Tải bản đầy đủ (.docx) (48 trang)

Đề cương ôn thi môn triết học chính trị học có đáp án

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (299.61 KB, 48 trang )

Chương I
CHỦ NGHĨA DUY VẬT BIỆN CHỨNG
I. Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy vật biện chứng
1. Sự đối lập giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm trong việc giải
quyết vấn đề cơ bản của triết học.
- Vấn đề cơ bản là gì?
Mọi khoa học đều phải giải quyết nhiều vấn đề khác nhau trong đó có một
vấn đề giữ vai trò nền tảng, xuất phát điểm để giải quyết các vấn đề khác trong một
lĩnh vực nhất định nó đợc gọi là vấn đề cơ bản.
- Vấn đề cơ bản của triết học:
Ăng ghen khẳng định: vấn đề cơ bản của mọi triết học, đặc biệt là triết học
hiện đại là vấn đề quan hệ giữa t duy và tồn tại – hay đó chính là mối quan hệ giữa
vật chất và ý thức.
=> Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức chính là nội dung vấn đề cơ bản của
triết học, gồm hai mặt:
+ Mặt thứ nhất; vật chất và ý thức cái nào có trớc, cái nào có sau, cái nào
quyết định cái nào?
+ Mặt thứ hai: con ngời có khả năng nhận thức đợc thế giới hay không?
Việc giải quyết vấn đề cơ bản của triết học nêu trên đã làm nảy sinh các
trờng phái triết học khác nhau trong lịch sử
* Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm
Cơ sở để phân biệt chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm triết học là việc
giải quyết vấn đề cơ bản của triết học, trớc hết là giải quyết mặt thứ nhất vấn đề cơ
bản của triết học.
- CNDV: vật chất là cái có trớc, ý thức là cái có sau; vật chất quyết định ý
thức; vật chất là tính thứ nhất, ý thức là tính thứ hai, ý thức chỉ là sự phản ánh thế
giới vật chất vào trong đầu óc con ngời.
- CNDT: ý thức là cái có trớc, vật chất là cái có sau; ý thức quyết định vật
chất; ý thức là tính thứ nhất, vật chất là tính thứ hai.
- Nhị nguyên luận: vật chất và ý thức cùng song song tồn tại, chúng độc lập
với nhau… (biến tớng của chủ nghĩa duy tâm)


Chủ nghĩa duy tâm đợc chia thành hai hình thức cơ bản:


+ CNDT khách quan: thừa nhận tinh thần khách quan (chúa, thợng đế, ý
niệm…) là cái tồn tại trớc và quyết định thế giới vật chất
+ CNDT chủ quan: thừa nhận ý thức của con ngời là có trớc, quyết định sự
tồn tại của các sự vật, hiện tợng – mọi sự vật chỉ là phức hợp của cảm giác.
=> CNDT gần gũi với tín ngỡng, tôn giáo, nó bắt nguồn từ việc xem xét
phiến diện, tuyệt đối hoá thậm chí là thần thánh hoá một đặc tính của quá trình
nhận thức và tách rời giữa lao động trí óc với lao động chân tay.
2. Chủ nghĩa duy vật biện chứng – hình thức phát triển cao nhất của
chủ nghĩa duy vật.
Chủ nghĩa duy vật đã trải qua ba hình thức phát triển:
- CNDV chất phác (cổ đại): mang tính trực quan, cảm tính, thừa nhận vật
chất có trớc và quyết định ý thức song đã đồng nhất vật chất với vật thể.
- CNDV siêu hình (thế kỷ XVI – XIX): chịu sự tác động mạnh mẽ của t duy
máy móc => nhìn nhận thế giới nh một cỗ máy khổng lồ mà mỗi bộ phận tạo nên
nó luôn ở trạng thái cô lập, tĩnh tại, tách rời nhau.
- CNDV biện chứng: do Mác và Ănghen sáng lập vào những năm 40 của thế
kỷ 19, Lênin phát triển vào đầu thế kỷ 20. Luụn nhìn nhận các sự vật hiện tợng của
thế giới thế giới trong sự tác động qua lại lẫn nhau, luôn vận động và phát triển
không ngừng.
+ Chủ nghĩa duy vật biện chứng đó thống nhất chủ nghĩa duy vật với phộp
biện chứng. Khụng chỉ duy vật trong lĩnh vực tự nhiờn mà cũn duy vật trong lĩnh
vực xó hội.
+ Chủ nghĩa duy vật biện chứng là phương pháp luận khoa học cho các hoạt
động nhận thức và cải tạo thực tiễn.
+ Phương pháp luận DVBC là phương pháp chung của các khoa học chuyên
ngành.
II. Quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng về vật chất và ý thức,

mối quan hệ giữa vật chất và ý thức.
1. Vật chất
Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được
đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác chúng ta chép lại, chụp lại,
phản ánh và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác.
Định nghĩa vật chất của Lênin gồm các nội dung cơ bản sau:


+ Vật chất với tư cách là phạm trù triết học là chỉ vật chất nói chung, vô hạn
và vô tận, không sinh ra và không mất đi khác biệt với các dạng tồn tại cụ thể của
vật chất có giới hạn, có sinh ra và chuyển hoá mà các khoa học cụ thể nghiên cứu.
Do đó không thể đồng nhất với vật thể như những quan niệm của các nhà duy vật
trong lịch sử.
+ Thuộc tính thực tại khách quan - vật chất là cái tồn tại khách quan, độc
lập với ý thức con người không phụ thuộc vào ý thức, đây là cơ sở để phân biệt vật
chất với những gì không phải vật chất (ý thức).
+ Vật chất được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác
chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh khi các dạng cụ thể của nó tác động trực tiếp
hay gián tiếp lên các giác quan của con người. Do đó con người chỉ có được cảm
giác khi có sự tác động của vật chất thông qua các sự vật, hiệt tượng cụ thể lên các
giác quan, con người không thể tự sinh ra cảm giác được. Cảm giác => tư duy => ý
thức của con người chỉ là sự phản ánh của vật chất, do vật chất quyết định.
Với nội dung cơ bản trên rút ra được những ý nghĩa sau:
+ Định nghĩa đã bác bỏ những quan niệm sai lầm của CN duy tâm và tôn
giáo về vật chất.
+ Định nghĩa đã khắc phục được những hạn chế của CN duy vật trước đó.
+ Giải quyết một cách triệt để vấn đề cơ bản của triết học trên lập trường
duy vật biện chứng.
+ Đem lại niềm tin cho con người trong hoạt động nhận thức và cải tạo thế
giới, định hướng cho các khoa học cụ thể trong việc đi sâu tìm hiểu về thế giới vật

chất nói chung và vật chất trong các lĩnh vực tự nhiên, xã hội loài người nói riêng.
b) Phương thức và hình thức tồn tại của vật chất.
* Vận động là phương thức tồn tại của vật chất
Quan điểm duy vật biện chứng: vận động không chỉ là sự thay đổi vị trí
trong không gian, theo nghĩa chung nhất vận động là mọi sự biến đổi nói chung
Ph.Ăngghen đã định nghĩa: “Vận động hiểu theo nghĩa chung nhất bao gồm
tất cả mọi sự thay đổi và mọi quá trình diễn ra trong vũ trụ, kể từ sự thay đổi vị trí
giản đơn cho đến tư duy”
- Nội dung của định nghĩa:
+ Vận động là một phương thức tồn tại của vật chất tức là mọi dạng vật chất
tồn tại bằng cách vận động, thông qua vận động mà biểu hiện sự tồn tại của mình.
+ Vận động là một thuộc tính cố hữu của vật chất, vật chất và vận động
không thể tách rời nhau, vận động là của vật chất và do vật chất.


