Tải bản đầy đủ (.pdf) (32 trang)

Đảng bộ huyện Chương Mỹ (Hà Nội) lãnh đạo xây dựng nông thôn mới từ năm 2008 đến năm 2014

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (840.7 KB, 32 trang )

Header Page 1 of 16.

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

--------------------------------------

HOÀNG MAI PHƢƠNG

ĐẢNG BỘ HUYỆN CHƢƠNG MỸ (HÀ NỘI) LÃNH ĐẠO
XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI TỪ NĂM 2008 ĐẾN NĂM 2014

Chuyên ngành: Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam
Mã số: 60 22 03 15

LUẬN VĂN THẠC SỸ LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

Người hướng dẫn khoa học: TS. Lưu Trần Luân

Hà Nội – 2016

Footer Page 1 of 16.


Header Page 2 of 16.

Mục lục
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 4
1. Lý do chọn đề tài ......................................................................................... 5
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề.......................................................................... 6
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu................................................................. 9


4. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu ................................................................. 9
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu ............................................... 9
6. Đóng góp của luận văn ............................................................................. 10
7. Kết cấu luận văn........................................................................................ 10
Chƣơng 1 ........................................................................................................ 11
CHỦ TRƢƠNG CỦA ĐẢNG, NHÀ NƢỚC VÀ ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ HÀ
NỘI VỀ XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI ................................ 11
1.1. Bối cảnh lịch sử ...................................................................................... 11
1.1.1. Những kinh nghiệm quốc tế về xây dựng nông thôn mới ............. 11
1.1.2. Những chủ trương của Đảng về vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông
thôn trong thời kỳ đổi mới (từ năm 1986 đến năm 2008))............... 16
1.1.2.1. Những chủ trương của Đảng về vấn đề nông nghiệp, nông dân và nông
thôn................................................................................................ 16
1.1.2.2. Những thành tựu đạt được ......................................................... 21
1.2. Chủ trƣơng của Đảng, Nhà nƣớc về xây dựng nông thôn mới.......... 23
1.3. Chủ trƣơng của Đảng bộ Thành phố Hà Nội về xây dựng nông thôn mới
(2008 - 2014) ................................... Error! Bookmark not defined.
Footer Page 2 of 16.


Header Page 3 of 16.

Chƣơng 2 ........................................................ Error! Bookmark not defined.
QUÁ TRÌNH ĐẢNG BỘ HUYỆN CHƢƠNG MỸ LÃNH ĐẠO THỰC HIỆN
XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI (2008 - 2014)Error! Bookmark not
defined.
2.1. Những yếu tố tác động đến chủ trƣơng xây dựng nông thôn mới của Đảng
bộ huyện Chƣơng Mỹ ................... Error! Bookmark not defined.
2.1.1. Điều kiện tự nhiên ........................... Error! Bookmark not defined.
2.1.2. Điều kiện kinh tế .............................. Error! Bookmark not defined.

2.1.3. Điều kiện văn hoá - xã hội .............. Error! Bookmark not defined.
2.1.4. Nông thôn huyện Chương Mỹ trước năm 2008Error! Bookmark not
defined.
2.2. Chủ trƣơng và sự chỉ đạo của Đảng bộ huyện Chƣơng Mỹ về thực hiện
xây dựng nông thôn mới............... Error! Bookmark not defined.
2.2.1. Chủ trương của Đảng bộ huyện Chương Mỹ về xây dựng nông thôn
mới từ năm 2008 đến năm 2014 ........ Error! Bookmark not defined.
2.2.2. Công tác tuyên truyền, quán triệt chủ trương xây dựng nông thôn mới
............................................................. Error! Bookmark not defined.
2.2.3. Kiện toàn bộ máy chỉ đạo và hình thành Đề án xây dựng nông thôn mới
............................................................. Error! Bookmark not defined.
2.2.4. Công tác xây dựng, ban hành văn bản, kiểm tra và giám sát việc thực
hiện văn bản chỉ đạo .......................... Error! Bookmark not defined.
2.3. Kết quả quá trình lãnh đạo thực hiện xây dựng nông thôn mới Error!
Bookmark not defined.
2.3.1. Công tác lập quy hoạch, đề án ........ Error! Bookmark not defined.
2.3.2. Phát triển kinh tế nông thôn ........... Error! Bookmark not defined.

Footer Page 3 of 16.


Header Page 4 of 16.

2.3.3. Về phát triển kết cấu hạ tầng và đô thị hoá nông thônError! Bookmark
not defined.
2.3.4. Về phát triển văn hoá, giáo dục, y tế, bảo vệ môi trường sinh thái khu
vực nông thôn .................................... Error! Bookmark not defined.
2.3.5. Nâng cao chất lượng hệ thống chính trị, đảm bảo an ninh trật tựError!
Bookmark not defined.
2.3.6. Nâng cao đời sống cho nông dân .... Error! Bookmark not defined.

Chƣơng 3 ........................................................ Error! Bookmark not defined.
NHẬN XÉT VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆMError! Bookmark not defined.
3.1. Nhận xét quá trình Đảng bộ huyện Chƣơng Mỹ lãnh đạo xây dựng nông
thôn mới (2008 – 2014) ................. Error! Bookmark not defined.
3.1.1. Ưu điểm ............................................ Error! Bookmark not defined.
3.1.2. Hạn chế............................................. Error! Bookmark not defined.
3.2. Một số bài học kinh nghiệm rút ra từ quá trình Đảng bộ huyện Chƣơng
Mỹ lãnh đạo xây dựng nông thôn mới (2008 - 2014) .......... Error!
Bookmark not defined.
3.2.1. Cần nhận thức đúng về xây dựng nông thôn mới đó là sự nghiệp của
chính người nông dân ........................ Error! Bookmark not defined.
3.2.2. Bám sát đặc điểm, tình hình địa phương để xác định các biện pháp, giải
pháp, tiêu chí xây dựng nông thôn mới trên cơ sở thực hiện tốt chính sách
về nông nghiệp, nông dân và nông thônError! Bookmark not defined.
3.2.3. Huy động tốt nguồn lực của địa phương, đồng thời tranh thủ nguồn
vốn đầu tư của Nhà nước .................. Error! Bookmark not defined.
3.2.4. Xây dựng đội ngũ cán bộ đáp ứng yêu cầu công tác xây dựng nông thôn
mới và thực hiện tốt chính sách thi đua, khen thưởngError! Bookmark
not defined.
Footer Page 4 of 16.


Header Page 5 of 16.

KẾT LUẬN .................................................... Error! Bookmark not defined.
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 24

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong quá trình xây dựng đất nước theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa

hiện nay, vấn đề nông nghiệp, nông dân và nông thôn là một trong những nội dung
quan trọng. Nghị quyết Đại hội đại biểu lần thứ VII của Đảng năm 1991 đã xác định:
“Phát triển nông, lâm, ngư nghiệp gắn với công nghiệp chế biến, phát triển toàn diện
kinh tế nông thôn mới là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu để ổn định kinh tế, xã hội”.
Đặc biệt, Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng nhấn mạnh:
“Hiện nay và trong nhiều năm tới đây vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn có
tầm chiến lược quan trọng”. “Xây dựng hoàn chỉnh các quy hoạch phát triển kinh tế
nông nghiệp và nông thôn. Thực hiện chương trình xây dựng mới nhằm xây dựng
các làng, xã, ấp, bản có cuộc sống ấm no, văn minh, sạch đẹp, gắn với việc hình
thành các khu dân cư đô thị hóa. Phát huy dân chủ, xây dựng nếp sống văn minh, bài
trừ các tệ nạn xã hội ở nông thôn”.
Sau gần 30 năm thực hiện đường lối đổi mới dưới sự lãnh đạo của Đảng, nông
nghiệp, nông dân, nông thôn nước ta đã đạt nhiều thành tựu to lớn. Tuy nhiên nhiều
thành tựu đạt được chưa tương xứng với tiềm năng và lợi thế: Nông nghiệp phát triển
còn kém bền vững, sức cạnh tranh thấp, chuyển giao khoa học – công nghệ và đào tạo
nguồn nhân lực còn hạn chế. Nông nghiệp, nông thôn phát triển thiếu quy hoạch, kết
cấu hạ tầng như giao thông, thủy lợi, trường học, trạm y tế, cấp nước…còn yếu kém,
môi trường ngày càng ô nhiễm. Đời sống vật chất, tinh thần của người nông dân còn
thấp, tỷ lệ hộ nghèo cao, chênh lệch giàu nghèo giữa nông thôn và thành thị còn lớn
phát sinh nhiều vấn đề xã hội bức xúc.

