiệp”, đã sử dụng phƣơng pháp VAR nghiên cứu sự tác động của cú sốc giá dầu
lên cung và cầu trong ngành công nghiệp ở nƣớc Mỹ. Kết quả chỉ ra rằng đối với
những ngành công nghiệp có chi phí đầu vào phần lớn là dầu, chẳng hạn nhƣ
ngành lọc dầu hay ngành hóa chất thì một sự tăng giá dầu làm giảm sản lƣợng
cung cấp ra thị trƣờng. Đối với ngành công nghiệp khác nhƣ ngành sản xuất ô tô
thì một sự tăng giá dầu làm giảm nhu cầu tiêu thụ của ngƣời sử dụng. Nhƣ vậy khi
có cú sốc giá dầu tác động trực tiếp đến chi phí đầu vào thì có sự trì hoãn trong
quyết định tiêu thụ hàng hóa lâu bền.
Leduc và Still (2004) đã nghiên cứu xem các hậu quả do các cú sốc giá dầu
gây ra là do chính bản thân của cú sốc giá dầu hay là do chính sách thắt chặt tiền
tệ đƣợc đƣa ra để đối phó với lo ngại lạm phát gia tăng khi giá dầu tăng và hệ
thống các chính sách tiền tệ có thể đƣợc sử dụng để giảm bớt tác động của các cú
sốc giá dầu gây ra cho nền kinh tế. Kết quả cho thấy các chính sách tiền tệ thắt
chặt đã làm khuếch đại tác động của cú sốc giá dầu lên sản lƣợng đầu ra và lạm
phát. Mặt khác, các tác giả còn cho thấy một chính sách tiền tệ nhằm vào mức giá

chung sẽ làm giảm bớt đáng kể tác động của các cú sốc giá dầu.
Lardic và Mignon (2006) đã nghiên cứu mối tƣơng quan giữa giá dầu và
tăng trƣởng GDP trên bảy nƣớc thuộc khối OECD gồm Mỹ, Nhật Bản, Đức, Pháp,
Anh và Nauy kết quả ƣớc lƣợng cũng cho ra quan hệ bất đối xứng của hai biến
đƣợc nghiên cứu. Mối tƣơng quan hai chiều giữa thay đổi giá dầu và tăng trƣởng
GDP đƣợc thực hiện cho mỗi quốc gia, phƣơng trình hồi qui với biến tăng trƣởng
GDP với độ trễ của nó cùng biến thay đổi giá dầu, giá dầu tăng và giá dầu giảm


14

trong thực tế sẽ là các biến riêng biệt để kiểm tra sự bất cân xứng ở các nƣớc. Kết
quả phân tích hai chiều cho thấy có mối tƣơng quan nghịch giữa GDP và tăng giá
dầu. Nauy là quốc gia có mối tƣơng quan dƣơng giữa hai biến này bởi vì Nauy là
nƣớc có ngành công nghiệp về dầu phát triển và một trong những nƣớc dẫn đầu về
xuất khẩu dầu mỏ trên thế giới. Một sự giảm giá dầu thì cũng sự tƣơng quan
nghịch với tăng trƣởng GDP, nhƣ vậy giá dầu thế giới sụt giảm củng làm sụt giảm
sự phát triển chung tại các nƣớc trong khối OECD này.
Bartosz Mackowiak (2006) đã nghiên cứu tác động của các cú sốc ngoại
sinh và chính sách tiền tệ ở Mỹ đến sự biến động của các biến số vĩ mô ở các nền
kinh tế mới nổi. Bài nghiên cứu sử dụng mô hình SVAR với các biến kinh tế vĩ
mô của Mỹ và một số nền kinh tế mới nổi, bao gồm Hồng Kông, Hàn Quốc,
Malaysia, Philipines, Singapore, Thái Lan, Chi Lê, Mexico và giá cả hàng hóa thế
giới. Dữ liệu nghiên cứu từ tháng 1/1986 đến tháng 12/2000. Kết quả nghiên cứu
cho thấy các cú sốc ngoại sinh đóng vai trò quan trọng trong việc giải thích sự
biến động của các biến số kinh tế vĩ mô tại các thị trƣờng mới nổi, tuy nhiên, mức
độ giải thích này khác nhau giữa các thị trƣờng. Qua bài nghiên cứu, tác giả cũng
đề xuất rằng các cú sốc ngoại sinh nên đóng một vai trò quan trọng trong các mô
hình áp dụng cho thị trƣờng mới nổi. Những thay đổi trong tỷ giá bên ngoài có thể
có ảnh hƣởng khác nhau đến nền kinh tế phụ thuộc vào việc có hay không việc

