BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH
NGUYỄN PHÚ CƯỜNG
THẤT THU THUẾ NHẬP KHẨU TẠI
CỤC HẢI QUAN LONG AN
Chuyên ngành: Quản lý công
Mã Số:60.34.04.03
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS - TS. NGUYỄN HỒNG THẮNG
TP. HỒ CHÍ MINH - NĂM 2016
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH
NGUYỄN PHÚ CƯỜNG
THẤT THU THUẾ NHẬP KHẨU TẠI
CỤC HẢI QUAN LONG AN
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
TP. HỒ CHÍ MINH - NĂM 2016
MỤC LỤC
Trang
LỜI MỞ ĐẦU
1
1. Tính cấp thiết của đề tài
1
2. Mục tiêu nghiên cứu
2
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
2
3.1. Đối tượng nghiên cứu
2
3.2. Phạm vi nghiên cứu
2
4. Phương pháp nghiên cứu
2
5. Tính mới của đề tài
3
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
4
7. Kết cấu luận văn
4
CHƯƠNG 1:
NHỮNG LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ CHỐNG THẤT THU THUẾ NHẬP KHẨU
5
1.1. Khái quát về thu thuế nhập khẩu.
5
1.1.1. Khái quát chung
5
1.1.2 Đặc điểm của thuế nhập khẩu
8
1.1.3. Phân loại thuế nhập khẩu
9
1.2. Vai trò của thuế nhập khẩu
12
1.2.1. Thuế nhập khẩu là nguồn thu quan trọng đối với ngân sách Nhà nước
12
1.2.2. Bảo hộ và khuyến khích sản xuất trong nước
13
1.2.3. Kiểm soát và điều tiết hàng hóa nhập khẩu
14
1.2.4. Góp phần định hướng người tiêu dùng
14
1.2.5. Góp phần thực hiện chính sách đối ngoại của đất nước
15
1.3. Thất thu thuế nhập khẩu và sự cần thiết phải chống
thất thu thuế nhập khẩu.
15
1.3.1. Khái niệm về thất thu thuế nhập khẩu
15
1.3.2. Phân loại thất thu thuế nhập khẩu
16
1
1.4. Công tác chống thất thu thuế nhập khẩu một số nước trên thế giới
19
1.4.1. Quản lý rủi ro trong quản lý thuế của Thụy Điển, Italia:
Kinh nghiệm, bài học cho Việt Nam.
19
1.4.2. Tại Philippine
27
1.4.3. Tại New Zealand
27
1.4.4. Tại Malaysia
28
CHƯƠNG 2:
THỰC TRẠNG CÔNG TÁC CHỐNG THẤT THU THUẾ
NHẬP KHẨU TẠI CỤC HẢI QUAN LONG AN.
31
2.1. Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu của
Cục Hải quan tỉnh Long An.
31
2.1.1. Vị trí và chức năng
31
2.1.2. Nhiệm vụ và quyền hạn
31
2.1.3. Cơ cấu tổ chức của Cục Hải quan tỉnh Long An
31
2.2. Tình hình thu thuế, công tác chống thất thu thuế nhập khẩu
của Cục Hải quan Long An giai đoạn 2010 – 2014.
32
2.2.1. Tình hình thu thuế nhập khẩu
32
2.2.2. Tình hình nợ động và thu hồi nợ đọng thuế nhập khẩu
36
2.2.3. Tình hình hoàn thuế, không thu thuế và xét miễn thuế nhập khẩu
37
2.3. Tình hình chống thất thu thuế nhập khẩu tại Cục Hải quan Long An
39
2.3.1. Đánh giá chung
39
2.3.2. Biện pháp chống thất thu thuế nhập khẩu đã triển khai
41
2.3.3 Một số tồn tại
42
2.4. Thực trạng thất thu thuế nhập khẩu tại Cục HQLA
43
2.4.1. Gian lận thuế trong việc áp mã số thuế để xác định thuế suất
hàng hóa NK
43
2.4.2. Gian lận thuế trong việc xác định trị giá hải quan
44
2.4.3. Lợi dụng chính sách ân hạn thuế, miễn thuế hàng NK
47
2.4.4. Gian lận định mức
48
2
2.4.5. Thất thu thuế khác
50
2.5. Nguyên nhân dẫn đến thất thu thuế nhập khẩu
51
2.5.1. Nguyên nhân khách quan
51
2.5.2. Nguyên nhân chủ quan
54
2.6. Hậu quả của thất thu thuế nhập khẩu
55
2.6.1. Về mặt kinh tế
55
2.6.2. Về mặt xã hội
55
2.7. Công tác chống thất thu thuế nhập khẩu tại Cục Hải quan Long An
56
2.7.1. Áp dụng quản lý rủi ro trong công tác chống thất thu thuế nhập khẩu
56
2.7.2. Chống thất thu thuế từ công tác kiểm tra sau thông quan
57
2.7.3. Chống thất thu thuế từ công tác thanh tra thuế của Hải quan
58
2.7.4. Thu hồi nợ đọng và áp dụng các biện pháp cưỡng chế thuế nhập khẩu
59
2.8. Đánh giá chung về thực trạng chống thất thu thuế
của Cục Hải quan Long An giai đoạn 2010 – 2014
59
2.8.1. Kết quả
59
2.8.2. Hạn chế
62
CHƯƠNG 3:
PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP CHỐNG THẤT THU
THUẾ NHẬP KHẨU TẠI CỤC HẢI QUAN LONG AN.