+ Vận động của vật chất có nguồn gốc là tự thân vận động, do các yếu tố bên
trong sự vật. Ăngghen khẳng định: sự tác động qua lại lẫn nhau là nguyên nhân
cuối cùng làm cho vật chất vận động.
+ Vật chất là vô hạn, không sinh ra và không mất đi thì vận động cũng như
vậy.
- Các hình thức vận động cơ bản của vật chất:
Ăngghen đã chia sự vận động của vật chất thành 5 hình thức cơ bản sau:
+ Vận động cơ học: là sự thay đổi, dịch chuyển vị trí trong không gian
+ Vận động vật lý: là sự vận động tương tác của các phân tử, nguyên tử, các
hạt cơ bản, của các quá trình nhiệt và điện.
+ Vận động hoá học: là sự vận động của các quá trình hoá hợp phân giải các
chất (vô cơ, hữu cơ, các phản ứng hoá học)
+ Vận động sinh học: là sự biến đổi của các cơ thể sống, quá trình trao đổi
chất với môi trường bên ngoài (thực vật và sinh vật)
+ Vận động xã hội: là sự biến đổi, phát triển của các quá trình xã hội, sự

thay thế lẫn nhau của các chế độ xã hội, các hình thái kinh tế - xã hội.
- Những nguyên tắc quan hệ của các hình thức vận động:
+ Các hình thức vận động khác nhau về chất, từ vận động cơ học đến vận
động xã hội là sự khác nhau về trình độ của sự vận động, nó tương ứng với trình độ
kết cấu của vật chất.
+ Các hình thức vận động cao bao giời cũng được phát sinh từ hình thức vận
động thấp và bao hàm trong nó các hình thức vận động thấp hơn nhưng không
ngược lại => không thể quy giản các các hình thức vận động từ cao xuống thấp.
+ Các hình thức vận động được chuyển hoá cho nhau theo trình tự từ cơ học
-> vật lý -> hoá học -> sinh học -> xã hội và luôn được bảo toàn. Trong đó vận
động xã hội là hình thức vận động cao nhất.
+ Mỗi sự vật cụ thể có thể gắn với nhiều hình thức vận động khác nhau,
song bao giờ cũng có một hình thức vận động cơ bản, đặc trưng cho sự tồn tại của
sự vật.
=> Từ nội dung trên ta rút được ý nghĩa phương pháp luận: muốn nghiên
cứu sự vật, hiện tượng thì ta phải nghiên cứu nó trong vận động; cần thấy được các
hình thức vận động khác nhau về chất, về trình độ để tránh khuynh hướng sai lầm
trong nhận thức là quy hình thức vận động cao vào hình thức vận động thấp.


- Vận động và đứng im
Triết học Mác - Lênnin khẳng định: Vận động là tuyệt đối đứng im là tương
đối
+ Vận động là tuyệt đối: vì nó là phương thức tồn tại của vật chất, là thuộc
tính cố hữu của vật chất, vật chất và vận động đều vô cùng, vô tận, bất diệt. Các
hình thức vận động có thể chuyển hoá lẫn nhau còn vận động của vật chất nói
chung thì vĩnh viễn tồn tại cùng với sự tồn tại vĩnh viễn của vật chất.
+ Đứng im là tương đối: vì có đứng im thì mới có sự vật cụ thể, xác định, nó
có đặc điểm:
-> Xét trong từng quan hệ nhất định thì ta sẽ thấy đứng im chỉ là tương đối,

bởi vì trong quan hệ này nó là đứng im nhưng trong quan hệ khác thì nó lại đang
vận động
-> Mặt khác đứng im chỉ xảy ra với một hình thức vận động trong một quan
hệ và thời gian xác định chứ không phải với mọi hình thức vận động.
-> Đứng im là một trạng thái của vận động - là sự vận động trong thăng bằng
-> Sự đứng im - cân bằng tạm thời sẽ tạo thành sự vật, còn vận động nói
chung sẽ phá vỡ sự cân bằng làm cho tất cả đều biến đổi không ngừng.
c) Tính thống nhất của thế giới
Tính thống nhất vật chất của thế giới.
CNDV biện chứng trên cơ sở kế thừa những thành tựu của triết học và khoa
học trong lịch sử đã chứng minh rằng: bản chất của thế giới là vật chất, thế giới
thống nhất ở tính vật chất. Điều này được thể hiện ở những điểm cơ bản sau:
- Một là: chỉ có một thế giới duy nhất và thống nhất là thế giới vật chất, tồn tại
khách quan, có trước và độc lập với ý thức của con người.
- Hai là: mọi sự vật hiện tượng của thế giới đều có mối liên hệ thống nhất với
nhau, tất cả đều là dạng cụ thể của vật chất, là những kết cấu vật chất hoặc có
nguồn gốc vật chất, do vật chất sinh ra và cùng chịu chi phối bởi những quy luật
khách quan phổ biến của thế giới vật chất.
- Ba là: thế giới vật chất tồn tại vĩnh viễn, vô hạn và vô tận, không được sinh
ra và không bị mất đi, tất cả đều trong quá trình biến đổi, chuyển hoá lẫn nhau, là
nguồn gốc, nguyên nhân và kết quả của nhau.
Tính vật chất của thế giới đã được kiểm nghiệm bởi chính cuộc sống hiện thực
của con người và trở thành cơ sở cho cuộc sống và hoạt động của con người. Sự
phát triển của khoa học đã bác bỏ những quan điểm của triết học duy tâm và tôn
giáo về nguồn gốc, bản chất của thế giới, đồng thời tiếp tục chứng minh nguyên lý


về sự thống nhất vật chất của thế giới bằng những thành tựu mới trong các lĩnh
vực vật lý, hoá học, sinh học…
Xã hội loài người là cấp độ cao nhất của cấu tạo vật chất, là một bộ phận của

thế giới vật chất, có nền tảng tự nhiên có kết cấu và quy luật vận động khách quan
không phụ thuộc vào ý thức của con người, mặc dù nó là kết quả hoạt động của
con người.
=> Như vậy, bản chất thế giới là vật chất, thống nhất ở tính vật chất của nó, có
nguyên nhân tự nó, vĩnh hằng và vô tận.
2. ý thức
a) nguồn gốc của ý thức
- Nguồn gốc tự nhiên:
CNDVBC khẳng định ý thức là thuộc tính của một dạng vật chất có tổ chức
cao đó là bộ não người, hay nói cách khác bộ não người là cơ quan vật chất của ý
thức, ý thức là sản phẩm do quá trình hoạt động của bộ não người sinh ra. ý thức
luôn phụ thuộc vào hoạt động của bộ não người, không thể tách rời ý thức khỏi
hoạt động của bộ não người.
Tại sao bộ não người lại sinh ra ý thức?
Chính thế giới khách quan và bộ não người trong mối liện hệ với nhau đã hình
thành nên quá trình phản ánh thế giới vật chất vào trong bộ não người.
Phản ánh là một thuộc tính của mọi dạng vật chất, đó là sự tái tạo, lưu giữ
những đặc điểm của các hệ thống vật chất khi chúng tác động qua lại với nhau.
Quá trình tiến hoá của thế giới vật chất cho thấy các dạng vật chất càng có kết
cấu ở bậc cao thì hình thức phản ánh càng phức tạp và đạt trình độ cao.
+ Hình thức phản ánh đơn giản nhất là phản ánh vật lý, hoá học của các dạng
vật chất ở trình độ thấp, chưa có sự lựa chọn hoàn toàn thụ động.
+ Hình thức phản ánh sinh học là đặc trưng cho giới tự nhiên hữu cơ (thực vật
và động vật): ở thực vật phản ánh mang tính kích thích; ở động vật chưa có hệ
thần kinh mang tính cảm ứng, ở động vật có hệ thần kinh thì mang tính phản xạ,
cao hơn nữa (có hệ thần kinh trung ương) là tâm lý.
+ Phản ánh năng động, sáng tạo là hình thức phản ánh cao nhất được thực
hiện bới dạng vật chất phát triển cao nhất – bộ óc người. Con người là động vật cao
nhất trong sự tiến hoá của giới tự nhiên, do đó chỉ duy nhất ở con người mới có ý
thức - hình thức cao nhất của sự phản ánh thế giới vật chất.

