Tải bản đầy đủ (.docx) (23 trang)

MÔN: PHÁT TRIỂN VĂN HÓA CỘNG ĐỒNG, Địa điểm: Thôn Giáp Giang, xã Đại Đình huyện Tam Đảo, tỉnh Vĩnh Phúc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (294.76 KB, 23 trang )

BÁO CÁO
MÔN: PHÁT TRIỂN VĂN HÓA CỘNG ĐỒNG
Địa điểm: Thôn Giáp Giang, xã Đại Đình
huyện Tam Đảo, tỉnh Vĩnh Phúc

1


MỤC LỤC

2


Phần 1
HỒ SƠ CỘNG ĐỒNG
1.1.

Vị trí địa lý

1.1.1.

Xã Đại Đình
Đại Đình là xã miền núi nằm ở phía Bắc của huyện Tam Đảo, tổng diện
tích tự nhiên của xã là 3456,2 ha. Trong đó diện tích trồng trọt là 512ha, còn lại
là đất đồi rừng, thổ cư và ao hồ. Phía Đông Bắc Đại Đình là dãy núi Tam Đảo
hùng vĩ nằm án ngữ tạo nên ranh giới tự nhiên giữa tỉnh Vĩnh Phúc và tỉnh Thái
Nguyên, phía Tây Đại Đình giáp huyện Lập Thạch, phía Nam giáp các xã Đồng
Tĩnh, Hoàng Hoa, Tam quan. Xã có tuyến đường tỉnh lộ 302 chạy qua, tạo thuận
lợi cho Đại Đình trong quá trình giao lưu kinh tế, văn hóa – xã hội.
Đại Đình trước đây là cương vực của các làng Hữu Tài, Đại Điền, Suối
Đùm, Lán Than, Sơn Thanh, Sơn Phong, Đông Lính, Sơn Đình, Ấp Đồn, Trại


Mới, Đền Thỏng, Đông Lộ, Đồng Hội, Lõng sâu và Giáp Giang thuộc tổng Quan
ngoại huyện Tam Dương. Năm 1927 tổng Quan Ngoại thêm làng Quan Đình và
Luận Phẩm tồn tại đến trước cách mạng Tháng 8/1945. Đến đầu năm 1946, theo
chủ trương của Chính phủ cấp tổng bị bãi bỏ để lập Đại xã, vì vậy các làng thuộc
tổng Quan Ngoại sáp nhập thành xã Đại Đình như ngày nay.

1.1.2.

Thôn Giáp Giang
Thôn Giáp Giang là một trong 15 thôn thuộc xã Đại Đình, có diện tích 45
ha với dân số 675 người.

1.2.

Địa hình
Thôn Giáp Giang có địa hình khá phức tạp, đa dạng, nhiều gò đồi.

1.3.

Khí hậu
Khí hậu mát mẻ, nhiệt độ trung bình 18 0C-190C, độ ẩm cao, quanh năm
có sương mù tạo cảnh quan đẹp. Khí hậu tiểu vùng miền núi mang sắc thái của
khí hậu ôn đới, tạo lợi thế trong phát triển nông nghiệp với các sản vật ôn đới
3


và hình thành các khu nghỉ mát, phát triển du lịch sinh thái, du lịch nghỉ dưỡng
vào mùa hè.
1.4.


Cảnh quan môi trường

1.4.1.

Xã Đại Đình
Xã Đại Đình có 8 đền, đình; 7 ngôi chùa; 02 Thiền viện Trúc lâm Tây
Thiên.
Du khách trong và ngoài nước biết đến Vĩnh Phúc không chỉ bởi nơi đây có
khu du lịch Tam Đảo mà còn có khu danh thắng Tây Thiên. Đến với Tây Thiên là:
“Đến với Phật về với Mẫu”, thờ Tam Đảo Sơn Trụ Quốc Mẫu Lăng Thị TiêuChính Vương Phi của Hùng Chiêu Vương VII đã có công dẹp giặc Thục. Bên cạnh
đó, Tây Thiên còn được coi là nơi phát tích của Phật giáo, nơi ẩn chứa nhiều trầm
tích huyền thoại và với hệ thống di tích Phật giáo có từ lâu đời. Không chỉ hấp dẫn
bởi vẻ đẹp tự nhiên mà đây còn là vùng đất mang đậm dấu ấn văn hóa, lịch sử, là
vùng đất hứa của du lịch sinh thái, tâm linh.

1.4.2.

Thôn Giáp Giang
Tuy không nằm trên địa bàn thôn nhưng những đền, chùa và điểm du lịch
như đền Trình, đền Bà Chúa Mán, Thiền viện Trúc lâm Tây Thiên cách thôn không
xa, tạo điều kiện thuận lợi cho sinh hoạt văn hóa tâm linh của người dân.

1.5.

Dân số, dân tộc

1.5.1.

Xã Đại Đình
Toàn xã Đại Đình có 15 thôn, dân số là 10.003 nhân khẩu, có nhiều dân

tộc anh em cùng chung sống như: Kinh, Sán Dìu, Thái, Mường, Dao; có 02 đạo
chính là Thiên Chúa giáo và Phật giáo, trong đó đạo Thiên Chúa chiếm 11,2%
còn lại là đạo Phật.

1.5.2.