Footer Page 5 of 16.


Header Page 6 of 16.

Chương Mỹ là một huyện ngoại thành của thành phố Hà Nội, đời sống nhân dân còn
nhiều khó khăn, cơ sở vật chất - kỹ thuật còn thấp kém, song là địa phương có điều kiện tự
nhiên khá thuận lợi cho sản xuất nông nghiệp. Đồng thời, trong cơ cấu kinh tế của huyện,
kinh tế nông nghiệp chiếm tỷ trọng rất lớn, dân cư tập trung chủ yếu ở vùng nông thôn. Vì

vậy, giải quyết vấn đề nông nghiệp, nông dân và nông thôn càng trở nên cấp thiết.
Đảng bộ huyện Chương Mỹ đã tập trung lãnh đạo, đề ra những chủ trương,
chính sách, biện pháp phù hợp để giải quyết vấn đề này, trong đó đặc biệt quan trọng
là chủ trương lãnh đạo xây dựng nông thôn mới trên địa bàn huyện.
Phân tích, đánh giá một cách đầy đủ, khách quan quá trình lãnh đạo xây dựng
nông thôn mới của Đảng bộ huyện Chương Mỹ là một vấn đề có ý nghĩa quan trọng
đối với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của huyện nói riêng và của thành phố Hà
Nội nói chung. Bởi chỉ có thông qua phân tích, đánh giá khách quan đặc điểm tình
hình, thuận lợi, khó khăn, thành tựu, hạn chế trong quá trình lãnh đạo xây dựng nông
thôn mới của Đảng bộ huyện mới có cơ sở khoa học, căn cứ thực tiễn để tiếp tục xác
định phương hướng, nhiệm vụ, những giải pháp hữu hiệu nhằm thực hiện tốt công
cuộc xây dựng nông thôn mới ở Chương Mỹ trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện
đại hóa hiện nay và trong tương lai.
Xuất phát từ tầm quan trọng và ý nghĩa thiết thực của vấn đề đó, tác giả chọn
đề tài: “Đảng bộ huyện Chương Mỹ (Hà Nội) lãnh đạo xây dựng nông thôn mới từ
năm 2008 đến năm 2014” làm luận văn thạc sỹ khoa học Lịch sử, chuyên ngành
Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Trong nhiều năm qua, phát triển nông nghiệp, nông thôn và giải quyết các vấn đề
nông dân là những chủ đề thu hút sự quan tâm nghiên cứu của nhiều nhà nghiên cứu, các
học giả trong và ngoài nước. Trong đó liên quan đến đề tài có một số công trình sau:
Trên thế giới, trước hết phải kể đến công trình: “Chính sách nông nghiệp trong các
nước đang phát triển” của tác giả Frans Ellits do Nhà xuất bản Nông nghiệp ấn hành năm
1994; công trình “Một số vấn đề về nông nghiệp, nông dân, nông thôn ở các nước và Việt
Nam” của các tác giả Benedicttria Kerrkvliet, Jamesscott Nguyễn Ngọc và Đỗ Đức Định
sưu tầm và giới thiệu, Nhà xuất bản Hà Nội ấn hành năm 2000. Tác giả đã nêu lên những
Footer Page 6 of 16.


Header Page 7 of 16.


vấn đề cơ bản của chính sách nông nghiệp ở các nước đang phát triển thông qua việc
nghiên cứu lý thuyết và khảo cứu thực tiễn ở nhiều nước châu Á, châu Phi và Mỹ latinh.
Tác giả đã đề cập những vấn đề về chính sách phát triển vùng, chính sách hỗ trợ đầu vào,
đầu ra cho sản xuất nông nghiệp, chính sách thương mại nông sản, những vấn đề phát sinh
trong quá trình đô thị hoá. Những điểm đáng chú ý của công trình này có giá trị tham khảo
cho việc giải quyết những vấn đề của chính sách phát triển nông thôn Việt Nam hiện nay
như tương lai của các trang trại nhỏ, nông dân với khoa học…
Ở trong nước, có hàng loạt công trình nghiên cứu, giới thiệu kinh nghiệm phát triển
nông nghiệp, nông thôn của nước ngoài. Theo hướng này, một số nhà nghiên cứu và chỉ
đạo thực tiễn ở Việt Nam như PGS.TS Chu Hữu Quý, GS.TS Nguyễn Thế Nhã, GS.TS
Phạm Thị Mỹ Dung, GS.TS Đoàn Trọng Tuyến, PGS.TS Nguyễn Sinh Cúc đã có những
công trình nghiên cứu công phu và có giá trị. Điểm chung của các công trình này là sau
khi phân tích thực tiễn giải quyết vấn đề quản lý Nhà nước nói chung và việc xây dựng
chỉ đạo chính sách phát triển nông nghiệp, nông thôn ở nước ngoài, các tác giả đều cố
gắng gợi mở, nêu lên những kinh nghiệm để có thể vận dụng cho giải quyết những vấn đề
thực tiễn của Việt Nam.
GS.TS Nguyễn Đình Phan, PGS.TS Trần Minh Đạo, TS Nguyễn Văn Phúc:
“Những biện pháp chủ yếu thúc đẩy công nghiệp hóa nông nghiệp, nông thôn vùng đồng
bằng sông Hồng; Đặng Kim Sơn (2007): “Nông nghiệp, nông thôn của Việt Nam – 20
năm đổi mới và phát triển”, Nxb Chính trị quốc gia; TSKH Phan Xuân Dũng (2005):
“Nông nghiệp, nông thôn trước yêu cầu phát triển nhanh và bền vững”, tạp chí Cộng sản,
số 82; Nhật Tân (2007): “Xây dựng nông thôn một vùng chiêm trũng”, tạp chí Cộng sản
số 23; Công trình Nguyễn Xuân Thảo (2004): Góp phần phát triển bền vững nông thôn
Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia; Đặng Kim Sơn (2007): Nông nghiệp, nông thôn Việt
Nam - 20 năm đổi mới và phát triển, Nxb Chính trị quốc gia; Bùi Tất Thắng (2006):
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành ở Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội; Nguyễn Trần Quế
(chủ biên) (2004): Chuyển dịch cơ cấu kinh tế Việt Nam trong những năm đầu thế kỷ 21,
Nxb Khoa học Xã hội; PGS.TS Nguyễn Văn Bích (2007): Nông nghiệp, nông thôn Việt
Nam sau hai mươi năm đổi mới: Quá khứ và hiện tại, Nxb Chính trị quốc gia; TS Lê

Quang Phi (2007): Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn
Footer Page 7 of 16.


Header Page 8 of 16.

trong thời kỳ mới, Nxb Chính trị quốc gia; GS.TS Nguyễn Kế Tuấn (2006): Công nghiệp
hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn ở Việt Nam, con đường và bước đi, Nxb
Chính trị quốc gia… Các công trình này đã nêu rõ vấn đề chuyển dịch cơ cấu kinh tế
nông nghiệp, sự tác động của các yếu tố đối với sự phát triển của nông nghiệp, nông thôn
và đời sống người nông dân, đồng thời, nêu lên phương hướng và một số giải pháp phát
triển nông nghiệp.
Trần Thị Minh Châu (chủ biên): Về chính sách đất nông nghiệp ở nước ta hiện
nay của Nxb Chính trị quốc gia; Lê Quang Phi (2008): Đổi mới tư duy của Đảng về công
nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta, Nxb Chính trị quốc gia; Ban Tư tưởng - Văn hóa
Trung ương, Bộ NN&PTNT (2002): Con đường Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông
nghiệp, nông thôn Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia… Những công trình này đi sâu
nghiên cứu, đánh giá vai trò lãnh đạo của Đảng, Nhà nước trên lĩnh vực kinh tế nông
nghiệp, quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp.
Vấn đề Đảng lãnh đạo xây dựng nông thôn mới là một vấn đề mới, có thể kể đến
một số công trình như: Vũ Thị Mười (2012): Đảng bộ tỉnh Ninh Bình lãnh đạo xây dựng
nông thôn mới từ năm 2001 đến năm 2010, Luận văn Thạc sĩ ,Trung Tâm đào tạo bồi
dưỡng giảng viên lý luận chính trị; Đỗ Thuỳ Dung (2013): Đảng bộ huyện Sóc Sơn lãnh
đạo xây dựng nông thôn mới từ năm 2001 đến năm 2012, Luận văn Thạc sĩ, Trường Đại
học Khoa học xã hội & nhân văn; Phạm Anh Đào (2013): Đảng bộ Bắc Giang lãnh đạo
nhân dân xây dựng nông thôn mới, Luận văn Thạc sĩ, Trường Đại học Khoa học xã hội &
nhân văn; Nguyễn Thị Nga (2014): Công tác vận động nông dân xây dựng nông thôn mới
của Đảng bộ xã Hiệp Hòa – Bắc Giang của tác giả, Luận văn Thạc sĩ Đại học Khoa học
xã hội & nhân văn, … Các công trình này đã đi sâu tìm hiểu về thực trạng và nêu lên
phương hướng, giải pháp xây dựng nông thôn mới tại các địa phương.