chúng phản ánh cú sốc với chính sách tiền tệ của Mỹ hay phản ứng mang tính hệ
thống từ lãi suất của Fed đến các loại cú sốc khác, cũng nhƣ làm thế nào để giữ
cân bằng nền kinh tế trƣớc ảnh hƣởng của các cú sốc bên ngoài.
Rafiq và cộng sự (2008), sử dụng mô hình tự hồi qui VAR cho dữ liệu từ
1993 đến 2006 nghiên cứu tác động của giá dầu đến các biến kinh tế vĩ mô ở Thái
Lan, gồm sản lƣợng, tỉ lệ thất nghiệp, tỉ lệ lạm phát, lãi suất, thâm hụt ngân sách,
đầu tƣ và cán cân thƣơng mại. Kết quả kiểm định quan hệ nhân quả Granger chỉ ra
rằng sự bất ổn của giá dầu là nguyên nhân một chiều tác động lên đầu tƣ, tỉ lệ thất
nghiệp, lạm phát và cán cân thƣơng mại.Phân tích hàm phản ứng xung và phân rã


15

phƣơng sai trong ngắn hạn cho thấy tỉ lệ thất nghiệp chịu ảnh hƣởng của của cú
sốc giá dầu là nhiều nhất.
Jongwanich và Donghyun Park (2009), trong bài nghiên cứu của mình đã
tiến hành xem xét mức độ quan trọng của các nguyên nhân gây ra lạm phát ở các
nƣớc Châu Á phát triển. Đặc biệt, kiểm tra xem việc lạm phát gia tăng đột biến
trong giai đoạn 2007-2008 có phải do các cú sốc bên ngoài bao gồm cú sốc giá
dầu và giá lƣơng thực gây ra hay không. Ngoài ra, bài nghiên cứu cũng tiến hành
kiểm tra mức độ truyền dẫn của các cú sốc bên ngoài đến giá cả hàng hóa trong
nƣớc. Kết quả khá bất ngờ và ngƣợc lại so với những nghiên cứu trƣớc đây, lạm
phát ở Châu Á phần lớn là do tổng cầu tăng vƣợt và kỳ vọng lạm phát, chứ không
phải là do các cú sốc bên ngoài gây ra. Điều này ngụ ý rằng chính sách tiền tệ vẫn
là một công cụ mạnh mẽ và có giá trị trong công cuộc chống lạm phát ở các nƣớc
Châu Á. Một phát hiện quan trọng khác là tác động truyền dẫn của các cú sốc bên
ngoài đến giá cả hàng hóa nội địa hiện nay vẫn bị hạn chế. Tuy nhiên, việc loại bỏ
các khoản trợ cấp của chính phủ hầu hết đều dẫn đến việc tác động truyền dẫn của
các cú sốc bên ngoài sẽ trở nên mạnh mẽ hơn trong tƣơng lai.
Sajal Ghosh (2009) nghiên cứu về tác động của cú sốc giá dầu đến nền kinh

tế vĩ mô ở các nƣớc đang phát triển nhập khẩu dầu. Bài nghiên cứu đã tiến hành
nghiên cứu tác động tuyến tính và phi tuyến tính của các cú sốc giá dầu đến một
số biến kinh tế vĩ mô ở các nƣớc đang phát triển nhập khẩu dầu, cụ thể là Ấn Độ,
với dữ liệu trong khoảng thời gian từ tháng 3 năm 1991 đến tháng 1 năm 2009, sử
dụng mô hình VAR. Bài viết đã tiến hành xác định mối quan hệ nhân quả thông
qua kiểm định Granger giữa cú sốc giá dầu và các biến kinh tế vĩ mô. Đồng thời,
tiến hành phân tích hàm phản ứng xung và hàm phản ứng đẩy để xem ảnh hƣởng
của các biến kinh tế vĩ mô trƣớc các cú sốc giá dầu. Kết quả cho thấy sự biến động
trong giá dầu có tác động ngoại sinh đối với sự biến động của các biến kinh tế vĩ
mô và sự ảnh hƣởng của cú sốc giá dầu là ảnh hƣởng bất cân xứng phù hợp với