Thôn Giáp Giang
Thôn Giáp Giang là một trong số 15 thôn của xã Đại Đình, dân số 675
người, đây là thôn mà đa số là người dân tộc Sán Dìu.
Đặc điểm dân số lao động trên địa bàn thôn Giáp Giang: dân số lao động
dưới hình thức nông nghiệp bao gồm trồng cây lương thực và hoa màu trong đó
4


việc canh tác lúa được tiến hành trên ruộng bậc thang. Bên cạnh đó lĩnh vực
nông nghiệp không chỉ có hoạt động trồng trọt mà còn có sự kết hợp với hoạt
động chăn nuôi. Tỷ lệ người dân trong độ tuổi lao động chiếm khoảng 65%, tỷ
lệ người dân ngoài lao động chiếm khoảng 35%.
* Một số nét khái quát về dân tộc Sán Dìu:
Người Sán Dìu là một dân tộc ít người sinh sống ở miền trung du của một
số tỉnh miền Bắc Việt Nam. Các tên gọi khác: Sán Déo,Trại, Trại Đất, Mán quần
cộc, Mán váy xẻ.
Dân tộc này thuộc về nhóm ngôn ngữ Hoa với dân số khoảng 126.237
người. Dân tộc Sán Dìu được tạo lập từ thời nhà Minh tại Quảng Đông, Trung
Quốc, sau đó dần dần di chuyển đến Việt Nam. Dân tộc Sán Dìu chủ yếu sống ở
miền trung du các tỉnh Thái Nguyên, Vĩnh Phúc, Bắc Giang, Quảng Ninh,
Tuyên Quang, Hải Dương.
Theo Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009, người Sán Dìu ở Việt Nam
có dân số 146.821 người, có mặt tại 56 trên tổng số 63 tỉnh, thành phố trong đó
người Sán Dìu cư trú tại Vĩnh Phúc là 36.821 người, chiếm 36% dân số toàn

tỉnh Vĩnh Phúc. Cư trú rải rác quanh chân núi Tam Đảo, từ xã Ngọc Thanh (thị
xã Phúc Yên) đến một số xã ở huyện Bình Xuyên, huyện Tam Đảo, Tam Dương
tới Lập Thạch.
1.6.
1.6.1.
1.6.1.1.

Khái quát tình hình kinh tế - văn hóa- giáo dục
Kinh tế
Xã Đại Đình
Theo Báo cáo tổng kết tình hình kinh tế- xã hội của xã Đại Đình năm 2014:
Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng:

-

Nông, lâm, thủy sản từ 39% xuống còn 34% , giảm 5% so với cùng kỳ
Công nghiệp xây dựng từ 24%lên 26% tăng 2% so với cùng kỳ
Thương mại – dịch vụ từ 37% lên 40% tăng 3% so với cùng kỳ.
Đại Đình là xã có thế mạnh về chăn nuôi nhằm giải quyết việc làm , tăng thu
nhập cho nhân dân.
5


5 năm trở lại đây, do quá trình phát triển kinh tế - xã hội, sự gia tăng nhu
cầu các loại hình dịch vụ phục vụ đời sống, cùng với đó là sự phát triển của Khu
di tích danh thắng Tây Thiên làm cho hoạt động thương mại – dịch vụ ở Đại
Đình có bước phát triển mạnh mẽ. Năm 2010, thương mại – dịch vụ chỉ chiếm
28% trong cơ cấu kinh tế của địa phương, thì đến nay, đã chiếm 40%, tăng 12%
sau 4 năm, đóng góp vào tổng thu ngân sách xã với số tiền trên 50 tỷ đồng.
Do có khu di tích danh thắng Tây Thiên nên đây là điều kiện rất thuận lợi

để Đại Đình triển khai các dịch vụ du lịch. Hiện, toàn xã có trên 2.500 người
làm dịch vụ, chiếm 25% dân số của địa phương. Trong đó, có 20 hộ kinh doanh
dịch vụ vận tải; hơn 200 hộ buôn bán vừa và nhỏ; 80 hộ kinh doanh dịch vụ ăn
uống; 30 hộ có nghề làm đồ thủ công phục vụ du lịch như: chuồn chuồn, sáo
thổi, trồng cây phong lan, bán đồ lưu niệm phục vụ mùa lễ hội,....
Về tài chính ngân sách: Xã tích cực khai thác các nguồn thu trên địa bàn.
Thu ngân sách năm 2014 là: 8.600 triệu đồng; chi ngân sách năm 2014 là: 8.500
triệu đồng.
1.6.1.2.

Thôn Giáp Giang
Cộng đồng người dân thôn Giáp Giang phần lớn tham gia vào hoạt động
sản xuất nông nghiệp với hình thức canh tác chủ yếu tiến hành trên mô hình
ruộng bậc thang . Bên cạnh đó, hoạt động nông nghiệp không chỉ bao gồm hình
thức sản xuất lúa, ngô cùng các loại rau màu mà còn đi kèm với hoạt động chăn
nuôi.

1.6.2. Văn hóa – xã hội

Tại xã Đại Đình, năm 2014 đã có 11 thôn đạt làng văn hóa, và có 82,85%
số hộ đạt gia đình văn hóa. Tuy nhiên, thôn Giáp Giang chưa đạt được danh
hiệu này.
Năm 2015, theo báo cáo, từ đầu năm đến nay Ban chỉ đạo Xây dựng nông
thôn mới (XDNTM) xã Đại Đình đã chủ động triển khai kế hoạch XDNTM
năm 2015, nhờ làm tốt công tác tuyên truyền vận động các ban ngành, đoàn thể,
6


các tầng lớp nhân dân tích cực tham gia cho đến hết tháng 7/2015 xã Đại
Đình đã thực hiện và đạt 11/19 tiêu chí Nông thôn mới.

Về các tổ chức cộng đồng: Trên địa bàn thôn Giáp Giang chưa có những
tổ chức cộng đồng thực sự. Hầu hết là những nhóm người có chung những sinh
hoạt văn hóa tập thể với nhau mang tính tự phát.
1.6.3.
-

Giáo dục
Đã phổ cập giáo dục trong toàn xã. Hiện có 3 cấp học với 70 lớp; tổng số học
sinh là 1822 em; tổng số giáo viên là 112 giáo viên. Đến nay, xã đã có 3 trường
đạt chuẩn Quốc gia mức độ 1. Nhìn chung ngành giáo dục đã có nhiều chuyển
biến tích cực.
Thôn Giáp Giang: cũng đã được phổ cập giáo dục trong toàn thôn.

-

1.7.