Bên cạnh những công trình nghiên cứu trên, còn có những bài viết, bài đăng trên các
báo, tạp chí của trung ương và địa phương cũng đề cập đến nội dung liên quan đến nông
thôn mới.
Qua đây, có thể thấy vấn đề nông nghiệp, nông thôn từ trước tới nay đã được nhiều
tác giả quan tâm nghiên cứu với nhiều góc độ, mục đích, phương pháp khác nhau gúp cho
người đọc, người nghiên cứu có được nhận thức đầy đủ, sâu sắc hơn về chủ trương của
Footer Page 8 of 16.


Header Page 9 of 16.

Đảng đối với vấn đề phát triển nông nghiệp, nông thôn Việt Nam trong quá trình công
nghiệp hóa. Tuy nhiên, xét dưới góc độ lịch sử Đảng, xây dựng nông thôn mới ở địa
phương thì rất ít công trình nghiên cứu một cách cụ thể, hệ thống và vấn đề nông thôn
mới thì mới bắt đầu và còn bỏ ngỏ.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích
Nghiên cứu làm rõ sự lãnh đạo của Đảng bộ huyện Chương Mỹ về xây dựng nông
thôn mới nhằm phân tích, đánh giá một cách khoa học, khách quan về chủ trương và quá
trình tổ chức thực hiện, nêu lên những thành tựu, hạn chế, và rút ra một số kinh nghiệm.
Nhiệm vụ
- Trình bày có hệ thống quan điểm, chủ trương của Đảng Cộng sản Việt Nam, của Thành
ủy Hà Nội về xây dựng nông thôn mới từ năm 2008 đến năm 2014;
- Làm rõ quá trình Đảng bộ huyện Chương Mỹ vận dụng quan điểm, chủ trương của
Đảng Cộng sản Việt Nam, của Thành ủy Hà Nội về xây dựng nông thôn mới vào điều
kiện địa phương;
- Phân tích những thành tựu bước đầu, hạn chế và một số kinh nghiệm về xây dựng
nông thôn mới ở Chương Mỹ.
4. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu
Đối tượng

- Các chủ trương của Đảng bộ huyện Chương Mỹ trong quá trình lãnh đạo xây dựng
và phát triển nông thôn mới.
- Quá trình thực hiện nhiệm vụ xây dựng nông thôn mới ở huyện Chương Mỹ từ
năm 2008 đến năm 2014.
Phạm vi nghiên cứu
Về không gian: Đề tài tập trung nghiên cứu trên địa bàn huyện Chương Mỹ (thành
phố Hà Nội).
Về thời gian: từ năm 2008 (mốc bắt đầu có chủ trương xây dựng nông thôn mới) đến
năm 2014.
Về nội dung: Đề tài nghiên cứu quá trình Đảng bộ huyện Chương Mỹ lãnh đạo xây
dựng nông thôn mới từ năm 2008 đến năm 2014.
Footer Page 9 of 16.


Header Page 10 of 16.

5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận
Luận văn đứng trên lập trường của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh, chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử.
Phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng phương pháp lịch sử và phương pháp logic. Đồng thời sử dụng các
phương pháp chuyên ngành như phương pháp thống kê, phương pháp khảo sát thực tiễn,
phương pháp phân tích tổng hợp và so sánh nhằm nghiên cứu, làm rõ các nội dung đề cập
trong luận văn.
6. Đóng góp của luận văn
- Hệ thống hoá các quan điểm, chủ trương của Đảng, thành phố Hà Nội về xây dựng
nông thôn mới;
- Hệ thống, khái quát chủ trương, biện pháp của Đảng bộ huyện Chương Mỹ trong
quá trình vận dụng quan điểm của Đảng và thành phố Hà Nội trong xây dựng nông thôn

mới. Đúc kết một số kinh nghiệm góp phần vào quá trình thực hiện chủ trương phát triển
nông nghiệp, nông dân, nông thôn của huyện nói chung và xây dựng nông thôn mới nói
riêng đạt hiệu quả hơn trong thời gian tiếp theo.
- Luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu, giảng dạy, học
tập Lịch sử Đảng nói chung, Lịch sử Đảng bộ huyện Chương Mỹ nói riêng thời kỳ Đảng
lãnh đạo công cuộc đổi mới.
7. Kết cấu luận văn
Luận văn được kết cấu làm 3 chương:
Chương 1: Chủ trương của Đảng, Nhà nước và Đảng bộ Thành phố Hà Nội về xây
dựng nông thôn mới
Chương 2: Quá trình lãnh đạo thực hiện xây dựng nông thôn mới của Đảng bộ
huyện Chương Mỹ từ năm 2008 đến năm 2014
Chương 3: Nhận xét và kinh nghiệm

Footer Page 10 of 16.


Header Page 11 of 16.

Chƣơng 1
CHỦ TRƢƠNG CỦA ĐẢNG, NHÀ NƢỚC VÀ ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ HÀ
NỘI VỀ XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI
1.1. Bối cảnh lịch sử
1.1.1. Những kinh nghiệm quốc tế về xây dựng nông thôn mới
Phát triển nông nghiệp, xây dựng nông thôn mới trong giai đoạn hiện nay, từ các
góc độ khác nhau đang là mối quan tâm chung của cả cộng đồng quốc tế. Kinh nghiệm
của một số quốc gia về vấn đề này là bài học kinh nghiệm cho Việt Nam trong quá trình
xây dựng nông thôn mới đạt kết quả cao.
- Mô hình Nhật Bản: “Mỗi làng một sản phẩm”
Từ thập niên 70 của thế kỷ trước, ở tỉnh Oita (miền Tây Nam Nhật Bản) đã hình

thành và phát triển phong trào “Mỗi làng một sản phẩm” với mục tiêu phát triển vùng
nông thôn của khu vực này một cách tương xứng với sự phát triển chung của cả nước.
Việc lựa chọn và phát triển một sản phẩm phù hợp với đặc điểm và thế mạnh của mỗi
làng giúp cho làng đó khai thác tối đa mọi nguồn lực, tìm được chỗ đứng xứng đáng trên
thị trường, là cơ sở để tạo nhiều việc làm và thúc đẩy các hoạt động kinh tế - xã hội khác
cùng phát triển.
Trải qua gần 30 năm hình thành và phát triển, phong trào “mỗi làng một sản phẩm”
ở Nhật Bản đã thu được thắng lợi rực rỡ. Sự thành công của phong trào này đã lôi cuốn
sự quan tâm không chỉ nhiều địa phương trên đất nước Nhật Bản mà còn rất nhiều khu
vực, quốc gia khác trên thế giới. Một số quốc gia khu vực Đông Nam Á đã thu được
những thành công nhất định trong phát triển nông thôn của đất nước mình nhờ áp dụng
kinh nghiệm này của Nhật Bản. Hiện nay, Nhật Bản vẫn đang áp dụng chính sách nông

Footer Page 11 of 16.