16

tính chất của việc khi các cú sốc giá giảm có tác động đến nền kinh tế rõ ràng hơn
là các cú sốc giá tăng.
Tang và cộng sự (2010) nghiên cứu cú sốc giá dầu ảnh hƣởng nhƣ thế nào
và mức độ tác động ra sao trong ngắn hạn và dài hạn đến nền kinh tế Trung Quốc,
bằng cách sử dụng cấu trúc vector tự hồi quy (SVAR). Kết quả cho thấy giá dầu
tăng ảnh hƣởng ngƣợc chiều đến sản lƣợng và đầu tƣ nhƣng ảnh hƣởng cùng
chiều đến lạm phát và lãi suất. Với chính sách kiểm soát giá phân biệt ở Trung
Quốc, bao gồm nguyên vật liệu và thành phẩm cuối cùng, tác động của nền kinh tế
thực, đại diện bởi sản lƣợng và đầu tƣ thực, tồn tại lâu hơn so với biến lạm phát và
tiền tệ. Kết quả phân rã phƣơng sai cũng chỉ ra rằng ảnh hƣởng trong ngắn hạn,
sản lƣợng giảm do việc cắt giảm lãi suất gây ra là lớn hơn trong một đến hai năm
đầu. Tuy nhiên phần tác động lâu dài là tác động thông qua việc thay đổi đầu tƣ
tăng lên và ổn định hơn so với tác động ngắn hạn vào cuối năm thứ hai.
Galesi và Lombardi (2009), sử dụng mô hình Global Vector Autogressive
(GVAR). Đầu tiên là kiểm tra tác động đến lạm phát trong ngắn hạn của những cú
sốc giá dầu và giá lƣơng thực trong tập hợp một số quốc gia. Sau đó, đánh giá

mức độ quan trọng của mối quan hệ lạm phát giữa các quốc gia bằng cách tìm ra
nguồn gốc của áp lực lạm phát trong từng vùng. Chức năng hàm phản ứng đẩy cho
thấy tác động trực tiếp đến lạm phát của các cú sốc giá dầu xảy ra đối với hầu hết
các quốc gia phát triển, trong khi đó, tác động này xảy ra ít hơn ở các quốc gia
đang phát triển. Giá cả lƣơng thực tăng đồng thời cũng ảnh hƣởng trực tiếp đến
lạm phát, đặc biệt là ở các quốc gia đang phát triển.
Malik (2010) đã nghiên cứu về tác động của giá dầu đến hoạt động kinh tế
ở Pakistan. Bài nghiên cứu đã sử dụng các dữ liệu từ quí 1 năm 1979 đến quí 2
năm 2008 để phân tích tác động của giá dầu tăng cùng với sự thay đổi của các
điều kiện kinh tế vĩ mô đối với tổng sản lƣợng. Giá dầu và tổng sản lƣợng đƣợc
cho rằng có mối quan hệ mạnh mẽ với nhau, và khi đến một mức độ nhất định thì


17

mối quan hệ này trở thành quan hệ phi tuyến tính. Ngoài ra, tỷ lệ nợ trên tổng
GDP thấp hơn, chi phí thâm hụt thấp hơn, tỷ giá hối đoái thực tế thấp hơn và tồn
tại dự trữ ngoại hối và vốn đầu tƣ sẽ làm cho sản lƣợng tăng lên.
Alom (2011), đã nghiên cứu tác động của các cú sốc giá dầu và giá lƣơng
thực đến nền kinh tế ở các nƣớc Châu Á và Thái Bình Dƣơng, bao gồm Australia,
New Zeland, Hàn Quốc, Singapore, Hồng Kông, Đài Loan, Ấn Độ và Thái Lan.
Bài nghiên cứu sử dụng mô hình SVAR, dữ liệu quý trong giai đoạn 1980-2010.
Kết quả nghiên cứu cho thấy các nƣớc nghèo về nguồn nhiên liệu nhƣng lại phát
triển mạnh về các ngành công nghiệp sản xuất lớn nhƣ ở Hàn Quốc và Đài Loan
thì sẽ chịu tác động mạnh của cú sốc giá dầu quốc tế. Cú sốc giá dầu tác động
ngƣợc chiều đến tăng trƣởng sản lƣợng công nghiệp và tỷ giá hối đoái, nhƣng lại
có tác động cùng chiều đến lạm phát và lãi suất. Mặt khác, đối với những quốc gia
không có nhiều nguồn tài nguyên về dầu nhƣ Australia và New Zeland nhƣng lại
giàu về các nguồn tài nguyên khoáng sản khác thì lại không chịu ảnh hƣởng từ cú
sốc giá dầu thế giới. Chỉ có tỷ giá hối đoái mới chịu ảnh hƣởng từ cú sốc giá dầu.