65
3.1. Mục tiêu chống thất thu thuế nhập khẩu
65
3.2. Các giải pháp chống thất thu thuế nhập khẩu
66
3.2.1. Áp mã, xác định thuế suất hàng hóa nhập khẩu
67
3.2.2. Xác định trị giá tính thuế
68
3.2.3. Về thời hạn nộp thuế nhập khẩu
69
3.2.4. Đẩy mạnh công tác kiểm tra sau thông quan
71
3.2.5. Tăng cường và nâng cao hiệu quả các biện pháp xử lý
vi phạm thuế của đối tượng nộp thuế
71
3.2.6. Tăng cường điều kiện vật chất – kỹ thuật và ứng dụng công nghệ
thông tin
73
3
3.2.7. Công tác chống buôn lậu, gian lận thương mại
74
3.2.8. Thỏa thuận trước về phương pháp xác định giá tính thuế
75
3.2.9. Các giải pháp khác
76
3.3. Điều kiện để thực hiện các giải pháp chống thất thu thuế nhập khẩu
77
3.3.1. Về con người
77
3.3.2. Về khoa học kỹ thuật
78
3.3.3. Về công tác phối hợp Hải quan
78
KẾT LUẬN
80
4
Danh mục từ viết tắt tiếng Anh
Chữ viết tắt
AEC
Tiếng Việt
Cộng đồng Kinh tế ASEAN
Tiếng Anh
ASEAN Economic Community
AFTA
Khu vực Mậu dịch Tự do
Asean free trade Area
ASEAN
AIFTA
Khu vực Mậu dịch Tự do
Asean-India Free Trade Area
AHTN 2007
Danh mục biểu thuế hài hòa ASEAN Harmonized Tariff
Asean
Nomenclature
ASEAN
Hiệp hội các quốc gia Đông Association of South East
Nam Á
Asian Nations
CEPT/AFTA
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN
Common Effective Preferential
Tariff of the ASEAN Free
Trade Area
CKD
Linh kiện nhập khẩu hoàn chỉnh
Chronic Kidney Disease
C/O
Chứng nhận xuất xứ hàng hóa
Certificate of origin
GATT
HS
KYOTO
Hiệp ước chung về thuế quan General Agreement of trade
và thương mại
and Tariff
Hệ thống hài hòa mô tả và mã
Harmonized System
hóa hàng hóa
International Convention on
Công ước quốc tế về đơn giản,
yhe
simplification
and
hài hòa thủ tục hải quan
harmonization of Customs
MFN
Quy chế Tối huệ quốc
Most Favoured Nation
VAT
Thuế giá trị gia tăng
Value added tax
WCO
Tổ chức hải quan thế giới
World Customs Organization
WTO
Tổ chức thương mại thế giới
World trade Organization
Danh mục viết tắt tiếng Việt
Chữ viết tắt
Tiếng Việt
CI02
Hệ thống thu thập xử lý thông tin nghiệpvụ hải quan
DN
Doanh nghiệp
Ecustoms
GC
HQVN
HSL
Hệ thống thông quan điện tử tập trung
Gia công
Hải quan Việt Nam
Danh mục nhạy cảm cao
KTSTQ
Kiểm tra sau thông quan
KT559, GTT02
Hệ thống kế toán tập trung
NSXXK
NL, VT, MMTB
Nhập nguyên liệu để sản xuất xuất khẩu
Nguyên liệu, vật tư, máy móc thiết bị
NSNN
Ngân sách nhà nước
QLRR
Quản lý rủi ro
SL
XNK
Vnaccs/Vcis
Danh mục nhạy cảm thường
Xuất nhập khẩu
Hệ thống thông quan hàng hóa tự động Việt Nam/hệ thống cơ sở
dữ liệu thông tin tình báo
Danh mục các bảng
STT
1
2
3
4
5
Bảng
Bảng 2.1
Bảng 2.2
Bảng 2.3
Bảng 2.4
Bảng 2.5
Nội dung
Trang
Kim ngạch xuất nhập khẩu của Cục Hải quan Long
An năm 2010-2014
38
Số thu thuế xuất nhập khẩu của Cục Hải quan Long
An năm 2010-2014
39
Nợ đọng và công tác thu hồi nợ đọng thuế xuất nhập
khẩu của Cục Hải quan Long An năm 2010-2014
41
Hoàn thuế, không thu thuế và xét miễn thuếxuất nhập
khẩu của Cục Hải quan Long An năm 2010-2014
42
Công tác chống thất thu thuế nhập khẩutại Cục Hải
quan Long An năm 2010-2014
64
1
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài:
Thuế xuất khẩu, nhập khẩu là một trong số những nguồn thu quan trọng đóng
góp vào Ngân sách Nhà nước, thực hiện các mục tiêu kinh tế, xã hội, các nhiệm vụ
chính trị, ngoại giao của Nhà nước trong từng thời kỳ, bảo hộ sản xuất trong nước
và điều tiết hoạt động xuất nhập khẩu.
Trong những năm qua, chính sách thuế xuất khẩu, nhập khẩu đảm bảo công
bằng, minh bạch, không phân biệt đối xử và ổn định đã tạo thuận lợi hơn cho hoạt
động xuất khẩu, nhập khẩu, tăng cường thu hút đầu tư và thúc đẩy tăng trưởng kinh
tế, góp phần huy động nguồn thu cho ngân sách, bảo hộ sản xuất trong nước. Bên
cạnh những kết quả đã đạt được, trong quá trình tổ chức thực hiện thuế nhập khẩu
vẫn còn tình trạng thất thu thuế. Thất thu thuế nhập khẩu đã xảy ra trong thời gian
dài, số thuế thất thu không phải là nhỏ (Công tác chống thất thu thuế ngành Hải
quan năm 2010: 261,90 tỷ đồng tăng 14%; năm 2011: 512,5 tỷ đồng tăng 76%; năm
2012: 1.373 tỷ đồng tăng 2,5 lần; năm 2013: 1.643,7 tỷ đồng tăng 20%; năm 2014:
1.677,5 tỷ đồng tăng 2,05%. Số liệu Cục Hải quan Long An chi tiết tại bảng 2.5),
làm ảnh hưởng xấu đến cân đối thu - chi của ngân sách nhà nước và tạo ra sự bất
bình đẳng giữa các doanh nghiệp trong việc thực hiện nghĩa vụ thuế. Nguyên nhân
của tình trạng thất thu thuế nhập khẩu có thể do khách quan như chính sách thuế
thay đổi, đối tượng nộp thuế gặp tai họa bất ngờ…; cũng có thể do nguyên nhân chủ
quan như đối tượng nộp thuế cố tình gian lận, trốn thuế, công tác quản lý chưa chặt
chẽ, việc thu thập thông tin và cập nhật thông tin vào các phần mềm để quản lý
chưa kịp thời …Vì vậy, việc tìm ra giải pháp để chống thất thu thuế nhập khẩu là
một trong những nội dung hết sức quan trọng, cần thiết và cấp bách nhằm đảm bảo
thực hiện có hiệu quả chính sách thuế của nhà nước, tạo sự công bằng giữa các
doanh nghiệp trong hoạt động sản xuất kinh doanh.