=> Như vậy nguồn gốc tự nhiên của ý thức là sự tương tác giữa bộ não người
với thế giới khách quan


- Nguồn gốc xã hội:
+ Lao động: lao động là hoạt động đặc trưng riêng có của con người nhằm cải
tạo thế giới tự nhiên làm ra của cải vật chât đáp ứng nhu cầu tồn tại và phát triển
của con người.
Vai trò của lao động trong việc hình thành ý thức:
-> Lao động làm cho con người tách khỏi giới động vật (con người thay đổi,
hoàn thiện bản thân, làm chủ giới tự nhiên...)
-> Trong lao động xuất hiện nhu cầu tìm hiểu giới tự nhiên - cần phải phản
ánh, nhận thức về thế giới.
-> Nhờ lao động con người tác động vào giới tự nhiên bắt nó dần bộc lộ
những thuộc tính, quy luật... tác động vào bộ não người và được tiếp nhận để hình
thành nên tri thức về tự nhiên, xã hội và chính bản thân con người.
=> Như vậy ý thức được hình thành do hoạt động cải tạo thế giới khách quan
của con người, do đó lao động là nguồn gốc cơ bản và trực tiếp nhất cho sự ra
đời của ý thức.
+ Ngôn ngữ: lao động của con người luôn mang tính tập thể, tính xã hội (có sự
liên kết, quan hệ của nhiều người) trong lao động con người có nhu cầu trao đổi
thông tin, kinh nghiệm với nhau => ngôn ngữ ra đời để đáp ứng nhu cầu đó. Ngôn
ngữ là hệ thống tín hiệu vật chất mang nội dung ý thức, không có ngôn ngữ thì ý
thức không biểu hiện được sự tồn tại của nó ra bên ngoài.
Ngôn ngữ là công cụ của tư duy, ý thức được hình thành và phát triển gắn liền
với quá trình lao động xã hội.
=> Như vậy nguồn gốc xã hội của ý thức là lao động và ngôn ngữ, đây là
nguồn gốc giữ vai trò quyết định cho sự ra đời của ý thức.
b) Bản chất và kết cấu của ý thức.
* Bản chất của ý thức.

Khái niệm: ý thức là sự phản ánh hiện thực khách quan vào bộ óc con người
một cách năng động và sáng tạo.
- Con người là một thực thể TN - XH luôn có tính năng động và sáng tạo
cho nên ý thức của con ngời cũng mang tính năng động, sáng tạo lại hiện thực
theo nhu cầu của thực tiễn xã hội.
+ Tính năng động: phản ánh kịp thời những gì cần cho sự tồn tại và phát
triển cho con người và xã hội.


+ Tính sáng tạo: từ những cái đã có, đã biết con người có khả năng tiên
đoán, tưởng tượng và dự báo những cái sẽ có trong tương lai (những ảo tưởng,
huyền thoại, giả thuyết, lý thuyết khoa học...)
=> Bản chất của ý thức chính là ở quá trình phản ánh mang tính năng động,
sáng tạo của nó đối với thế giới vật chất, được thống nhất ở ba mặt sau:
-> Một là: sự trao đổi thông tin giữa chủ thể và đối tượng phản ánh luôn
mang tính chất hai chiều, có định hướng, có chọn lọc.
-> Hai là: mô hình hoá đối tượng trong tư duy dưới dạng hình ảnh tinh thần
- cái phi vật chất
-> Ba là: Chuyển mô hình trong tư duy ra hiện thực khách quan - hiện thực
hoá tư tưởng thông qua các yếu tố vật chất và hoạt động thực tiễn. Song không
phải mọi mô hình trong tư duy đều có thể được hiện thực hoá, mà chỉ có những gì
phù hợp với hiện thực khách quan, xuất phát từ hiện thực khách quan mới được
hiện thực hoá.
Chú ý: sự sáng tạo của ý thức không có nghĩa là ý thức sinh ra vật chất, sáng
tạo ở đây là nằm trong khuôn khổ của sự phản ánh mà kết quả bao giờ cũng tồn tại
dưới dạng tinh thần.
- ý thức là hình ảnh chủ quan của thé giới khách quan
- ý thức là một hiện tượng xã hội và mang bản chất xã hội bởi vì quá trình
phản ánh sáng tạo luôn gắn liền với hoạt động của con người, do các quy luật xã
hội, các điều kiện sinh hoạt của con người quy định.

* Kết cấu của ý thức.
Xét theo các yếu tố cơ bản hợp thành, ý thức gồm ba yếu tố:
+ Tri thức: là kết quả của nhận thức, là những hiểu biết của con người, là sự
phản ánh lại đối tượng dưới các dạng ngôn ngữ khác nhau.
+ Tỡnh cảm: là sự rung động, cảm động của con người trong các mối quan
hệ và với chính bản thân mỡnh.
+ í chớ: là khả năng tập hợp, huy động sức mạnh của bản thân để thực hiện
những mục đích của con người.

3. Mối quan hệ gữa vật chất và ý thức.
a) Vai trò của vật chất đối với ý thức
- Chủ nghĩa duy vật biện chứng: vật chất có trước, sinh ra và quyết định ý
thức đồng thời ý thức có sự tác động ngược trở lại đối với vật chất vì ý thức có tính
độc lập tương đối.


+ Vật chất quyết định ý thức đó là:
-> Vật chất là cơ sở, tiền đề cho sự ra đời, tồn tại và phát triển của ý thức
-> Vật chất quyết định nội dung và khuynh hướng phát triển của ý thức.
-> Điều kiện vật chất như thế nào thì ý thức sẽ như thế đó.
-> Vật chất còn là điều kiện, môi trường để hiện thực hoá ý thức.
b) Vai trò của ý thức đối với vật chất:
-> ý thức giúp con người có được những tri thức đúng đắn, trên cơ sở đó có
phương hướng, kế hoạch, mục tiêu trong hoạt động nhằm cải tạo thực tiễn.
-> ý thức giúp cho con người xác định được vị trí của mình trong thế giới,
thông qua hoạt động cải tạo thực tiễn đồng thời cải tạo luôn cả bản thân mình.
-> ý thức giúp cho con người có đủ sức mạnh để hiện thực hoá những mục
tiêu trong cuộc sống.
Chú ý: sự tác động trở lại của ý thức đối với vật chất diễn ra theo hai hướng:
tích cực và tiêu cực. Điều này phụ thuộc vào nhận thức, tri thức tình cảm, nghị lực,

ý chí của con người đúng đắn, khoa học và cách mạng hay ngược lại.
4. ý nghĩa phương pháp luận của mối quan hệ giữa vật chất và ý thức
- Nguyên tắc được rút ra: Con ngời phải luôn xuất phát từ thực tế khách
quan, tôn trọng khách quan để suy nghĩ và hành động, đồng thời phát huy tính
năng động, sáng tạo của ý thức chủ quan.
+ Xuất phát từ thực tế khách quan, tôn trọng khách quan thực chất là tuân
theo những quy luật của thế giới khách quan, chống lại bệnh chủ quan, duy ý chí.
+ Phát huy tính năng động chủ quan là phát huy vai trò tích cực, năng động,
sáng tạo của ý thức chống lại bệnh bảo thủ, trì trệ, tự ti trong hoạt động
* Kết luận

Chương II: phép biện chứng duy vật
II. Các nguyên lý cơ bản của phép biện chứng duy vật
1. Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến
a) Khái niệm về mối liên hệ phổ biến


- Mối liên hệ: dùng để chỉ sự quy định, sự tác động và chuyển hoá lẫn nhau
giữa các sự vật, hiện tượng hay giữa các mặt, các yếu tố của mỗi sự vật hiện tượng
trong thế giới
- Mối liên hệ phổ biến: dùng để chỉ tính phổ biến của các mối liên hệ của các
sự vật hiện tượng của thế giới trong đó những mối liện hệ phổ biến nhất là những
mối liện hệ tồn tại ở mọi sự vật hiện tượng của thế giới (đối tượng nghiên cứu của
phép biện chứng)
- VD: mối liên hệ giữa: các mặt đối lập, lượng và chất, khẳng định và phủ
định, cái chung và cái riêng, bản chất và hiện tượng ....
=> Như vậy giữa các sự vật hiện tượng của thế giới vừa tồn tại những mối
liên hệ đặc thù vừa tồn tại những mối liện hệ phổ biến ở những phạm vi nhất định,
đồng thời cũng tồn tại những mối liên hệ phổ biến nhất trong đó những mối liên hệ
đặc thù là sự thể hiện những mối liên hệ phổ biến trong những điều kiện nhất định