Hơn thế nữa, các quốc gia không có nguồn tài nguyên về dầu nhƣng lại chuyên về
phát triển các dịch vụ tài chính quốc tế thì cũng không chịu tác động từ cú sốc giá
dầu. Tƣơng tự nhƣ vậy, các nƣớc đang phát triển nhƣ Ấn Độ với trữ lƣợng dầu
hạn chế cũng không chịu ảnh hƣởng bởi cú sốc giá dầu. Tuy nhiên, mặc dù Thái
Lan đang dự trữ một lƣợng lớn các nguồn tài nguyên thiên nhiên khác không phải
là dầu nhƣng vẫn không phụ thuộc vào cú sốc giá dầu thế giới. Tác động hạn chế
của giá lƣơng thực đƣợc ghi nhận ở Ấn Độ, Hàn Quốc và Thái Lan, về sản lƣợng
công nghiệp, lãi suất và lạm phát. Tác động chính của giá lƣơng thực làm giảm tỷ
giá hối đoái thực tế đối với hầu hết các quốc gia, ngoại trừ Singapore. Nhìn chung,
tác động của các cú sốc giá dầu và giá lƣơng thực thế giới phụ thuộc vào đặc tính
kinh tế của từng quốc gia. Các kết quả thực nghiệm đƣa ra từ nghiên cứu cho thấy
giá dầu và giá lƣơng thực cần đƣợc đƣa ra xem xét cho mục đích hoạch định chính
sách và dự báo kinh tế ở các nƣớc, đặc biệt là ở Hàn Quốc, Đài Loan và Thái Lan.


18

Eduardo Lora và Powell (2011), đo lƣờng sự truyền dẫn giá dầu vào tỷ giá,
lạm phát lƣơng thực, lạm phát phi lƣơng thực và lạm phát chỉ số giá tiêu dùng của
khu vực Mỹ La tinh và Caribean đã chỉ ra rằng: sự tăng lên giá lƣơng thực thế giới
làm lạm phát chỉ số giá tiêu dùng tăng lên khoảng 5% .
Muhammad và cộng sự (2011), xem xét tác động của sự thay đổi giá dầu và
giá lƣơng thực thế giới lên nền kinh tế Pakistan trong giai đoạn từ năm 1990 đến
năm 2011, với các biến đƣợc sử dụng giá dầu và giá lƣơng thực thế giới, sản
lƣợng, cung tiền lạm phát, lãi suất, tỷ giá hối đoái thực hiệu dụng bằng phƣơng
pháp hồi qui cấu trúc véc tơ SVAR. Kết quả cho thấy sự thay đổi giá dầu hay giá
lƣơng thực thế giới đều ảnh hƣởng tích cực đến lạm phát. Khi giá dầu giảm thì sản
lƣợng công nghiệp và tỷ giá hối đoái thực hiệu dụng đều tăng lên. Sự thay đổi của
giá lƣơng thực tác động tích cực lên sản lƣợng công nghiệp, lãi suất.
Bài nghiên cứu của Ngân hàng châu Á tháng 3/2011 “ Lạm phát giá lƣơng