Cơ sở hạ tầng, kĩ thuật
Toàn bộ người dân trong thôn đều được phổ cập giáo dục.
Được cung cấp đầy đủ điện phục vụ cho sinh hoạt và sản xuất
Trạm y tếbảo đảm công tác chăm sóc sức khỏe ban đầu cho nhân dân. Hệ
thống mạng lưới điện được nâng cấp cải thiện.
Hệ thống đường giao thông mới được bê tông hóa tại các trục chính của
xã. Tuy nhiên, đường giao thông của người dân trong thôn Giáp Giang vẫn chưa
được bê tông hóa, chưa được nâng cấp, hoàn thiện và vẫn còn thô sơ.

1.8.

Bộ máy tổ chức và cơ cấu chính trị hiện hành


 Tổ chức bộ máy
-

Bí thư Đảng ủy - Chủ tịch HĐND: Ông Diệp Ánh Nguyệt

-

Phó Bí thư Đảng ủy: Ông Lý Văn Bằng

-

Phó Chủ tịch HĐND: Ông Trần Quốc Bình

-

Phó Chủ tịch UBND:Ông Hồ Văn Hải

-

Phó Chủ tịch UBND: Ông Phạm Tùng Lâm


-

Cơ cấu chính trị hiện hành:
Cấp xã: đã thiết lập được bộ máy chính quyền với đầy đủ các chức vụ của các
cán bộ, các bộ phận trong đó đã xây dựng được Ban văn hóa xã.
7



Đồng thời, đã xây dựng được các tổ chức chính trị xã hội như: Hội Cựu chiến
binh, Hội Liên hiệp Phụ nữ, Liên Đoàn lao động, Đoàn TNCS Hồ Chí Minh,
-

Hội Nông dân.
Cấp thôn: cũng đã thiết lập được những bộ phận quản lý đời sống nhân dân nói
chung cũng như đời sống văn hóa của nhân dân nói riêng.

8


Phần 2
KHẢO SÁT CÁC GIÁ TRỊ VĂN HÓA CỘNG ĐỒNG
2.1. Văn hóa truyền thống
Thôn Giáp Giang là thôn mà đại đa số là người dân tộc Sán Dìu nên cộng
đồng cư dân nơi đây không thể không mang trong mình những giá trị văn hóa
của người Sán Dìu.
Văn hóa thơ ca dân gian phong phú, dùng thơ ca trong sinh hoạt hát đối
nam nữ Soọng Cô rất phổ biến.
Soọng cô là làn điệu dân ca đặc sắc của đồng bào dân tộc Sán Dìu, được
lưu giữ hàng trăm năm trong kho tàng văn hóa, văn nghệ dân gian ở Vĩnh Phúc.
Hát Soọng Cô chủ yếu là phần đối đáp giao duyên, sau đó là phần hát trong đám
cưới.
Soọng Cô được hát theo sách, có bài bản sẵn. Người đi hát phải thuộc
sách hát. Họ dẫn câu hát trong sách ra để hát đố, người đáp cũng trích ra những
câu hợp cảnh, hợp tình để hát đáp câu hỏi. Họ hát những câu hát nói về tình yêu
lứa đôi, thiên nhiên, ca ngợi tình nghĩa thủy chung vợ chồng, ca ngợi công lao
ông bà, cha mẹ, răn dạy con người sống có đức, có nhân, có hiếu,…Khi hát lên
có giọng điệu dặt dìu, réo rắt, lúc ngân cao, lúc trầm ấm làm say lòng người.
Trước kia vào mỗi dịp xuân về, thời điểm nông nhàn, lễ hội hay các đám cưới,

hỏi thanh niên nam, nữ người dân tộc Sán Dìu thường rủ nhau đi hát Soọng Cô.
Qua mỗi làng họ dừng lại hát một đêm, hôm sau cùng rủ thanh niên nơi đó nhập
vào đám hát đến các làng khác. Có khi đám hát có tới vài chục người, kéo dài cả
chục ngày rất sôi nổi. Mỗi đêm hát đều có các bước: Chập tối hát gọi mời ngồi
xuống chiếu, mời nước, mời trầu. Nửa đêm là hát hỏi: hỏi về quê quán, gia sư,
hát thăm dò, tìm hiểu nghề nghiệp, ý nguyện của nhau, … Canh ba chủ nhà mời
ăn lót dạ xôi hoặc chè… Sau đó, là hát chào, hát xin về, hát níu giữ nhau. Sáng
ra thì họ vừa tiễn nhau ra cổng, vừa hát hẹn hò. Từ những đêm hát mà có biết
bao đôi trai gái đã bén duyên nhau. Soọng Cô trong đám cưới thường do các cặp

9


nam giới đối đáp nhau, nhà trai cử hai anh hát, nhà gái cũng cử hai anh. Hát
suốt ngày suốt đêm cho đến khi tan tiệc cưới.
Truyện kể chủ yếu là truyện thơ khá đặc sắc. Các điệu nhảy múa thường
xuất hiện trong đám ma. Nhạc cụ có tù và, kèn, trống, sáo, thanh la, não bạt
cũng để phục vụ nghi lễ tôn giáo.
Trong đời sống tín ngưỡng cũng rất phong phú và đa dạng. Họ đã sáng
tạo ra rất nhiều tranh dân gian và tượng dân gian để phục vụ nhu cầu đời sống
tâm linh.
Tang lễ: người Sán Dìu Tam Đảo có phong tục “ nhất táng thiên thu”
(người chết chỉ chôn một lần không cải táng như phong tục của người Kinh), do
vậy, việc chăm sóc “ nhà của” của tổ tiên, ông bà, cha mẹ hàng năm rất được coi
trọng. Dịp thanh minh hàng năm sẽ có một ngày chính trước hoặc sau 3 ngày
(lấy ngày chính hội làm mốc) người Sán Dìu sẽ tụ họp con cháu đi tảo mộ.
2.2. Văn hóa hiện đại
Hiện nay, trong bối cảnh hội nhập quốc tế, người dân thôn Giáp Giang
cũng tham gia vào quá trình hội nhập văn hóa, tiếp thu những giá trị văn hóa
hiện đại. Tuy nhiên, các hình thức ca nhạc, giải trí hiện đại này đang có xu thế