=> tạo nên tính thống nhất trong tính đa dạng và ngược lại tính đa dạng trong
tính thống nhất của các mối liên hệ trong tự nhiên xã hội và cả tư duy
b) Các tính chất của mối liên hệ:
- Tính khách quan: mối liên hệ của sự vật hiện tượng luôn nằm ngoài và
không phụ thuộc vào ý thức, ý muốn của con người, con người có nhận biết được
hay không thì nó vẫn diễn ra. Con người cũng như tất cả các sự vật hiện tượng
khác trong thế giới khách quan luôn chịu sự tác động, liên hệ phổ biến.
- Tính phổ biến: mối liên hệ diễn ra ở mọi sự vật hiện tượng, trong mọi
không gian, thời gian. Nó diễn ra giữa các sự vật hiện tượng và ngay giữa các yếu
tố cấu thành nên một sự vật hiện tượng.
- Tính đa dạng, phong phú: mối liên hệ của thế giới các sự vật hiện tượng
được phân chia thành nhiều cặp khác nhau, mỗi cặp mối liên hệ có vai trò khác
nhau trong sự tồn tại và phát triển của sự vật hiện tượng:
+ Mối liên hệ bên trong và bên ngoài
+ Mối liên hệ chủ yếu và thứ yếu
+ Mối liên hệ cơ bản và không cơ bản
+ Mối liên hệ chung và riêng…
Trong cùng một sự vật cũng luôn tồn tại nhiều mối liên hệ khác nhau, mỗi
loại có vai trò khác nhau đối với quá trình tồn tại, vận động và phát triển của sự
vật. Song các cặp mối liên hệ này cũng có quan hệ biện chứng với nhau, có thể
chuyển hoá được cho nhau và trong điều kiện, hoàn cảnh xác định sẽ luôn có một


cặp mối liên hệ giữ vai trò quyết định. Mặt khác sự phân chia này chỉ mang tính
chất tương đối.
c) ý nghĩa phương pháp luận
- Từ tính khách quan và phổ biến của các mối liên hệ đã cho thấy trong hoạt
động nhận thức và hoạt động thực tiễn cần có quan điểm toàn diện. Quan điểm
toàn diện đòi hỏi nhận thức sự vật trong mối liên hệ qua lại giữa các bộ phận giữa
các yếu tố giữa các mặt của chính sự vật và trong sự tác động qua lại sự vật đó với

sự vật khác kể cả mối liên hệ trực tiếp và mối liên hệ gián tiếp chỉ trên cơ sở đó
mới hiểu đúng sự vật
Phân biệt từng mối liên hệ, phải biết chú ý tới mối liên hệ bên trong mối liên
hệ, phải biết chú ý tới mối liên hệ bên trong, mối liên hệ bản chất, các mối liên hệ
chủ yếu, mối liên hệ tất nhiên,...
- Từ tính chất đa dạng, phong phú của các mối liên hệ da cho thấy trong hoạt
động nhận thức và thực tiễn khi thực hiện quan điểm toàn diện thì đồng thời cũng
phải kết hợp với quan điểm lịch sử - cụ thể: Khi nhận thức về sự vật và tác động
vào sự vật phải chú ý điều kiện hoàn cảnh lịch sử cụ thể môi trường cụ thể trong đó
sự vật sinh ra tồn tại và phát triển
2. Nguyên lý về sự phát triển
a) Khái niệm phát triển.
- Quan điểm siêu hình: Sự phát triển chỉ là sự tăng lên hay giảm đi đơn
thuần về mặt lượng không có sự thay đổi về chất.
+ Coi tất cả vật chất của sự vật không có gì thay đổi trong quá trình tồn tại
của chúng.
+ Sự vật ra đời với chất như thế nào thì toàn bộ quá trình tồn tại nó giữ
nguyên không có sự thay đổi về chất, có chăng thì theo một vòng tròn khép kín.
+ Coi sự phát triển chỉ là sự thay đổi về mặt lượng của từng loại sự vật mà
chúng đang có, chứ không sinh thành ra cái mới với chất mới.
KL: Xem xét sự vật là một quá trình tiến lên liên tục, không có những bước
quanh co thăng trầm, phức tạp.
- Chủ nghĩa duy vật biện chứng: Xem xét sự phát triển là một quá trình tiến
lên từ thấp đến cao, quá trình đó diễn ra vừa dần dần vừa nhảy vọt, đưa tới sự ra
đời cái cũ thay thế cái mới.
+ Trong hiện thực khách quan hay trong tư duy, sự phát triển diễn ra không
phải lúc nào cũng theo đường thẳng, mà rất quanh co phức tạp, thậm trí có cả
những bước thụt lùi tạm thời.



+ Sự phát triển là quá trình thay đổi dần dần về lượng dẫn đến sự thay đổi về
chất, là quá trình diễn ra theo đường xoáy ốc. Sự vật trong quá trình phát triển
dường như sự vật ấy quay trở về điểm khởi đầu song trên cơ sở mới cao hơn.
Định nghĩa sự phát triển: là một phạm trù triết học dùng để chỉ khái quát
quá trình vận động tiến lên từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp từ kém
hoàn thiện đến hoàn thiện hơn.
- Phân biệt vận động và phát triển:
+ Sự phát triển không bao bao quát toàn bộ sự vận động nói chung. Nó khái
quát xu hướng chung của sự vận động – xu hướng vận động đi lên của các sự vật,
sự vật mới ra đời thay thế sự vật cũ.
+ Sự phát triển đi lên là một trường hợp đặc biệt của vận động
+ Quá trình phát triển của mình trong sự vật sẽ được hình thành dần dần
những quy định mới cao hơn về chất, sẽ làm thay đổi mối quan hệ, cơ cấu phức
tạp, phương thức tồn tại vận động, chức năng vốn có theo chiều hướng ngày càng
hoàn thiện hơn
+ Sự phát triển thể hiện rất khác nhau trong hiện thực tùy theo hình thức tồn
tại cụ thể của dạng vật chất
+ Sự phát triển trong đó sự vật mới ra đời thay thế sự vật mới ra đời thay thế
sự vật cũ và hiện tượng diễn ra không ngừng trong tự nhiên, xã hội, trong bản thân
con người trong tư duy. Nếu xem xét từng trường hợp cá biệt thì có những vận
động đi lên, vận dộng tuần hoàn, thậm trí có những vận động đi xuống. Song xem
xét cả quá trình vận động với không gian và thời gian dài thì vận động đi lên là
khuynh hướng chung của mọi sự vật.
b) Tính chất của sự phát triển:
* Tính khách quan
- Nguồn gốc sự phát triển nằm trong bản thân sự vật – quá trình giải quyết
liên tục các mâu thuẫn trong sự tồn tại vận động và phát triển
Sự phát triển là tiến trình khách quan không phụ thuộc vào ý muốn, nguyện
vọng, ý chí ý thức của con người. Dù con người có muốn hay không muốn, sự vật
vẫn luân phát triển theo khuynh hướng chung của thế giới vật chất

* Tính phổ biến
Diễn ra trên mọi lĩnh vực tự nhiên,xã hội, tư duy, bất cứ sự vật hiện tượng
nào trong thế giới khách quan
* Tính đa dạng


Khuynh hướng phát triển là khuynh hướng chung của mọi sự vật, mọi hiện
tượng. Song mỗi sự vật hiện tượng có quá trình phát triển không giống nhau. Trong
không gian khác nhau, sự vật phát triển sẽ khác nhau. Đồng thời trong sự phát triển
của mình, sự vật còn chịu sự tác động của các sự vật hiện tượng khác của rất nhiều
yếu tố điều kiện. Sự tác động đó có thể tác động hoặc kìm hãm sự phát triển của sự
vật, đôi khi còn có thể làm thay đổi chiều hướng phát triển của sự vật thậm trí làm
cho sự vật thụt lùi
c) ý nghĩa phương pháp luận
- Nguyên lý về sự phát triển là cơ sở lý luận khoa học để định hướng việc
nhận thức thế giới và cải tạo thế giới.
+ Theo nguyên lý này trong nhận thức và thực thực tiễn cần phải có quan
điểm phát triển:Không chỉ nắm bắt những cái hiện đang tồn tại ở sự vật, mà còn
phải thấy rõ khuynh hướng phát triển trong tương lai của chúng phải thấy được
những biến đổi đi lên cũng như những biến đổi có tính chất thụt lùi. Song cơ bản là
phải khái quát những biến đổi để vạch ra khuynh hướng biến đổi chính của sự vật
+ Quan điểm này góp phần khắc phục tư tưởng bảo thủ trì trệ, định kiến
trong hoạt động nhận thức và trong hoạt động thực tiễn
+ Đồng thời phải có quan điểm lịch sử, cụ thể trong nhận thức và giải quyết
các vấn đề trong thực tiễn
IV. Các quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật
1. Quy luật chuyển hóa từ những sự thay đổi về lượng thành những sự
thay đổi về chất và ngược lại
a) Khái niệm về chất và lượng
Trong bất kỳ sự vật hiện tượng nào cũng có mặt chất và mặt lượng, hai mặt