Header Page 12 of 16.

nghiệp được thông qua từ năm 1971 để kiểm soát giá gạo sau khi sản lượng lúa gạo trong
nước vượt quá nhu cầu tiêu dùng. Chính phủ hỗ trợ nông dân bằng cách xuất tiền ngân
sách ra mua gạo cho dân mỗi khi gạo rớt giá.
- Mô hình Hàn Quốc: Phong trào Làng mới
Cuối thập niên 60 của thế kỷ XX, GDP bình quân của Hàn Quốc chỉ có 85 USD,
phần lớn người dân không đủ ăn, 80% dân nông thôn không có điện thắp sáng, sống
trong những căn nhà lợp bằng lá, trong khi lũ lụt và hạn hán xảy ra thường xuyên. Phong
trào Làng mới ra đời với 3 tiêu chí: cần cù (chăm chỉ), tự lực vượt khó và hợp tác (hiệp
lực cộng đồng). Năm 1970, sau những dự án thí điểm đầu tư cho nông thôn có hiệu quả,
Chính phủ Hàn Quốc đã chính thức phát động phong trào Làng mới và được nông dân
hưởng ứng mạnh mẽ. Họ thi đua cải tạo nhà mái lá bằng mái ngói, đường giao thông
trong làng, xã được mở rộng, nâng cấp; các công trình phúc lợi công cộng được đầu tư

xây dựng. Phương thức canh tác được đổi mới, chẳng hạn, áp dụng canh tác tổng hợp với
nhiều mặt hàng mũi nhọn như nấm và cây thuốc lá để tăng giá trị xuất khẩu. Chính phủ
khuyến khích và hỗ trợ xây dựng nhiều nhà máy ở nông thôn, tạo việc làm và cải thiện
thu nhập cho nông dân.
Bộ mặt nông thôn Hàn Quốc đã có những thay đổi hết sức kì diệu. Chỉ sau 8 năm, các
dự án phát triển kết cấu hạ tầng nông thôn cơ bản được hoàn thành. Từ năm 1971 đến
1978, Hàn Quốc đã cứng hoá được 43.631 km đường làng nối với đường của xã (trung
bình 1.322 m/làng), cứng hoá đường ngõ xóm 42.220 km (trung bình 1.280 m/làng), 98%
hộ có điện thắp sáng. Đặc biệt, vì không có quỹ bồi thường đất và các tài sản khác nên việc
hiến đất, tháo dỡ công trình, cây cối đều do dân tự giác bàn bạc, thoả thuận, ghi công lao
đóng góp và hi sinh của các hộ nông dân cho làng, thôn. Nhờ phát triển giao thông nông
thôn nên các hộ có điều kiện mua sắm phương tiện sản xuất. Từ đó, tạo phong trào cơ khí
hoá trong sản xuất nông nghiệp, áp dụng công nghệ cao, giống mới, công nghệ nhà lưới,
nhà kính trồng rau đã thúc đẩy năng suất, giá trị sản phẩm tăng nhanh. Năm 1979, Hàn
Quốc đã có 98% số làng tự chủ về kinh tế. Chính phủ hỗ trợ một phần đầu tư hạ tầng để
nông thôn vươn lên, xốc lại tinh thấn, đánh thức khát vọng, tự tin. Từ mô hình Làng mới

Footer Page 12 of 16.


Header Page 13 of 16.

của Hàn Quốc, có thể rút ra 6 bài học kinh nghiệm cho quá trình xây dựng nông thôn mới ở
Việt Nam, đó là:
Thứ nhất, phát huy nội lực của dân để xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn với
phương châm “nhân dân quyết định và làm mọi việc”, “nhà nước bỏ ra 1 vật tư, nhân dân
bỏ ra 5 - 10 công sức và tiền của”. Dân quyết định loại công trình, dự án nào cần ưu tiên
trước, công khai bàn bạc, quyết định thiết kế và chỉ đạo thi công, nghiệm thu công trình.
Ví dụ như: năm 1971, Chính phủ Hàn Quốc chi hỗ trợ cho 33.267 làng, mỗi làng là 335
bao xi măng. Năm 1972, lựa chọn 1.600 làng làm tốt được hỗ trợ thêm 500 bao xi măng

và 1 tấn sắt thép. Dân làng tự quyết định mức đóng góp đất, ngày công cho dự án.
Thứ hai, phát triển sản xuất để tăng thu nhập. Với kết cấu hạ tầng tốt, các đơn vị
chuyển giao tiến bộ kỹ thuật, giống mới giúp nông dân tăng năng suất cây trồng, vật nuôi,
xây dựng vùng chuyên canh hàng hoá. Chính phủ xây dựng nhiều nhà máy ở nông thôn để
chế biến cũng như có chính sách tín dụng nông thôn, cho vay thúc đẩy sản xuất.
Thứ ba, đào tạo cán bộ phục vụ phát triển nông thôn. Chính phủ Hàn Quốc xác định
nhân tố quan trọng nhất để phát triển phong trào Làng mới là đội ngũ cán bộ cơ sở tự
nguyện và do dân bầu. Hàn Quốc đã xây dựng 3 trung tâm đào tạo quốc gia và mạng lưới
trường nghiệp vụ ở địa phương. Nhà nước đài thọ, mở các lớp học trong thời gian từ 1 - 2
tuần để trang bị kiến thức thiết thực như kỹ năng quản lý dự án, phát triển cộng đồng.
Thư tư, phát huy dân chủ để phát triển nông thôn. Hàn Quốc thành lập Hội đồng
phát triển xã, quyết định sử dụng trợ giúp của Chính phủ trên cơ sở công khai, dân chủ,
bàn bạc để triển khai các dự án theo mức độ cần thiết của địa phương. Thành công của
Hàn Quốc là xã hội hoá các nguồn hỗ trợ để dân tự quyết định lựa chọn dự án, phương
thức đóng góp, giám sát công trình.
Thứ năm, từ phát triển cộng đồng đã thiết lập lại các hợp tác xã kiểu mới phục vụ
trực tiếp nhu cầu của dân, cán bộ do dân bầu chọn. Phong trào Làng mới là bước ngoặt
đối với sự phát triển của hợp tác xã. Các hợp tác xã hoạt động đa dạng, hiệu quả trong
dịch vụ tín dụng, cung cấp đầu vào cho sản xuất, tiếp thị nông sản, bảo hiểm nông thôn
và các dịch vụ khác.

Footer Page 13 of 16.


Header Page 14 of 16.

Thứ sáu, phát triển và bảo vệ rừng, bảo vệ môi trường bằng sức mạnh toàn dân.
Chính phủ quy hoạch, xác định chủng loại cây rừng phù hợp, hỗ trợ giống, tập huấn kỹ
thuật chăm sóc vườn ươm và trồng rừng, yêu cầu tất cả chủ đất trên vùng núi trọc đều
phải trồng rừng, bảo vệ rừng. Do vậy, nếu năm 1970, phá rừng còn là quốc nạn thì 20

năm sau, rừng xanh đã che phủ khắp nước, và được coi là kì tích của phong trào này.
Phong trào Làng mới của Hàn Quốc đã biến đổi cộng đồng vùng nông thôn cũ thành
cộng đồng nông thôn mới ngày một đẹp hơn và giàu hơn. Khu vực nông thôn trở thành
một xã hội năng động có khả năng tự tích luỹ, tự đầu tư và tự phát triển. Phong trào Làng
mới với mức đầu tư không lớn đã góp phần đưa Hàn Quốc từ một nuớc nông nghiệp lạc
hậu trở nên giàu có.
- Mô hình Thái Lan với sự trợ giúp mạnh mẽ của Nhà nước
Thái Lan vốn là một nước nông nghiệp truyền thống với dân số nông thôn chiếm
khoảng 80% dân số cả nước. Đối với các sản phẩm nông nghiệp, Nhà nước đã hỗ trợ để
tăng sức cạnh tranh với các hình thức, đẩy mạnh công tác tiếp thị, khai thác tài nguyên
một cách khoa học và hợp lý, từ đó góp phần ngăn chặn tình trạng khai thác bừa bãi và
kịp thời phục hồi những khu vực bị suy thoái.
Hệ thống thuỷ lợi bảo đảm tưới tiêu cho hầu hết đất canh tác trên toàn quốc, góp
phần nâng cao năng suất lúa và các loại cây trồng trong sản xuất nông nghiệp. Chương
trình điện khí hoá nông thôn với việc xây dựng các trạm thuỷ điện vừa và nhỏ được triển
khai rộng khắp cả nước… Thái Lan đã tập trung phát triển các ngành mũi nhọn nông
nghiệp, thuỷ, hải sản phục vụ xuất khẩu, thúc đẩy mạnh mẽ công nghiệp chế biến nông
sản cho tiêu dùng và xuất khẩu, nhất là xuất khẩu sang các nước công nghiệp phát triển.
Chính sách phát triển nông nghiệp: cơ cấu lại mặt hàng nông sản nhằm nâng cao chất
lượng và sản lượng của 12 mặt hàng trong đó có gạo, dứa, tôm sú, gà và cà phê. Chính phủ
cho rằng càng có nhiều nguyên liệu cho chế biến thì ngành công nghiệp chế biến lương
thực - thực phẩm mới phát triển và càng thu được nhiều ngoại tệ.
Chính sách bảo đảm an toàn vệ sinh thực phẩm: năm 2004, Chính phủ Thái Lan
phát động chương trình “Năm an toàn thực phẩm và Thái Lan là bếp ăn của thế giới”
nhằm khuyến khích các nhà chế biến và nông dân có hành động kiểm soát chất lượng vệ
Footer Page 14 of 16.