lấn át những hình thức văn hóa truyền thống.
Những hình thức sinh hoạt văn hóa hiện đại nói chung, những dòng nhạc
hiện đại nói riêng không chỉ có những bài hát ca ngợi tình yêu quê hương đất
nước mà còn có những bài hát ca ngợi tình yêu đôi lứa. Với giai điệu ngọt ngào,
ca từdễ hiểu, phong phú phù hợp với tâm lý của giới trẻ hiện nay; bên cạnh đó
là sự hòa nhập giữa cộng đồng người Kinh và đồng bào dân tộc Sán Dìu đã làm
cho việc tiếp thu luồng văn hóa hiện đại thật sự dễ dàng, diễn ra nhanh chóng.
Đó cũng là điều dễ hiểu. Luồng văn hóa hiện đại này khi du nhập vào cộng
đồng người dân tộc Sán Dìu đã phần nào tạo điều kiện giúp đồng bào có cơ hội
tiếp xúc với xu thế hiện nay, giao lưu với những nét văn hóa mới, quan trọng
hơn là nó đã góp phần làm phong phú đời sống văn hóa tinh thần cho đồng bào.
10


Mặc dù có những giá trị tích cực trong việc đáp ứng nhu cầu văn hóa tinh
thần của đồng bào nhưng đi kèm với nó là sự “lấn át” đối với điệu hát Soong Cô
truyền thồng- vốn đã là tiếng nói riêng của đồng bào dân tộc Sán Dìu. Việc tiếp
thu những giá trị văn hóa hiện đại nhưng chưa có sự chọn lọc đúng mức đã đẩy
điệu hát Soong Cô tới nguy cơ bị mai một, bị lãng quên. Sự mai một này nếu
không được ngăn chặn một cách nhanh chóng và kịp thời thì chắc chắn sẽ có
nguy cơ bị lãng quên, làm mất đi một nét đặc trưng văn hóa của đồng bào dân
tộc Sán Dìu nói riêng, ảnh hưởng đến kho tàng văn hóa phong phú, đa dạng của
dân tộc Việt Nam nói chung.
Việc tiếp thu những giá trị văn hóa hiện đại là vô cùng quan trọng nhưng
cần có sự chọn lọc để một mặt có thể bảo tồn những giá trị văn hóa truyền thống
mặt khác phát triển phát huy những giá trị văn hóa ấy đáp ứng xu thế của thời
đại, tránh khỏi nguy cơ tụt hậu.

11



Phần 3
ĐÁNH GIÁ NHU CẦU VĂN HÓA
3.1. Thực trạng
3.1.1. Thực trạng điệu hát Soọng Cô tại Vĩnh Phúc :
Hiện nay, trên địa bàn tỉnh có 26 câu lạc bộ hát Sọong cô, phân bố chủ
yếu ở những địa bàn có nhiều đồng bào dân tộc Sán Dìu sinh sống như: Xã
Trung Mỹ huyện Bình Xuyên, xã Ngọc Thanh thị xã Phúc Yên và hầu khắp các
xã trên địa bàn huyện Tam Đảo. Chiếm phần đông dân số là người Sán Dìu,
Tam Đảo được coi là cái nôi của điệu hát Soọng cô. Thế nhưng một thực tế hiện
nay là thế hệ trẻ người Sán Dìu không còn mặn mà với làn điệu dân ca truyền
thống của dân tộc mình. Lo lắng nét sinh hoạt văn hóa cộng đồng này bị mai
một, các cụ cao niên trong thôn làng ở các xã như Yên Dương, Đại Đình, Hợp
Châu, Minh Quang, Hồ Sơn đã thành lập các CLB Soọng cô nhằm bảo tồn và
phát huy các giá trị văn hóa của dân tộc. Toàn huyện có 22 CLB Soọng cô, riêng
xã Đạo Trù có 13 thôn dân cư thì tất cả các thôn đều có CLB Soọng cô thu hút


sự tham gia nhiệt tình của trên 300 hội viên.
Khó khăn: Việc bảo tồn và phát triển điệu hát Soọng Cô trên địa bàn tỉnh Vĩnh
Phúc còn gặp nhiều khó khăn. Thực tế, các CLB văn hoá, văn nghệ còn gặp
nhiều khó khăn như: một số CLB chưa xây dựng được kế hoạch nội dung hoạt
động dẫn đến định kỳ sinh hoạt không đều, công tác xã hội hoá trong quá trình
xây dựng và các hoạt động của các CLB này còn nhiều hạn chế, chưa khai thác
được sức mạnh tổng hợp của toàn dân; chưa tự chủ được kinh phí hoạt động nên
vẫn trông chờ sự bao cấp của Nhà nước.
Năm 2003, xã Đạo Trù được Viện âm nhạc Quốc gia về tổ chức lớp học
nhằm bảo tồn làn điệu soọng cô dành cho các em thiếu nhi, nhưng chỉ được một
thời gian phải bỏ giữa chừng vì các em không đến học. Nguyên nhân một phần
vì phần lớn thời gian các em phải đến trường, hơn nữa thời đại mới với nhiều

nền văn hóa mới du nhập khiến các em không còn mặn mà với những bài hát
truyền thống…”