Thất thu thuế nhập khẩu không những chỉ ảnh hưởng đến nguồn thu của
ngân sách Nhà nước mà nó có tác động đến môi trường đầu tư, đến kinh tế, xã
hội…Khi để xảy ra thất thu thuế nhập khẩu, công cụ quản lý bằng thuế giảm tính
2
hiệu lực không còn phát huy tác dụng của nó, từ đó ảnh hưởng đến quan hệ thương
mại trong và ngoài nước. Xuất phát từ nhu cầu thực tế cũng như tầm quan trọng của
công tác chống thất thu thuế nhập khẩu, nên Tác giả chọn đề tài “Thất thu thuế
nhập khẩu tại Cục Hải quan Long An” có ý nghĩa về mặt lý luận cũng như thực
tiễn.
2. Mục tiêu nghiên cứu:
- Hệ thống hóa một cách cụ thể các lý thuyết về thuế nhập khẩu, công tác
chống thất thu thuế nhập khẩu tại các Chi cục Hải quan, Cục Hải quan Long An.
- Phân tích thực trạng thất thu thuế nhập khẩu tại Cục Hải quan Long An từ
năm 2010 đến năm 2014.
- Đề xuất các giải pháp hữu hiệu trong công tác chống thất thu thuế nhập
khẩu trong thời gian tới nhằm đảm bảo sự công bằng trong sản xuất kinh doanh
giữa các doanh nghiệp.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
3.1. Đối tượng nghiên cứu:
Các thủ đoạn gian lận, trốn thuế gây thất thu thuế nhập khẩu phổ biến trên
thế giới và Việt Nam hiện nay.
Công tác chống thất thu thuế nhập khẩu tại Cục Hải quan Long An.
3.2. Phạm vi nghiên cứu:
Luận văn được thực hiện tại địa bàn thuộc ba tỉnh là Long An, Tiền Giang và
Bến Tre của các doanh nghiệp tham gia hoạt động xuất nhập khẩu. Tác giả tập trung
nghiên cứu các giải pháp chống thất thu thuế nhập khẩu trong thời gian qua của Cục
Hải quan Long An.
Luận văn tập trung nghiên cứu, đánh giá công tác chống thất thu thuế nhập
khẩu tại Cục Hải quan Long An từ năm 2010 đến 2014.
4. Phương pháp nghiên cứu:
Nghiên cứu vấn đề thất thu thuế nhập khẩu được thực hiện bằng phương
pháp nghiên cứu định tính, kết hợp với việc tổng hợp, đánh giá, so sánh để tìm ra
nguyên nhân gây nên thất thu thuế nhập khẩu.
3
Luận văn có kế thừa các kết quả nghiên cứu trước đó, tiếp thu ý kiến góp ý
của Lãnh đạo Cục, các Phòng, các Chi cục về những vấn đề có liên quan đến thất
thu thuế nhập khẩu.
5. Tính mới của đề tài:
Cho đến nay, có một số tác giả nghiên cứu thất thu thuế nhập khẩu trong lĩnh
vực hải quan, cụ thể như sau:
- Trần Hồ Quốc Thiện, 2011. Quản lý hải quan đối với hoạt động nhập khẩu
nguyên liệu để sản xuất hàng hóa xuất khẩu, nghiên cứu tại tỉnh Đồng Nai. Luận
văn Thạc sỹ. Trường Đại học Kinh tế Tp.HCM.
- Nguyễn Thị Thùy Trang, 2009. Gian lận thương mại qua trị giá tính thuế
đối với hàng nhập khẩu tại Cục Hải quan TP. Hồ Chí Minh. Luận văn Thạc sỹ.
Trường Đại học Kinh tế Tp.HCM.
- Hoàng Thị Huyền Trang, 2005. Thuế xuất nhập khẩu và hiện tượng thất thu
thuế nhập khẩu ở Việt Nam hiện nay. Luận văn Thạc sỹ. Trường Đại học Kinh tếĐại học quốc gia Hà Nội.
- Nguyễn Bích Thủy, 2015. Thất thu thuế qua mã số hàng hóa xuất khẩu,
nhập khẩu tại Cục Hải quan tỉnh Hà Giang. Luận văn Thạc sỹ. Trường Đại học
Kinh tế- Đại học quốc gia Hà Nội.
Các nghiên cứu này chỉ tập trung nghiên cứu việc thất thu thuế qua trị giá
tính thuế, mã số hàng hóa; công tác quản lý đối với hoạt động nhập khẩu nguyên
liệu để sản xuất hàng hóa xuất khẩu. Các nghiên cứu này chưa đề cập đến nguyên
nhân gây nên thất thu thuế nhập khẩu; và thất thu thuế nhập khẩu qua thành phần,
cấu tạo của hàng hóa nhập khẩu; định mức chung (gồm định mức cho một đơn vị
sản phẩm và tỷ lệ hao hụt); thời hạn ân hạn thuế nhập khẩu; thời hạn nộp thuế nhập
khẩu đối với việc chuyển mục đích hàng hóa để tiêu thụ nội địa; lợi dụng sự phân
luồng tờ khai, các định mức của loại hình gia công (GC)- nhập nguyên liệu để sản
xuất hàng xuất khẩu (NSXXK) chưa kết nối với hệ thống thông quan tự động
Vnaccs/Vcis. Đây là một trong những nguyên nhân gây nên thất thu thuế nhập khẩu
hiện nay. Đây chính là tính mới của đề tài nghiên cứu.
4
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài:
Về mặt lý luận: Luận văn góp phần hệ thống hóa lý luận về thuế nhập khẩu,
vai trò của thuế nhập khẩu trong tiến trình hội nhập và điều tiết chính sách vĩ mô
của nhà nước; thất thu thuế nhập khẩu và sự cần thiết phải chống thất thu thuế nhập
khẩu trong giai đoạn hiện nay. Ngoài ra, trong luận văn cũng đề xuất một số giải
pháp nhằm nâng cao hiệu quả trong công tác chống thất thu thuế nhập khẩu, và xem
đây là một nhiệm vụ hết sức khó khăn đối với Cục Hải quan Long An trong công
tác chống thu thuế nhập khẩu.