Header Page 15 of 16.


sinh thực phẩm để bảo đảm an toàn cho người tiêu dùng trong nước và xuất khẩu. Do đó,
ngày nay, thực phẩm chế biến của Thái Lan được người tiêu dùng ở các thị trường khó
tính như Hoa Kỳ, Nhật Bản và EU chấp nhận.
Mở cửa thị trường: Chính phủ Thái Lan đã xúc tiến đầu tư, thu hút mạnh mẽ các
nhà đầu tư nước ngoài vào liên doanh để phát triển ngành công nghiệp chế biến thực
phẩm thông qua việc mở cửa cho các quốc gia vào đầu tư kinh doanh. Trong tiếp cận thị
trường xuất khẩu, Chính phủ là người đại diện thương lượng với chính phủ các nước để
các doanh nghiệp đạt được lợi thế cạnh tranh trong xuất khẩu thực phẩm chế biến. Bên
cạnh đó, Chính phủ Thái Lan có chính sách trợ cấp ban đầu cho các nhà máy chế biến và
đầu tư trực tiếp vào kết cấu hạ tầng.
- Mô hình" Tam nông" của Trung Quốc
Khi chuẩn bị gia nhập tổ chức Thương mại thế giới (WTO), cơ quan chức năng
Trung Quốc dự báo lao động trong nông nghiệp sẽ giảm khoảng 9,6 triệu người, cuộc
sống của nông dân càng khó khăn hơn do trình độ lạc hậu. Tuy nhiên, sau khi thực hiện
chính sách tam nông xây dựng một xã hội hài hoà, bộ mặt nông thôn Trung Quốc đã có
thay đổi vượt bậc. Ví dụ như thôn Gia Chủy trước đây là thôn đánh cá và trồng trọt nghèo
nhất huyện Cao Thuân (Giang Tô), từ khi mở mang nghề đóng tàu và vận tải thuỷ, nâng
cao hiệu quả sản xuất nông nghiệp, thôn này đã trở thành thôn điển hình toàn quốc về
nhiều mặt.
Yếu tố quyết định là lãnh đạo thông suốt, dám làm, quyết tâm cống hiến, kích
thích ý thức lập nghiệp và làm giàu của dân. Hiện Gia Chuỷ đã có những biệt thự nông
dân bên cạnh các “chung cư nông dân” nằm trong quy hoạch nông thôn mới. Phát triển
các doanh nghiệp nông nghiệp là một giải pháp để Trung Quốc thực hiện chính sách tam
nông hiệu quả. Chính phủ Trung Quốc đã thi hành một loạt biện pháp theo phương châm
“cho nhiều, thu ít, tạo nhiều việc làm” giúp tăng thu nhập. Đó là:
Không ngừng tăng đầu tư của Nhà nước cho phát triển nông nghiệp, ngày càng
chú trọng tới khu vực nông thôn về các mặt tài chính, thu thuế, tích cực giảm bớt khó
khăn về tài chính cho khu vực nông thôn, tăng thêm ngân sách cho phát triển giáo dục, y
tế, văn hoá đối với khu vực nông thôn, tăng cường chính sách trợ cấp đối với nông dân.
Footer Page 15 of 16.



Header Page 16 of 16.

Đẩy mạnh phát triển xí nghiệp hương trấn, nhanh chóng đưa tiến bộ kỹ thuật vào sản
xuất, phát triển các ngành tập trung lao động cao và dịch vụ ở nông thôn, tăng cường thu
hút nguồn lao động nông thôn làm việc tại địa phương.
Công nghiệp hoá nông nghiệp, trồng rau do máy vi tính điều khiển, tiếp thị sản phẩm
nông nghiệp qua mạng internet. Một tầng lớp công nhân nông nghiệp ra đời.
Ngoài việc điều chỉnh cơ cấu sản xuất, Trung Quốc còn thúc đẩy cải tổ việc quản lý
trong nông nghiệp và hệ thống phân phối sản phẩm. Điều này còn quan trọng hơn việc
tăng tính cạnh tranh của sản phẩm. Chính phủ cố gắng đưa các giống mới chất lượng cao
vào sản xuất và hỗ trợ tìm kiếm thị trường mới cho nông sản. Nhờ một loạt chính sách hỗ
trợ của Chính phủ, việc giảm diện tích canh tác liên tiếp trong nhiều năm qua đã dừng lại.
Thu nhập của nông dân tăng rõ rệt. Nông nghiệp đang được điều chỉnh cơ cấu sản xuất để
các sản phẩm có tính cạnh tranh hơn.
Một số kinh nghiệm trong phát triển nông nghiệp - nông thôn của một số nước cho
thấy những ý tưởng sáng tạo, khâu đột phá và sự trợ giúp hiệu quả của Nhà nước trên cơ
sở phát huy tính tự chủ, năng động, sáng tạo, trách nhiệm của người nông dân để phát
triển khu vực này, có ý nghĩa và vai trò hết sức quan trọng đối với việc công nghiệp hoá hiện đại hoá thành công nông nghiệp, tạo nền tảng thúc đẩy quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước.
1.1.2. Những chủ trương của Đảng về vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn
trong thời kỳ đổi mới (từ năm 1986 đến năm 2008))
1.1.2.1. Những chủ trương của Đảng về vấn đề nông nghiệp, nông dân và nông thôn
Ở Việt Nam, nông nghiệp, nông dân và nông thôn có vai trò rất quan trọng trong
suốt quá trình xây dựng và phát triển đất nước. Trong hơn 30 năm qua, nông nghiệp,
nông dân và nông thôn lại đi trước mở đường trong quá trình đổi mới, tạo điều kiện để
đất nước vươn lên. Chính vì vậy mà Đảng và Nhà nước luôn có những chính sách hỗ trợ,
xây dựng và phát triển nông nghiệp, nông dân và nông thôn một cách có hiệu quả và bền
vững.
Tuy nhiên, trước khi bước vào công cuộc đổi mới, vấn đề nông nghiệp, nông thôn

chưa được đặt đúng vị trí của nó. Trong một thời gian dài, công nghiệp nặng luôn được
Footer Page 16 of 16.


Header Page 17 of 16.