này thống nhất biện chứng với nhau trong một sự vật và làm nên sự vật ấy.
Khái niệm về chất
Chất là phạm trù tiết học dùng để chỉ tính quy định khách quan vốn có của
sự vật, là sự thống nhất hữu cơ của những thuộc tính làm cho sự vật là nó chứ
không phải là cái khác.
=> Các sự vật hiện tượng khác nhau là do sự khác nhau về chất – chất là
cơ sở phân biệt sự khác nhau giữa các sự vật.
(Phân biệt mặt chất với chất liệu, chất lượng, bản chất)
- Chất của sự vật luôn được biểu hiện qua thuộc tính của nó


Thuộc tính của sự vật là những tính chất, những trạng thái, những yếu tố
cấu thành sự vật, là những cái vốn có của sự vật đó từ khi được sinh ra hoặc được
hình thành trong sự vận động và phát triển của nó.
VD: tính dẫn điện, dẫn nhiệt, dát mỏng, kéo dài thành sợi là tính chất (thuộc
tính) của hầu hết các loại kim loại.
+ Thuộc tính của sự vật được bộc lộ qua sự tác động với sự vật khác.
+ Mỗi sự vật luôn có nhiều thuộc tính khác nhau, mỗi thuộc tính lại biểu
hiện một chất của sự vật do vậy mỗi sự vật có nhiều chất. Song không phải bất kỳ
thuộc tính nào cũng biểu hiện chất của sự vật mà chỉ có thuộc tính cơ bản mới tạo
thành chất mà thôi.
+ Những thuộc tính cơ bản được tổng hợp lại tạo thành chất của sự vật,
chúng quy định sự tồn tại, vận động và phát triển của sự vật, do đó chỉ khi nào
chúng mất đi hoặc thay đổi thì sự vật mới thay đổi hay mất đi.
=> Sự phân chia thuộc tính thành thuộc tính cơ bản và không cơ bản chỉ
mang tính chất tương đối, tuỳ theo từng quan hệ, mối liên hệ khác nhau.
- Chất của sự vật còn được quy định bởi kết cấu của các yếu tố tạo thành sự
vật:
+ Mỗi sự vật luôn là thể thống nhất do các yếu tố, các mặt khác nhau kết hợp
lại mà thành.

+ Do đó sự kết hợp (phương thức liên kết) khác nhau giữa các yếu tố như
nhau cũng sẽ tạo thành những chất khác nhau của các sự vật
VD: Kim cương và than chì đều có cùng thành phần hoá học là nguyên tố
các bon, nhưng do phương thức liên kết giữa các nguyên tử các bon khác nhau =>
chất khác nhau….
Khái niệm về lượng
Lượng là phạm trù triết học dùng để chỉ tính quy định vốn có của sự vật về
mặt số lượng, quy mô, trình độ, nhịp điệu của sự vận động và phát triển cũng như
các thuộc tính của sự vật – là cái vốn có của sự vật, quy định sự vật.
- Lượng thường được xác định bằng những đơn vị đo lường cụ thể và xác
định (định lượng) biểu thị về kích thước, số lượng, quy mô, trình độ… của sự vật
+ Biểu thị kích thước: dài hay ngắn, cao hay thấp…
+ Biểu thị số lượng: nhiều hay ít, đầy hay vơi…
+ Biểu thị quy mô: lớn hay nhỏ…
+ Biểu thị trình độ: cao hay thấp…


- Lượng của sự vật còn được biểu thị dưới dạng trừu tượng và khái quát
(định tính) như: trình độ nhận thức tri thức khoa học của một người, ý thức trách
nhiệm của một công dân…
- Trong những mối quan hệ khác nhau thì lượng còn biểu thị yếu tố quy định
kết cấu bên trong sự vật hoặc biểu thị yếu tố quy định bên ngoài của sự vật.
Sự phân biệt giữa chất và lượng chỉ mang tính chất tương đối, phụ thuộc
vào mối quan hệ cụ thể xác định
VD: Số lượng sinh viên giỏi nhất định của một lớp sẽ nói lên chất lượng học
tập của lớp đó. Điều này cũng có nghĩa là dù số lượng cụ thể quy định thuần thúy
về mặt lượng, song số lượng ấy cũng quy định về mặt chất của sự vật.
b) Mối quan hệ biện chứng giữa chất và lượng
Trong sự vật lượng và chất luôn có sự thay đổi cùng với sự vận động và phát
triển của sự vật. Sự thay đổi đó luôn có mối quan hệ chặt chẽ với nhau chứ không

tách rời nhau, ở đó sự thay đổi của lượng sẽ làm thay đổi về chất của sự vật và
ngược lại.
Song không phải mọi sự thay đổi bất kỳ nào của lượng cũng dẫn đến sự thay
đổi về chất, mà trong một giới hạn nhất định sự thay đổi của lượng vãn chưa làm
thay đổi được về chất của sự vật – giới hạn đó được gọi là độ
Độ là một phạm trù triết học dùng để chỉ nó là khoảng giới hạn mà trong
đó, sự thay đổi về lượng chưa làm thay đổi căn bản về chất của sự vật.
=> Trong giới hạn của độ, lượng và chất của sự vật có sự thống nhất
VD: nước nguyên chất dưới áp suất bình thường của không khí.
thể rắn

thể lỏng

thể hơi

0°C

100°C

Trong ví dụ trên độ chính là khoảng nhiệt độ từ > 0°C đến < 100°C, còn tại
điểm giới hạn 0°C và 100°C được gọi là điểm nút, tại điểm đó sự thay đổi của
lượng đã đủ để dẫn đến sự thay đổi về chất.
Điểm nút là phạm trù triết học dùng đề chỉ thời điểm mà tại đó sự thay đổi
về lượng đã đủ làm thay đổi về chất của sự vật.
=> Khi lượng đã tích luỹ đến điểm nút sẽ làm cho chất mới ra đời tương ứng với
lượng mới, đồng thời sự vật sẽ chuyển sang một trạng thái hoàn toàn mới, sự thay
đổi đó được gọi là bước nhảy.


Bước nhảy là một phạm trù triết học dùng để chỉ sự chuyển hóa về chất của

sự vật do sự thay đổi về lượng trước đó gây nên
Bước nhảy là sự kết thúc một giai đoạn phát triển của sự vật đồng thời là
điểm khởi đầu của một giai đoạn phát triển mới => sự gián đoạn trong quá trình
phát triển liên tục.
Như vậy, sự phát triển của bất kỳ sự vật nào cũng bắt đầu từ sự tích luỹ về
lượng trong độ nhất định cho tới điểm nút để thực hiện bước nhảy về chất. Song
điểm nút không phải là cố định mà có thể thay đổi do tác động của những điều kiện
khách quan và chủ quan quy định.
Chất mới ra đời sẽ có tác động trở lại lượng của sự vật, làm thay đổi kết cấu,
quy mô, nhịp điệu… của sự vận động và phát triển của sự vật.
Các hình thức của bước nhảy
Các sự vật, hiện tượng có kết cấu khác nhau, chịu những yếu tố quy định
không hoàn toàn giống nhau, do vậy bước nhảy để chuyển hoá về chất của các sự
vật rất đa dạng, phong phú tuỳ theo từng điều kiện cụ thể, có thể phân chia thành
các hình thức sau:
+ Bước nhảy đột biến: được thực hiện trong thời gian ngắn đã làm thay đổi
chất của toàn bộ kết cấu cơ bản của sự vật.
+ Bước nhảy dần dần: được thực hiện từ từ, từng bước bằng cách tích luỹ
dần những yếu tố của chất mới, đây là một quá trình phức tạp, trong đó có cả sự
tuần tự lẫn những bước nhảy diễn ra ở từng bộ phận của sự vật ấy. (khác với sự
tích luỹ dần về lượng)
Căn cứ vào quy mô thực hiện bước nhảy của sự vật có bước nhảy toàn bộ và
có bước nhảy cụ bộ
+ Bước nhảy toàn bộ là bước nhảy làm thay đổi chất của toàn bộ các mặt các
yếu tố cấu thành sự vật.
+ Bước nhảy cục bộ là bước nhảy làm thay đổi chất của những mặt những
yếu tố riêng lẻ
Trong hiện thực, các sự vật chỉ có được bước nhảy toàn bộ thông qua việc
thực hiện bước nhảy cục bộ.
Khi xem xét sự thay đổi về chất của xã hội có thể phân chia thành sự thay