Về mặt thực tiễn: Nâng cao hiệu quả trong công tác quản lý thuế, tăng cường
công tác chống thất thu thuế nhập khẩu trong điều kiện hội nhập của Việt Nam
nhằm góp phần tạo ra môi trường cạnh tranh lành mạnh trong sản xuất kinh doanh,
tăng nguồn thu cho ngân sách Nhà nước, tạo mọi điều thuận lợi để các doanh
nghiệp tham gia hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu.
7. Kết cấu luận văn:
Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, luận văn được chia làm ba Chương với
nội dung cụ thể như sau:
Chương 1: Những lý luận cơ bản về chống thất thu thuế nhập khẩu.
Chương 2: Thực trạng công tác chống thất thu thuế nhập khẩu tại Cục Hải
quan Long An.
Chương 3: Phương hướng và giải pháp chống thất thu thuế nhập khẩu tại
Cục Hải quan Long An.
5
CHƯƠNG 1:
NHỮNG LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ CHỐNG THẤT THU THUẾ NHẬP KHẨU
1.1. Khái quát về thu thuế nhập khẩu.
1.1.1. Khái quát chung:
Trong thời cổ đại và trung cổ, thuế nhập khẩu còn được các chính quyền địa
phương thu, nhưng hiện nay điều này là rất hiếm và thông thường nó được nhà nước
giao cho một tổ chức nhà nước chuyên trách về thuế xuất-nhập khẩu là hải quan
thực hiện công việc kiểm tra, tính và thu thuế. Tại một số quốc gia, cơ quan chức
năng khi tính thuế nhập khẩu cũng tính luôn cả thuế giá trị gia tăng (VAT) đối với
mặt hàng nhập khẩu đó, mặc dù thuế giá trị gia tăng về nguyên lý chỉ được đánh khi
hàng hóa tham gia lưu thông. Một số quốc gia có chính sách hoàn thuế nhập khẩu
cùng thuế VAT khi các mặt hàng nhập khẩu được sử dụng vào sản xuất hàng xuất
khẩu.
Trong thời đại ngày nay, các chính sách về thương mại, thuế và thuế quan
(trong đó có thuế nhập khẩu) thường được xếp cùng nhau do ảnh hưởng chung của
chúng đối với các chính sách công nghiệp, chính sách nông nghiệp và chính sách
đầu tư. Các khối thương mại là nhóm các quốc gia liên minh thỏa thuận giảm thiểu
hay loại trừ thuế quan đối với thương mại trong khối, cũng như khả năng áp đặt
thuế quan có hiệu quả lên hàng nhập khẩu từ ngoài khối. Liên minh hải quan của
khối thường có biểu thuế quan ngoài chung, và theo các quy định đã thỏa thuận thì
các quốc gia thành viên chia sẻ các khoản thu nhập từ thuế quan đối với hàng hóa
nhập khẩu vào trong khối.
Thuế là một công cụ tài chính vô cùng quan trọng, gắn liền với sự tồn tại và
phát triển của Nhà nước mà bất cứ quốc gia nào cũng sử dụng công cụ thuế để tham
gia vào việc thực thi chức năng, nhiệm vụ của mình. Thuế giống như một vết dầu
loang trên sông. Theo thời gian thuế ngày càng thẩm thấu và lan tỏa ra mọi ngành
nghề, mọi lĩnh vực trong nền kinh tế, ảnh hưởng đến mọi hoạt động của tổ chức, cá
nhân trong xã hội. Năm 1726, nhà chính trị kiêm nhà văn Daniel Defoe trong quyển
“ The political History of the Devil” đã khẳng định “Những thứ như thuế và cái chết
6
có thể được tin là chắc chắn hơn những thứ khác”. Năm 1817, nhà khoa học nổi
tiếng của Mỹ Benjiamin Franklin trong quyển “The word of Benjiamin Franklin” đã
viết “Trên thế giới không có thứ gì có thể được nói là chắc chắn, ngoại trừ cái chết
và thuế”. Tác giả lừng danh “Gone with the Wind” của nhà văn Margaret Mitchell
cũng viết “Cái chết, thuế và sinh con! Không bao giờ có bất cứ thời gian thuận tiện
nào để dành cho bất cứ thứ nào trong số chúng”. Điều này đã chứng minh được sự
lan tỏa và tính tất yếu của thuế. Tùy thuộc vào từng thể chế chính trị, từng giai đoạn
lịch sử khác nhau đã xuất hiện rất nhiều học thuyết về thuế. Tuy nhiên, các học
thuyết này đã thể hiện nhiều quan điểm tương đồng cũng như những quan điểm đối
kháng lẫn nhau về thuế.
Thuyết thuế ước đã khẳng định rằng “Thuế là đối giá của hàng hóa và dịch
vụ công cộng Chính phủ cung cấp”. Thuyết tương đẳng phát biểu “Thuế là một
phần tài sản công dân để yên hưởng phần còn lại”. Hai học thuyết này khá tương
đồng và thể hiện rất rõ quyền lợi của người nộp thuế. Học thuyết đã khẳng định
hoàn toàn không có sự bắt buộc nào, thuế được xây dựng và thực thi trên cơ sở tự
nguyện. Chính phủ sẽ đệ trình Luật thuế để Quốc Hội xem xét và thông qua. Chính
phủ cung cấp hàng hóa, dịch vụ công và người dân là người nhận các hàng hóa,
dịch vụ công này. Giao dịch này được thực hiện trên nguyên tắc tự nguyện và dựa
trên cơ sở trao đổi ngang giá một cách trực tiếp như một giao dịch mua bán trên thị
trường. Người giữ vai trò quyết định đối với giao dịch này là Quốc hội chứ không
phải là Chính phủ. Các đại biểu Quốc hội là người biểu quyết một Luật thuế sẽ có
hiệu lực hay không khi thông qua hay bác bỏ nó. Nhìn chung, hai học thuyết này
mang tính chất so dịu – thể hiện quyền lợi hơn là nghĩa vụ từ thuế. Chúng thể hiện
tính công bằng của thuế theo chiều hướng công bằng theo lợi ích kinh tế của người
nộp thuế dựa trên cơ sở người hưởng thụ nhiều hàng hóa, dịch vụ công sẽ nộp thuế
nhiều hơn.