đặt ở vị trí ưu tiên. Mặc dù Đại hội lần thứ IV của Đảng (tháng 12/1976) xác định rõ hơn
vai trò cơ sở của nông nghiệp, song tư tưởng chủ đạo trong nhiều năm tiếp theo vẫn là
nhấn mạnh công nghiệp nặng.
Đại hội V của Đảng (tháng 3/1982) bước đầu chỉ ra sai lầm thiếu chuẩn bị đầy đủ
những điều kiện, tiền đề cần thiết cho phát triển nông nghiệp. Đây là sự điều chỉnh trong
quan điểm của Đảng về vị trí của kinh tế nhà nước, song trong chỉ đạo và hoạch định
chính sách nông nghiệp chưa thực sự được coi là mặt trận hàng đầu, không đảm bảo cho
những điều kiện cần thiết để phát triển, nhất là vật tư, tiền vốn và các chính sách khuyến
khích. Công nghiệp nặng không phục vụ kịp thời cho nông nghiệp và công nghiệp nhẹ.
Với tinh thần đổi mới toàn diện, bắt đầu đổi mới từ tư duy kinh tế, Đại hội VI của
Đảng (tháng 12/1986) chỉ rõ: "Muốn đưa nền kinh tế thoát khỏi tình trạng rối ren, mất cân
đối, phải dứt khoát sắp xếp lại nền kinh tế quốc dân theo cơ cấu hợp lý” [13,tr.44+. Đại hội
nhấn mạnh nông nghiệp là mặt trận hàng đầu, đưa nông nghiệp tiến một bước theo
hướng sản xuất lớn. Việc xây dựng và thực hiện ba chương trình kinh tế lớn (lương thực thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu) đều liên quan trực tiếp đến nông nghiệp .
Đó là sự cụ thể hóa nội dung chính của công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa trong chặng
đường đầu tiên của thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Trên cơ sở tổng kết thực tiễn, ngày 5/4/1988, Bộ Chính trị (khóa VI) ra Nghị quyết
10-NQ/TW "Về đổi mới cơ chế quản lý kinh tế nông nghiệp". Quan điểm cơ bản của
Đảng về quản lý nông nghiệp là coi hợp tác xã như đơn vị kinh tế tự quản, hộ gia đình xã
viên là đơn vị kinh tế tự chủ, nhận khoán với hợp tác xã. Bộ Chính trị chỉ rõ: "Đổỉ mới
quản lý kinh tế nông nghiệp nhằm khắc phục các nhược điểm, sai lầm trong các chính
sách lớn đối với nông nghiệp". Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị chủ trương sắp xếp và tổ
chức lại sản xuất nông nghiệp theo hướng chuyên môn hóa kết hợp với kinh doanh tổng
hợp, gắn với trồng trọt chăn nuôi; gắn nông - lâm - ngư nghiệp với công nghiệp chế biến

và các ngành tiểu thủ công nghiệp ở nông thôn... Đây chính là bước đột phá mở đầu cho
chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn theo hướng sản xuất hàng hóa.
Tháng 3/1989, Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa VI)

Footer Page 17 of 16.


Header Page 18 of 16.

khẳng định những chuyển biến quan trọng trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp
từ khi thực hiện Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị, đồng thời bổ sung, làm rõ thêm tư
tưởng đổi mới, thể hiện ở ba quan điểm lớn: - Mọi tổ chức sản xuất kinh doanh do
người lao động tự góp vốn, góp sức và quản lý theo nguyên tắc dân chủ, không phân
biệt quy mô, trình độ kỹ thuật, mức độ tập thể hóa là hợp tác xã; - Hợp tác xã và tập
đoàn sản xuất là các đơn vị kinh tế hợp tác với nhiều hình thức sở hữu về tư liệu sản
xuất; - Gia đình xã viên đã trở thành đơn vị sản xuất kinh tế tự chủ, ngoài
việc nhận khoán sử dụngruộng đất, thực hiệncáchợpđồng với hợp tác xã còn chủ động phát triển
sản xuất kinh doanh dư ới nhiều hình thức, khuyến khích xã viên làm giàu,
đồng thời có chính sách, biện pháp cụ thể để giúp các hộ nghèo có thêm điều kiện để
vươn lên làm ăn tốt.
Đại hội VII của Đảng (tháng 6/1991) khẳng định: “Phát triển nông - lâm - ngư
nghiệp gắn với công nghiệp chế biến, phát triển toàn diện kinh tế nông thôn và xây
dựng nông thôn mới là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu để ổn định tình hình
kinh tế - xã hội.Xâydựngphươngántổngthểtrêntừngvùng,hìnhthànhcơcấukinhtếhợplývềnông-lâm-ngư công nghiệp phù hợp với sinh thái vùng, bảo vệ tài nguyên, gắn phát triển nông - lâm ngư nghiệp với phát triển ngành tiểu thủ công nghiệp và công nghiệp chế biến bằng công
nghệ thích hợp, xây dựng các điểm kinh tế - kỹ thuật dịch vụ ở từng vùng và tiểu vùng;
xây dựng kết cấu tầng kỹ thuật và hạ tầng xã hội ở nông thôn” [76, tr.63].
Trên cơ sở những thành tựu đã đạt được trong nông nghiệp, nông thôn, để đẩy
mạnh phát triển nông nghiệp và kinh tế - xã hội nông thôn, Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp
hành Trung ương Đảng khóa VII (tháng 6/1993) ra Nghị quyết "Về tiếp tục đổi mới và
phát triển kinh tế - xã hội nông thôn". Hội nghị đánh giá trực tiếp thực trạng nông

nghiệp, nông thôn, xác định mục tiêu, quan điểm đổi mới và phát triển kinh tế - xã hội
nông thôn từ năm 1993 đến năm 2000, đồng thời đề ra phương hướng và giải pháp cụ
thể để đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế - xã hội nông thôn, xây dựng nông thôn
mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Hội nghị xác định mục tiêu: Một là, phát triển
nhanh, bền vững nông - lâm - ngư, công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ nông

Footer Page 18 of 16.


Header Page 19 of 16.

thôn, nâng cao chất lượng và hiệu quả kinh doanh để thu hút đại bộ phận lao động dư
thừa, tăng năng suất lao động, giải quyết vững chắc nhu cầu lương thực, thực phẩm,
đáp ứng nhu cầu nguyên vật liệu cho công nghiệp và tăng nhanh kim ngạch xuất khẩu,
bảo vệ môi trường sinh thái. Hai là, cải thiện một bước đời sống văn hoá của nông dân,
tăng diện giàu và đủ ăn, xóa đói, giảm nghèo. Ba là, xây dựng nông thôn mới. Đồng
thời, qua đó đề ra phương hướng và giải pháp phát triển kinh tế - xã hội nông thôn một
cách cụ thể, phù hợp.
Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VII đã xác
định một hệ thống quan điểm đồng bộ về ba vấn đề lớn: nông nghiệp, nông thôn và nông
dân, gắn phát triển sản xuất nông nghiệp, xây dựng nông thôn mới với nâng cao đời sống
nông dân. Cũng trong giai đoạn này, Nhà nước cũng ban hành Luật Đất đai xác định
những quan điểm cơ bản của Đảng về vấn đề đất đai. Các hộ tư nhân được đầu tư phát
triển giống cây, khai thác đất trống, đồi núi trọc ở các vùng trung du, miền núi, bãi bồi ven
biển, nuôi trồng và khai thác thủy sản, xây dựng nông - lâm - ngư trại với quy mô thích
hợp. Điều này chứng tỏ rằng, Nhà nước đã trao thêm cho các tổ chức kinh tế, cá nhân
người lao động và hộ nông dân trách nhiệm và quyền tự chủ sản xuất kinh doanh trong
lĩnh vực nông - lâm - ngư nghiệp, trong đó có mô hình kinh tế phát triển theo xu hướng
trang trại. Cùng với Luật Đất đai, Luật Thuế sử dụng đất nông nghiệp được Quốc hội thông
qua (tháng 7/1993) có vị trí quan trọng với sự phát triển của các thành phần kinh tế, nhất

là kinh tế hộ gia đình, khuyến khích hộ gia đình sử dụng có hiệu quả đất đai và bảo đảm
công bằng, hợp lý sự đóng góp của hộ gia đình sử dụng đất nông nghiệp vào ngân sách
của Nhà nước. Các đạo luật trên là cơ sở pháp lý rất quan trọng, tạo nền tảng cho kinh tế
hộ, kinh tế trang trại phát triển.
Tháng 7/1994, Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VII đã xác
định ba chủ trương lớn về phát triển kinh tế công nghiệp và chuyển dịch cơ cấu kinh tế
trong năm tới là: công nghiệp hóa - hiện đại hóa và kinh tế nông thôn, phát triển toàn
diện nông - lâm - ngư nghiệp gắn với công nghiệp chế biến, phát triển mạnh công nghiệp

Footer Page 19 of 16.