thực và sự phát triển Châu Á” đã tìm thấy rằng sự tăng lên đột ngột của giá lƣơng
thực thế giới năm 2011, đặc biệt gạo và lúa mì hai mặt hàng chủ lực trong sản xuất
và tiêu dùng ở các nƣớc Châu Á đã làm lạm phát của khu vực trong tháng năm
2011 tăng lên 10%, giá lƣơng thực tăng 30% trong năm 2011 thì sẽ làm cho các
nƣớc nhập khẩu lƣơng thực giảm GDP xuống 0.6%. Nếu giá dầu và giá gạo cùng
tăng 30% thì sẽ làm cho GDP giảm 1.5%.
Ở Việt Nam hiện nay, các nghiên cứu thực nghiệm về tác động của cú sốc
giá dầu và giá lƣơng thực đến nền kinh tế trong nƣớc là không nhiều. Tuy nhiên,
vẫn có một số ít các nghiên cứu nhƣ của tác giả Nguyễn Thị Thùy Vinh và Lê Việt
Trung (2011) sử dụng mô hình vec tơ tự hồi quy VAR để phân tích tích tác động
của giá dầu thế giới tác động lên tăng trƣởng kinh tế với biến đại diện là sản
lƣợng công nghiệp từ tháng 1 năm 1995 đến tháng 3 năm 2009. Kết quả nghiên
cứu cho thấy trong dài hạn sự tăng lên 10% giá dầu thế giới chỉ ảnh hƣởng đến
1.8% sự tăng trƣởng trong kinh tế ở Việt Nam và trong ngẳn hạn kết quả cũng cho


19

thấy tác động của giá dầu thế giới lên nền kinh tế là không nhiều. Nhƣ vậy tăng
trƣởng kinh tế trong nƣớc không phụ thuộc nhiều vào sự tăng giảm của giá dầu thế
giới.
Trong bài nghiên cứu của tác giả Nguyễn Thị Liên Hoa và Trần Đặng
Dũng (2013) “Nghiên cứu lạm phát tại Việt Nam theo phƣơng pháp SVAR”. Bài
viết đã nghiên cứu về các yếu tố nào đã, đang và sẽ ảnh hƣởng đến lạm phát tại
Việt Nam, sử dụng mô hình SVAR để kiểm định mức độ ảnh hƣởng đến lạm phát
của các yếu tố đó. Các nhân tố cơ bản đƣợc đƣa vào mô hình nghiên cứu gồm: giá
cả khu vực nƣớc ngoài bao gồm giá dầu vá giá gạo thế giới, tỷ giá, cầu kéo, chi
phí đẩy. Kết quả nghiên cứu cho thấy, lạm phát ở Việt Nam có nguồn gốc chủ yếu
từ khu vực trong nƣớc, cú sốc từ giá cả khu vực nƣớc ngoài có ảnh hƣởng nhƣng
không đáng kể và lạm phát bị ảnh hƣởng của cú sốc giá dầu lớn hơn so với ảnh

hƣởng của cú sốc giá gạo, đồng thời tác động của cú sốc này không phải là tức
thời mà có một độ trễ nhất định khoảng 6 tháng.


20

KẾT LUẬN CHƢƠNG 2
Hiện nay đã có rất nhiều các bài nghiên cứu về ảnh hƣởng của các cú sốc
giá dầu và giá lƣơng thực đến nền kinh tế vĩ mô ở các quốc gia trên thế giới. Tác
động của các cú sốc giá dầu và giá lƣơng thực thông qua các kênh truyền dẫn cho
rằng, giá dầu và giá lƣơng thực tăng làm giảm sản lƣợng sản xuất trong ngắn hạn,
gia tăng lạm phát, thất nghiệp, gia tăng nhu cầu về tiền, giảm đầu tƣ và do đó,
giảm kỳ vọng về tổng sản lƣợng trong dài hạn. Tuy nhiên, tùy theo bản chất và
tình hình kinh tế của các quốc gia khác nhau mà tác động của các cú sốc giá dầu
và giá lƣơng thực có chiều hƣớng khác nhau. Ở Việt Nam hiện nay có rất ít các
bài nghiên cứu về tác động của các cú sốc giá dầu và giá lƣơng thực đến các biến
số kinh tế vĩ mô. Do đó, bài nghiên cứu này đƣợc thực hiện nhằm kiểm tra tác
động của cú sốc giá dầu và giá lƣơng thực diễn ra nhƣ thế nào, từ đó đƣa ra các
kết luận và gợi ý giải pháp để hoàn thiện và phát triển nền kinh tế Việt Nam.


×