Các nhà kinh tế học đại diện của học thuyết quyền lực Nhà nước đưa ra các
quan điểm về thuế mang tính chất dung hòa giữa các học thuyết trước đó. Theo
E.R.A Seligman cho rằng: “Thuế là sự đóng góp cưỡng bức của mọi người cho
7
Chính phủ để trang trải các chi phí và lợi ích chung không mà ít căn cứ vào lợi ích
riêng được hưởng”. Theo Philip E Taylor “Thuế là sự đóng góp cưỡng bách của
mỗi Chính phủ để trang trải các chi phí vì quyền lợi chung mà ít căn cứ vào lợi ích
riêng được hưởng”. Theo Simon James và Christopher Nobes “Thuế là một khoản
thu do Nhà nước thực hiện mà không có sự hoàn trả nào”. Không là những nhà kinh
tế học đại diện cho học thuyết quyền lực Nhà nước nhưng K. Marx và F. Engles
cũng đưa ra các quan điểm về thuế khá tương đồng. Theo K.Marx “Thuế là cơ sở
kinh tế của Nhà nước, là thủ đoạn đơn giản để kho bạc thu được tiền hay sản vật mà
người dân đóng góp để dùng cho việc chi tiêu của Nhà nước”. Theo F. Engles “ Để
duy trì quyền lực công cộng cần có sự đóng góp của công dân cho Nhà nước, đó là
thuế”. Rõ ràng quan điểm của Học thuyết quyền lực Nhà nước đã có sự dung hóa
một mặt nhấn mạnh tính cưỡng chế của thuế, mặt khác đề cập đến lợi ích chung của
xã hội nhận được từ thuế. Khác với học thuyết khế ước và tương đẵng đề cập đến
lợi ích riêng tư dựa trên quan hệ trao đổi ngang giá trực tiếp. Học thuyết quyền lực
Nhà nước đề cập đến tính cưỡng chế, bắt buộc và không có sự hoàn trả trược tiếp
nhưng đề cập đến lợi ích chung mà xã hội nhận được.
Theo từ điển Luật học: “ Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu là một loại thuế
gián thu đánh vào các loại hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu qua cửa khẩu biên giới”
[110, tr 87].
Theo từ điển kinh tế học (Anh – Việt) có nêu: “Thuế nhập khẩu là một khoản
thuế mà Chính phủ đánh vào sản phẩm nhập khẩu. Thuế nhập khẩu được sử dụng
để tăng nguồn thu cho Chính Phủ và bảo vệ các ngành sản xuất trong nước khỏi sự
cạnh tranh của nước ngoài” [111].
Thuế nói chung vừa là phạm trù mang tính khách quan vừa là phạm trù mang
tính lịch sử. Thuế tồn tại và phát triển gắn liền với sự tồn tại và hoạt động của nhà
nước. Khi xã hội phát triển đến một giai đoạn nhất định, giai cấp và tầng lớp xã hội
xuất hiện thì nhà nước cũng được hình thành. Để thực hiện chức năng của mình thì
nhà nước cùng cần có một nguồn tài chính được huy động từ người dân đóng góp
đó là thuế. Thuế là khoản đóng góp bắt buộc được thể hiện bằng Luật do Nhà nước
8
đặt ra đối với thể nhân và pháp nhân đóng góp cho ngân sách, và thuế không có tính
chất hoàn trả trực tiếp. Thuế được áp dụng cho nhiều lĩnh vực khác nhau và được
chia thành nhiều loại thuế; trong đó khoản thuế nhập khẩu là một khoản thuế không
thể thiếu được khi hoạt động mua bán giữa các quốc gia xãy ra. Thuế nhập khẩu là
khoản thu bắt buộc điều tiết vào giá của hàng hóa, dịch vụ khi trao đổi với nước
khác mà người chủ sở hữu phải nộp thuế.
Thuế nhập khẩu là loại thuế gián thu động viên từ người tiêu dùng hàng nhập
khẩu nhằm góp phần đảm bảo nguồn thu cho ngân sách nhà nước và bảo hộ sản
xuất trong nước. Thuế nhập khẩu do các tổ chức, cá nhân có hàng hóa nhập khẩu
thuộc đối tượng chịu thuế phải thực hiện nghĩa vụ đóng góp theo quy định của pháp
luật với số tiền thuế nhập khẩu phải nộp theo thời hạn nhất định của pháp luật. Sử
dụng tốt chính sách thuế nhập khẩu là phát huy đầy đủ chức năng, vai trò của thuế,
đảm bảo nguồn thu cho ngân sách nhà nước và điều tiết vĩ mô nền kinh tế; thực hiện
chính sách kinh tế đối ngoại của quốc gia với các quốc gia khác trong thương mại
quốc tế.
Ngoài ra cần hiểu thuế nhập khẩu là:
- Thuế nhập khẩu là loại thuế độc lập trong hệ thống pháp luật thuế Việt
Nam và các nước trên thế giới.
- Tên gọi đạo luật là thuế xuất khẩu, nhập khẩu điều chỉnh loại thuế khác
nhau là thuế xuất khẩu và thuế nhập khẩu.
- Mục đích quan trọng của thuế nhập khẩu là do yêu cầu bảo hộ nền sản xuất
trong nước nhưng không thể áp dụng các biện pháp hành chính (hàng rào phi thuế
quan) thì thuế nhập khẩu là công cụ hữu hiệu nhất thực hiện được yêu cầu này.
- Hiện nay, do yêu cầu của nền kinh tế thị trường và xu thế hội nhập quốc tế,
nhà nước còn ban hành thêm thuế chống trợ cấp và thuế chống bán phá giá. Thực
chất đây là hai loại thuế bổ sung cho thuế nhập khẩu trong những trường hợp có căn
cứ cho rằng hàng hoá đó có trợ cấp của nhà nước hoặc có hành vi bán phá giá nhằm
mục đích cạnh tranh không lành mạnh.