Header Page 20 of 16.

sản xuất hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu, mở rộng thương nghiệp, dịch vụ, dịch vụ ở
cả thành thị và nông thôn, đẩy mạnh các hoạt động kinh tế đối ngoại khác.
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng (tháng 6/1996), trên cơ sở đánh
giá tình hình 10 năm thực hiện công cuộc đổi mới, bối cảnh trong nước và quốc tế đã
xác định mục tiêu, nội dung của công nghiệp hoá, hiện đại hoá và quyết tâm đưa nước
ta cơ bản thành một nước công nghiệp vào năm 2020. Đại hội cũng xác định rõ các nội
dung và giải pháp lớn để thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá công nghiệp, nông
thôn.
Trong thời gian này, Đảng và Nhà nước ta đã có những chủ trương, chính sách
nhằm phát triển nông nghiệp, nông thôn Việt Nam thông qua nhiều chương trình hỗ trợ
phát triển sản xuất nông nghiệp như Chương trình Giống, Chương trình Khoa học - công
nghệ, Chương trình Khuyến nông, khuyến công... Bên cạnh đó, một số chương trình dự
án mang tính phát triển nông thôn như: Dự án Cơ sở hạ tầng nông thôn, Chương trình
Mục tiêu quốc gia về nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn, Chương trình Phát
triển kinh tế - xã hội các xã đặc biệt khó khăn vùng dân tộc miền núi (Chương trình 135),
Chương trình Quốc gia về xoá đói giảm nghèo và việc làm. Những chương trình, dự án

này đã góp phần làm thay đổi bộ mặt của nông thôn, kinh tế nông thôn phát triển, cơ sở
hạ tầng được ưu tiên đầu tư, đời sống cư dân được cải thiện, điều kiện ở, đi lại, học tập,
chăm sóc sức khoẻ được quan tâm đúng mức. Tuy nhiên, những chương trình, dự án
này hoặc mới chỉ giải quyết một số khía cạnh riêng rẽ hoặc nhằm mục tiêu xoá đói, giảm
nghèo cho những vùng đặc biệt khó khăn, vùng nghèo mà chưa mang tính toàn diện,
tổng thể nhằm tạo ra một phong trào phát triển nông thôn mang tính sâu rộng, bền
vững, có khả năng nhân rộng trên phạm vi cả nước. Hơn nữa, nhiều chương trình mang
tính dàn trải, bình quân chủ nghĩa, hỗ trợ đồng đều cho các hộ dân, các xã hoặc lấy các
tiêu chí cơ bản để hỗ trợ hộ nghèo, xã nghèo. Vì vậy, nơi nào càng nghèo thì càng được
quan tâm và nhận đuợc nhiều hỗ trợ, nên, thay vì phấn đấu vươn lên tự chủ thì các xã
thường có thiên hướng phấn đấu trở thành “xã nghèo” và người dân phấn đầu trở
thành “hộ nghèo”. Đồng thời, ta cũng chưa có cơ chế khuyến khích, động viên, khen
Footer Page 20 of 16.


Header Page 21 of 16.

thưởng kịp thời những điển hình làm tốt, các hộ năng động, sáng tạo. Do đó, trong một
chừng mực nào đó, các chuơng trình, dự án này chưa phát huy được nội lực, tinh thần
ganh đua lành mạnh giữa các cộng đồng, chưa khuyến khích người làm tốt, làm hay,
chưa có cơ chế khen thưởng thích đáng cho những làng, xã chủ động vươn lên thoát
nghèo, làm giàu.
Tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X họp tại Hà Nội (18 - 25/4/2006), một lần nữa
khẳng định cần phải đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn,
giải quyết đồng bộ các vấn đề nông nghiệp, nông thôn và nông dân, trong đó có nội
dung xây dựng nông thôn mới: Khẩn trương xây dựng hoàn chỉnh các quy định phát
triển nông nghiệp và nông thôn. Thực hiện chương trình xây dựng nông thôn mới. Xây
dựng các làng, xã, ấp, bản có cuộc sống no đủ, văn minh, môi trường lành mạnh. Hình
thành các khu dân cư đô thị hoá với kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội đồng bộ như: thuỷ
lợi, giao thông, điện, nước sạch, cụm công nghiệp, trường học, trạm y tế, bưu điện, chợ.

Phát huy dân chủ ở nông thôn đi đôi với xây dựng nếp sống văn hoá, nâng cao trình độ
dân trí, bài trừ các tệ nạn xã hội, hủ tục, mê tín dị đoan; bảo đảm an ninh trật tự, an
toàn xã hội” *17, tr.633].
Như vậy, xây dựng và phát triển nông thôn mới ban đầu là công cuộc xây dựng
công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn. Đảng ta có những bước chuyển
đổi dần về nhận thức, tư tưởng và lãnh đạo, chỉ đạo. Xây dựng nông thôn mới là một
trong mười lăm chương trình mục tiêu quốc gia được Chính phủ phê duyệt, là chương
trình lớn, có ý nghĩa quan trọng nhằm tạo diện mạo mới cho nông thôn Việt Nam.
1.1.2.2. Những thành tựu đạt được
Sau hơn 20 năm thực hiện đường lối đổi mới, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nông
nghiệp, nông dân, nông thôn nước ta đã đạt được những thành tựu khả quan và to lớn.
Nông nghiệp tiếp tục phát triển với tốc độ khá cao theo hướng sản xuất hàng hoá, nâng
cao năng suất, chất lượng, hiệu quả; đảm bảo vững chắc an ninh lương thực quốc gia;
một số hàng xuất khẩu chiếm vị thế cao trên thị trường thế giới. Kinh tế nông thôn
chuyển dịch theo hướng tăng công nghiệp, dịch vụ, ngành nghề; các hình thức tổ chức

Footer Page 21 of 16.


Header Page 22 of 16.

sản xuất liên tục đổi mới. Kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội được tăng cường, nhất là thuỷ
lợi, giao thông, góp phần thúc đẩy phát triển sản xuất từng bước làm thay đổi bộ mặt nông
thôn.; bộ mặt nông thôn thay đổi. Đời sống vật chất, tinh thần của dân cư ở hầu hết các
vùng nông thôn ngày càng được cải thiện. Năm 2007, thu nhập bình quân đầu người ở khu
vực này tăng 2,7 lần so với năm 2000. Xoá đói, giảm nghèo đạt kết quả to lớn, đặc biệt là
về cơ bản đã xoá đói, tỷ lệ hộ nghèo hạ xuống còn 18%. Đồng thời, công tác chăm sóc sức
khoẻ, khám chữa bệnh, phổ cập giáo dục, văn hoá, thông tin, thể thao được quan tâm và
đẩy mạnh hơn. Hệ thống chính trị ở nông thôn được củng cố và tăng cường. Dân chủ cơ
sở được phát huy. An ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được giữ vững. Vị thế chính trị

của giai cấp nông dân ngày càng được nâng cao.
Tuy nhiên, những thành tựu đạt được chưa xứng tầm với tiềm nămg, lợi thế và chưa
đồng đều giữa các vùng. Nông nghiệp còn phát triển kém bền vững, tốc độ tăng trưởng
có xu hướng giảm dần, sức cạnh tranh thấp, chưa phát huy tốt nguồn lực cho phát triển
sản xuất; nghiên cứu, chuyển giao khoa học - công nghệ và đào tạo nguồn nhân lực còn
hạn chế. Việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế và đổi mới cách thức sản xuất trong nông
nghiệp còn chậm, phổ biến là sản xuất nhỏ phân tán; năng suất chất lượng thấp, chưa thúc
đẩy mạnh mẽ chuyển dịch cơ cấu kinh tế và lao động ở nông thôn. Các hình thức tổ chức
sản xuất chậm đổi mới, chưa đáp ứng yêu cầu phát triển mạnh mẽ của sản xuất hàng hóa.
Nông nghiệp, nông thôn phát triển thiếu quy hoạch, kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội còn
yếu kém, môi trường ngày càng ô nhiễm; năng lực thích ứng, đối phó với thiên tai còn
nhiều hạn chế. Đời sống vật chất và tinh thần của người nông dân còn thấp, tỷ lệ hộ
nghèo còn cao, nhất là vùng đồng bào dân tộc, vùng sâu, vùng xa; chênh lệch giàu, nghèo
giữa nông thôn và thành thị; giữa các vùng còn lớn, phát sinh nhiều vấn đề xã hội bức
xúc.
Những hạn chế, yếu kém trên có nguyên nhân khách quan và chủ quan, trong đó
nguyên nhân chủ quan là chính: nhận thức về vị trí, vai trò của nông nghiệp, nông dân,
nông thôn còn bất cập so với thực tiễn; chưa hình thành một cách có hệ thống các quan
điểm lý luận về phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn; cơ chế, chính sách phát
triển các lĩnh vực này thiếu đồng bộ, thiếu đột phá; một số chủ trương, chính sách không
Footer Page 22 of 16.