12


 Thuận lợi: Thực hiện Nghị quyết Trung ương 5, khóa VIII về “Xây dựng và

phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc”, những năm
qua, để bảo tồn và phát huy nét văn hóa độc đáo của làn điệu Soọng cô, huyện
Tam Đảo cũng đã có những hoạt động cụ thể. Năm 2014, Phòng Văn hóa huyện
đã thực hiện Đề án nghiên cứu và sưu tầm những lời hát soọng cô cổ, trang
phục truyền thống, trang sức phục vụ cho biểu diễn, hiện nay, đang triển khai.
Huyện phối hợp với các xã thành lập các CLB soọng cô ở thôn dân cư, xây
dựng quy chế hoạt động và tổ chức giao lưu văn hóa những dịp lễ, ngày kỉ niệm
của dân tộc, đặc biệt là trong dịp Lễ hội Tây Thiên hàng năm. Huyện cũng cung
cấp một phần kinh phí, trang phục cho các CLB tham gia Lễ hội Tây Thiên, hay
tổ chức đưa những nghệ nhân hát sọng cô tham gia “ngày hội văn hóa các dân
tộc” ở các tỉnh miền Bắc để giới thiệu nét văn hóa đặc sắc người Sán Dìu huyện
Tam Đảo với đồng bào các dân tộc anh em. Huyện cũng khuyến khích các thành
viên mỗi CLB tích cực truyền dạy lại cho con cháu trong gia đình, giúp các
cháu nhỏ tìm hiểu những cái hay, cái đẹp trong văn hóa tinh thần để bảo tồn làn
điệu dân ca truyền thống đặc sắc của dân tộc.
Bằng những hướng đi tích cực, những nét văn hóa độc đáo của làn điệu
Soọng cô đang được nhân dân và chính quyền huyện Tam Đảo và những địa
phương trên địa bàn tỉnh có đồng bào Sán Dìu sinh sống, nỗ lực gìn giữ. Tuy
nhiên, thực tế hiện nay, việc bảo tồn và phát huy truyền thống văn hóa dân tộc
trước sự tác động nhiều mặt của đời sống xã hội luôn là vấn đề khó, cần có thời
gian lâu dài, đặc biệt phải có sự chung tay vào cuộc, góp sức của các cấp, các
ngành chức năng.

3.1.2. Thực trạng điệu hát Soọng Cô ở thôn Giáp Giang:
Theo chia sẻ của nhiều nghệ nhân cao tuổi, trăn trở lớn nhất của họ là thế
hệ trẻ hiện nay không còn say mê với làn điệu Soọng cô truyền thống, thậm chí
tiếng “Mẹ đẻ” cũng đang mai một dần, những làn điệu soọng cô sẽ mất dần theo
thời gian. Bên cạnh đó, hát Soọng cô là một làn điệu dân ca đặc trưng của dân
tộc Sán Dìu. Tuy nhiên, hiện nay số người dân tộc Sán Dìu biết hát Soọng cô
13


không nhiều chủ yếu tập trung ở người lớn tuổi. Mặt khác, số lượng sách cổ ghi
lại các bài hát Soọng cô còn rất ít, phần lớn các bài hát sưu tầm được đều do các
nghệ nhân truyền miệng lại.
Bên cạnh đó, theo tìm hiểu, hầu hết các CLB Soọng cô khi thành lập đều
chưa có sự hỗ trợ kinh phí hoạt động của chính quyền địa phương. Mỗi thành
viên tham gia đều vì niềm đam mê và mong muốn lưu giữ làn điệu dân ca
truyền thống của dân tộc mình. Đây cũng là một trong những khó khăn khi mọi
chi phí đều do các thành viên tự đóng góp để duy trì hoạt động như: Tiền may
trang phục, dụng cụ biểu diễn, thuê xe đi giao lưu với các CLB tỉnh bạn…
Kết quả phỏng vấn cho biết, trong số 675 người dân của thôn của thôn
Giáp Giang, chỉ có 57 người còn hát Soọng cô, tức chiếm khoảng 8,5% số dân
toàn thôn. Số người biết hát Soọng cô đa phần là những người lớn tuổi, số người
trẻ biết hát là không đáng kể.
Khi phỏng vấn một người lớn tuổi thuộc dân tộc Sán Dìu còn hát Soọng
cô trong thôn về việc truyền dạy điệu hát truyền thống của dân tộc mình, cụ cho
biết rằng hiện nay, tất cả mọi người đều sử dụng tiếng Việt trong đời sống hằng
ngày, cụ và những người lớn tuổi trong thôn có dạy con cháu mình biết, nhưng
lớp trẻ đều không thích, không hiểu và không muốn học điệu hát truyền thống
này mà thay vào đó là thích những hình thức ca nhạc, giải trí hiện đại.
3.2. Nhu cầu văn hóa cộng đồng
Điều tra bằng bảng hỏi với ngẫu nhiên 20 người dân của thôn Giáp

-

Giang, trong đó toàn bộ là người Sán Dìu cho kết quả như sau:
100% người dân cho biết trên địa bàn thôn thường xuyên tổ chức các hoạt động

-

văn hóa tập thể;
Về mức độ tham gia sinh hoạt tập thể, có 50% số người được hỏi tham gia
thường xuyên các hoạt động, trong số đó có đến 80% là người lớn tuổi; 50%
những người không tham gia hoặc ít tham gia các hoạt động tập thể chủ yếu rơi
vào độ tuổi 25-40; điều đáng mừng là toàn bộ những người thường xuyên tham
gia đều hài lòng với các sinh hoạt tập thể;
14


-

Về khía cạnh văn hóa truyền thống, nổi bật là điệu hát Soọng cô, toàn bộ những
người tham gia khảo sát đều biết đến điệu hát Soọng cô của người Sán Dìu, tuy
nhiên, toàn bộ những người trẻ được hỏi (chiếm 50% người được khảo sát) đều
không biết hát điệu hát này. 30% những người tham gia khảo sát cảm thấy
không thích điệu hát này. Mặc dù vậy, toàn bộ số người tham gia khảo sát đều
nhận thấy điệu hát Soọng cô mang trong mình nhiều giá trị văn hóa của người
Sán Dìu và mong muốn có thể bảo tồn được điệu hát này.
Như vậy, có thể nói, hiện nay trên địa bàn thôn Giáp Giang, các sinh hoạt
văn hóa cộng đồng thường xuyên được tổ chức, dù vẫn chưa thu hút được toàn
bộ người dân tham gia mà chủ yếu chỉ là những người trung niên và cao tuổi,
nhưng những sinh hoạt văn hóa cộng đồng này đã tạo được tự hài lòng từ cộng
đồng.