1.1.2 Đặc điểm của thuế nhập khẩu:
9
Do thuế nhập khẩu có đặc điểm khác hơn so với các loại thuế khác trong hệ
thống thuế là việc sử dụng thuế nhập khẩu không những tác động đến nền kinh tế
mà còn ảnh hưởng trực tiếp đến quan hệ ngoại giao và chính sách đối xử với các
quốc gia khác. Thuế nhập khẩu có các đặc điểm cơ bản sau đây:
- Thuế nhập khẩu chỉ thu vào hàng hóa nhập khẩu mà không thu vào hàng
hóa sản xuất trong nước. Thuế nhập khẩu là loại thuế gián thu, Nhà nước sử dụng
thuế nhập khẩu để điều chỉnh hoạt động ngoại thương thông qua việc tác động vào
cơ cấu giá cả hàng hóa nhập khẩu. Việc tăng, giảm thuế suất nhập khẩu có tác động
trực tiếp đến cơ cấu giá cả hàng hóa và ảnh hưởng rất lớn đến người tiêu dùng trong
việc quyết định mua hàng hóa, các nhà nhập khẩu và sản xuất hàng hóa phải điều
chỉnh kế hoạch của mình cho phù hợp với sức mua của người dân.
- Thuế nhập khẩu gắn với hoạt động kinh tế đối ngoại của mỗi quốc gia trong
từng thời kỳ. Hoạt động ngoại thương giữ vai trò rất quan trọng đối với nền kinh tế
của mỗi quốc gia; hoạt động này đòi hỏi phải có sự giám sát, quản lý chặt chẽ của
Nhà nước thông qua chính sách pháp luật. Sự biến động của kinh tế thế giới, xu
hướng hội nhập kinh tế của mỗi quốc gia trong từng thời kỳ sẽ tác động trực tiếp
đến hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu.
- Thuế nhập khẩu chỉ do cơ quan Hải quan quản lý thu nhằm gắn công tác
quản lý thu thuế nhập khẩu với công tác quản lý nhà nước về hải quan đối với các
hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu.
1.1.3. Phân loại thuế nhập khẩu:
- Căn cứ vào mục đích của việc thu thuế:
Nếu căn cứ vào mục đích của việc thu thuế thì thuế nhập khẩu được chia
thành các loại sau:
+ Loại để tạo nguồn thu: Thuế nhập khẩu được quy định đối với tất cả các
mặt hàng để tạo lập nguồn thu cho Chính phủ, không phân biệt khả năng sản xuất,
nhu cầu bảo hộ và chính sách thương mại của quốc gia đó.
+ Loại để bảo hộ: Loại này thường được quy định có lựa chọn. Nếu trong
nước có sản xuất, có khả năng sản xuất nhưng chưa đủ sức cạnh tranh, cần sự bảo
10
hộ của nhà nước thì xây dựng mức thuế bảo hộ để hàng sản xuất trong nước đủ sức
cạnh tranh với hàng nhập khẩu.
+ Loại để trừng phạt: Loại thuế này thường được sử dụng để trả đũa lại
những hành vi phân biệt đối xử của một quốc gia này đối với hàng hóa của một
quốc gia khác.
- Căn cứ vào phạm vi tác dụng:
Nếu căn cứ vào phạm vi tác dụng thì thuế nhập khẩu có các loại sau:
+ Thuế nhập khẩu tự quản: là loại thuế thể hiện tính độc lập của một quốc gia
(quy định tùy ý theo mục tiêu của quốc gia mình mà không phụ thuộc vào bất kỳ
một Hiệp định song phương hoặc đa phương nào đã ký kết).
+ Thuế nhập khẩu theo các cam kết quốc tế: là loại thuế thực hiện theo các
cam kết trong các Hiệp định song phương hoặc đa phương đã ký kết.
- Căn cứ vào cách thức đánh thuế:
Nếu căn cứ vào cách thức đánh thuế thì thuế xuất nhập khẩu được phân chia
thành các loại:
+ Tính thuế đối với hàng hoá áp dụng thuế suất theo tỷ lệ phần trăm: Việc
xác định số tiền thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu phải nộp đối với hàng hoá áp
dụng thuế suất theo tỷ lệ phần trăm được căn cứ vào số lượng đơn vị từng mặt
hàng thực tế xuất khẩu, nhập khẩu ghi trong tờ khai hải quan, trị giá tính thuế, thuế
suất từng mặt hàng và được thực hiện theo công thức sau:
Số tiền thuế
xuất khẩu,
thuế nhập
khẩu phải nộp
Số lượng đơn vị từng mặt
=
hàng thực tế xuất khẩu,
nhập khẩu ghi trong tờ
khai hải quan
Trị giá tính
x
thuế tính trên
một đơn vị
Thuế
x
hàng hóa
suất của
từng mặt
hàng
+ Tính thuế đối với hàng hóa áp dụng thuế tuyệt đối, thuế hỗn hợp:
. Căn cứ tính thuế đối với hàng hoá áp dụng thuế tuyệt đối là: Số lượng đơn
vị từng mặt hàng thực tế xuất khẩu, nhập khẩu ghi trong tờ khai hải quan áp dụng
thuế tuyệt đối; mức thuế tuyệt đối quy định trên một đơn vị hàng hoá; và tỷ giá tính
11
thuế.
. Việc xác định số tiền thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu phải nộp theo mức
thuế tuyệt đối thực hiện theo công thức sau:
Số tiền thuế xuất
khẩu, thuế nhập
khẩu phải nộp
Số lượng đơn vị từng
=
mặt hàng thực tế xuất
khẩu, nhập khẩu ghi
theo mức thuế
trong tờ khai hải quan
tuyệt đối
áp dụng thuế tuyệt đối
Mức thuế tuyệt
x
đối quy định
trên một đơn vị
Tỷ
x
giá
tính
thuế
hàng hoá
. Căn cứ tính thuế đối với hàng hóa áp dụng thuế hỗn hợp là: Số lượng đơn vị
từng mặt hàng thực tế xuất khẩu, nhập khẩu ghi trong tờ khai hải quan áp dụng thuế
hỗn hợp; thuế suất theo tỷ lệ phần trăm và trị giá tính thuế của hàng hóa áp dụng
thuế hỗn hợp; mức thuế tuyệt đối của hàng hóa áp dụng thuế hỗn hợp và tỷ giá tính
thuế theo quy định của pháp luật.