đổi có tính cách mạng và thay đổi có tích tiến hoá.
Khái quát nội dung quy luật
Mọi sự vật đều là sự thống nhất giữa lượng và chất, sự thay đổi dần dần về
lượng trong khuôn khổ của độ tới điểm nút sẽ dẫn đến sự thay đổi về chất của sự


vật thông qua bước nhảy; chất mới ra đời tác động trở lại sự thay đổi của lượng
mới. Quá trình tác động đó diễn ra liên tục làm cho sự vật không ngừng phát triển,
biến đổi.
c) ý nghĩa phương pháp luận
- Trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn chúng ta phải biết từng
bước tích lũy về lượng để dẫn đến sự thay đổi về chất, điều này giúp chúng ta tránh
được tư tưởng chủ quan, duy ý chí, nôn nóng, đốt cháy giai đoạn…
- Con người có khả năng nhận thức và vận dụng được quy luật cho nên khi
đã tích luỹ đủ về lượng thì cần có quyết tâm để tiến hành bước nhảy một cách kịp
thời để có được sự thay đổi về chất, như vậy chúng ta sẽ khắc phục được tư tưởng
trì trệ, bảo thủ…
- Quá trình thực hiện sự thay đổi về chất cần được vận dụng một cách linh
hoạt các bước nhảy khác nhau theo từng điều kiện cụ thể.
- Trong hoạt động thực tiễn con người cần phải biết cách tác động vào
phương thức liên kết giữa các yếu tố tạo thành sự vật để có được sự thay đổi về
chất cho phù hợp.
2. Quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập
a) Khái niệm mâu thuẫn, và các tính chất chung của mâu thuẫn
Mọi sự vật hiện tượng đều chứa đựng những mặt trái ngược nhau và được
gọi là mặt đối lập.
- Mặt đối lập: là những mặt có những đặc điểm, những thuộc tính, những
tính quy định có khuynh hướng biến đổi trái ngược nhau tồn tại một cách khách
quan trong tự nhiên, xã hội và tư duy.
Các mặt đối lập luôn có sự tác động qua lại lẫn nhau tạo thành mâu thuẫn

- Mâu thuẫn: dùng để chỉ mối liên hệ thống nhất, đấu tranh và chuyển hoá
giữa các mặt đối lập của mỗi sự vật hiện tượng hoặc giữa các sự vật, hiện tượng
với nhau
- Các tính chất chung của mâu thuẫn
+ Tính khách quan
+ Tính phổ biến
+ Tính đa dạng phong phú
b) Quá trình vận động của mâu thuẫn.


Trong mỗi mâu thuẫn, các mặt đối lập vừa thống nhất với nhau, vừa đấu
tranh với
- Sự thống nhất của các mặt đối lập là sự nương tựa vào nhau, không tách rời
nhau, đòi hỏi có nhau, mặt đối lập này lấy mặt đối lập kia làm tiền đề. Các mặt đối
lập thống nhất với nhau vì giữa chúng có những điểm giống nhau được gọi là sự
đồng nhất của các mặt đối lập. Đặc điểm này được biểu hiện:
+ Các mặt đối lập cùng nằm trong một sự vật hiện tượng hay một quá trình
do đó chúng có cùng một chất, cùng chịu những tác động của các quy luật =>
chúng có thể chuyển hoá cho nhau.
+ Các mặt đối lập có sự tác động ngang nhau trong quá trình tồng tại của
sự vật hiện tượng khi nó chưa chuyển thành cái khác.
- Sự đấu tranh của các mặt đối lập là sự tác động qua lại theo xu hướng bài
trừ và phủ định lẫn nhau. Kết quả của đấu tranh là sự chuyển hoá của các mặt đối
lập – tức là sự biến đổi của chúng sang trạng thái khác.
+ Mặt đối lập này chuyển thành mặt đối lập kia
+ Cả hai mặt đối lập cùng chuyển thành một mặt đối lập mới.
+ Một trong hai mặt đối lập mất đi, mặt đối lập còn lại chuyển hoá thành
một mặt đối lập khác
=> Hình thức đấu tranh và chuyển hoá của các mặt đối lập rất đa dạng,
phong phú, tuỳ thuộc vào điều kiện hoàn cảnh cụ thể.

- Mâu thuẫn biện chứng luôn bao hàm cả sự thống nhất và đấu tranh của các
mặt đối lập. Sự thống nhất chỉ là tương đối gắn liền với sự đứng im, ổn định tạm
thời của sự vật. Sự đấu tranh là tuyệt đối gắn liền với sự vận động liên tục, không
ngừng của sự vật.
- Sự tác động qua lại của các mặt đối lập quy định sự thay đổi của chính bản
thân các mặt đang tác động và làm cho mâu thuẫn phát triển. Đến một lúc nhất
định sự xung đột giữa các mặt đối lập diễn ra gay gắt khiến chúng sẽ chuyển hoá
lẫn nhau, có nghĩa là mâu thuẫn được giải quyết => phá vỡ thể thống nhất cũ thay
thế bằng một thể thống nhất mới => sự vật, hiện tượng vận động và phát triển sang
một giai đoạn mới, trạng thái mới trong đó lại có những mặt đối lập làm nên mâu
thuẫn mới... (sự vật cũ mất đi, sự vật mới ra đời)
Như vậy nguồn gốc nguyên nhân của sự vận động và phát triển của sự vật
hiện tượng là do sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập tạo thành mâu
thuẫn.
c) ý nghĩa phương pháp luận


Mâu thuẫn là khách quan, là nguồn gốc động lực bên trong của sự phát triển
do vậy khi nhận thức và cải tạo thực tiễn cần phải:
- Thấy được sự tác động qua lại của các mặt đối lập, thấy được quá trình
phát sinh, phát triển của mâu thuẫn.
- Trong một sự vật hiện tượng có nhiều mâu thuẫn khác nhau, mỗi mâu
thuẫn có một vai trò khác nhau đối với sự phát triển của sự vật nên phải thấy được
mâu thuẫn cơ bản, bên trong, chủ yếu... có vai trò quyết định tới sự phát triển của
sự vật.
- Giải quyết mâu thuẫn cần phải có quan điểm cụ thể, biện pháp, lực lượng
và phương tiện phù hợp với phương thức đấu tranh của các mặt đối lập.
IV. Quy luật phủ định của phủ định:
1. Khái niệm về phủ định và phủ định biện chứng
Thế giới các sự vật hiện tượng luôn vận động và trải qua quá trình phát sinh,

tồn tại, phát triển và diệt vong không ngừng. Trong quá trình đó cái mới ra đời thay
thế cho cái cũ là tất yếu, sự thay thế đó được gọi là phủ định.
- Khái niệm phủ định: là sự thay thế sự vật này bằng sự vật khác trong quá
trình vận động phát triển.
- Phủ định siêu hình: là sự phủ định sạch trơn, là sự diệt vong hoàn toàn của
cái cũ, làm cho sự vật tan ra không còn tồn tại hay nói cách khác là sự vật biến
mất, chấm dứt hoàn hoàn sự vận động và phát triển, không tạo tiền đề, điều kiện
cho sự vật mới.
- Phủ định biện chứng: là một phạm trù triết học dùng để chỉ sự phủ định tự
thân, sự phát triển tự thân tức là phủ định gắn liền với sự vận động và phát triển
của sự vật hiện tượng, phủ định để tạo ra điều kiện, tiền đề cho sự phát triển. Có
đặc trưng là:
+ Phủ định biện chứng là tất yếu và khách quan, do mâu thuẫn bên trong và
quá trình thay đổi của lượng dẫn đến sự thay đổi về chất.
+ Phủ định biện chứng luôn có sự kế thừa những yếu tố tích cực của cái cũ,
các yếu tố của đó được gia nhập vào cái mới trên cơ sở được cải biến cho phù hợp.
=> Phủ định biện chứng là sự phủ định vô tận; phủ định biện chứng luôn
gắn với điều kiện, hoàn cảnh cụ thể nên các sự vật khác nhau có phương thức phủ
định đa dạng phong phú khác nhau.
=> Phủ định biện chứng luôn là kết quả của sự phát triển tự thân của sự vật,
nên nó không thể là sự thủ tiêu, sự phá huỷ hoàn toàn cái cũ, mọi cái mới chỉ có