Việc sinh hoạt văn hóa văn nghệ tập thể với hoạt động giao lưu văn nghệ
hát Soọng Cô luôn được người dân đánh giá cao. Tuy nhiên, sinh hoạt hát
Soọng Cô có sự đầu tư hay có quy mô của đồng bào dân tộc Sán Dìu hầu như
không có, mà chủ yếu là các sinh hoạt hát Soọng Cô mang tính tự phát, nhỏ lẻ
mang tính chất giải trí. Hoạt động hát Soọng Cô vẫn luôn được một số nhóm
đồng bào dân tộc Sán Dìu yêu thích và duy trì. Điệu hát chính là tiếng nói
truyền thống và hơn hết nó chính là công cụ quan trọng để đáp ứng nhu cầu tinh
thần của đồng bào. Vì vậy, vấn đề bảo tồn và lưu giữ điệu hát đã được đồng bào
dân tộc quan tâm nhưng mới chỉ dừng lại ở thế hệ của những nghệ nhân cao
tuổi.
Phần 4
KẾ HOẠCH XÂY DỰNG CÂU LẠC BỘ SOỌNG CÔ CHO NGƯỜI SÁN
DÌU TẠI THÔN GIÁP GIANG- XÃ ĐẠI ĐÌNH- TAM ĐẢO- VĨNH PHÚC
4.1. Mục tiêu
Mục tiêu của kế hoạch là thành lập một câu lạc bộ hát Soọng cô cho
người dân tộc Sán Dìu tại thôn Giáp Giang thuộc xã Đại Đình, huyện Tam Đảo,
tỉnh Vĩnh Phúc nhằm bảo tồn làn điệu dân ca truyền thống của người Sán Dìu,
15


đồng thời nâng cao đời sống tinh thần, giúp thế hệ sau tiếp nhận những giá trị
văn hóa truyền thống, giữ gìn tiếng nói của dân tộc mình, đưa người dân xích lại
gần nhau hơn, phát triển năng lực tự quản cộng đồng, góp phần thúc đẩy cộng
đồng phát triển bền vững. Phát triển CLB hướng đến có thể liên kết với các câu
lạc bộ khác trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc để có thể tham gia phục vụ hoạt động
du lịch văn hóa tại thắng cảnh Tây Thiên.
Mục tiêu cụ thể nhằm:
-

Xây dựng một câu lạc bộ hát Soọng Cô trên địa bàn thôn Giáp Giang thuộc xã


-

Đại Đình, huyện Tam Đảo, tỉnh Vĩnh Phúc;
Thu hút ít nhất 150 người dân trên tổng số 675 người của thôn tham gia sau 1
năm đưa vào hoạt động, trong đó bao gồm cả người già, trung niên, thanh thiếu

-

niên và trẻ nhỏ;
Hằng tháng có các buổi biểu diễn phục vụ cộng đồng;
Phát triển năng lực tự quản cộng đồng;
Duy trì và mở rộng hoạt động của câu lạc bộ
4.2. Nguồn lực và trở ngại

4.2.1.



Các nguồn lực
Các nguồn lực cần thiết:
Cơ sở vật chất hạ tầng:
Địa điểm phù hợp để câu lạc bộ hoạt động (giao thông thuận lợi, có đủ không



gian cho các thành viên sinh hoạt);
Có các trang thiết bị phục vụ sinh hoạt và biểu diễn của câu lạc bộ (loa, đài,




trang phục,…)
Nhân lực:
Những người có thể hát Soọng cô, hiểu về Soọng cô, những người yêu thích làn
điệu dân ca truyền thống của dân tộc Sán Dìu, mong muốn và có khả năng



truyền thụ lại cho thế hệ sau;
Người quản lý: có khả năng quy tụ, quản lý, giám sát và mở rộng hoạt động câu
lạc bộ, đồng thời nhiệt tình, yêu thích làn điệu Soọng cô, có trách nhiệm với

-

công việc;
Tài chính: Nguồn vốn của địa phương, sự trợ cấp của UBND xã Đại Đình, sự
đầu tư của các tổ chức, doanh nghiệp…
16


-

Nguồn lực xã hội: sự ủng hộ của lãnh đạo cấp trên, sự giúp đỡ của các hội đoàn,




-

đoàn thể (như: Hội người cao tuổi, Hội Phụ nữ, Đoàn thanh niên,…)

Các nguồn lực sẵn có:
Nhân lực:
Có những người hát hay, am hiểu về Soọng cô, yêu mến làn điệu dân ca này;
Cán bộ văn hóa nhiệt tình, có thể quy tụ và quản lý hoạt động
Nguồn lực xã hội: Đã có các tổ chức xã hội trong và ngoài nước quan tâm, đầu
tư cho hoạt động văn hóa nghệ thuật nói chung, hoạt động hát Soọng Cô nói



riêng như:
Phòng Văn hóa huyện đã thực hiện các chương trình nhằm hỗ trợ hoạt động bảo
tồn, lưu giữ điệu hát Soọng Cô cũng như việc hỗ trợ kinh phí cho hoạt động



biểu diễn giao lưu của các câu lạc bộ nhằm phát triển điệu hát.
Đặc biệt vào năm 2006, Dự án “Hỗ trợ văn hoá Việt Nam vì sự phát triển bền
vững” do quỹ SIDA Thuỵ Điển tài trợ , Trung tâm VH - TT tỉnh đã phối hợp với
viện Âm nhạc Trung ương tổ chức sưu tầm, nghiên cứu âm nhạc dân gian các
dân tộc thiểu số trong tỉnh và đã hỗ trợ kinh phí mở lớp truyền dạy dân ca cho 5
CLB dân ca: CLB Soọng cô ở xã Ngọc Thanh (thị xã Phúc Yên) và xã Đạo Trù
(Tam Đảo),…Các CLB này đã hoạt động hiệu quả và đã phát triển được nhiều