. Việc xác định số tiền thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu phải nộp đối với hàng
hóa áp dụng thuế hỗn hợp thực hiện theo công thức sau:
Số tiền thuế xuất khẩu, thuế
nhập khẩu phải nộp đối với
Số tiền thuế tính theo
hàng hóa áp dụng thuế hỗn
quy định
hợp
=
Số tiền thuế tuyệt đối
phải nộp tính theo quy
+
định
+ Thuế tự vệ, thuế chống bán phá giá, thuế chống trợ cấp: Số lượng đơn vị
từng mặt hàng thực tế nhập khẩu ghi trong tờ khai hải quan áp dụng thuế tự vệ,
thuế chống bán phá giá, thuế chống trợ cấp. Trị giá tính thuế nhập khẩu của từng
mặt hàng nhập khẩu áp dụng thuế tự vệ, thuế chống bán phá giá, thuế chống trợ
cấp; mức thuế từng mặt hàng theo quy định của pháp luật. Phương pháp tính thuế
như sau:
12
Số lượng đơn vị từng
Số tiền thuế tự
vệ, thuế chống
bán phá giá
hoặc thuế
=
mặt hàng thực tế nhập
Giá
Thuế suất thuế
khẩu ghi trong tờ khai
tính
tự vệ, thuế
hải quan áp dụng thuế
chống trợ cấp
x
thuế
x
chống bán phá
tự vệ, thuế chống bán
nhập
giá hoặc thuế
phá giá hoặc thuế
khẩu
chống trợ cấp
phải nộp
chống trợ cấp
Tổng số tiền thuế nhập
Số tiền thuế tự
khẩu phải nộp cho hàng
hóa áp dụng thuế tự vệ,
vệ, thuế chống
Số tiền thuế phải nộp
=
thuế chống bán phá giá
hoặc thuế chống trợ cấp
tính theo quy định của
pháp luật
+
bán phá giá hoặc
thuế chống trợ
cấp phải nộp
1.2. Vai trò của thuế nhập khẩu:
Xét về chức năng, vai trò của thuế nhập khẩu đều có nét tương đồng với các
loại thuế gián thu khác. Tuy nhiên, sự xuất hiện của thuế nhập khẩu lại bắt nguồn từ
yêu cầu điều chỉnh sự vận động của hàng hóa giữa các quốc gia có chủ quyền, nó là
một bộ phận trong chính sách kinh tế đối ngoại của mỗi nước, nên thuế nhập khẩu
cũng có những nét riêng về mặt nội dung, vai trò, cũng như cách thức hành thu.
Thông qua việc quy định mức thuế suất cụ thể đối với hàng hóa nhập khẩu thể hiện
chính sách và mức độ bảo hộ sản xuất trong nước, cũng như chính sách đối xử giữa
các quốc gia, việc áp dụng xác định trị giá tính thuế đối với hàng hóa nhập khẩu
đảm bảo tính công bằng, minh bạch sẽ góp phần thúc đẩy phát triển thương mại
quốc tế. Trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế, thuế nhập khẩu còn có vai trò
quan trọng, cụ thể như sau:
1.2.1. Thuế nhập khẩu là nguồn thu quan trọng đối với ngân sách Nhà nước:
Nguồn thu ngân sách nhà nước được cấu thành từ các nguồn sau: thuế, phí,
lệ phí; trong đó thuế chiếm tỷ trọng lớn ảnh hưởng đến quy mô ngân sách. Trong cơ
cấu thuế, thuế nhập khẩu chiếm một phần quan trọng, thông qua thuế nhập khẩu
13
Nhà nước huy động một phần thu nhập được tạo ra từ hoạt động nhập khẩu hàng
hóa tập trung vào ngân sách Nhà nước. Khi thu thuế nhập khẩu ở mức cao vừa bảo
hộ sản xuất trong nước, vừa đóng góp nguồn thu đáng kể cho ngân sách Nhà nước.
Ngược lại, thu thuế nhập khẩu thấp, tức là khuyến khích nhập khẩu, nhìn bên ngoài
số thu đóng góp cho ngân sách thấp hoặc không đáng kể, nhưng xét trong tổng thể
quy trình sản xuất xã hội thì thu ngân sách sẽ tăng lên ở khâu tiêu thụ sản phẩm
thông qua các loại thuế như giá trị gia tăng, thuế thu nhập doanh nghiệp...
1.2.2. Bảo hộ và khuyến khích sản xuất trong nước:
Thuế nhập khẩu tác động trực tiếp vào đầu vào của quá trình sản xuất thông
qua việc đánh thuế trên hàng hóa nhập khẩu là máy móc, thiết bị, tư liệu sản xuất...
Ngoài chức năng quản lý, điều tiết vĩ mô nền kinh tế như các loại thuế gián thu
khác, thuế nhập khẩu có chức năng bảo hộ nền sản xuất trong nước thông qua việc
tác động vào giá cả của hàng hóa nhập khẩu trên thị trường.
Đối với những hàng hoá nhập khẩu mà trong nước đã sản xuất được hoặc
những mặt hàng cần bảo hộ, Nhà nước sẽ xây dựng mức thuế suất cao đối với loại
hàng hóa này nhằm mục đích hạn chế tiêu dùng trong nước đối với hàng hóa nhập
khẩu; đẩy mạnh hoạt động sản xuất trong nước tạo ra những hàng hóa tương tự, có
tính năng, công dụng như nhau nhưng giá thành sản phẩm thấp, chất lượng không
thua kém hàng hóa nhập khẩu. Nhà nước xây dựng mức thuế suất đối với bất kỳ loại
hàng hóa nhập khẩu nào đều dựa trên các cam kết đã thỏa thuận, tình hình sản xuất
kinh doanh của các doanh nghiệp trong nước, giá trị nguồn nguyên liệu đầu vào cho
sản xuất…Tuy nhiên, các doanh nghiệp trong nước phải tự chủ động đổi mới tư duy
trong quản lý, tự lập trong sản xuất, đặc biệt là chú trọng thay thế công nghệ mới,
cải tiến mẫu mã sản phẩm, nâng cao chất lượng sản phẩm… Nói chung, các doanh
nghiệp trong nước phải tự bảo vệ mình trên cơ sở lợi thế từ sự bảo hộ của Nhà nước
để có kế hoạch sản xuất kinh doanh mà thị trường và người tiêu dùng chấp nhận
nhằm mang lại hiệu quả cao nhất trong kinh doanh, góp phần tăng nguồn thu thuế
cho ngân sách nhà nước. Nếu các doanh nghiệp trong nước trông chờ vào sự bảo hộ
của Nhà nước thì sẽ gặp khó khăn trong sản xuất, trong tương lại sẽ bị diệt vong vì
14
hiện tại trong bối cảnh hội nhập kinh tế, các cam kết quốc tế về cắt giảm thuế nhập
khẩu được thực hiện thì vai trò bảo hộ của thuế nhập khẩu bị hạn chế. Vì vậy, để
phát huy tốt vai trò bảo hộ của thuế nhập khẩu đòi hỏi các doanh nghiệp trong nước
phải có sự lựa chọn những ngành nghề phù hợp với tình hình thực tiễn của đất nước,
đồng thời buộc các ngành được bảo hộ phải có chiến lược đầu tư đổi mới công
nghệ, cải tiến phương thức quản lý để nâng cao chất lượng sản phẩm, hạ giá thành,
chủ động trong cạnh tranh với hàng nhập khẩu khi phá bỏ rào cản thuế quan.