Header Page 23 of 16.

hợp lý, thiếu tính khả thi nhưng chậm được điều chỉnh, bổ sung kịp thời; đầu tư từ ngân
sách Nhà nước và các thành phần kinh tế vào nông nghiệp, nông dân, nông thôn còn thấp,
chưa đáp ứng yêu cầu phát triển; tổ chức chỉ đạo và công tác quản lý Nhà nước còn nhiều
bất cập, yếu kém; vai trò của các cấp uỷ, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể
quần chúng trong việc triển khai các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về

nông nghịêp, nông dân, nông thôn ở nhiều nơi còn hạn chế.
Đồng thời, trong bối cảnh quốc tế vừa có những thuận lợi, vừa có những khó khăn,
vừa có những cơ hội, vừa có nhiều thách thức, nhằm thoát khỏi khủng hoảng, ổn định
tình hình kinh tế - xã hội trong nước, Đảng và Chính phủ đã đề ra các biện pháp cụ thể,
đó là thông qua các gói kích cầu. Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 30/2008/NQ-CP
về những giải pháp cấp bách nhằm ngăn chặn suy giảm kinh tế, duy trì tăng cường kinh
tế, bảo đảm an sinh xã hội…đưa công cuộc đổi mới tiếp tục phát triển, đi vào chiều sâu.
Trong điều kiện đó, chủ trương xây dựng nông thôn mới của Đảng được hình thành và ra
đời.
1.2. Chủ trƣơng của Đảng, Nhà nƣớc về xây dựng nông thôn mới
Hội nghị lần thứ 7, Ban Chấp hành Trung ương khoá X diễn ra từ ngày 09/7 đến
17/7/2008 tại Hà Nội, đã ban hành Nghị quyết số 26-NQ/TW, ngày 5/8/2008 "về nông
nghiệp, nông dân, nông thôn" được coi như “luồng gió mới”, tạo đà cho sự phát triển của
nông nghiệp, nông dân, nông thôn, xác định nông dân là chủ thể, xây dựng nông thôn
mới là căn bản, phát triển toàn diện, hiện đại hoá nông nghiệp là then chốt. Hội nghị
khẳng định: "Vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn" phải được giải quyết đồng bộ
gắn với quá trình đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá
nông nghiệp, nông thôn là một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu và là nhân tố
bảo đảm thành công của công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Giải quyết vấn đề nông
nghiệp, nông dân, nông thôn phải dựa trên cơ chế kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa, phù hợp với điều kiện của từng vùng và cả nước; khai thác thuận lợi trong hội
nhập quốc tế; phát huy cao nội lực trong nông thôn, đồng thời tăng mạnh đầu tư của Nhà
nước; ứng dụng nhanh các thành tựu khoa học công nghệ, phát triển nguồn nhân lực,
nâng cao dân trí.
Footer Page 23 of 16.


Header Page 24 of 16.

Trong lịch sử xây dựng và bảo vệ Tổ quốc cũng như hiện nay, nông nghiệp, nông

dân, nông thôn luôn có vị trí quan trọng, là cơ sở và lực lượng để phát triển kinh tế - xã
hội bền vững, ổn định chính trị, đảm bảo an ninh, quốc phòng; giữ gìn, phát huy bản sắc
văn hoá dân tộc và bảo vệ môi trường sinh thái. Phát triển nông nghiệp, nông thôn và
nâng cao đời sống nông dân là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị. Giải quyết vấn đề
nông nghiệp, nông dân, nông thôn phải dựa trên cơ chế kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa, phù hợp với điều kiện của từng vùng và cả nước.
Theo quan điểm đó, Hội nghị đã ban hành Nghị quyết về vấn đề nông nghiệp, nông dân,
nông thôn. Nghị quyết xác định nhiệm vụ cụ thể xây dựng nông thôn nước ta đến năm
2020: "tốc độ tăng trưởng nông, lâm, thuỷ sản đạt 3,5 - 4%/năm; sử dựng đất nông
nghiệp tiết kiệm và hiệu quả; duy trì diện tích đất lúa đảm bảo vững chắc an ninh lương
thực quốc gia trước mắt và lâu dài. Phát triển nông nghiệp kết hợp với phát triển công
nghiệp, dịch vụ và ngành nghề nông thôn, giải quyết cơ bản việc làm, nâng cao thu nhập
của dân cư nông thôn gấp trên 2,5 lần so với hiện nay" [70, tr
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.

Ban Chỉ đạo Chương trình 02 của Thành ủy Hà Nội (2014), Thông báo kết luận số

08 –TB/BCĐ, ngày 10/01/2014 của đồng chí Nguyễn Công Soái tại hội nghị sơ kết 03
năm thực hiện Chương trình số 02 của Thành ủy Hà Nội, Hà Nội.
2.

Ban Chỉ đạo Chương trình 02 của Thành ủy Hà Nội (2014), Báo cáo số 09 –

BC/BCĐ, ngày 15/01/2014 sơ kết 03 năm thực hiện Chương trình số 02 của Thành ủy Hà
Nội, tổng kết xây dựng mô hình nông thôn mới tại các xã điểm và công tác dồn điền đổi
thửa trên địa bàn thành phố Hà Nội, Hà Nội.
3.

Ban Chỉ đạo Chương trình 02 của Thành ủy Hà Nội (2014), Thông báo số 925–


TB/BCĐ, ngày 26/8/2014, Thông báo tọa đàm “bàn giải pháp tháo gỡ khó khăn, thúc đẩy
quá trình xây dựng nông thôn mới của thành phố Hà Nội năm 2014”, Hà Nội.
4.

Ban Chỉ đạo Chương trình 02 của Thành ủy Hà Nội (2014), Báo cáo số 317–

BC/BCĐ, ngày 08/10/2014, Báo cáo kết quả chỉ đạo, tổ chức thực hiện Chương trình tại
các xã phấn đấu đạt chuẩn nông thôn mới 2014 và kết quả chuyển đổi cơ cấu giống cây
trồng, vật nuôi sau dồn điền đổi thửa trên địa bàn thành phố Hà Nội, Hà Nội.
Footer Page 24 of 16.


Header Page 25 of 16.

5.

Ban Chỉ đạo Chương trình 02 của Thành ủy Hà Nội (2014), Thông báo số 327 –

TB/TTBCĐ, ngày 03/11/2014, Thông báo rà soát cơ chế chính sách xây dựng nông thôn
mới và đề xuất giải pháp phấn đấu hoàn thành xã đạt chuẩn nông thôn mới năm 2014,
Hà Nội.
6.

Ban Thường vụ Huyện uỷ Chương Mỹ (2014), Tập bài giảng lịch sử Đảng bộ

huyện Chương Mỹ, Hà Nội.
7.

Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn (2009), Báo cáo quy hoạch phát triển


ngành nghề nông thôn đến năm 2015 và định hướng đến năm 2020, Hà Nội.
8.

Chi Cục phát triển nông thôn Hà Nội (Văn phòng BCĐ Chương trình 02-CTr/TU

Thành uỷ Hà Nội) (2012), Một số văn bản hướng dẫn thực hiện xây dựng nông thôn mới
thành phố Hà Nội - tập 1, Nxb Hồng Đức, Hà Nội.
9.

Chi cục thống kê huyện Chương Mỹ, (2014), Báo cáo đánh giá đạt chuẩn nông

thôn mới tại các xã trên địa bàn huyện Chương Mỹ, Hà Nội.
10. Chương trình Dự án Gương mặt Việt Nam (2007), Chương Mỹ trên hành trình
phát triển, Nxb Văn hoá Thông tin, Hà Nội.
11. GS.TS Tô Xuân Dân, GS.TSKH Lê Văn Viện, TS. Đỗ Trọng Hùng (2013), Xây
dựng nông thôn mới ở Việt Nam tầm nhìn mới, tổ chức quản lý mới, bước đi mới, Nxb
Nông nghiệp, Hà Nội.
12. TSKH Phan Xuân Dũng (2005), “Nông nghiệp, nông thôn trước yêu cầu phát
triển nhanh và bền vững”, Tạp chí Cộng sản, số 82.
13. Đảng Cộng sản Việt Nam (1986), Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng Cộng sản Việt
Nam lần thứ VI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
14. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X,
NXb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
15. Đảng Cộng sản Việt Nam (2008), Văn kiện Hội nghị lần thứ 7, BCH Trung ương
Đảng khoá X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
16. Đảng Cộng sản Việt Nam (2010), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

Footer Page 25 of 16.



×