-

hội viên mới
Các thiết chế văn hóa xã hội: Trên địa bàn thôn Giáp Giang, hiện đã có nhà văn
hóa phục vụ hoạt động sinh hoạt văn hóa của đồng bào. Hệ thống nhà văn hoá
xã, thôn đã và đang được đầu tư xây dựng rộng khắp trên địa bàn toàn tỉnh với
quy mô từ 60m2 trở lên, có sức chứa từ 50 đến 150 chỗ ngồi có sân khấu biểu

diễn, bước đầu đã được đầu tư trang thiết bị tương đối đầy đủ - là nơi rất ý nghĩa
và tiện ích khi tổ chức hoạt động câu lạc bộ. Bên cạnh đó, ở các khu vực lân cận
có các thiết chế văn hóa khác như đền Trình, đền Bà Chúa Mán,… Đặc biệt là
khu du lịch Tây Thiên( với lượng khách du lịch hàng năm lên tới hơn 20 vạn du


-

khách).
Nguồn lực cần huy động từ bên ngoài:
Tài chính: Nguồn vốn từ Nhà nước, sự đầu tư của các tổ chức, doanh nghiệp…
+ Toàn xã Đại Đình hiện có 40% các Công ty, doanh nghiệp đang hoạt động
Đây là một trong các nguồn lực quan trọng như: DNTN An Định(Hợp Châu,
17


Tam Đảo, Vĩnh Phúc); Công ty CP ĐT&XD Bảo Quân (CN VP)( Đồi Chẩu,
Minh Quang, Tam Đảo), Công ty TNHH TM Vật tư Anh Dũng(Km9- Hợp
4.2.2.
-

Châu, Tam Đảo, Vĩnh Phúc),…
Trở ngại
Nhân lực: thế hệ trẻ hiện nay không còn say mê với làn điệu Soọng cô truyền
thống, hiện nay số người dân tộc Sán Dìu biết hát Soọng cô không nhiều chủ
yếu tập trung ở người lớn tuổi. Mặt khác, số lượng sách cổ ghi lại các bài hát
Soọng cô còn rất ít, phần lớn các bài hát sưu tầm được đều do các nghệ nhân

-


truyền miệng lại,…
Về tự nhiên: Thôn Giáp Giang là một trong 15 thôn của xã Đại Đình- một xã
miền núi phía Bắc, thuộc huyện Tam Đảo, tỉnh Vĩnh Phúc. Địa hình nhiều gò,

-

đồi, dốc khiến việc giao thông tương đối khó khăn
Về cơ sở vật chất: đường đi chủ yếu là đường đất, đi lại khó khăn; địa điểm
chưa thuận lợi để tổ chức sinh hoạt, biểu diễn; dụng cụ, đạo cụ, trang phục chưa

-

có, cần có sự đầu tư
Tài chính: thiếu vốn, không có sự đầu tư, tài trợ của nhà nước cũng như các tổ
chức, doanh nghiệp
4.3. Kế hoạch hành động
STT
Hoạt động
Thực hiện
1. Thành lập ban quản lý gồm:
Ban Văn hóa xã
- 1 chủ nhiệm: phụ trách chung,
thông qua kế hoạch hành động
- 1 phó chủ nhiệm: phụ trách đôn
đốc, chỉ đạo những công việc cụ
thể như công tác tổ chức, biểu
diễn, tuyển thành viên,...
2.

Tìm kiếm, huy động nguồn lực UBND

tài chính
Đình
- Nguồn tài chính từ chính quyền
địa phương
- Các nguồn tài trợ, hỗ trợtừ các
công ty, doanh nghiệp ở địa
phươngthông qua hoạt động gây
quỹ và tìm tài trợ



Ghi chú
Ban quản lý là
cán bộ văn hóa
hoặc
những
người có kinh
nghiệm lâu năm
trong việc hát
Soọng Cô

Đại
Chiếm khoảng
70% nguồn tài
chính
Chiếm
30%
nguồn tài chính

18



3.

Lên khung thời gian

Ban Văn hóa xã
phối hợp với ban
quản lý CLB
-3 tháng đầu: tổ chức những buổi Ban tổ chức clb
Hỗ trợ hoạt
tuyển thành viên mới kết hợp
động của clb
với các sinh họat tập thể hàng
bằng các hình
tuần.
thức
tuyên
truyền,
động
viên do các
thành viên thực
hiện đến từng
gia đình
-6 tháng đầu: tập trung vào hoạt Những nghệ nhân Nhấn
mạnh
động bồi dưỡng thành viên kết hoặc những người mục đích bảo
hợp với việc đào tạo, truyền dạy có kinh nghiệm, kĩ tồn điệu hát.
kĩ thuật bằng các hoạt động rèn thuật trong việc hát Kết hợp hoạt
luyện thường xuyên.

Soọng Cô.
động
truyền
dạy, đào tạo với
các hoạt động
nghiên cứu, sưu
tầm, ghi chép
và dịch thuật lại
điệu hát.
-1 năm: tổ chức các buổi biểu Ban tổ chức clb Sử dụng hợp lý
diễn không chỉ trong clb mà còn chủ trì có sự phối nguồn kinh phí
mở rộng ra trong toàn thôn hoặc hợp với ban văn mà Nhà nước
xã.
hóa của xã.
cấp

lợi
+ Từng bước tự chủ về tài chính,
nhuận thu được
dần thoát khỏi sự bao cấp của
từ các buổi biểu
Nhà nước.
diễn vào việc
trả công, khen
thưởng
cho
thành viên và
bảo dưỡng cơ
sở vật chất.
-Các năm tiếp theo:

Ban quản lý clb Nhấn
mạnh
+ Tiến hành giao lưu văn hóa phối hợp với ban mục tiêu phát
văn nghệ với các clb hát Soọng quản lý của các clb triển điệu hát
Cô khác trên địa bàn cấp xã.
tại các địa phương bằng việc phát
+ Đưa hoạt động hát Soọng Cô lân cận đồng thời triển bền vững
của clb dưới hình thức biểu diễn có sự chỉ đạo của cả về số lượng
nghệ thuật vào lễ hội Tây Thiên. các cấp chính và chất lượng.
+ Đẩy nhanh hơn nữa khả năng quyền địa phương.
19


tự chủ về kinh tế, không còn phụ
thuộc vào nguồn tài chính mà
chính quyền cấp.