1.2.3. Kiểm soát và điều tiết hàng hóa nhập khẩu:
Khi mở cửa thị trường, có thể nói rằng vì mục tiêu lợi nhuận mà việc mua
bán hàng hóa, dịch vụ có thể diễn ra ở bất cứ nơi nào và bất kỳ loại hàng hóa gì. Có
những hàng hóa phục vụ nhu cầu cơ bản cho con người, có những hàng hóa, dich vụ
là tư liệu sản xuất để sản xuất sản phẩm là động lực trực tiếp nâng cao hiệu quả của
nền kinh tế... Thông qua việc kiểm tra và thu thuế đối với hàng hóa nhập khẩu để
nắm được thực trạng hàng hóa thuộc chủng loại gì, số lượng bao nhiêu, nhập khẩu
từ nước nào…Qua đó, Nhà nước kiểm soát được toàn bộ các loại hàng hóa nhập
khẩu, để có những điều chỉnh chính sách đối với hàng hóa kịp thời và phù hợp với
thực tiễn.
Để điều tiết hoạt động nhập khẩu hàng hóa, Nhà nước dùng các biện pháp
phi thuế quan như: hạn ngạch, giấy phép, cấp phép tự động…thì biện pháp sử dụng
công cụ thuế nhập khẩu được các nước sử dụng phổ biến. Thông qua công cụ thuế
nhập khẩu, Nhà nước thực hiện điều tiết hoạt động nhập khẩu như đối với một số
hàng hóa có thể khuyến khích hoặc hạn chế nhập khẩu do nhu cầu, tình hình sản
xuất trong nước…
1.2.4. Góp phần định hướng người tiêu dùng:
Thuế suất nhập khẩu cao hay thấp có tác dụng hạn chế hoặc kích thích tiêu
dùng. Do vậy, Nhà nước đánh thuế cũng là định hướng cho người tiêu dùng nên sử
dụng loại hàng hóa nào và không nên sử dụng loại hàng hóa nào. Đối với loại hàng
hóa trong nước sản xuất được và có chất lượng tương tự hàng hóa nhập khẩu, khi
Nhà nước tăng thuế suất nhập khẩu thì người tiêu dùng chuyển sang sử dụng hàng
15
hóa sản xuất trong nước. Ngược lại, nếu không tăng thuế suất nhập khẩu và trong
điều kiện nền sản xuất trong nước chưa có khả năng cạnh trong trong sản xuất và
kinh doanh thì hàng hóa sản xuất ra sẽ có giá thành cao, chất lượng kém nên người
tiêu dùng họ sẽ chuyển sang sử dụng hóa hóa nhập khẩu. Vì vậy, thuế suất nhập
khẩu cao hay thấp đều có tác động rất lớn đến người tiêu dùng trong việc định
hướng tiêu thụ sản phẩm.
1.2.5. Góp phần thực hiện chính sách đối ngoại của đất nước:
Ngoài các vai trò nêu trên, thuế nhập khẩu còn đóng góp vào quan hệ đối
ngoại của đất nước. Thuế nhập khẩu có thể đánh cao đối với các mặt hàng của các
nước có chính sách phân biệt quốc gia đối với đất nước mình hay cho một số nước
đã ký Hiệp định thương mại thuế quan. Nhà nước phân biệt khu vực thuế cho từng
nước đó có Hiệp định thương mại với nước mình đối với từng mặt hàng cụ thể, do
đó biểu thuế phân thành ba loại: thuế suất ưu đãi, thuế suất ưu đãi đặc biệt và thuế
suất thông thường.
1.3. Thất thu thuế nhập khẩu và sự cần thiết phải chống thất thu thuế nhập
khẩu.
1.3.1. Khái niệm về thất thu thuế nhập khẩu:
Thất thu thuế là một hiện tượng thực tế khách quan vốn có của bất kỳ hệ
thống thuế khoá nào. Nó phản ánh hai mặt của một vấn đề: lợi ích của Nhà nước và
lợi ích của doanh nghiệp (DN) (hay lợi ích cá nhân). Trên thực tế thì hai lợi ích này
thường mâu thuẫn nhau, Nhà nước luôn có khuynh hướng tăng nguồn thu từ thuế,
trong khi đó DN luôn mong muốn giảm số thuế phải nộp càng nhiều càng tốt. Nói
cách khác, ở đâu có thuế khoá thì ở đó có thất thu. Thất thu thuế biểu hiện, diễn
biến rất đa dạng và phức tạp, tùy theo điều kiện kinh tế - xã hội của một quốc gia,
song có thể khái quát hoá thành hai dạng: thất thu thực tế và thất thu tiềm năng.
Trong đó, thất thu thực tế, có nghĩa là có nhiều khoản thu được quy định rõ ràng
trong các luật thuế, song do nhiều nguyên nhân số tiền đó không được tập trung vào
ngân sách đúng quy định. Còn thất thu tiềm năng, bao hàm cả trường hợp “lách
thuế” có nguyên nhân từ kẽ hở của luật pháp hoặc sự buông lỏng quản lý, có nghĩa