thể ra đời trên nền tảng của cái cũ, là sự phát triển tiếp tục của cái cũ theo chiều
hướng đi lên.
=> Phủ định biện chứng không chỉ là sự khắc phục những hạn chế, tồn tại
của cái cũ mà còn là sự liên kết giữa cái cũ với cái mới, cái cũ sẽ để lại dấu ấn
trong cái mới
2. Phủ định của phủ định.
Bất kỳ sự vật nào khi ra đời và tồn tại cũng đã là sự khẳng định chính nó.

Trong quá trình vận động của sự vật ấy sẽ xuất hiện những nhân tố mới thay thế
cho những nhân tố cũ => sự vật không còn là nó nữa mà bị thay thế bằng một sự
vật mới, trong đó những nhân tố tích cực được giữ lại (phủ định lần 1). Đến lượt sự
vật mới này lại sẽ bị phủ định bởi sự vật mới khác (phủ định lần 2) và dường như
nó quay trở lại sự vật ban đầu, song không hoàn toàn lặp lại mà đã được bổ sung
thêm nhiều nhân tố tích cực qua hai lần phủ định nên nó có sự phát triển ở trình độ
cao hơn. Như vậy trải qua hai lần phủ định biện chứng sự vật mới hoàn thành một
chu kỳ phát triển.
-

Sơ đồ của quy luật phủ định của phủ định:
phủ định lần 1

phủ định lần 2

..Sự vật A ========> Sự vật B
cái khẳng định

==========> Sự vật A’…

PĐ cái khẳng định

PĐ cái PĐ

- Quá trình phát triển thông qua phủ định biện chứng luôn có sự thống nhất
hữu cơ giữa lọc bỏ, bảo tồn và bổ sung những nhân tố tích cực mới.
- Phủ định biện chứng là kết quả của sự tích luỹ về lượng để dẫn đến sự thay
đổi về chất và mỗi lần phủ định chính là kết quả đấu tranh và chuyển hoá giữa các
mặt đối lập trong bản thân sự vật.
- Quy luật phủ định của phủ định là sự khái quát xu hướng tất yếu tiến lên

của sự vật hiện tượng – xu hướng phát triển. Song nó không diễn ra theo đường
thẳng mà luôn theo đường “xoáy ốc”
=> Tuy nhiên không được hiểu một cách máy móc là mọi sự vật trong thế
giới hiện thực đều phải trải qua hai lần phủ định, mà tuỳ theo từng sự vật cụ thể nó
có thể trải qua nhiều hơn hai lần phủ định mới hoàn thành một chu kỳ phát triển.
Khái quát nội dung quy luật phủ định của phủ định:
Quy luật này nói lên mối liên hệ, sự kế thừa giữa cái khẳng định và cái phủ
định, nhừ đó phủ định biện chứng là điều kiện cho sự phát triển; nó bảo tồn nội


dung tích cực của các giai đoạn trước và bổ sung những thuộc tính mới làm cho sự
vật phát triển đi lên theo đường “xoáy ốc”
3. ý nghĩa phương pháp luận
- Quy luật này giúp chúng ta nhận thức đúng đắn về xu hướng phát triển của
sự vật trên cơ sở kế thừa những nhân tố tích cực của cái cũ, tránh được thái độ phủ
định sạch trơn cái cũ.
- Trong thực tiễn cái mới ra đời nhưng luôn còn yếu ớt, ít ỏi vì vậy chúng ta
phải biết phát hiện ra cái mới tác động một cách thích hợp cho nó chiến thắng cái
cũ, phát huy tính ưu việt của nó.
- Trong kế thừa phải xác định đúng những yếu tố tích cực đích thực để cải
tạo nội dung một cách thích hợp, trong việc bổ sung nhân tố mới cần phải có sự lựa
chọn cho phù hợp để có sự phát triển đúng quy luật.
V. Lý luận nhận thức duy vật biện chứng
1. Thực tiễn , nhận thức và vai trò của thực tiễn đối với nhận thức
a) Thực tiễn và các hình thức cơ bản của thực tiễn
- Thực tiễn là toàn bộ những hoạt động vật chất có mục đích, mang tính lịch
sử – xã hội của con người nhằm cải tạo tự nhiên xã hội.
c) Vai trò của thực tiễn đối với nhận thức
- Thực tiễn là cơ sở, nguồn gốc của nhận thức:
+ Thực tiễn là điểm xuất phát của nhận thức, nó cung cấp những tài liệu, đề

ra nhu cầu, nhiệm vụ, cách thức khuynh hướng vận động và phát triển của nhận
thức.
+ Con người có nhu cầu giải thích và cải tạo thế giới buộc con người tác
động trực tiếp vào các sự vật hiện tượng, làm chúng bộc lộ các thuộc tính, những
mối liên hệ lẫn nhau giữa chúng, đem lại tài liệu cho con người nhận thức => nắm
được bản chất quy luật vận động và phát triển của thế giới.
-> Tóm lại: mọi tri thức của con người đều bắt nguồn từ thực tiễn, trên cơ sở
thực tiễn mà hình thành và phát triển.
- Thực tiễn là động lực, mục đích của nhận thức:
+ Nhờ có hoạt động thực tiễn mà các giác quan của con người ngày càng
được hoàn thiện; năng lực tư duy lôgíc không ngừng được củng cố và phát triển;
các phương tiện nhận thức ngày càng tinh vi hiện đại có tác dụng nối dài các giác
quan của con người trong quá trình nhận thức thế giới.


VD: Nhờ việc thêu ren mà bàn tay con người trở nên khéo léo hơn, khả năng
phân biệt màu sắc và ánh sáng của thị giác trở nên tinh xảo hơn
+ Nhu cầu của con người ngày một lớn, thực tiễn lại luôn biến đổi nên hoạt
động sản xuất của con người muốn đạt hiệu quả cao thì buộc phải nắm bắt được
những biến đổi và xu hướng của thực tiễn => con người phải nhận thức thực tiễn.
Đến lượt mình nhận thức ấy lại điều chỉnh hoạt động của con người cho phù hợp
nhằm cải tạo thực tiễn theo nhu cầu, mục đích.
VD: Những công cụ và phương tiện hiện đại đó cho phép nhận thức con
người đẩy nhanh tiến trình đi sâu vào bản chất của sự vật, mở rộng tầm bao quát
các quá trình đang diễn ra trong tự nhiên và xã hội
- Thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý:
Nhận thức của con người là nhận thức về thực tiễn hay nội dung của nhận
thức là thực tiễn.
Những tri thức con người có được đều xuất phát từ thực tiễn song thực tiễn
là những hoạt động vật chất có tính tất yếu khách quan, diễn ra độc lập đối với

nhận thức, nó luôn luôn vận động biến đổi theo quy luật
Vì vậy tri thức ấy có phù hợp với thực tiễn hay không thì phải quay lại thực
tiễn để kiểm nghiệm -> nhờ đó mà nhận thức cũng luôn vận động và phát triển.
(con người không thể kiểm nghiệm tri thức dựa vào ý kiến của số đông hoặc dựa
vào bản thân tri thức)
C. Mác: “Vấn đề tìm hiểu xem tư duy của con người có thể đạt được tới
chân lý khách quan hay không, hoàn toàn không phải là vấn đề lý luận mà là vấn
đề thực tiễn. Chính trong thực tiễn con người phải chứng minh chân lý”
V.I.Lênin: “Quan điểm về đời sống, về thực tiễn, phải là quan điểm thứ nhất
và cơ bản nhất của lý luận nhận thức”
Kết luận: Thực tiễn vừa là điểm xuất phát vừa là yếu tố đóng vai trò quyết
định đối với sự hình thành và phát triển của nhận thức và là nơi để nhận thức kiểm
nghiệm tính đúng đắn của nó.
* ý nghĩa phương pháp luận:
- Thấy rõ mối quan hệ giữa thực tiễn và nhận thức => quán triệt quan điểm
thực tiễn – việc nhận thức phải luôn xuất phát từ thực tiễn, dựa trên thực tiễn, đi
sâu vào thực tiễn, coi trọng công tác tổng kết thực tiễn.
- Công tác lý luận phải gắn liền với thực tiễn – học đi đôi với hành.
- Không thấy được vai trò của thực tiễn sẽ rơi vào chủ nghĩa giáo điều, chủ
quan, duy ý chí.