4.4. Chuẩn bị kinh phí ban đầu
Địa điểm: Nhà Văn hóa thôn Giáp Giang. Mọi sinh hoạt ở Nhà văn hóa
có sự hỗ trợ của Chính quyền thôn và xã
Chi phí cơ sở vật chất ( trang phục, đạo cụ, bàn ghế,..): khoảng 100 triệu
Chi phí cho việc quảng bá: khoảng 50 triệu
Quỹ dự trù: khoảng 50 triệu
Tổng kinh phí chuẩn bị: 200 triệu

20


PHỤ LỤC
1.


Bảng hỏi:
Đại học Văn hóa Hà Nội
PHIẾU KHẢO SÁT
Đời sống văn hóa của người dân tộc Sán Dìu
tại thôn Giáp Giang-xã Đại Đình- huyện Tam Đảo- tỉnh Vĩnh Phúc
Phiếu số: …
Ngày: … … …
Để phục vụ cho công tác nghiên cứu về đời sống văn hóa của nhân dân tỉnh
Vĩnh Phúc nói chung và thôn Giáp Giang (thuộc xã Đại Đình, tỉnh Vĩnh Phúc) nói
riêng, đặc biệt là vùng đồng bào dân tộc Sán Dìu – một trong những dân tộc thiểu
số ở Việt Nam, chúng tôi tiến hành khảo sát về “Đời sống văn hóa của người dân
tộc Sán Dìu tại thôn Giáp Giang- xã Đại Đình- huyện Tam Đảo- tỉnh Vĩnh Phúc”.
Nhóm sinh viên Trường Đại học Văn hóa Hà Nội kính mong Ông (Bà) hỗ trợ trả
lời một số câu hỏi sau đây.
Cách trả lời: Nếu đồng ý, Ông (Bà) đánh dấu X vào ô trống (có thể chọn
nhiều đáp án).
Câu 1: Ông (Bà) cho biết, trên địa bàn Ông (Bà) sinh sống có tổ chức các hoạt
động sinh hoạt tập thể không?  Không

 Thỉnh thoảng



Thường

xuyên
Câu 2: Mức độ tham gia của Ông (Bà) vào các sinh hoạt văn hóa tập thể như thế
nào?  Đầy đủ


 Thường xuyên

Thỉnh thoảng

 Không bao giờ

Câu 3: Phạm vi của các sinh hoạt văn hóa tập thể được tổ chức tại địa bàn nơi Ông
(Bà) sinh sống như thế nào?  Làng  Xã  Huyện

 Tỉnh

Câu 4: Ông (Bà) có hài lòng đối với các sinh hoạt văn hóa tại địa phương không?
 Rất hài lòng

 Hài lòng

 Không hài lòng

Câu 5: Các hoạt động Ông (Bà) thường làm khi tham gia vào các hoạt động sinh
hoạt văn hóa tập thể ở địa phương?
21


 Múa hát theo phong tục truyền thống
 Nói chuyện giao lưu

 Múa hát theo lối hiện đại

Khác: ………………………


Câu 6: Ông (Bà) có biết đến điệu hát Soọng Cô của người Sán Dìu không?
 Có

 Không

Câu 7: Theo Ông (Bà), điệu hát Soọng Cô của người Sán Dìu thể hiện điều gì?
 Sự giới thiệu

 Tình cảm trai gái

 Tình yêu thiên nhiên

 Sự giao lưu

 Tài năng của người hát

Khác: ……………………………………………………………………
Câu 8: Điệu hát Soọng Cô của người Sán Dìu thường được hát vào thời điểm nào
trong ngày?  Khi làm việc

 Lúc rảnh rỗi

 Bất kì thời điểm nào

Câu 9: Đối tượng có thể hát Soọng Cô là ai? Nam

 Nữ

 Cả 2


Câu 10: Điệu hát Soọng Cô thường được hát vào dịp nào nơi Ông (Bà) sinh sống?
 Hàng ngày

 Lễ hội

 Đám cưới

Khác: ……………

Câu 11: Nơi Ông (Bà) sinh sống có nhiều người biết hát Soọng cô không?
 Toàn bộ

 Đa số

 Ít

 Rất ít

Câu 12: Điệu hát Soọng Cô thường được diễn ra ở đâu nơi nào Ông (Bà) sinh
sống? Trong nhà  Bờ suối

 Trên nương

Khác: ……………

Câu 13: Điệu hát Soọng Cô phổ biến ở lứa tuổi nào?
 Trẻ em

 Thanh thiếu niên


 Trung niên

Câu 14: Ông (Bà) có biết hát Soọng Cô không?

 Người cao tuổi

 Có

 Không

Nếu “Có” xin Ông (Bà) trả lời tiếp, nếu “Không” xin chuyển sang Câu 16
Câu 15: Ông (Bà) đã truyền dạy cho ai điệu hát Soọng Cô chưa?
 Đã từng

 Chưa

Câu 16: Theo Ông (Bà), việc truyền dạy Điệu hát Soọng Cô có cần thiết không?
 Rất cần thiết

 Cần thiết

 Không cần thiết

Câu 17: Thái độ của Ông (Bà) đối với điệu hát Soọng Cô như thế nào?
 Rất thích

 Thích

 Không thích


Câu 18: Theo Ông (Bà), việc truyền dạy lại điệu hát Soọng Cô có ý nghĩa như thế
nào?
22


………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
Xin Ông (Bà) vui lòng cho biết một số thông tin cá nhân:
Tuổi: …………………….

Giới tính:  Nam

 Nữ
Cảm ơn Ông (Bà) đã tham gia khảo sát!
2.

Bản đồ hành chính Huyện Tam Đảo

23



×