Chương III: Chủ nghĩa duy vật lịch sử
I. Vai trò của sản xuất vật chất và quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với
trình độ phát triển của lực lượng sản xuất
1. Sản xuất vật chất và vai trò của nó
a. Khái niệm sản xuất vật chất và phương thức sản xuất vật chất
* Sản xuất hoạt động đặc trưng riêng có của con người và của xã hội loài
người. Đó là quá trình hoạt động có mục đích và không ngừng sáng tạo của con
người .

- Sản xuất xã hội bao gồm:
+ Sản xuất vật chất
+ Sản xuất tinh thần
+ Sản xuất ra bản thân con người
=> Ba quá trình này gắn bó chặt chẽ với nhau và có tác động qua lại lẫn nhau
trong đó sản xuất vật chất là cơ sở tồn tại phát triển của xã hội
=> Sản xuất vật chất là một loại hoạt động có tính khách quan, tính xã hội, có
tính lịch sử và tính sáng tạo
* Phương thức sản xuất
- Phương thức sản xuất: Là cách thức con người thực hiện quá trình sản xuất
vật chất ở những giai đoạn lịch sử nhất định của xã hội loài người.
- Mỗi một giai đoạn lịch sử nhất định đều có phương thức sản xuất của nó với
những đặc điểm riêng
- Mỗi PTSX đều có hai phương diện cơ bản là kỹ thuật và kinh tế. Hai
phương diện đó gắn bó chặt chẽ với nhau
+ Phương diện kỹ thuật của phương thức sản xuất là chỉ quá trình sản xuất
được tiến hành bằng cách thức kỹ thuật, công nghệ nào để làm biến đổi các đối
tượng của quá trình sản xuất.
+ Phương diện kinh tế của phương thức sản xuất là chỉ quá trình sản xuất
được tiến hành với những cách thức tổ chức kinh tế cả
Trong các xã hội nông nghiệp truyền thống phương thức kỹ thuật chủ yếu của
các công cụ kỹ thuật thủ công với quy mô nhỏ và khép kín, tổ chức sản xuất với
quy mô nhỏ


* Vai trò của sản xuất vật chất và phương thức sản xuất đối với sự tồn tại
và phát triển của xã hội
- Qua quá trình sản xuất vật chất con người ngày càng chế tạo ra các tư liệu
sinh hoạt thoả mãn nhu cầu đa dạng, phong phú của con người.
- Qua quá trình sản xuất vật chất con người cũng sáng tạo ra toàn bộ các mặt

của đời sống xã hội như: chính trị, nghệ thuật, đạo đức, pháp quyền, tôn giáo…
- Qua quá trình sản xuất vật chất con người không ngừng làm biến đổi tự
nhiên, xã hội, đồng thời làm biến đổi chính bản thân mình
=> Do đó để giải thích, giải quyết đúng đắn các vấn đề của đời sống xã hội thì
cần phải tìm nguyên nhân cuối cùng của nó từ tình trạng phát triển của nền SX vật
chất của XH đó mà căn bản là từ trình độ phát triển phương thức SX của nó
- Từ vai trò của PTSX CN Mác – Lênin đã phân tích sự phát triển của lịch sử
nhân loại theo lịch sử thay thế và phát triển của các PTSX. Sự thay thế đó phản ánh
xu hướng tất yếu khách quan của quá trình phát triển xã hội loài người từ trình độ
thấp đến trình độ ngày càng cao hơn
- Tính chất tuần tự trong quá trình thay thế và phát triển của các PTSX cũng
chính là quy luật chung trong tiến trình phát triển của lịch sử nhân loại nhưng mỗi
công đồng XH có những điều kiện khách quan và chủ quan riêng nên có những con
đường phát triển riêng (có thể là đan xen hoặc bỏ qua một vài PTSX nào đó...) =>
biểu hiện của tính thống nhất trong sự đa dạng về con đường phát triển = > tạo nên
tính chất phong phú của lịch sử nhân loại
2. Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng
sản xuất
a. Khái niệm lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất
* Lực lượng sản xuất (LLSX) và các yếu tố cơ bản cấu thành LLSX
Lực lượng sản xuất chính là toàn bộ các nhân tố vật chất kỹ thuật của quá
trình sản xuất, (chúng tồn tại trong mối quan hệ biện chứng với nhau tạo ra sức
sản xuất làm cải biến các đối tượng trong quá trình sản xuất, tức tạo ra năng lực
thực tiễn làm biến đổi các đối tượng vật chất của giới tự nhiên theo nhu cầu nhất
định của con người và xã hội)
- LLSX bao gồm:
+ Người lao động với kĩ năng lao động của họ – có vai trò quyết định.
+ Tư liệu sản xuất trước hết là công cụ lao động.
- LLSX là nhân tố cơ bản tất yếu tạo thành nội dung vật chất của quá trình
SX, không một quá trình SX hiện thực nào có thể diễn ra nếu thiếu một trong hai



nhân tố người lao động và tư liệu SX. Nhưng chỉ có LLSX vẫn chưa thể diễn ra
quá trình sản xuất hiện thực được mà cần phải có những QHSX đóng vai trò là
hình thức xã hội của quá trình SX ấy
* Quan hệ sản xuất (QHSX) và ba mật của QHSX
- QHSX là quan hệ giữa con người với con người trong quá trình sản xuất
(sản xuất và tái sản xuất xã hội )
- QHSX gồm ba mặt:
+ Quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất
+ Quan hệ trong tổ chức và quản lý sản xuất
+ Quan hệ trong phân phối sản phẩm sản xuất ra
- Tính chất QHSX:
+ QHSX do con người tạo ra nhưng nó hình thành một cách khách quan trong
quá trình sản xuất vì nó không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của con người.
+ QHSX là hình thức xã hội của sản xuất; giữa ba mặt của QHSX thống nhất
với nhau tạo thành một hệ thống mang tính ổn định tương đối so với sự vận động,
phát triển không ngừng của LLSX.
b. Mối quan hệ biện chứng giữa LLSX và QHSX
- Sự vận động và phát triển của LLSX quyết định và làm thay đổi QHSX cho
phù hợp với nó.
+ Sự phát triển của LLSX được đánh dấu bằng trình độ của LLSX và tính chất
của LLSX ở trong từng giai đoạn lịch sử:
+ LLSX luôn luôn vận động và phát triển QHSX là yếu tố tương đối ổn định
có khuynh hướng lạc hậu hơn so với sự phát triển của LLSX.
+ Khi một phương thức sản xuất mới ra đời ở đó QHSX phù hợp với trình độ
phát triển của LLSX. Trong trạng thái đó các mặt của QHSX đã tạo đầy đủ điều
kiện cho LLSX phát triển, tạo điều kiện sử dụng và kết hợp một cách tối ưu giữa
người lao động với tư liệu sản xuất.
+ Sự phát triển của LLSX đến một trình độ nhất định làm cho QHSX từ chỗ

phù hợp trở thành không phù hợp, QHSX trở thành “xiềng xích” của LLSX, kìm
hãm LLSX phát triển và sự phát triển khánh quan của LLSX tất yếu dẫn đến việc
xã hội phải xoá bỏ bằng cách này hay cách khác QHSX cũ và thay thế nó bằng một
kiểu QHSX mới phù hợp với tính chất và trình độ của LLSX để mở đường cho
LLSX phát triển.


×